Kết luận
Có thể nói, với vai trò là trung tâm kinh tế - văn hóa – giáo dục lớn của Việt Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Với sự hỗ trợ của Nhật Bản từ năm
1992 đến nay, trên nền tảng hợp tác sâu rộng của quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, quan
hệ của Thành phố Hồ Chí Minh và Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực
ngày càng được thúc đẩy. Thông qua nguồn tài trợ từ Chính phủ, các cơ quan đào tạo và
nghiên cứu cùng các tổ chức, nhiều nhiều nghiên cứu của các trường đại học lớn ở Nhật
Bản đã tham gia các chương trình đào tạo, trao đổi ở Việt Nam và ngược lại. Đồng thời,
nhu cầu về hợp tác đào tạo nguồn nhân lực giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Nhật Bản
ngày càng lớn. Bởi lẽ, để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ
Chí Minh cần nguồn nhân lực lớn, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi
đó, Nhật Bản là quốc gia có nhiều kinh nghiệm lẫn cơ sở vật chất và tài chính để thúc
đẩy hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực trên thế giới thông qua nhiều kênh hợp tác, nhất là
ODA. Trên nền tảng quan hệ tốt đẹp Việt Nam – Nhật Bản trong nhiều lĩnh vực, đặc
biệt là lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực, các công ty Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí
Minh đã thể hiện vai trò lớn trong nhiều hoạt động, chương trình thiết thực để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực bản địa của Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 608 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo nguồn nhân lực trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản từ năm 1992 đến nay khảo sát tại các công ty Nhật Bản ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(47)-2020 
 89 
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUAN HỆ 
VIỆT NAM – NHẬT BẢN TỪ NĂM 1992 ĐẾN NAY 
KHẢO SÁT TẠI CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Trần Thanh Hậu(1) 
(1) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU-HCM) 
Ngày nhận bài 17/03/2020; Ngày gửi phản biện 20/03/2010; Chấp nhận đăng 25/05/2020 
Liên hệ email: hauchinh2000@yahoo.com 
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.04.061 
Tóm tắt 
Trên nền tảng quan hệ hợp tác của Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo 
nguồn nhân lực từ năm 1992 đến nay, bài viết tìm hiểu một cách hệ thống nội dung 
thông qua các công ty Nhật Bản đang hoạt động trên tại thành phố Hồ Chí Minh. Qua 
đó, công trình phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá 
trình hợp tác đào tạo nguồn nhân lực trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản ở các công ty 
Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh bằng hai phương pháp nghiên cứu chính là 
phương pháp nghiên cứu lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Đặc biệt, bài viết 
hướng tới đặc điểm của hợp tác phát triển nguồn nhân lực trong quan hệ Việt Nam – 
Nhật Bản ở các công ty Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng như điểm mạnh và 
hạn chế trong tiến trình hợp tác. 
Từ khóa: nguồn nhân lực, Việt Nam, Nhật Bản, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Abstract 
TRAINING HUMAN RESOURCES IN THE RELATIONSHIP BETWEEN 
VIETNAM AND JAPAN SINCE 1992: A SURVEY AT JAPANESE 
COMPANIES IN HO CHI MINH CITY 
By extensively scrutinizing the Japanese companies in Ho Chi Minh City, this paper 
aims to examine the cooperation between Vietnam and Japan in the field of human 
resources training from 1992 until now. More specifically, drawing from historical 
evidence and logical reasoning, this article is going to analyze the reality of the co-
operative management in human resources of these companies and suggests a few solutions 
to ameliorate the process of human resources development. The strengths and drawbacks of 
the human resources co-operative development are the main focus in this paper. 
1. Giới thiệu 
Từ năm 1992 đến nay, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản không ngừng phát triển 
mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Trên nền tảng quan hệ truyền thống lâu dài, bên cạnh 
quan hệ kinh tế sôi nổi, quan hệ chính trị sâu rộng và quan hệ văn hóa đặc sắc, hợp tác 
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.04.061 
 90 
ngày càng toàn diện trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực đã thúc đẩy quan hệ thực 
chất của hai nước. Từ những kinh nghiệm đã qua, Việt Nam – Nhật Bản luôn nỗ lực tìm 
kiếm phương thức hợp tác hiệu quả cùng giải quyết các trở ngại vì lợi ích của chính phủ 
và nhân dân hai nước. Đặc biệt, năm 1992 là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự viện trợ 
trở lại của Nhật Bản dành cho Việt Nam. Kể từ đây, mối quan hệ ngoại giao giữa hai 
nước đã bước sang một trang mới, phát triển về mọi mặt. 
Không chỉ vậy, trong bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội khu vực và thế giới đang 
phát triển theo xu hướng ngày càng phức tạp, yếu tố đóng vai trò trung tâm cho mọi vận 
động chính là nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Ở bất kỳ lĩnh 
vực nào, để phát triển bền vững, nhân lực luôn là nhân tố cấp bách mang tầm chiến 
lược, có tính sống còn. Trong khi đó, cơ cấu trình độ lao động Việt Nam còn tồn tại 
nhiều hạn chế và có sự thiếu hụt lớn đối với các chuyên gia đầu ngành và công nhân 
lành nghề có kỹ thuật cao. Việt Nam sớm nhận thức được thực tế trên và hiểu rõ Việt 
Nam cần phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam thông 
qua giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, gắn với hội nhập quốc tế, gắn công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá với kinh tế tri thức, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên 
tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ. Thực tế, thông qua các hoạt động đào tạo 
nguồn nhân lực, Việt Nam và Nhật Bản, hai nước, hai dân tộc có thêm cơ hội để thấu 
hiểu, tin tưởng và hợp tác toàn diện hơn trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, nội 
dung hợp tác về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chưa được quan tâm, nghiên cứu 
đúng mức. