KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
Kết luận
Tỉ lệ bệnh nhân được chẩn đoán sốt NT
trong tổng số bệnh nhân nhập viện tại khoa
HSCC BVTMHH trong khoảng thời gian từ
01/04/2011 đến 30/06/2011 là 34,48%.
Tỉ lệ cấy máu dương tính là 24,44%, âm tính
là 67,22% và dương tính giả + ngoại nhiễm là
8,34% trên những bệnh nhân được chẩn đoán sốt
NT tại khoa HSCC BVTMHH trong khoảng thời
gian từ 01/04/2011 đến 30/06/2011.
Trong những trường hợp cấy máu dương
tính tại khoa HSCC BVTMHH trong khoảng thời
gian từ 01/04/2011 đến 30/06/2011 thì vi khuẩn
gram âm chiếm ưu thế với 91%, trong đó
Chryseomonas chiếm tỉ lệ nhiều nhất là ¼, kế đến
là Escheriachia coli và Pseudomonas aeruginosa.
Gần 80% kháng sinh khởi đầu hiện diện
trong kháng sinh đồ, do đó có sự phù hợp giữa
kháng sinh kinh nghiệm đang sử dụng tại khoa
HSCC BVTMHH với kháng sinh đồ.
Sau khởi động KS kinh nghiệm ban đầu và
KS kinh nghiệm leo thang hoặc KSĐ thì số
trường hợp đáp ứng tốt là 74,44%.
Việc sử dụng kháng sinh kinh nghiệm tại
khoa HSCC BV TMHH hiện nay vẫn đang đạt
được hiệu quả tốt.
Đề xuất
Từ những kết luận trên chúng tôi xin đưa ra
một số đề xuất như sau:
- Tiếp tục sử dụng phác đồ kháng sinh kinh
nghiệm hiện nay.
- Cần có những nghiên cứu với tiêu chuẩn
chọn mẫu tốt hơn, khắc phục được hạn chế của
nghiên cứu của chúng tôi để có được kết quả
chính xác hơn.
- Cần có những nghiên cứu sâu hơn về việc
thay đổi hoặc bổ sung kháng sinh leo thang theo
kinh nghiệm.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 160 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình hình sử dụng kháng sinh kinh nghiệm trên bệnh nhân sốt nhiễm khuẩn tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện truyền máu huyết học từ 01/04/2011 đến 30/06/2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 132
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH KINH NGHIỆM
TRÊN BỆNH NHÂN SỐT NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU
BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC TỪ 01/04/2011 ĐẾN 30/06/2011
Lý An Bình*, Lê Thanh Chang*, Cồ Nguyễn Phương Dung**
TÓM TẮT
Tổng quát: Sử dụng kháng sinh kinh nghiệm hợp lý trong điều trị bệnh nhân sốt nhiễm khuẩn là một công
việc hết sức quan trọng nhằm giảm tỉ lệ tử vong, ngăn ngừa biến chứng, giảm thời gian nằm viện cũng như hạn
chế chi phí điều trị, đặc biệt trên những bệnh nhân có bệnh lý máu ác tính và giảm bạch cầu hạt.
Mục tiêu: Đánh giá tình hình sử dụng KS kinh nghiệm trên những bệnh nhân sốt nhiễm khuẩn (NT).
Phương pháp: Chúng tôi đã tiến hành phương pháp nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang tại khoa Hồi Sức
Cấp Cứu (HSCC) BV. Truyền Máu Huyết Học (TMHH) từ 07/2011 đến tháng 09/2011. Cỡ mẫu của chúng tôi
gồm 180 trường hợp được chẩn đoán là sốt nhiễm khuẩn theo đánh giá lâm sàng của bác sĩ trong khoảng thời
gian từ 01/04/2011 đến 30/06/2011.
Kết quả: Sau nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận được Tỉ lệ bệnh nhân được chẩn đoán sốt NT là 34,48%.
Trong số đó, Tỉ lệ cấy máu dương tính là 24,44%, âm tính là 67,22% và dương tính giả + ngoại nhiễm là 8,34%.
Trong những trường hợp cấy máu dương tínhthì vi khuẩn gram âm chiếm ưu thế với 91%, trong đó
Chryseomonas chiếm tỉ lệ nhiều nhất là ¼, kế đến là Escheriachia coli và Pseudomonas aeruginosa. Gần 80%
kháng sinh khởi đầu hiện diện trong kháng sinh đồ, do đó có sự phù hợp giữa kháng sinh kinh nghiệm đang sử
dụng tại khoa HSCC BVTMHH với kháng sinh đồ.Sau khởi động KS kinh nghiệm ban đầu và KS kinh nghiệm
leo thang hoặc KSĐ thì số trường hợp đáp ứng tốt là 74,44%.
Kết luận: Việc sử dụng kháng sinh kinh nghiệm tại khoa HSCC BV TMHH hiện nay vẫn đang đạt được
hiệu quả tốt.
Từ khóa: Kháng sinh kinh nghiệm, sốt nhiễm khuẩn, sốt giảm bạch cầu hạt.
ABSTRACT
EVALUATE THE USING OF EMPIRICAL ANTIBIOTIC IN INFECTIOUS PATIENT AT ICU DEPT
FROM 04/01/2011 TO 06/30/2011.
Ly An Binh, Le Thanh Chang, Co Nguyen Phuong Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 132 - 141
Background: Using reasonable of empirical antibiotics in febrile infectious patients is very important to
reduce the mortality, prevent complications, decreased length of stay in general ICU patients and reduce cost of
care, especially in patient with malignant haematology and neutropenia.
Objective: To evaluate the using of empirical antibiotics in febrile infectious patients.
Method: A retrospective cross-sectional study was conducted at Department of Intensive Care Unit in Blood
Transfusion and Haematology Hospital of Ho Chi Minh city from July to September 2011. Our sample included
180 patients who were diagnosed febrile infection/infectious fever in clinical assessment between 1st April and
*Bệnh viện Truyền máu huyết học Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thanh Chang, ĐT: 0908.340.631, Email: lethanhchang@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 133
30th June 2011.
Results: The blood culture was positive in 24.44% patients, negative in 67.22% patients, and 8.34%
samples were false positive and contaminated. Within the positive blood cultures, gram - negative bacteria were
predominant (91%) with Chryseomonas (25%), Escheriachia coli and Pseudomonas aeruginosa. Approximately
80% initial antibiotics presented in antibiogram; consequently, using of empirical antibiotics in Department of
Intensive Care Unit is in accordance with antibiogram. After initiating empirical antibiotics and elevating
empirical antibiotics or antibiogram, 74.44% patients is better in clinical symtoms.
Conclusion: At present, using empirical antibiotics at Department of Intensive Care Unit in Blood
Transfusion and Haematology Hospital is still effective.
Key word: Impirical antibiotics, septic fever, neutropenic fever.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt là một triệu chứng phổ biến, có thể biểu
hiện nhiều bệnh lý khác nhau. Sốt gây ra biến
chứng cho khoảng 70% bệnh nhân nhập khoa
hồi sức cấp cứu (HSCC)(3,9). Trong một nghiên
cứu quan sát với 24.204 bệnh nhân nhập khoa
HSCC, chỉ riêng tình trạng sốt cao (≥ 39,5) đã làm
tăng có ý nghĩa tỷ lệ tử vong (20% so với 12%)(9).
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra sốt, do nhiễm
khuẩn và không do nhiễm khuẩn. Phân biệt
nguyên nhân nhiễm khuẩn và không nhiễm
khuẩn của sốt là một thử thách và cần được
đánh giá lâm sàng cẩn thận, sai lầm trong chẩn
đoán có thể dẫn đến những biến chứng nặng nề
cho bệnh nhân, một chuỗi những xét nghiệm
không cần thiết, kéo dài thời gian nằm viện, làm
tăng chi phí điều trị, và quan trọng là dẫn đến
việc dùng kháng sinh (KS) không phù hợp góp
phần làm xuất hiện những chủng vi khuẩn
kháng thuốc. Do đó, cấy máu nên được xem là
xét nghiệm bắt buộc và phải được thực hiện cho
tất cả các bệnh nhân nhập khoa HSCC có triệu
chứng sốt nhằm định hướng KS điều trị.
Sốt do nguyên nhân nhiễm khuẩn có thể tiến
triển thành sốc nhiễm khuẩn, là một trong
những nguyên nhân gây tử vong nhanh chóng,
nhất là trên những bệnh nhân nặng, những bệnh
nhân suy giảm hệ miễn dịch hoặc có bệnh lý nền
gây giảm bạch cầu hạt. Theo Brun – Buisson, tỉ lệ
tử vong nói chung của sốt nhiễm khuẩn ở HSCC
vào khoảng 20% và lên đến 40-60% đối với
những bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn(2). Vì vậy, ở
những bệnh nhân có dấu hiệu nghi ngờ sốt
nhiễm khuẩn nên được điều trị KS ngay lập tức;
tuy nhiên kết quả cấy máu và kháng sinh đồ thì
cần có thời gian, do đó nên khởi đầu với KS phổ
rộng nhằm bao phủ cả vi khuẩn gram âm, gram
dương và Pseudomonas aeruginosa. Khi đó
nguy cơ kháng thuốc cũng sẽ tăng dần, vì vậy
khi lựa chọn KS theo kinh nghiệm cũng nên cân
nhắc đến các yếu tố khác như bệnh lý nền ác
tính, dịch tễ học của vi khuẩn, triệu chứng lâm
sàng và độ nặng của bệnh lý cấp tính(10).
Những thông tin trên đã cho chúng ta thấy
rằng việc lưa chọn KS đúng đắn là một công việc
hết sức quan trọng nhằm giảm tỉ lệ tử vong,
ngăn ngừa biến chứng, giảm thời gian nằm viện
cũng như hạn chế chi phí điều trị. Do đó chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tình
hình của việc sử dụng KS kinh nghiệm trên
những bệnh nhân sốt nhiễm khuẩn tại khoa
HSCC BVTMHH trong khoảng thời gian từ
01/04/2011 đến 30/06/2011 với hy vọng sẽ đưa ra
được những thông tin, khuyến cáo thực sự hữu
ích và phù hợp, có thể áp dụng được trong thực
tế lâm sàng.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá tình hình sử dụng KS kinh nghiệm
trên những bệnh nhân sốt NT tại khoa HSCC
BVTMHH trong khoảng thời gian từ 01/04/2011
đến 30/06/2011.
Mục tiêu cụ thể
- Xác định tỉ lệ bệnh nhân được chẩn đoán
sốt NT trong tổng số bệnh nhân nhập viện tại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 134
khoa HSCC BVTMHH trong khoảng thời gian từ
01/04/2011 đến 30/06/2011.
- Xác định tỉ lệ cấy máu dương tính, âm tính
và dương tính giả trên những bệnh nhân được
chẩn đoán sốt NT tại khoa HSCC BVTMHH
trong khoảng thời gian từ 01/04/2011 đến
30/06/2011.
- Xác định các loại vi khuẩn thường gặp ở
những bệnh nhân cấy máu dương tính tại khoa
HSCC BVTMHH trong khoảng thời gian từ
01/04/2011 đến 30/06/2011.
- Đánh giá sự phù hợp giữa kháng sinh kinh
nghiệm đang sử dụng tại khoa HSCC BVTMHH
với kháng sinh đồ.
- Mô tả đáp ứng lâm sàng của những bệnh
nhân sốt NT sau khi sử dụng kháng sinh kinh
nghiệm tại khoa HSCC BVTMHH trong khoảng
thời gian từ 01/04/2011 đến 30/06/2011.
TỔNG QUAN Y VĂN
Định nghĩa sốt
Nhiệt độ bình thường của cơ thể khoảng
37,0oC (98,6oF), mặc dù nó cũng thay đổi trong
ngày và thay đổi theo phương pháp đo. Định
nghĩa sốt là một định nghĩa không cố định. Bởi
vì khi ta quy định ra mức nhiệt độ được cho là
sốt thấp thì độ nhạy cao nhưng độ đặc hiệu lại
giảm. Một tổ chức liên hợp giữa trường Cao
Đẳng Y Khoa Chăm Sóc Tích Cực và Hiệp Hội
Bệnh Truyền Nhiễm Mỹ định nghĩa sốt là khi
nhiệt độ cơ thể từ 38,3oC trở lên (101oF), nhưng
cần ghi nhớ rằng ở những bệnh nhân bị suy
giảm miễn dịch cần phải hạ thấp mức nhiệt độ
này(14). Định nghĩa này hiện nay đang được dùng
rộng rãi.
Các nguyên nhân gây sốt:
Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây sốt là sốt
không do nhiễm khuẩn và sốt do nhiễm khuẩn.
- Hầu hết các nguyên nhân không nhiễm
khuẩn gây sốt thường có nhiệt độ dưới <
38,9oC(4). Tuy nhiên, vẫn có những ngoại lệ cho
trường hợp này gồm sốt do thuốc, phản ứng
truyền máu, không đủ nội tiết thượng thận, cơn
bão giáp, hội chứng thuốc an thần ác tính, đột
quỵ do tim, và tăng thân nhiệt ác tính(4,12). Mặt
khác, sốt từ 41,1 oC trở lên lại luôn xuất phát từ
nguyên nhân không nhiễm khuẩn(5).
- Những bệnh nhân có nhiệt độ nằm trong
khoảng từ 38,9oC đến 41oC cần được xem là có
nguyên nhân nhiễm khuẩn gây ra sốt. Trong
một nghiên cứu quan sát gồm 24,204 bệnh nhân
người lớn nhập khoa HSCC, 31% bệnh nhân với
nhiệt độ ≥39,5oC có kết quả cấy máu dương
tính(9). Càng khó khăn hơn khi nhiệt độ bệnh
nhân nằm trong khoản từ 38,3oC đến 38,9oC vì
khi đó, danh sách các bệnh cần chẩn đoán phân
biệt là dài nhất. May thay, hầu hết các nguyên
nhân không nhiễm khuẩn gây ra sốt có thể được
loại trừ dựa vào một bệnh sử chi tiết và khám
lâm sàng đầy đủ(12). Đôi khi cả 2 nhóm nguyên
nhân đều có thể cùng tồn tại.
- Đứng trước một bệnh nhân với triệu chứng
sốt, bác sĩ cần chẩn đoán phân biệt giữa sốt
nhiễm khuẩn và sốt không do nhiễm khuẩn
nhằm hướng đến một điều trị hợp lý. Đầu tiên,
đối với tất cả các bệnh nhân bệnh nặng, cần đảm
bảo tốt hô hấp và tuần hoàn. Việc xem lại toàn
diện về bệnh sử và khám lâm sàng đầy đủ nên
được thực hiện. Cấy máu là xét nghiệm bắt buộc
ở những bệnh nhân mới sốt, bởi vì chẩn đoán
nhiễm khuẩn huyết trên lâm sàng thường không
chính xác(12). Những xét nghiệm định danh vi
khuẩn khác và hình ảnh học có thể được chỉ
định sau khi đánh giá lâm sàng. Nhiều nghiên
cứu khuyến cáo rằng cần điều trị kháng sinh
theo kinh nghiệm cho những bệnh nhân có triệu
chứng lâm sàng nặng, giảm bạch cầu và sốt >
38,9, hay đang được hỗ trợ tim phổi vì ở những
bệnh nhân này bất kỳ nhiễm khuẩn nào không
điều trị đều có thể trở thành thảm họa. Đánh giá
tiếp tục và khám mỗi ngày cần thiết để theo dõi
hiệu quả kháng sinh.
Kháng sinh kinh nghiệm
Theo Guideline cho việc sử dụng kháng sinh
kinh nghiệm ở bệnh nhân sốt NT của Columbia
University Medical Center(7):
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 135
- Các xét nghiệm định danh vi khuẩn luôn
cần thiết (nên thực hiện trước khi điều trị
kháng sinh).
- Việc điều trị kháng sinh nên bắt đầu theo
kinh nghiệm dựa trên các yếu tố như bệnh học,
tình trạng đáp ứng kháng sinh của từng bệnh
viện, hiệu quả kinh tế, và vấn đề gia tăng tình
trạng kháng thuốc.
- Hệ vi khuẩn của bệnh nhân có thể thay đổi
do những đợt điều trị trước đó nên cần cân nhắc
khi lựa chọn kháng sinh ban đầu.
- Bắt đầu trị liệu kháng sinh bao vây phổ
rộng ở những bệnh nhân có diễn tiến bệnh trầm
trọng hoặc suy giảm miễn dịch nặng.
