Ferritin và sắt huyết thanh:
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ sắt
huyết thanh trung bình có xu hướng giảm, tuy
nhiên cũng không biến động nhiều. Nồng độ sắt
huyết thanh vẫn ở mức cao so với khoảng giá trị
bình thường. Nồng độ Ferritin trung bình khá ổn
định và ít dao động trong khoảng thời gian
nghiên cứu và nằm trong khoảng giá trị bình
thường. Kết quả này tương đồng với kết quả của
Triệu Thị Tuyết Vân với khoảng Feeritin huyết
thanh là từ 200-500µg/L [5].
Triệu chứng lâm sàng:
Các triệu chứng lâm sàng thiếu máu biểu
hiện trên da, niêm mạc; khả năng hoạt động gắng
sức; các triệu chứng thần kinh. Tuy nhiên, triệu
chứng lâm sàng chỉ góp phần đánh giá sơ bộ mức
độ thiếu máu và tình trạng đáp ứng với điều trị
thiếu máu trên lâm sàng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ ghi
nhận 2 triệu chứng lâm sàng trên da, niêm mạc
và khả năng gắng sức của bệnh nhân. Nhận thấy
triệu chứng da xanh, niêm mạc nhợt chiếm tỷ lệ
cao ở các tháng. Tuy nhiên có xu hướng giảm
dần. Số bệnh nhân có triệu chứng mệt khi gắng
sức cũng ở mức cao, cao nhất ở T1 và giảm dần
qua các tháng. Các triệu chứng lâm sàng thiếu
máu giảm qua các tháng điều trị.
Tính an toàn của EPO trong điều trị:
Tác động của EPO lên huyết áp, số lượng
bạch cầu, tiểu cầu, điện giải đồ.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy huyết áp
tâm thu và huyết áp tâm trương trung bình của
bệnh nhân không có sự gia tăng tại các thời điểm
nghiên cứu. Đồng thời, tỷ lệ tăng huyết áp bệnh
nhân tại các thời điểm nghiên cứu không cao và
khá ổn định. Thực tế, các bệnh nhân lọc máu chu
kỳ trong nghiên cứu đều được theo dõi huyết áp
và sử dụng thuốc bệnh lý tim mạch. Như vậy,
việc duy trì kiểm soát huyết áp song song sử
dụng EPO điều trị thiếu máu ở khoa phát huy
hiệu quả tốt.
Tác động của EPO lên chỉ số bạch cầu, tiểu
cầu, và điện giải đồ: Không có gì bất thường.
Biến cố bất lợi khác trong thời gian nghiên cứu.
Không có biến cố nào được ghi nhận trong 6
tháng nghiên cứu. Kết quả này tương tự với
nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền [4] và Nguyễn
Thị Uyên [6].
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Thận Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
65
Original Article
Evaluation of the Usage of Erythropoietin in Patients with
End-Stage Chronic Kidney Disease Dialysis Cycle in Hanoi
Nephrology Hospital
Do Thi Hoa1,*, Nguyen Thi Tuyet Trinh1, Nguyen Thi Lien Huong2, Phan Tung Linh1
1Hanoi Nephrology Hospital, 70 Nguyen Chi Thanh, Dong Da, Hanoi, VietNam
2Hanoi University of Pharmacy, 13-15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
Received 05 February 2020
Revised 18 February 2020; Accepted 20 March 2020
Abstract: Treatment and control of anemia plays an important role in improving the quality and
effectiveness of artificial kidney. The study was conducted on 61 patients who met the selection and
were not included in the excluded criteria group. Collecting data from medical records using
retrospective, descriptive, vertical follow-up method for 6 months. Data were processed using
Microsoft Excel Office 2010 and R. The results showed that patients used both EPO alpha and EPO
beta simultaneously. Rate of usage’s EPO beta accounted for 23%, alpha EPO was 77%. Lyophilized
form (EPO alpha) is most commonly used. Starting from T3, Hb. averages treat. There were no
abnormalities in blood pressure, white blood cell, platelets, and electrolytes.
Keywords: Hanoi Kidney Hospital, EPO (erythropoietin), Hb, efficacy and safety.*
________
* Corresponding author.
E-mail address: thacsyhoa@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4202
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
66
Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh
nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ
tại Bệnh viện Thận Hà Nội
Đỗ Thị Hòa1,*, Nguyễn Thị Tuyết Trinh1, Nguyễn Thị Liên Hương2, Phan Tùng Lĩnh1
1Bệnh viện Thận Hà Nội, 70 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Dược Hà Nội, 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 02 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Điều trị và kiểm soát thiếu máu đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả điều trị thận nhân tạo. Nghiên cứu tiến hành trên 61 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa
chọn và tiêu chuẩn loại trừ. Tiến hành thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án theo phương pháp hồi cứu,
mô tả, theo dõi dọc trong 6 tháng. Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel Office 2010
và R. Kết quả cho thấy bệnh nhân tại đây sử dụng đồng thời cả 2 loại EPO alpha và EPO beta. Tỷ
lệ sử dụng EPO beta chiếm 23%, EPO alpha là 77%. Dạng bào chế đông khô (EPO alpha) được sử
dụng nhiều nhất. Bắt đầu từ T3, Hb trung bình đạt đích điều trị. Không có bất thường trên huyết áp,
số lượng bạch cầu, tiểu cầu, điện giải đồ.
