Tỉ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh
mạch ngoại biên
Các nghiên cứu có thiết kế và công cụ đo lường
khác nhau, không thống nhất trong định nghĩa, thời
gian theo dõi và kỹ thuật phân tích khác nhau, có
sự khác biệt về tỷ lệ viêm tĩnh mạch. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ viêm tĩnh mạch do đặt
catheter là (28%). Trong đó, viêm độ I chiếm tỷ lệ
cao nhất (45,5%), độ II (35,0%), độ III và độ IV
chiếm tỷ lệ thấp (11,9% và 7,6%), không có viêm
độ V. Đây là vấn đề cần được quan tâm để nâng
cao chất lượng chăm sóc và bảo đảm an toàn người
bệnh. Tình trạng viêm độ I cần tiếp tục theo dõi,
viêm độ II cần phải phát hiện sớm để thay catheter
mới nhằm hạn chế tối đa viêm độ III, IV và độ
V. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu có tỷ lệ viêm
tĩnh mạch cao hơn nghiên cứu của chúng tôi như
Uslusoy (54,5%) [11], tại Bồ Đào Nha của Luís
Carlos do Rego Furtado báo cáo kết quả tỷ lệ viêm
tĩnh mạch ở các người bệnh ngoại khoa cao hơn
nhiều (61,5%) so với nghiên cứu của chúng tôi [7].
Tại Ý nghiên cứu của Giancarlo Cicolini (2014)
cho thấy tỷ lệ viêm tĩnh mạch là (15,4%) [6]. Tại
Việt Nam, nghiên cứu của Thái Đức Thuần Phong
tại An Giang (2011) có cùng thang đo chẩn đoán và
phân loại độ viêm VIP cho kết quả tỷ lệ viêm tĩnh
mạch thấp hơn (8,0%) [3], nghiên cứu của Nguyễn
Ngọc Rạng báo cáo tỷ lệ viêm tĩnh mạch từ (11%
đến 20,3%) [5], nghiên cứu của Phùng Thị Hạnh
trên đối tượng người bệnh có chấn thương sọ não
báo cáo kết quả viêm tĩnh mạch cao hơn chiếm
(32%) [2], nghiên cứu của Lương Ngọc Quỳnh tỷ
lệ viêm là (32,1%) [4].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình trạng viêm tại chỗ trên người bệnh có đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên tại bệnh viện trung ương Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 67
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG VIÊM TẠI CHỖ
TRÊN NGƯỜI BỆNH CÓ ĐẶT CATHETER TĨNH MẠCH NGOẠI BIÊN
TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
Đặng Duy Quang1, Phan Cảnh Chương1,
Lê Thị Hằng1, Trần Thị Yến Linh1, Dương Thị Huỳnh Mai1.
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.63.10
TÓM TẮT
Viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên là vấn đề cần quan tâm trong chăm sóc điều dưỡng,
có thể dẫn đến nhiễm khuẩn huyết.
Mục tiêu: (1) Xác định tỉ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên và (2) Các yếu tố liên quan
đến viêm tại chỗ do đặt catheter.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang, thực hiện trên 510 người bệnh tại Bệnh viện Trung ương
Huế. Mức độ viêm được đánh giá theo thang điểm VIP.
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ viêm tại chỗ trên người bệnh có đặt catheter ngoại biên là (28,0%). Trong
đó, tình trạng viêm độ I chiếm tỷ lệ cao nhất (45,5%), độ II (35,0%), độ III và độ IV chiếm tỷ lệ thấp (11,9%
và 7,6%), không có viêm độ V (0,0%). Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch
ngoại biên bao gồm: tuổi (≥ 60), thời gian nhập viện (> 5) ngày, số lần đặt catheter (≥ 4) lần, thời gian lưu
catheter (≥ 3) ngày và chuyền dịch đạm và cao phân tử.
Kiến nghị: Cần theo dõi để phát hiện sớm viêm tại chỗ sau đặt catheter để nâng cao chất lượng chăm
sóc người bệnh.
Từ khóa: viêm tại chỗ, catheter tĩnh mạch ngoại biên.
ABSTRACT
EVALUAION LOCAL INFLAMMATION ASSOCIATED
WITH PERPHERAL INTRAVENOUS - CATHETER INSERTION
IN HUE CENTRAL HOSPITAL
Dang Duy Quang1, Phan Canh Chuong1,
Le Thi Hang1, Tran Thi Yen Linh1, Duong Thi Huynh Mai1.