- Cần đánh giá kĩ lưỡng tiền căn dị ứng PNC
vì không phải tất cả bệnh nhân dị ứng PNC đều
không được phép sử dụng các thuốc khác thuộc
nhóm beta lactam. Ở những bị dị ứng nhẹ (ví dụ
chỉ có triệu chứng mề đay nhẹ, và không có các
dấu hiệu của hội chứng Steven – Johnson hay
đáp ứng quá mẫn) có thể sử dụng cephalosporin
hoặc carbapenems dựa trên việc cân nhắc giữa
hiệu quả và nguy cơ. Nếu chưa xác định được
chắc chắn, cần hội chẩn với chuyên khoa Nhiễm.
- Đánh giá lại lâm sàng sau 72 – 96 giờ sử
dụng kháng sinh. Khi có kết quả cấy, có thể thay
đổi kháng sinh hoặc thu hẹp phổ kháng sinh
theo tác nhân gây bệnh và kháng sinh đồ.
- Ngưng vancomycin nếu tác nhân gây bệnh
không phải là MRSA hoặc vi khuẩn Gram (+)
kháng thuốc.
- Có thể cân nhắc đổi sang kháng sinh uống
nếu lâm sàng cải thiện tốt.
- Thời gian điều trị kháng sinh dựa trên phác
đồ, có thể thay đổi tùy theo diễn tiến lâm sàng.
Theo khuyến cáo của NCCN 2009 về việc sử
dụng kháng sinh kinh nghiệm cho bệnh nhân sốt
giảm bạch cầu hạt(15):
- Một kháng sinh: Ceftazidime – Cefepime –
Imipenem/cilastin – Ertapenem.
- Kháng sinh phối hợp:
+ Aminoglycoside (Tobramycin, Amikacin)
kết hợp với Ceftazidime – Cefepim –
Piperacilline/ Tazobactam đối với bệnh nhân
nguy cơ cao.
+ Ciprofloxacin – Ofloxacin kết hợp với
Amoxicilline/clavulanate – Cephalosporine thế
hệ 3 uống đối với bệnh nhân nguy co thấp.
+ Vancomycin kết hợp với Ceftazidime hoặc
Cefepime trong trường hợp nghi nhiễm khuẩn
gram dương (da, catheter).
Phác đồ này hiện cũng đang được sử dụng
tại BV TMHH.
PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả cắt ngang
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Tất cả các bệnh nhân nhập khoa HSCC
BVTMHH được chẩn đoán sốt NT.
Dân số nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân nhập khoa HSCC
BVTMHH được chẩn đoán sốt NT trong khoảng
thời gian từ 01/04/2011 đến 30/06/2011.
Phương pháp chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả các bệnh nhân nhập khoa HSCC
BVTMHH được chẩn đoán sốt NT theo chẩn
đoán lâm sàng của bác sĩ trong khoảng thời gian
từ 01/04/2011 đến 30/06/2011.
Tiêu chuẩn loại trừ
+ Không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán sốt NT.
+ Hồ sơ bệnh án của những bệnh nhân được
chẩn đoán sốt NT nhưng nằm ở các khoa khác
của BVTMHH.
+ Hồ sơ bệnh án không đầy đủ dữ liệu cần
thu thập.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 136
Thời gian và địa điểm tiến hành
nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành từ tháng 07/2011 đến
tháng 09/2011, tại khoa HSCC BVTMHH.
Phương pháp thu thập số liệu
Theo bảng thu thập số liệu.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Số liệu và thông tin của bệnh nhân được
thu thập chi tiết qua bảng thu thập số liệu
bằng cách ghi lại dữ liệu trong hồ sơ bệnh án.
Sau đó được nhập, quản lý và phân tích với
phần mềm Stata 10.0.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Trong mẫu nghiên cứu có tổng cộng 180
trường hợp được chẩn đoán là sốt NT phù hợp
với tiêu chuẩn chọn mẫu trong tổng số 522
trường hợp nhập viện, chiếm tỉ lệ 34,48%. Độ
tuổi trung bình là 35,89 ± 21 với tuổi thấp nhất là
1 và cao nhất là 94 tuổi. Nữ chiếm tỉ lệ nhiều hơn
với 56,67%.
Đặc điểm bệnh lý của dân số nghiên cứu
Số lượng bạch cầu
Số lượng bạch cầu Trường hợp Tỉ lệ (%)
Thấp 71 39,44
Trung bình 33 18,33
Cao 76 42,22
Nhận xét: Những bệnh nhân có bệnh lý về
máu, đặc biệt là các bệnh lý về máu thường có sự
thay đổi nhiều về số lượng bạch cầu, hoặc là cao
trong Bạch cầu mãn dòng tủy, Bạch cầu cấp,
thấp trong Suy tủy, bệnh điều trị hóa trị liệu
Số lượng bạch cầu trong bình trong dân số
nghiên cứu là 44,500 ± 89,000, thấp nhất là 600 và
cao nhất là 577,000. Đặc biệt, đối với bệnh lý
huyết học thì bạch cầu hạt đóng vai trò rất quan
trọng, sự giảm bạch cầu hạt có ảnh hưởng đến
các biến chứng của bệnh, quyết định điều trị và
tiên lượng bệnh nhân, nên chúng tôi chia thành 2
nhóm: giảm bạch cầu hạt (dưới 500) chiếm tỉ lệ
24, 44% và không giảm bạch cầu hạt (từ 500 trở
lên) chiếm 75,56%.
Bệnh lý nền
Nhận xét: Bệnh lý nền chiếm tỉ lệ cao nhất là
AML với 30,56%, kế đó là Suy tủy với 16,67%,
ALL với 15,56%. Thấp nhất lần lượt là
Thalassemia, thiếu máu, xơ tủy, tăng tiểu cầu.
Điều này hợp lý, vì bệnh nhân với bệnh máu ác
tính, suy tủy thường gây giảm bạch cầu hạt là
một yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn.
Ổ nhiễm khuẩn
0
1 0
2 0
3 0
4 0
5 0
6 0
7 0
8 0
9 0
1 0 0
C hu a tìm
th ?y
H ô h ?p Tiêu hó a T i?t n i?u Da
92
6 2
1 0 1 1 5
Nhận xét: Hơn 50% trường hợp chưa tìm
thấy được ổ nhiễm khuẩn; 34,4% trường hợp có
ổ nhiễm từ đường hô hấp, nhiễm khuẩn từ da là
ít nhất với tỉ lệ chỉ có 2,78%.
Đặc điểm về kết quả cấy máu
Kết quả cấy máu
30
55
28
11
10
7
5
5
5
3
2
8
3
4
2
1
1
0 10 20 30 40 50 60
Suy t?y
AML
ALL
CML
HLH
XHGTC
Kahler
Lymphoma
CMML
Lupus
Thalassemia
Loan sinh
JMML
TMTH
Thi?u máu
Xơ t?y
Tăng ti?u c?u
24%
68%
8%
dương
âm
dương gi? và ngo?i nhi?m
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 137
Nhận xét: Trong 180 trường hợp được cấy
máu thì có đến 121 trường hợp cấy âm tính, 55
trường cấy dương tính bao gồm 44 trường hợp
dương tính thật, 12 trường hợp dương tính giả
và 3 trường hợp ngoại nhiễm.
ðịnh danh vi khuẩn
Loại vi khuẩn
Số trường
hợp
Tỉ lệ (%)
Gram
dương
Staphylococcus aureus 1 2,72
Staphylococcus
epidermidis
2 4,55
Streptococcus β-hemolytic
group a
1 2,72
Gram âm
Chryseomonas luteola 9 20,45
Escherichia coli/ ESBL 7 15,91
Pseudomonas aeruginosa 4 9,09
Klebsialla pneumonie 3 6,82
Alcaligenes xylosoxidans 3 6,82
Salmonella spp 3 6,82
Loại vi khuẩn
Số trường
hợp
Tỉ lệ (%)
Acinobacter spp 2 4,55
Burkholeria cepacia 2 4,55
Serratia plymuthia 1 2,72
Aeromonas spp 1 2,72
Pastuerella spp 1 2,72
Ochrobactrum anthropi 1 2,72
Nhận xét: Trong 44 trường hợp cấy máu
dương tính thật thì vi khuẩn gram âm chiếm
phần lớn với 90,91%. Trong số vi khuẩn gram
âm thì Chryseomonas luteola chiếm tỉ lệ cao nhất,
Escherichia coli/ ESBL và Pseudomonas aeruginosa
lần lượt ở vị trí thứ 2 và 3. Trong số vi khuẩn
gram âm có 3 loại được tìm thấy là Staphylococcus
aureus, Staphylococcus epidermidis và Streptococcus
β-hemolytic group A.
Kháng sinh đồ
Nhóm kháng sinh Kháng sinh Nhạy (%) Trung gian (%) Kháng (%)
Penicilline Penicilline cổ ñiển 3 (6,82) 0 (0) 3 (6,82)
Oxacillin 2 (4,55) 0 (0) 2 (4,55)
Amoxicillin + Acid clavulanic 6 (13,64) 2 (4,55) 1 (2,72)
Ticarcillin + Acid clavulanic 12 (27,27) 3 (6,82) 2 (4,55)
Piperacillin + Tazobactam 29 (65,91) 1 (2,72) 1 (2,72)
Cephalosporin Cefoxitin 2 (4,55) 0 (0) 2 (4,55)
Ceftriazone 12 (27,27) 10 (22,73) 8 (18,18)
Ceftazidime 30 (68,18) 0 (0) 6 (13,64)
Cefoperazone 9 (20,45) 0 (0) 0 (0)
Cefepim 19 (43,18) 4 (9,09) 11 (25)
Carbapenems Ertapenem 11 (25) 0 (0) 0 (0)
Imipenem 32 (72,73) 0 (0) 0 (0)
Meropenem 32 (72,73) 0 (0) 2 (4,55)
Vancomycin Vancomycin 5 (11,36) 0 (0) 0 (0)
Aminoglycoside Amikacin 30 (68,18) 0 (0) 1 (2,72)
Quinolone Ciprofloxacin 8 (18,18) 1 (2,72) 5 (11,36)
Ofloxacin 12 (27,27) 0 (0) 4 (9,09)
Levofloxacin 18 (40,91) 3 (6,82) 1 (2,72)
Macrolide Erythomycin 2 (4,55) 0 (0) 4 (9,09)
Lincosamine Clindamycin 2 (4,55) 0 (0) 4 (9,09)
Cycline Tetracycline 2 (4,55) 0 (0) 0 (0)
Sulfamethoxazole + Trimethoprime 23 (52,27) 0 (0) 11 (25)
Nhận xét: Trong 44 trường hợp cấy máu
dương tính thật, kết quả định danh kháng
sinh đồ có Imipenem và Meropenem còn nhạy
nhiều nhất với tỉ lệ 72,73%, tiếp theo là
Amikacin và Ceftazidime với 68,18%,
Piperacillin + Tazobactam với 65,91%. Ngược
lại, 2 kháng sinh có tỉ lệ kháng cao nhất là
Cefepim và Sulfamethoxazole +
Trimethoprime (25%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 138
Đặc điểm về độ nhạy của kháng sinh kinh
nghiệm với kháng sinh đồ
Trường hợp Tỉ lệ (%)
Nhạy 2 loại KS 20 45,45%
Nhạy 1 trong 2 loại KS 14 31,81%
Trung gian 3 6,82%
Không có trong KSð 7 15,91%
Nhận xét: Không có trường hợp nào mà KS
kinh nghiệm đang sử dụng kháng với KSĐ, gần
80% KS khởi đầu phù hợp với các KS trong KSĐ.