Từ khóa: Bệnh viện Thận Hà Nội, EPO (thuốc tạo hồng cầu), chỉ số Hb, hiệu quả và tính an toàn.
1. Đặt vấn đề
Bệnh thận mạn (BTM) là một trong các bệnh
mạn tính đang ngày càng trở nên phổ biến trên
thế giới, thường để lại hậu quả nặng nề. Qua
nhiều nghiên cứu ở Mỹ cho thấy tỷ lệ mắc BTM
khoảng 10-13% số người trưởng thành [1]. Cùng
với sự gia tăng của BTM, số người mắc BTM
giai đoạn cuối (BTMGĐC) cũng tăng lên nhanh
chóng. Năm 1991 tại Mỹ có 196.000 người mắc
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thacsyhoa@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4202
BTMGĐC, đến năm 2000 con số này là 382.000
bệnh nhân, tỷ lệ mắc mới trong thời kỳ này từ
53.000 đến 93.000 người mỗi năm [2].
Thận nhân tạo (TNT) là một trong 3 phương
pháp điều trị thay thế thận chủ yếu đối với bệnh
nhân BTM. Điều trị và kiểm soát thiếu máu đóng
vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả điều trị TNT. Bệnh nhân
BTMGĐC sử dụng thuốc tạo hồng cầu thường
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
67
xuyên và kéo dài do đó việc theo dõi đánh giá
hiệu quả sử dụng thuốc là cần thiết.
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên
cứu đánh giá về hiệu quả điều trị của thuốc tạo
hồng cầu trên bệnh nhân BTMGĐC lọc máu chu
kỳ [3]. Tại Việt Nam vấn đề này đã được công
bố trong một số nghiên cứu [4, 5]. Bệnh viện
Thận Hà Nội đã triển khai đưa thuốc tạo hồng
cầu để điều trị thiếu máu cho bệnh nhân ngay từ
khi bắt đầu triển khai kỹ thuật TNT, cho đến nay
chưa có công bố nào đánh giá sử dụng thuốc tạo
hồng cầu. Từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này với hai mục tiêu: 1. Khảo sát
thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên bệnh
nhân BTMGĐC lọc máu chu kỳ. 2. Đánh giá
hiệu quả và tính an toàn của thuốc tạo hồng cầu
sử dụng trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
2. Đối tượng và phương pháp
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được
tiến hành trên các bệnh nhân BTMGĐC, bắt đầu
được chỉ định điều trị TNT chu kỳ tại Bệnh viện
Thận Hà Nội thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và
loại trừ sau:
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả bệnh nhân
BTMGĐC bắt đầu được chỉ định điều trị TNT
chu kỳ tại Bệnh viện Thận Hà Nội từ 01/7/2017
đến 30/6/2018. Bệnh nhân được theo dõi điều trị
liên tục trong 06 tháng kể từ khi bắt đầu lọc máu
tại bệnh viện Thận.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không đủ 06
tháng điều trị; có bệnh lý cấp tính ảnh hưởng đến
nồng độ Hb, số lượng hồng cầu (ví dụ: bệnh lý
về máu, xuất huyết tiêu hóa); suy thận mạn với
các bệnh lý mắc kèm như: Ung thư, bệnh thuộc
hệ tạo máu (bất sản tủy, rối loạn tạo máu),
bệnh nhân đang có thai, trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả,
theo dõi dọc dựa trên thông tin thu thập từ bệnh án.
Bệnh nhân được theo dõi liên tục trong 06 tháng.
Cỡ mẫu nghiên cứu: 61 bệnh nhân thỏa mãn
tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ.
Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thu
thập từ hồ sơ bệnh án của bệnh nhân, thu thập
dọc 06 thời điểm từ T1 đến T6 tương ứng với
mỗi tháng điều trị.
Nội dung nghiên cứu:
+ Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng
cầu trên bệnh nhân BTMGĐC lọc máu chu kỳ.
- Đặc điểm của nhóm bệnh nhân nghiên cứu:
Tuổi, giới, nguyên nhân dẫn đến BTMGĐC,
bệnh lý mắc kèm, đặc điểm cận lâm sàng thiếu
máu khi nhập viện.