Local inflammation associated with the peripheral intravenous cannula insertion is an important issue in
nursing care which can lead to sepsis.
Objective: (1) Determination local inflammation rate associated with the use of peripheral intravenous
catheter (2) the risk factors of local inflammation caused by peripheral intravenous catheter insertion.
Methods: A cross sectional study of 510 patients using peripheral intravenous catheter (PIC) in Hue
Central Hospital. Inflammation level was assessed on the VIP scale.
Results: The incidence of local inflammation was (28,0%) while using PIC, with local inflammation Grade
1. Bệnh viện Trung ương Huế - Ngày nhận bài (Received): 10/5/2020; Ngày phản biện (Revised): 30/5/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 01/7/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Đặng Duy Quang
- Email: duyquangpdd@gmail.com; SĐT: 0914078853
68 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Đánh giá tình trạng viêm tại chỗ...
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đặt catheter vào trong lòng mạch cho người
bệnh nội trú, là một việc làm thường quy của người
điều dưỡng. Đây là một kỹ thuật xâm nhập vào cơ
thể người bệnh, do vậy trong quá trình thực hiện
quy trình này từ chuẩn bị dụng cụ, phương tiện, kỹ
thuật vô khuẩn, kỹ thuật đặt, cố định và chăm sóc
tại vị trí đặt đều phải bảo đảm nguyên tắc vô khuẩn.
Nếu quá trình thực hiện không tuân thủ nghiêm ngặt
nguyên tắc vô khuẩn, có thể đưa các tác nhân gây
bệnh vào ngay vị trí đặt sau đó vào dòng máu, dẫn
đến sự tụ tập vi khuẩn trong lòng mạch, hậu quả là
gây nhiễm khuẩn huyết [1].
Nhiễm khuẩn huyết liên quan tới việc đặt
catheter vào lòng mạch là nguyên nhân gây tình
trạng nặng thêm và phát sinh chi phí y tế, đứng hàng
thứ 3 trong các nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp
trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Mỗi năm ở
Mỹ có khoảng hơn 150 triệu catheter đặt vào lòng
mạch với mục đích đưa thuốc, dịch các loại, máu
và các sản phẩm của máu, dinh dưỡng ngoài đường
tiêu hóa, theo dõi huyết động và lọc máu. Theo giám
sát quốc gia ở Mỹ có xấp xỉ khoảng 80.000 nhiễm
khuẩn huyết có liên quan tới đặt catheter trên tổng
số 250.000 ca nhiễm khuẩn huyết hằng năm và là
nguyên nhân gây ra 2.400 - 20.000 ca tử vong/ năm.
Tại Việt Nam, tỷ lệ viêm tại chỗ sau đặt catheter
khác nhau tùy thuộc vào nghiên cứu, dao động từ
(2,2% - 32,5%). Do đó, phát hiện sớm, xử lý kịp
thời là cần thiết để giảm biến chứng nhiễm khuẩn
huyết liên quan đến đặt catheter [1], [3], [9].
Chúng tôi thực hiện quy trình đặt catheter tĩnh
mạch ngoại biên cho người bệnh theo hướng dẫn
của Bộ Y tế. Thống kê năm 2016 của Bệnh viện,
thực hiện tiêm truyền qua đường tĩnh mạch chiếm
90,8% trong tổng số mũi tiêm được khảo sát; đây
là một kỹ thuật xâm nhập thực hiện hành ngày với
tần suất cao. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
“Đánh giá tình trạng viêm tại chỗ trên người
bệnh có đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên” nhằm
mục tiêu:
1. Xác định tỉ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh
mạch ngoại biên tại Bệnh viện TW Huế
2. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến viêm tại chỗ
do đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên.
II. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh ≥ 16 tuổi có đặt catheter tĩnh mạch
ngoại biên đang điều trị nội trú tại Bệnh viện TW Huế.
Ngoại trừ người bệnh hôn mê, thở máy, bị câm, điếc,
rối loại tâm thần ảnh hưởng trí lực hay chậm phát
triển trí tuệ hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ 1/2020 đến 6/2020.
2.3. Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng phương
pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3.1. Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu:
2
/2 2
p(1 p)
n Z
eα
−
=
- Zα /2: giới hạn khoảng tin cậy ở mức xác suất
95%, tương ứng 1,96
- p: Tỷ lệ người bệnh viêm tĩnh mạch do đặt
catheter ngoại biên. Theo nghiên cứu tại bệnh viện
An Giang [3], tỷ lệ viêm tại chỗ là 8% nên chọn
p=0,08.
- e: Độ chính xác mong muốn, chọn e=0,025.
Thay vào công thức ta tính được cỡ mẫu tối thiểu
cần thiết là 453. Thực tế, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trên 510 người bệnh.
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu
Áp dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Chọn ngẫu nhiên một số khoa lâm
I was the highest proportion (45.5 %), Grade II was (35.0%), Grade III was (11.9%) and Grade IV was (7.6%).
There is no Grade V. The risk factors of local inflammation after using PIC including: age (≥ 60), length of
admission (> 5 days), the number of catheter placement (≥ 4), time catheter remained in place (≥ 3) days,
group drug was protein - polymer.
Recommendations: Observe to detect local inflammation soon after using PIC to improve the quality
of patient care.
Key words: Local inflammation, peripheral intravenous catheter.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 69
sàng tại Bệnh viện TW Huế.
- Giai đoạn 2: Lập danh sách tất cả người bệnh có
đặt catheter tĩnh mạch tại mỗi khoa; số người bệnh
được chọn tỷ lệ với tổng số người bệnh đặt catheter
tĩnh mạch. Nghĩa là khoa nào có nhiều người bệnh
đặt catheter hơn thì sẽ có nhiều người được chọn
hơn. Chọn người bệnh tại mỗi khoa theo phương
pháp ngẫu nhiên hệ thống.
2.3.3. Thu thập thông tin
Chúng tôi tiến hành thu thập thông tin dựa vào
hồ sơ bệnh án và phỏng vấn người bệnh, khảo sát tại
vị trí đặt catheter để đánh giá tình trạng viêm theo
thang điểm VIP (Visual Infusion Phlebitis Scale)
với bộ câu hỏi được thiết kế sẵn. Giá trị và độ tin cậy
thang điểm VIP đã được đánh giá bởi các nghiên
cứu và là một trong hai công cụ được Hiệp hội tiêm
truyền Hoa Kỳ (INS) khuyến cáo sử dụng [8].
- Dựa vào hồ sơ bệnh án để thu thập các thông
tin: tuổi, giới tính, chẩn đoán, thời gian nằm viện, số
ngày đặt catheter, thời gian lưu catheter, loại dung
dịch chuyền.
- Phỏng vấn người bệnh để đánh giá cảm giác tại
vị trí đặt catheter.
- Quan sát và sờ vị trí đặt catheter để đánh giá
mức độ đỏ, cứng và thừng tĩnh mạch tại các vị trí đặt
catheter, vật liệu cố định catheter.
2.3.4. Phương pháp đánh giá
- Đánh giá mức độ viêm bằng thang điểm VIP
Bảng 2.1: Thang điểm VIP đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch [8]
Các dấu hiệu lâm sàng
tại vị trí truyền tĩnh mạch
Phân độ Xử trí
Vị trí đặt catheter bình thường 0
Không có dấu hiệu VTM; tiếp tục theo
dõi vị trí đặt catheter
Có một trong hai dấu hiệu sau: đau nhẹ hoặc tấy đỏ
vị trí đặt catheter
1 Có thể là dấu hiệu khởi đầu của VTM;
tiếp tục theo dõi vị trí đặt
Có 2 trong 3 dấu hiệu sau: đau nhẹ; tấy đỏ; sưng nề
vị trí đặt catheter
2
Viêm TM giai đoạn sớm; rút catheter
Có tất cả 3 dấu hiệu sau và lan rộng: Đau dọc theo
vị trí đặt catherter; tấy đỏ; sưng nề
3
VTM giai đoạn trung bình rút catheter;
cân nhắc điều trị
Có tất cả 4 dấu hiệu sau và lan rộng: 3 dấu hiệu của
mức độ 3 và tĩnh mạch nổi cứng cảm giác sờ chạm
4
VTM tiến triển hoặc khởi đầu của
VTM thuyên tắc do huyết khối; rút
catheter; cân nhắc điều trị VTM
Có tất cả 5 dấu hiệu sau và lan rộng; 4 dấu hiệu
mức độ 4 và sốt lạnh run
5
VTM huyết khối tiến triển; rút
catheter; điều trị VTM
2.3.5. Xử lý số liệu
Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0.