Đặc điểm về đáp ứng lâm sàng của bệnh
nhân
Sau khi sử dụng KS kinh nghiệm
Nhận xét: Sau khi sử dụng KS kinh nghiệm,
có 55,56% trường hợp có đáp ứng lâm sàng tốt
và 44,44% trường hợp không có đáp ứng tốt.
Trong đó, ở nhóm cấy máu âm tính thì tỉ lệ này
lần lượt là 58,67% và 41,32%, ở nhóm dương tính
43,18% và 56,82%.
Sự thay đổi KS ở nhóm không đáp ứng với KS
kinh nghiệm:
Thêm hoặc ñổi KS Trường hợp Tỉ lệ
Theo kinh nghiệm 48 78,75%
Theo KSð 13 21,25%
Nhận xét: Trong 80 trường hợp không đáp
ứng tốt với KS kinh nghiệm ban đầu, có 19
trường hợp không đổi KS do bệnh nhân tử
vong, xin về hoặc chuyển viện, 61 trường hợp
còn lại được các bác sĩ có sự thay đổi kháng
sinh, trong đó có 63 trường hợp được thay đổi
dựa theo kinh nghiệm và 17 trường hợp đổi
theo kết quả KSĐ.
Các loại kháng sinh thường được dùng thay
đổi
Trường hợp Tỉ lệ (%)
Piperacillin + 16 25,40
Trường hợp Tỉ lệ (%)
Tazobactam
Imipenem 11 17,46
Ceftazidime 7 11,11
Vancomycin 8 12,70
Amphotret 3 4,76
Ertapenem 3 4,76
Khác:
KS khác:
Corticoid
10
5
15,83
7,94
Nhận xét: Trong 63 trường hợp được thay đổi
KS thì KS được lựa chọn nhiều nhất là Tazocin
chiếm hơn 1/4. Các loại KS khác bao gồm:
Levofloxacin, Sulfoperazone, Meronem,
Ciprofloxacin, Sulfamethoxazole +
Trimethoprime.
Sau thay đổi kháng sinh
ðáp ứng Trường hợp Tỉ lệ (%)
Tốt 34 53,97
Không tốt 29 46,31
Nhận xét: Sau khi thay đổi KS (theo kinh
nghiệm hoặc theo KSĐ), có hơn 50% đáp ứng
tốt. Các trường hợp đáp ứng không tốt bao
gồm cần tiếp tục leo thang KS, nhiễm thêm các
ổ nhiễm khác, tử vong hoặc xin về không theo
dõi tiếp được.
Như vậy, sau khởi động KS kinh nghiệm ban
đầu và KS kinh nghiệm (leo thang) hoặc KSĐ thì
số trường hợp đáp ứng tốt là 134/180 trường
hợp, chiếm đến 74,44%.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu
Trong thời gian 03 tháng từ 01/04/2011 đến
30/06/2011, có tổng cộng 522 trường hợp nhập
khoa HSCC BVTMHH, trong đó có 180 trường
hợp được các bác sĩ chẩn đoán sốt NT, phù hợp
với tiêu chuẩn chọn mẫu đã đề ra, chiếm tỉ lệ
34,48%. Tỉ lệ này cao hơn so với một tỉ lệ được
ước tính tại Hoa Kỳ là 28,6%(1). Điều này có thể
được giải thích là do hầu hết những bệnh nhân
nhập khoa HSCC bệnh viện chúng ta đều có
bệnh lý máu ác tính đang được theo dõi hoặc
những bệnh nhân được chuyển viện với nghi
ngờ có bệnh lý về máu, mà đặc thù của bệnh thì
thường hay gây giảm bạch cầu hạt (chiếm tỉ lệ
7 15 01 92 5K hô ng t? t
T ? t
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 139
24,44% ở nghiên cứu này). Bên cạnh đó, cũng tại
Hoa Kỳ, người ta ghi nhận rằng từ năm 1995, tỉ
suất mới mắc của bệnh đang tăng dần đều 1,5%
mỗi năm, mặc dù y học ngày càng tiến bộ(1).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ghi nhận có
44/180 trường hợp cấy máu dương tính, chiếm tỉ
lệ 24,44%. Tỉ lệ này khá cao so với 2 tỉ lệ được ghi
nhận cũng tại khoa HSCC BVTMHH trong 2
tháng 06/2009 và 07/2009 lần lượt là 17% và
16,4%, có thể do kỹ thuật cấy máu được cải thiện,
phát hiện được nhiều hơn các trường hợp dương
tính. Bên cạnh đó, khi so sánh với một tỉ lệ khác
được tìm thấy trong nghiên cứu của Vincent
Paul và cộng sự(6), có 38 /166 (22,9%) trường hợp
được cấy máu, thì tỉ lệ này khá phù hợp. Tuy
nhiên, tỉ lệ dương giả của chúng tôi thì cao hơn
nhiều (8,34% so với 4,8%). Chúng tôi nghĩ là do
có sự khác biệt về dân số nghiên cứu, vì những
trường hợp có bạch cầu trong cao chiếm hơn
50% các trường hợp dương giả, có thể chính điều
này đã góp phần làm sai lệch kết quả soi.Thêm
vào đó, kỹ thuật lấy máu cũng như điều kiện về
vô khuẩn, bảo quản, vận chuyển mẫu có nhiều
khác biệt nên tỉ lệ ngoại nhiễm tại bệnh viện
chúng tôi cao hơn nghiên cứu của họ.
Chúng tôi ghi nhận trong 44 mẫu cấy máu
dương có 40 trường hợp (91%) là vi khuẩn gram
âm, chỉ có 9% vi khuẩn gram dương. So với một
báo cáo vào năm 2009 cũng tại khoa HSCC
BVTMHH, tỉ lệ gram dương/gram âm là ¼. Điều
này cũng tương đối hợp lý, theo một nghiên cứu
thì trong những năm 1990s thì vi khuẩn gram
dương là một trong những nhân tố dẫn đến
nhiễm khuẩn, đặc biệt trên những bệnh nhân
giảm bạch cầu hạt trên toàn thế giới. Tại Hoa Kỳ,
trên những bệnh nhân có du khuẩn huyết và
bệnh lý ác tính, tỷ lệ vi khuẩn gram dương tăng
từ 62% vào năm 1995 đến 76% vào năm 2000,
trong khi đó tỉ lệ vi khuẩn gram âm giảm từ 22%
xuống còn 15%. Tuy nhiên, từ năm 2000 trở đi
thì tỉ lệ nhiễm vi khuẩn gram âm ngày càng tăng
dần(16). Một nghiên cứu vào năm 2008, cho thấy tỉ
lệ vi khuẩn gram âm là 53,9% so với 46,1% tỉ lệ vi
khuẩn gram dương(13). Sự cách biệt giữa tỉ lệ giữa
vi khuẩn gram dương và gram âm trong nghiên
cứu của họ không nhiều như nghiên cứu của
chúng tôi, lý do là, họ tập trung trên những bệnh
nhân giảm bạch cầu hạt có điều trị hóa liệu được
đặt catheter tĩnh mạch trung ương, phòng ngừa
với quinolone, tăng sử dụng ức chế bơm proton
và tăng tỉ lệ viêm tiết nhày do hóa trị liệu(17); còn
mẫu nghiên cứu của chúng tôi bao gồm cả
những bệnh nhân có bạch cầu hạt bình thường,
và hơn 90% không điều trị đặc hiệu.
Theo kết quả ghi nhận được, thì gần 80%
kháng sinh khởi đầu hiện diện trong kháng sinh
đồ. Trong đó, các KS kinh nghiệm mà bệnh viện
chúng tôi đang sử dụng có tỉ lệ nhạy còn rất cao:
Ceftazidime 68,18%, Piperacillin + Tazobactam
65,91%, Cefepim 43,18% và Aminoglycoside là
68,18%. Sự phối hợp penicillin β-lactamase hoặc
cephalosporin hoặc carbapenem với
Aminogycoside thì phù hợp với nhiều nghiên
cứu trên thế giới, đem lại hiệu quả điều trị cao.
Kết luận của Leibovici và cs(11): điều trị với
Aminoglycoside đơn độc thì gây tỉ lệ tử vong cao
hơn so với điều trị phối hợp với β-lactamase, còn
kết luận của Hilf và cs(8) thì sử dụng phối hợp
kháng sinh cho nhiễm khuẩn gây ra bởi
Pseudomonas aeruginosa thì làm tăng tỉ lệ sống
còn của bệnh nhân. Bên cạnh đó, với kết quả các
loại vi khuẩn thường gặp tại khoa HSCC mà
chúng tôi thu thập được (Gram âm chiếm 91%
trong đó, Pseudomonas aeruginosae là 9,09%) thì
các KS đang được sử dụng làm KS khởi đầu là
hợp lý.
Mặc dù vậy, sau khi sử dụng KS ban đầu, thì
chúng tôi ghi nhận không có sự khác biệt nhiều
giữa 2 nhóm đáp ứng tốt (55,56%) và đáp ứng
không tốt (44,44%). Trong những trường hợp cấy
máu dương tính, có kết quả định danh kháng
sinh đồ thỉ tỉ lệ còn nhạy với kháng sinh là gần
80% như đã nêu ở trên, tuy nhiên tỉ lệ không đáp
ứng lâm sàng tốt lại chiếm đến 47,06%, điều này
có thể được lý giải là do sự khác biệt giữa invitro
và in vivo. Tương tự như trên, đối với những
trường hợp cấy máu âm tính, dương giả và
ngoại nhiễm thì tỉ lệ đáp ứng tốt và không tốt lần
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 140
lượt là 59,56% và 40,44%, nhưng ở tình huống
này,chúng ta lại không có được kháng sinh đồ để
định hướng điều trị mà phải tiếp tục leo thang
kháng sinh theo kinh nghiệm. Ngoài ra, một số
trường hợp cấy máu dương tính mà tình trạng
bệnh nhân diễn tiến nặng trước khi kết quả cấy
máu trả về cũng sẽ phải được thêm hoặc thay đổi
theo kinh nghiệm. Vì vậy mà tỉ lệ leo thang kháng
sinh theo kinh nghiệm khá cao, chiếm đến 78,75%.
Trong số những trường hợp cần thay thế kháng
sinh như vậy, thì tỉ lệ đáp ứng tốt là 53,97%. Như
vậy, sau khởi động KS kinh nghiệm ban đầu và
KS kinh nghiệm (leo thang) hoặc KSĐ thì số
trường hợp đáp ứng tốt là 134/180 trường hợp,
chiếm đến 74,44%.
Với những kết quả nêu trên, thì việc dùng
kháng sinh kinh nghiệm tại khoa HSCC BV
TMHH hiện nay vẫn đang đạt được hiệu quả tốt.
Thiết kế nghiên cứu
Ưu điểm: nghiên cứu này chúng tôi không
nhằm xác định mối tương quan giữa các biến số
mà chỉ là xác định tỉ lệ sốt NT, cấy máu dương
tính, âm tính, mô tả đáp ứng lâm sàng sau sử
dụng kháng sinh kinh nghiệm nên thiết kế
nghiên cứu mô tả cắt ngang là hợp lý.