- Đặc điểm EPO sử dụng trong thời gian
nghiên cứu: Các loại EPO sử dụng, phân bố bệnh
nhân tương ứng với các loại EPO sử dụng, thời
điểm sử dụng, đường tiêm EPO, liều khởi đầu,
liều duy trì, tỷ lệ sử dụng các mức liều, tần suất
cho thuốc.
+ Đánh giá hiệu quả điều trị và tính an toàn
của thuốc tạo hồng cầu sử dụng trên nhóm bệnh
nhân nghiên cứu.
- Đánh giá hiệu quả điều trị thiếu máu: dựa
trên các chỉ số huyết học: Hb, RBC; số trường
hợp cần truyền máu; việc cải thiện triệu chứng
lâm sàng; sự thay đổi nồng độ sắt huyết thanh,
ferritin tại các thời điểm.
- Đánh giá tính an toàn khi sử dụng thuốc tạo
hồng cầu: Trên chỉ số huyết áp, số lượng bạch
cầu, tiểu cầu, điện giải đồ, các ADR xuất hiện
trong quá trình nghiên cứu.
Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý bằng
Microsoft Excel Office 2010 và R. Kết quả được
biểu diễn dưới dạng X ± SE (X: giá trị trung bình,
SE: sai số chuẩn), tỷ lệ %. So sánh 2 giá trị trung
bình bằng t - test. Sự khác biệt được coi là có ý
nghĩa thống kê khi p < 0,05.
3. Kết quả
+ Thực trạng sử dụng thuốc tạo hồng cầu trên
bệnh nhân BTMGĐC lọc máu chu kỳ tại Bệnh
viện Thận Hà Nội.
Lựa chọn 61 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn
được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của
nhóm bệnh nhân là 47,7 ± 13,9 tuổi. Phân bố giới
tính nam: nữ là 41:20, viêm cầu thận mạn và tăng
huyết áp là 2 nguyên nhân chiếm tỷ lệ lớn nhất
gây BTM (37,7% và 18%), bệnh mắc kèm phổ
biến là đái tháo đường (31,1%) và tăng huyết áp
(18,8%).
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
68
- Đặc điểm cận lâm sàng thiếu máu khi
nhập viện.
Hình 1. Đặc điểm cận lâm sàng thiếu máu khi
nhập viện.
Nhận xét: Số bệnh nhân khi bắt đầu nhập
viện có Hb< 90g/L chiếm tỷ lệ lớn nhất (54,1%).
Tiếp đến là bệnh nhân có Hb từ 90-100g/L chiếm
32,8%. Không ghi nhận được trường hợp nào
bệnh nhân có Hb> 130g/L khi bắt đầu nhập viện.
- Đăc điểm EPO sử dụng.
Hình 2. Tỷ lệ sử dụng EPO qua các thời điểm.
Nhận xét: Dạng bào chế đông khô (hemax)
được sử dụng nhiều nhất. Tỷ lệ sử dụng biệt dược
gốc (eprex) ổn định trong thời gian nghiên cứu.
100% thuốc được dùng đường tiêm tĩnh mạch.
Đa số bệnh nhân được chỉ định dùng EPO ngay
trong tháng đầu tiên lọc máu. Có 3 bệnh nhân
không được chỉ định dùng EPO tại T1 trong đó
có 2 bệnh nhân có Hb<90g/L (1 bệnh nhân mới
và 1 bệnh nhân đã lọc máu) và 1 bệnh nhân có
Hb>100g/L.
- Liều duy trì hàng tháng.
Hình 3. Phân bố bệnh nhân tương ứng với các mức liều dùng .
Nhận xét: Mức liều phổ biến ở các tháng từ
T1-T6 là 18000UI – 22000UI. Tỷ lệ sử dụng
mức liều <12000UI/tháng là thấp nhất. Ở T1,
mức liều 12000UI-16000UI chiếm tỷ lệ lớn nhất
(54,1%) sau đó giảm dần qua các tháng. Mức
liều ≥24000UI chiếm tỷ lệ nhỏ nhất ở T1 (4,9%),
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%
70.0%
T1 T2 T3 T4 T5 T6
%
Thời điểm (tháng)
<12000
12000-16000
18000-22000
≥24000
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
69
từ T2-T6, tỷ lệ % mức liều này tăng lên, dao
động trong khoảng 16,4% (T3)-21,3%(T5). Tần
suất cho thuốc phổ biến là 8-9 lần/tháng.
+ Hiệu quả và an toàn của thuốc tạo hồng cầu
trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
+ Đánh giá hiệu quả điều trị thiếu máu thông
qua các chỉ số huyết học.
- Thay đổi Hb qua 6 tháng.
Hình 4. Thay đổi Hb qua 6 tháng điều trị.