Các thống kê mô tả được đo lường bằng tần số và
tỷ lệ %. Phép kiểm định c2 ở mức ý nghĩa α = 0,05
để xác định mối liên quan giữa viêm tĩnh mạch do
đặt catheter ngoại biên của người bệnh với các biến
độc lập.
2.3.6. Đạo đức trong nghiên cứu
- Nghiên cứu chỉ tiến hành khi có sự đồng ý của
người bệnh. Sau khi phát hiện các biểu hiện của viêm
tại chỗ, tiến hành xử lý kịp thời cho người bệnh.
- Kết quả nghiên cứu được phản hồi với nhóm
chăm sóc và khoa phòng để có giải pháp kịp thời
bảo đảm an toàn người bệnh.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành ở 510 người bệnh tại
Bệnh viện TW Huế trong đó nam chiếm (60,4%) và
nữ chiếm (39,6%). Tuổi trung bình của người bệnh
được khảo sát là (55,57±17,77). Đa số người bệnh
được cố định catheter bằng băng dính thông thường
70 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Đánh giá tình trạng viêm tại chỗ...
(99,4%). Vị trí đặt catheter chủ yếu tại cẳng tay
(39,4%), mu bàn tay (25,5%) và cổ tay (21,6%).
Cỡ catheter phần lớn là số 22G (77,1%). Thời gian
lưu catheter < 24h chiếm (70,8%). Số ngày nằm
viện trung bình của người bệnh là 11,09 ngày.
3.2. Tỉ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh
mạch ngoại biên
Bảng 3.1: Tỷ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter
tĩnh mạch ngoại biên
Viêm tại chỗ n %
Có 143 28,0
Không 367 72,0
Tổng 510 100,0
Tỷ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter ngoại biên là
(28,0%).
Bảng 3.2: Phân độ viêm tại chỗ do đặt catheter
tĩnh mạch ngoại biên
Phân độ n %
I 65 45,5
II 50 35,0
III 17 11,9
IV 11 7,6
V 0 0,0
Tổng 143 100,0
Trong số người bệnh có biểu hiện viêm tại
chỗ sau đặt catheter, viêm độ I chiếm tỷ lệ cao
nhất (45,5%); viêm độ II (35,0%); độ III và độ
IV chiếm tỷ lệ thấp (11,9%) và (7,6%); không có
viêm độ V.
3.3. Các yếu tố liên quan đến viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên
Bảng 3.3: Các yếu tố liên quan đến viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên
Viêm tại chỗ
Yếu tố
Có Không
p
n % n %
Tuổi
<60 67 23,8 214 76,2
0,019
≥ 60 76 33,2 153 66,8
Thời gian nằm viện
1-5 ngày 52 21,6 189 78,4
0,002
> 5 ngày 91 33,8 178 66,2
Số lần đặt catheter
1-3 lần 69 23,5 224 76,5
0,009
≥ 4 lần 74 34,1 143 65,9
Vật liệu cố định
catheter
Băng dính thông
thường
142 28,0 365 72,0
0,628
Opsize 1 33,3 2 66,7
Vị trí đặt catheter
Cổ tay và khủy 37 25,2 110 74,8
0,359
Khác 106 29,2 257 70,8
Cỡ catheter
24G 11 18,6 48 81,4
0,188
22G 116 29,5 277 70,5
20G 10 35,7 18 64,3
18G 6 20,0 24 80,0
Thời gian lưu
<24h 58 16,1 303 83,9
<0,001
24-48h 40 40,4 59 59,6
>48 -72h 32 86,5 5 13,5
>72h 13 100,0 0 0,0
Dung dịch chuyền là
đạm và cao phân tử
Có 35 38,9 55 61,1
0,012
Không 108 25,7 312 74,3
Tổng 143 20,0 367 72,0
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 71
Tỷ lệ viêm tại chỗ đặt catheter tĩnh mạch ngoại
vi cao hơn có ý nghĩa thống kê với (p <0,05) ở
người bệnh có tuổi (≥ 60), thời gian nằm viện (>
5) ngày, số lần đặt catheter (≥ 4) lần, thời gian
lưu catheter (≥ 3) ngày và chuyền dịch đạm
và cao phân tử. Chưa tìm thấy mối liên quan
giữa vật liệu cố định catheter, vị trí đặt và cỡ
của catheter với tình trạng viêm tại chỗ do đặt
catheter ngoại biên.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Tỉ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh
mạch ngoại biên
Các nghiên cứu có thiết kế và công cụ đo lường
khác nhau, không thống nhất trong định nghĩa, thời
gian theo dõi và kỹ thuật phân tích khác nhau, có
sự khác biệt về tỷ lệ viêm tĩnh mạch. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ viêm tĩnh mạch do đặt
catheter là (28%). Trong đó, viêm độ I chiếm tỷ lệ
cao nhất (45,5%), độ II (35,0%), độ III và độ IV
chiếm tỷ lệ thấp (11,9% và 7,6%), không có viêm
độ V. Đây là vấn đề cần được quan tâm để nâng
cao chất lượng chăm sóc và bảo đảm an toàn người
bệnh. Tình trạng viêm độ I cần tiếp tục theo dõi,
viêm độ II cần phải phát hiện sớm để thay catheter
mới nhằm hạn chế tối đa viêm độ III, IV và độ
V. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu có tỷ lệ viêm
tĩnh mạch cao hơn nghiên cứu của chúng tôi như
Uslusoy (54,5%) [11], tại Bồ Đào Nha của Luís
Carlos do Rego Furtado báo cáo kết quả tỷ lệ viêm
tĩnh mạch ở các người bệnh ngoại khoa cao hơn
nhiều (61,5%) so với nghiên cứu của chúng tôi [7].
Tại Ý nghiên cứu của Giancarlo Cicolini (2014)
cho thấy tỷ lệ viêm tĩnh mạch là (15,4%) [6]. Tại
Việt Nam, nghiên cứu của Thái Đức Thuần Phong
tại An Giang (2011) có cùng thang đo chẩn đoán và
phân loại độ viêm VIP cho kết quả tỷ lệ viêm tĩnh
mạch thấp hơn (8,0%) [3], nghiên cứu của Nguyễn
Ngọc Rạng báo cáo tỷ lệ viêm tĩnh mạch từ (11%
đến 20,3%) [5], nghiên cứu của Phùng Thị Hạnh
trên đối tượng người bệnh có chấn thương sọ não
báo cáo kết quả viêm tĩnh mạch cao hơn chiếm
(32%) [2], nghiên cứu của Lương Ngọc Quỳnh tỷ
lệ viêm là (32,1%) [4].
4.2. Các yếu tố liên quan đến viêm tại chỗ do
đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên
4.2.1. Tuổi
Tuổi càng cao sức đề kháng càng giảm. Đồng
thời tuổi cao là điều kiện thuận lợi cho tạo huyết
khối tĩnh mạch. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ
lệ bệnh nhân ≥ 60 tuổi có tỷ lệ viêm tại chỗ cao hơn
so với nhóm bệnh nhân < 60 tuổi. Nghiên cứu tại
Bệnh viện An Giang cũng cho kết quả tương tự như
nghiên cứu chúng tôi [3].
4.2.2. Thời gian nằm viện
Thời gian nằm viện càng dài thì có những nguy
cơ càng cao như nhiễm khuẩn bệnh viện, tình trạng
nặng của bệnh và thời gian lưu catheter. Đó cũng
chính là những yếu tố làm gia tăng nguy cơ viêm tại
chỗ sau đặt catheter.
4.2.3. Số lần đặt catheter
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan
giữa số lần đặt catheter với tỷ lệ viêm tại chỗ. Điều
này có thể giải thích do trên da của người bệnh
luôn tồn tại vi khuẩn trong quá trình thực hiện thủ
thuật đặt catheter, điều dưỡng thực hiện chưa đúng
kỹ thuật vô khuẩn, sát trùng chưa đủ rộng hoặc
dụng cụ không đảm bảo vô khuẩn, đâm kim nhiều
lần có thể vô tình đưa vi khuẩn xâm nhập qua da
của người bệnh dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn tại
vị trí đặt.
4.2.4. Thời gian lưu catheter
Thời gian lưu càng dài thì nguy cơ viêm tại chỗ càng
cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời
gian đặt càng dài, tỷ lệ viêm tại chỗ càng cao. Trong
nghiên cứu của Lương Ngọc Quỳnh tỷ lệ nhiễm khuẩn
tăng lên theo thời gian đặt catheter. Tỷ lệ nhiễm khuẩn
trên tổng số người bệnh từ (13,3%) ở nhóm đặt (< 4)
ngày, tăng lên (28,5%) ở nhóm từ 4 - 7 ngày và (33,3%)
ở nhóm lưu catheter trên 7 ngày [4]. Theo Marcia A,
tỷ lệ nhiễm khuẩn tăng cao ở các trường hợp lưu
catheter > 7 ngày. Do vậy, cần thường xuyên đánh
giá để có chỉ định rút catheter sớm [10].
4.2.5. Dung dịch chuyền
Các dung dịch nuôi dưỡng đặc biệt là các dung
dịch có lipid, nhũ tương là dung dịch có nồng độ
72 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Đánh giá tình trạng viêm tại chỗ...
áp lực thẩm thấu cao đã được chỉ ra là có liên quan
đến viêm tĩnh mạch do sự kích thích về mặt hóa
học, và sự hình thành các màng Biofim gây tình
trạng viêm tĩnh mạch. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy chuyền dung dịch đạm và cao
phân tử có tỷ lệ viêm tĩnh mạch cao hơn. Do đó,
trong thực hành chăm sóc người bệnh cần lưu ý với
người bệnh này [9].
V. KẾT LUẬN
5.1. Tỉ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh
mạch ngoại biên
Tỷ lệ viêm tại chỗ sau đặt catheter ngoại biên là
(28,0%). Trong đó, viêm độ I (45,5%), viêm độ II
(35,0%), độ III và độ IV chiếm tỷ lệ thấp (11,9% và
7,6%), không có viêm độ V.
5.2. Các yếu tố liên quan đến viêm tại chỗ do
đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên
Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ viêm tại chỗ do
đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên bao gồm: tuổi
≥ 60, thời gian nằm viện (> 5) ngày, số lần đặt
catheter (≥ 4) lần, thời gian lưu catheter (≥ 3) ngày
và chuyền dịch đạm và cao phân tử.
VI. KIẾN NGHỊ
Cần theo dõi chặt chẽ người bệnh đặt catheter
tĩnh mạch ngoại biên để phát hiện kịp thời viêm tại
chỗ nhất là những người bệnh lớn tuổi, thời gian
nằm viện (>5) ngày, số lần đặt catheter (≥ 4), thời
gian lưu catheter (≥ 3) ngày và chuyền dịch đạm và
cao phân tử để có hướng xử trí thích hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2012). Hướng dẫn phòng ngừa nhiễm
khuẩn huyết trên người bệnh đặt catheter trong
lòng mạch.
2. Phùng Thị Hạnh (2018). Tỉ lệ viêm tại chỗ
trong và sau thời gian đặt catheter tĩnh mạch
ngoại vi và một số yếu tố liên quan tại khoa
phẫu thuật thần kinh 1, Bệnh viện Hữu Nghị
Việt Đức.
3. Thái Đức Thuận Phong (2011). Khảo sát tỉ lệ
viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi
tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Tim mạch
An Giang.
4. Lương Ngọc Quỳnh (2014). Một số đặc điểm
nhiễm khuẩn catheter tĩnh mạch trung tâm tại
khoa Hồi sức tích cực Bệnh viện Trung ương
Quân đội 108.
5. Nguyễn Ngọc Rạng H. T. M. H., Mai Nhật
Quang, Lê Thị Tuyết Nga, Lý Thị Hồng (2013).
Có nên thay kim luồn tĩnh mạch thường quy
mỗi 72 giờ. Hội nghị khoa học Điều dưỡng bệnh
viện An Giang, 6-11.
6. Cicolini G., Manzoli L., Simonetti V. et al.
(2014). Phlebitis risk varies by peripheral
venous catheter site and increases after 96
hours: a large multi-centre prospective study. J
Adv Nurs, 70(11), 2539-49.
7. Furtado L. C. d. R. (2011). Incidence and
predisposing factors of phlebitis in a surgery
department. British Journal of Nursing,
20(Sup7), S16-S25.
8. Lisa Gorski L. H., Mary E. Hagle, Mary
McGoldrick, Marsha Orr, Darcy Doellman,
(2016). Infusion Therapy Standards of Practice
Journal of Infusion Nursing, 39(1).
9. Lynn H. (2006). Flushing vascular access catheters:
Risks for infection Infection Control, 4(2).
10. Marcia A. Ryder P., MS, RN (2005). Catheter-
Related Infections: It’s All About Biofilm. Top
Adv Pract Nurs e-J, 5(3), 1-15.
11. Uslusoy E. and Mete S. (2008). Predisposing
factors to phlebitis in patients with peripheral
intravenous catheters: a descriptive study. J Am
Acad Nurse Pract, 20(4), 172-80.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_tinh_trang_viem_tai_cho_tren_nguoi_benh_co_dat_cath.pdf