Khuyết điểm: do tiêu chuẩn chọn mẫu của
chúng tôi là những trường hợp chẩn đoán sốt
NT theo đánh giá lâm sàng, chẩn đoán của các
bác sĩ nên sẽ gặp phải nhiều sai số do nhận định
chủ quan của các bác sĩ có sự khác biệt.
KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
Kết luận
Tỉ lệ bệnh nhân được chẩn đoán sốt NT
trong tổng số bệnh nhân nhập viện tại khoa
HSCC BVTMHH trong khoảng thời gian từ
01/04/2011 đến 30/06/2011 là 34,48%.
Tỉ lệ cấy máu dương tính là 24,44%, âm tính
là 67,22% và dương tính giả + ngoại nhiễm là
8,34% trên những bệnh nhân được chẩn đoán sốt
NT tại khoa HSCC BVTMHH trong khoảng thời
gian từ 01/04/2011 đến 30/06/2011.
Trong những trường hợp cấy máu dương
tính tại khoa HSCC BVTMHH trong khoảng thời
gian từ 01/04/2011 đến 30/06/2011 thì vi khuẩn
gram âm chiếm ưu thế với 91%, trong đó
Chryseomonas chiếm tỉ lệ nhiều nhất là ¼, kế đến
là Escheriachia coli và Pseudomonas aeruginosa.
Gần 80% kháng sinh khởi đầu hiện diện
trong kháng sinh đồ, do đó có sự phù hợp giữa
kháng sinh kinh nghiệm đang sử dụng tại khoa
HSCC BVTMHH với kháng sinh đồ.
Sau khởi động KS kinh nghiệm ban đầu và
KS kinh nghiệm leo thang hoặc KSĐ thì số
trường hợp đáp ứng tốt là 74,44%.
Việc sử dụng kháng sinh kinh nghiệm tại
khoa HSCC BV TMHH hiện nay vẫn đang đạt
được hiệu quả tốt.
Đề xuất
Từ những kết luận trên chúng tôi xin đưa ra
một số đề xuất như sau:
- Tiếp tục sử dụng phác đồ kháng sinh kinh
nghiệm hiện nay.
- Cần có những nghiên cứu với tiêu chuẩn
chọn mẫu tốt hơn, khắc phục được hạn chế của
nghiên cứu của chúng tôi để có được kết quả
chính xác hơn.
- Cần có những nghiên cứu sâu hơn về việc
thay đổi hoặc bổ sung kháng sinh leo thang theo
kinh nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Angus DC (2001), Wax RS. Epidemiology of sepsis: an update,
Crit. Care Med, pp 29.
2. Brun-Buisson C (2000), The epidemiology of the systemic
inflammatory response, Intensive Care Med, 26 Suppl 1: S64-
S74.
3. Circiumaru B, Baldock G, Cohen J (1999), A Prospective study
of fever in intensive care unit, Intensive Care Med, 25: 668.
4. Cunha BA (1998), Fever in the critical care unit, Crit Care Clin,
14: 1.
5. Cunha BA (1999), Fever in the intensive care unit, Intensive
Care Med, 25: 648.
6. Godinez VPC, and Macalalad N, (2010), Factors affecting the
Yield blood cultures in the Medical Intensive Care Unit of a
Private University Medical Center, Philippine Journal of
Microbiology and Infection Disease, pp 39.
7. Guidelines for the empiric use of antibiotics in adult patients
(2005), Division of Infectious disease, Columbia University
Medical Center.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 141
8. Hilf M, Yu VL, Sharp J, et al (1989), Antibiotic therapy for
Pseudomonas aeruginosa bacteremia: outcome correlations in
a prospective study of 200 patients, Am J Med, 87: 540-546.
9. Lauplamd KB, Shahpori R, Kirkparick AW, et al (2008),
Occurrence and outcome of fever in critically in adults, Crit
Care Med, 36: 1531.
10. Legrand M, Max A, Schlemmer B, Azoulay E, and Gachot B
(2011), The strategy of antibiotic use in critically ill neutropenic
patients, Annals of Intensive Care, 1: 22.
11. Leibovici L, Paul M, Poznanski O, et al (1997), Monotherapy
versus β-lactam-aminoglycoside combination treatment for
gram-negative bacteremia: a prospective, observational study,
Antimicrob Agents Chemother, 41:1127-1133.
12. Marik PE, Fever in the ICU, Chest 2000, 117: 855.
13. Metallidis S, Kollaras P, Giannakakis T, Seitanidis
B, Kordosis T, Nikolaidis J, Hatzitolios A, Nikolaidis P
(2008), A prospective, controlled, randomized, non-blind,
comparative study of the efficacy and safety of a once daily
high dose of ceftriaxone plus ciprofloxacin versus thrice daily
ceftazidime plus amikacin in empirical therapy for febrile
neutropenic patients, Eur J Intern Med, 19(8): 619-624.
14. O'Grady NP, Barie PS, Bartlett JG, et al (2008), Guidelines for
evaluation of new fever in critically ill adult patients: 2008
update from the American College of Critical Care Medicine
and the Infectious Diseases Society of America, Crit Care Med,
36: 1330.
15. Prevention and Treatment of Cancer – Related Infection
(2009), NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology 2.
16. Wisplinghoff H, Bischoff T, Tallent SM, Seifert H, Wenzel
RP, Edmond MB (2004), Nosocomial bloodstream infections
in US hospitals: analysis of 24,179 cases from a prospective
nationwide surveillance study, Clin Infect Dis, 39(3): 309-317.
17. Zinner SH (1999), Changing epidemiology of infections in
patients with neutropenia and cancer: emphasis on gram-
positive and resistant bacteria, Clin Infect Dis, 29(3): 490-494.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tinh_hinh_su_dung_khang_sinh_kinh_nghiem_tren_benh.pdf