Nhận xét: Từ T1-T6, Hb trung bình của bệnh
nhân có xu hướng tăng, Hb trung bình đạt đích
101g/L bắt đầu từ thời điểm T3. Cụ thể, từ T1-
T6 nồng độ Hb trung bình tăng lên rõ rệt, tại T1
Hb trung bình là 93,4g/L, tại T6 Hb trung bình
của bệnh nhân là 105g/L. Tuy nhiên, tại các thời
điểm nồng độ Hb<100g/L vẫn còn nhiều. Sự
khác biệt giữa Hb trung bình ở các tháng so với
Hb tại T0 là có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
- Tỷ lệ bệnh nhân có Hb đạt đích điều trị tại
các thời điểm.
Hình 5. % Hb đạt đích tại các thời điểm nghiên cứu.
Hb trung bình
Thời điểm (tháng)
Thời điểm (tháng)
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
70
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có Hb đạt đích
điều trị cao nhất tại T2 đạt 38.3%. Tỷ lệ bệnh
nhân có Hb dưới đích điều trị cao nhất ở T1
(68,9%) sau đó giảm dần và thấp nhất tại T4, T5
(38,3%). Tỷ lệ bệnh nhân có Hb> 115g/L thấp
nhất ở T1 (3,5%) sau đó tăng dần, cao nhất tại
T5 (28,4%).
- Thay đổi hồng cầu qua 6 tháng điều tri.
Hình 6. Thay đổi số lượng hồng cầu qua 6 tháng điều trị
Nhận xét: RBC trung bình của nhóm bệnh
nhân nghiên cứu có xu hướng tăng lên, Thấp nhất
ở T1 là 3,27G/L, các tháng T4, T5, T6 mức RBC
xấp xỉ nhau (3,61-3,63 G/L). Đa số bệnh nhân có
RBC dưới 3,5G/L. Mức RBC trung bình của nữ
là 3,8-5,0G/L và của nam là 4,2-6,0G/L. Như
vậy mức RBC của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
thấp hơn ngưỡng RBC bình thường.
+ Hiệu quả EPO thể hiện trên số trường hợp
cần truyền máu.
Bảng 1. Số bệnh nhân được chỉ định truyền máu trong thời gian nghiên cứu
Thời điểm T1 T2 T3 T4 T5 T6
∑ 5 4 2 0 1 2
Nhận xét: Trong thời gian nghiên cứu, hầu
hết các bệnh nhân không có chỉ định truyền máu.
Từ T1- T4, số lượng bệnh nhân cần truyền máu
giảm từ 5 bệnh nhân đến không có bệnh nhân nào
cần truyền máu. Tại T5 có 1 bệnh nhân cần truyền
máu và T6 có 2 bệnh nhân cần truyền máu.
+ Số bệnh nhân có nồng độ Hb > 130g/L (nếu
có) tại các thời điểm nghiên cứu.
Theo VUNA 2013, không được để nồng độ
Hb > 130 g/L. Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo
sát số bệnh nhân có mức Hb>130g/L.
Bảng 2. Số bệnh nhân có nồng độ Hb > 130 g/l tại các thời điểm nghiên cứu
Hb
(g/l)
Số bệnh nhân
T1 T2 T3 T4 T5 T6
> 130 0 1
1 2 0 1
RBC trung bình
Thời điểm (tháng)
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
71
Nhận xét: Nhận thấy, trong 6 tháng nghiên
cứu, có tất cả 4 bệnh nhân có Hb trung bình tại
các thời điểm >130g/L, Tại T1 và T5, không có
bệnh nhân nào có Hb>130g/L. Trong 2 bệnh
nhân tại T4 có 1 bệnh nhân tiếp tục có
Hb>130g/L tại T6.
+ Tốc độ tăng Hb.
Theo VUNA 2013, mục tiêu điều trị bằng
thuốc kích thích sinh hồng cầu ban đầu là tốc độ
tăng Hb 10 - 20 g/L mỗi 4 tuần, không được để
nồng độ Hb tăng trên 20 g/L trong 4 tuần. Do đó,
nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát tỷ lệ bệnh
nhân có tốc độ Hb vượt quá 20g/l.
Bảng 3. Chênh lệch Hb giữa hai thời điểm liền kề
∆Hb (g/L)* T2-T1 T3-T2 T4-T3 T5-T4 T6-T5
∆Hb > 20 6 2 2 1 0
∆Hb ≤ 20 52 58 58 59 57
∑ 58 60 60 60 57
*∆Hb = Hb thời điểm sau – Hb thời điểm trước
Nhận xét: Trong 6 tháng nghiên cứu, hầu hết
bệnh nhân có tốc độ thay đổi Hb trong khoảng
cho phép (<20g/L). Tuy nhiên, ở các tháng vẫn
có các bệnh nhân có tốc độ thay đổi Hb >20g/L.
Số bệnh nhân có ∆Hb > 20 giảm dần qua các
tháng. Tại T2, có 6 bệnh nhân có ∆Hb >20g/L,
T3 và T4 có 2 bệnh nhân, T5 có 1 bệnh nhân và
đến T6 không có bệnh nhân nào có ∆Hb > 20g/L.
+ Đánh giá sự thay đổi nồng độ sắt huyết
thanh, ferritin tại các thời điểm.
- Thay đổi nồng độ sắt huyết thanh qua 6 tháng.
Hình 7. Thay đổi sắt huyết thanh tại các thời điểm nghiên cứu.
Nhận xét: Nồng độ sắt huyết thanh trung
bình có xu hướng giảm, tuy nhiên cũng không
biến động nhiều. Tại T1 nồng độ sắt huyết thanh
trung bình là 40,2µmol/l và T6 nồng độ này là 31
µmol/l. Giá trị sắt huyết thanh bình thường là từ
6,6 µmol/l- 28 µmol/l. Như vậy, tuy nồng độ sắt
huyết thanh trung bình có xu hướng giảm nhưng
vẫn ở mức cao so với khoảng giá trị bình thường.
- Thay đổi nồng độ ferritin qua 6 tháng
nghiên cứu.
Nhận xét: Nồng độ Ferritin trung bình khá ổn
định và ít dao động trong khoảng thời gian
nghiên cứu, dao động trong khoảng 201µg/L -
280µg/L (nằm trong khoảng giá trị bình thường
30 - 400 µg/L).
- Hiệu quả EPO thể hiện trên lâm sàng.
Bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng thiếu
máu chiếm tỷ lệ cao nhất tại thời điểm T1 và
giảm dần qua các tháng.
Fe huyết thanh trung bình
Thời điểm (tháng)
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
72
+ Các tác dụng không mong muốn khi sử
dụng EPO:
Huyết áp, số lượng bạch cầu, tiều cầu, điện
giải đồ không có gì bất thường. Không ghi nhận
biến cố bất lợi nào trong quá trình nghiên cứu.
Hình 8. Thay đổi nồng độ Ferritin tại các thời điểm nghiên cứu.
Bàn luận
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành
trên 61 bệnh nhân điều trị TNT chu kỳ. Thời gian
theo dõi dọc trong 06 tháng kể từ khi bệnh nhân
có chỉ định điều trị thận nhân tạo tại Bệnh viện
Thận Hà Nội.
Đặc điểm sử dụng EPO.
Loại và biệt dược EPO sử dụng.
Theo kết quả khảo sát về loại EPO được sử
dụng, chúng tôi nhận thấy bệnh nhân được sử
dụng hai loại erythropoietin là alpha và beta,
trong đó tỷ lệ bệnh nhân được sử dụng EPO
alpha cao hơn nhiều so với EPO beta. Kết quả
này là do EPO alpha được rất nhiều hãng dược
phẩm nghiên cứu phát triển sau khi thuốc gốc hết
hạn bảo hộ bản quyền.
Trong thời gian nghiên cứu, các loại thuốc
được sử dụng bao gồm Hemax, Nanokin, Eprex
và Recormon. Đặc điểm của các loại thuốc này
đều là bơm tiêm/lọ đóng sẵn 2000 UI, nên liều
EPO mỗi lần sử dụng cố định là 2000 UI (1 bơm)
hoặc 4000UI (2 bơm). Trong 4 loại cũng chỉ ghi
nhận biệt dược gốc duy nhất là Eprex. Tỷ lệ sử
dụng biệt dược Eprex không có nhiều sự thay đổi
ở các tháng từ T1 đến T6, dao động từ 21,3%-
26,0% (cao nhất tại T4).
Về đường dùng:
Trong nghiên cứu, 100% bệnh nhân được sử
dụng EPO đường tiêm tĩnh mạch. Kết quả này
giống với nghiên cứu của Nguyễn Thị Uyên tại
Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn năm 2016 [6] và
nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền tại Bệnh viện
Đa khoa Thái Bình năm 2015 [4]. Tuy nhiên,
nghiên cứu của Bùi Thị Tâm năm 2011 tại Bệnh
viện Đa khoa Tỉnh Điện Biên thì cho thấy 100% sử
dụng EPO đường tiêm dưới da [7]. Tháng
3/2014, Cục quản lý Dược ra công văn số
4764/QLD-ĐK, có những bổ sung liên quan đến
đường dùng các chế phẩm Epoetin alpha. Theo
công văn này, EPO alpha nên được sử dụng bằng
đường tiêm tĩnh mạch trên bệnh nhân BTM đang
được lọc máu chu kỳ [8].
Liều dùng và tần suất cho thuốc:
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ tập trung
khảo sát thực trạng sử dụng EPO trên những
bệnh nhân lọc máu chu kỳ trong 06 tháng điều trị
kể từ khi bắt đầu nhập viện.
Đối với nhóm bệnh nhân nghiên cứu có tỷ lệ
Hb < 90g/L khá lớn (54,1%), tiếp đến là nhóm
bệnh nhân có Hb từ 90 – 100 g/L (chiếm 32,8%)
Ferritin trung bình
Thời điểm (tháng)
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
73
theo các Guidelines cần phải bổ sung EPO để
đưa Hb về mức khuyến cáo [9], do vậy tại T1 đối
với một số bệnh nhân có mức Hb < 90g/L các
bác sĩ thường sử dụng biệt dược gốc để nâng
nồng độ Hb lên mức khuyến cáo. Sau khi ổn định
thường cân nhắc lựa chọn chuyển sang hai loại
thuốc tương tự sinh học còn lại để giảm chi phí
điều trị. Điều này giải thích lý do các thời điểm
T4, T5, T6 tỷ lệ sử dụng thuốc tương tự sinh học
tăng dần.
Mức liều được dùng phổ biến nhất trên nhóm
bệnh nhân nghiên cứu là 12000-18000UI tương
đương với 6-9 ống/tháng, mức liều phổ biến trên
1 lần đưa thuốc là 2000UI/1 lần, mức liều quy
đổi theo cân nặng trung bình của bệnh nhân phù
hợp với khuyến cáo (50-100IU/kg). Kết quả của
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Triệu Thị
Tuyết Vân thực hiện tại Khoa TNT Bệnh viện
Bạch Mai năm 2009 với mức liều phổ biến là
16000-20000UI/tháng [5] và nghiên cứu của
Nguyên Thị Uyên tại Bệnh viện Xanh Pôn năm
2016 với mức liều phổ biến là 16000-
18000UI/tháng [6]. Khảo sát tần suất sử dụng
thuốc trong 6 tháng, chúng tôi cũng ghi nhận
được tần suất sử dụng phổ biến là 8-9 lần sử dụng
EPO/tháng. Đa số, bệnh nhân lọc máu 3 lần/tuần,
số lần lọc trung bình của bệnh nhân là 11,6
lần/tháng.
Bổ sung sắt và các xét nghiệm thăm dò sắt:
Đa số bệnh nhân được bổ sung đầy đủ sắt
tĩnh mạch trong 06 tháng nghiên cứu. Kết quả
nồng độ sắt huyết thanh và ferritin trung bình
cũng cho thấy hai giá trị này luôn ở ngưỡng bình
thường tại các thời điểm nghiên cứu.
Trong thời gian nghiên cứu, bệnh nhân được
làm các xét nghiệm về sắt vào thời điểm T1, T3,
T5 tuy nhiên không phải tất cả bệnh nhân.
Nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền tại bệnh viện
Thái Bình cho thấy tất cả bệnh nhân đều được xét
nghiệm chỉ số sắt huyết thanh hai tháng một lần
nhưng không có xét nghiệm ferritin huyết thanh
[4]. Theo khảo sát từ nghiên cứu của Bùi Thị
Tâm tại Bệnh viện Đa khoa Điện Biên, xét
nghiệm tình trạng sắt không được tiến hành tại
đây [7]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Uyên cho
thấy tại Đơn nguyên thận nhân tạo, Bệnh viện đa
khoa Xanh Pôn cũng đã có xét nghiệm sắt,
ferritin huyết thanh, song vẫn thiếu xét nghiệm
độ bão hòa transferin [6]. Hiện tại xét nghiệm độ
bão hòa transferin huyết thanh không nằm trong
danh mục thanh toán của bảo hiểm y tế do vậy hầu
hết các bệnh nhân chưa được làm xét nghiệm này.
Hiệu quả và an toàn của EPO trong điều trị
thiếu máu:
Nồng độ Hb mục tiêu khi điều trị bằng EPO
trên bệnh nhân lọc máu chu kì có sự khác nhau
giữa các hướng dẫn điều trị. Theo KDIGO 2012
và VUNA 2013 [9, 10] nhóm nghiên cứu đề xuất
khoảng nồng độ Hb mục tiêu là từ 100-115 g/L.
Hiệu quả của EPO trong điều trị.
Về nồng độ huyết sắc tố.
Nồng độ huyết sắc tố lưu hành trong máu là
chỉ số quan trọng để đánh giá thiếu máu. Trong
nghiên cứu của chúng tôi. Hb trung bình của
bệnh nhân có xu hướng tăng lên và nằm trong
khoảng khuyến cáo điều trị (90-115g/L). Từ T1-
T6 nồng độ Hb trung bình tăng lên rõ rệt. T1 Hb
trung bình là 93,4 g/L, T6 Hb trung bình của
bệnh nhân là 105g/L. Tuy nhiên, tại các thời
điểm nồng độ Hb<100g/L vẫn còn nhiều, đặc
biệt là tại thời điểm T1, qua các tháng nhóm có
Hb<100g/L có xu hướng giảm. Trong nghiên
cứu của Bùi Thị Tâm cho thấy Hb trung bình của
các bệnh nhân tại các thời điểm đều >100g/L, tỷ
lệ bệnh nhân đạt mức 100-120g/L trên 50% [9].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Uyên tại Bệnh viện
Đa khoa Xanh Pôn cho thấy mức Hb trung bình
luôn <100g/L [6]. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, bắt đầu từ T3 bệnh nhân đạt mức Hb trung
bình là 100g/L.
Bệnh nhân có Hb vượt ngưỡng chiếm 1 tỷ lệ
rất nhỏ. Tại các tháng vẫn có rải rác 1 bệnh nhân
có Hb> 130g/L (tại T2, T3, T4, T6) và các bệnh
nhân này là khác nhau. Các thời điểm sau, bệnh
nhân được giảm liều EPO và có mức Hb dưới
130g/L. Trong 06 tháng nghiên cứu, hầu hết
bệnh nhân có tốc độ thay đổi Hb trong khoảng
cho phép (20g/L tại
các tháng nghiên cứu nhiều hơn trong nghiên cứu
của Nguyễn Thị Uyên [6]. Tuy nhiên các bệnh
nhân đã được kiểm soát tốt ở các tháng tiếp theo.
RBC: Hồng cầu là thành phần chiếm số
lượng lớn trong tế bào máu, có chứa huyết sắc tố
là chất giúp cho máu có màu đỏ. Với nhiệm vụ
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
74
vận chuyển oxy từ phổi lên các mô và vận
chuyển CO2 từ các mô lên đào thải ở phổi, cho
thấy hồng cầu đóng vai trò rất quan trọng đối với
hoạt động của cơ thể. RBC trung bình của nhóm
bệnh nhân nghiên cứu có xu hướng tăng qua các
tháng. Thấp nhất ở T1 là 3,27 g/L và cao nhất ở
T6 với RBC là 3,61 g/L. Đa số bệnh nhân có
RBC dưới 3,5 g/L. Mức RBC trung bình của
nhóm thấp hơn mức RBC trung bình trong nghiên
cứu của Lâm Thành Vững (3,78-4,4 g/L) [11].
Ferritin và sắt huyết thanh:
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ sắt
huyết thanh trung bình có xu hướng giảm, tuy
nhiên cũng không biến động nhiều. Nồng độ sắt
huyết thanh vẫn ở mức cao so với khoảng giá trị
bình thường. Nồng độ Ferritin trung bình khá ổn
định và ít dao động trong khoảng thời gian
nghiên cứu và nằm trong khoảng giá trị bình
thường. Kết quả này tương đồng với kết quả của
Triệu Thị Tuyết Vân với khoảng Feeritin huyết
thanh là từ 200-500µg/L [5].
Triệu chứng lâm sàng:
Các triệu chứng lâm sàng thiếu máu biểu
hiện trên da, niêm mạc; khả năng hoạt động gắng
sức; các triệu chứng thần kinh. Tuy nhiên, triệu
chứng lâm sàng chỉ góp phần đánh giá sơ bộ mức
độ thiếu máu và tình trạng đáp ứng với điều trị
thiếu máu trên lâm sàng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ ghi
nhận 2 triệu chứng lâm sàng trên da, niêm mạc
và khả năng gắng sức của bệnh nhân. Nhận thấy
triệu chứng da xanh, niêm mạc nhợt chiếm tỷ lệ
cao ở các tháng. Tuy nhiên có xu hướng giảm
dần. Số bệnh nhân có triệu chứng mệt khi gắng
sức cũng ở mức cao, cao nhất ở T1 và giảm dần
qua các tháng. Các triệu chứng lâm sàng thiếu
máu giảm qua các tháng điều trị.
Tính an toàn của EPO trong điều trị:
Tác động của EPO lên huyết áp, số lượng
bạch cầu, tiểu cầu, điện giải đồ.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy huyết áp
tâm thu và huyết áp tâm trương trung bình của
bệnh nhân không có sự gia tăng tại các thời điểm
nghiên cứu. Đồng thời, tỷ lệ tăng huyết áp bệnh
nhân tại các thời điểm nghiên cứu không cao và
khá ổn định. Thực tế, các bệnh nhân lọc máu chu
kỳ trong nghiên cứu đều được theo dõi huyết áp
và sử dụng thuốc bệnh lý tim mạch. Như vậy,
việc duy trì kiểm soát huyết áp song song sử
dụng EPO điều trị thiếu máu ở khoa phát huy
hiệu quả tốt.
Tác động của EPO lên chỉ số bạch cầu, tiểu
cầu, và điện giải đồ: Không có gì bất thường.
Biến cố bất lợi khác trong thời gian nghiên cứu.
Không có biến cố nào được ghi nhận trong 6
tháng nghiên cứu. Kết quả này tương tự với
nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền [4] và Nguyễn
Thị Uyên [6].
Kết luận
Qua nghiên cứu 61 bệnh nhân BTM lọc máu
chu kì sử dụng EPO tại Khoa Thận Nhân tạo -
Bệnh viện Thận Hà Nội, sau 06 tháng điều trị
thiếu máu bằng EPO, chúng tôi đưa ra kết luận:
Bệnh nhân được sử dụng cả EPO alpha và EPO
beta. Dạng EPO đông khô pha tiêm được được
sử dụng nhiều nhất. Liều EPO trung bình mỗi
tháng của BN phổ biến là 18000-22000UI/tháng
với tần suất cho thuốc phổ biến là 8-9 lần. Các
chỉ số huyết học của bệnh nhân: Hb, RBC trung
bình tăng, đạt Hb mục tiêu tại T3. Giá trị nồng
độ Ferritin, sắt huyết thanh nằm trong ngưỡng
bình thường, số trường hợp cần truyền máu và
triệu chứng lâm sàng thiếu máu giảm. Không
có biến cố bất lợi ghi nhận trong quá trình
nghiên cứu.
Lời cam đoan
Nghiên cứu này được thực hiện tại Bệnh viện
Thận Hà Nội, đề cương nghiên cứu đã được
thông qua Hội đồng Khoa học của Bệnh viện và
tuân theo các nguyên tắc và qui định về đạo đức
trong nghiên cứu sinh y.
Tài liệu tham khảo
[1] L.A. Szczech, W. Harmon, T.H. Hostetter et al,
World Kidney Day 2009: Problem and Challenges
in the Emering Epidemic of Kidney Disease, J Am
Soc Nephrol 20 (2009) 453-455.
https://doi.org/10.1681/ASN.2009010041.
D.T. Hoa et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 65-74
75
[2] D.T. Gilbertson, J. Liu et al, Projecting the Number
of Patient with End Stage Renal Disease in the
United States to the Year 2015, J Am Soc Nephrol
16 (2005) 3736-3741.
https://doi.org/10.1681/ASN.2005010112.
[3] A.E. Gaweda, G.R. Aronoff et al, Individualized
anemia management reduces hemoglobin
variability in hemodialysis patients, J Am Soc
Nephrol 25(1) (2014) 159-66.
https://doi.org/10.1681/ASN.2013010089.
[4] Do Thi Thu Hien, Evaluation of the usage of
erythropoietin in the treatment of anemia in
patients with chronic renal failure on dialysis at
Thai Binh Provincial General Hospital, Master of
Pharmacy thesis, Hanoi University of Pharmacy,
2015 (in Vietnamese).
[5] Trieu Thi Tuyet Van, Evaluation of the usage of
erythropoietin in the treatment of anemia in
patients with chronic renal failure on dialysis at the
artificial kidney department - Bach Mai Hospital,
Master of Pharmacy thesis, Hanoi University of
Pharmacy, 2009 (in Vietnamese).
[6] Nguyen Thi Uyen, Investigating the effectiveness
and safety of Erythropoietin use in dialysis patients
at artificial kidney monotherapy Sanit Paul
Hospital, Graduation thesis of Pharmacist, Hanoi
University of Pharmacy, 2016 (in Vietnamese).
[7] Bui Thi Tam, Evaluation the effectiveness of
anemia treatment with Erythropoietin in patients
with chronic renal failure receiving dialysis at Dien
Bien Provincial General Hospital, Graduation
thesis of Pharmacist Specialist 2, Hanoi University
of Pharmacy, 2011 (in Vietnamese).
[8] Drug Administration of Vietnam - Ministry of
health, Official dispatch number 4764/QLD-ĐK,
2014 (in Vietnamese).
[9] The Vietnam Urology & Nephrology Association,
Guidelines for treatment of anemia in chronic
kidney disease, The Vietnam Urology &
Nephrology Association, 2013 (in Vietnamese).
[10] KDIGO, KDIGO 2012 Clinical practice guideline
for the evaluation and management of chronic
kidney disease, Kidney International Supplement,
2013, pp.1-150.
[11] Lam Thanh Vung, Study on the characteristics of
anemia and the effectiveness of Erythropoietin β
combination with intravenous iron in patients with
chronic renal dialysis by dialysis, Thesis
Specialized level 2 Medical and Pharmaceutical
University, Hue University, 2013.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_thuc_trang_su_dung_thuoc_tao_hong_cau_tren_benh_nha.pdf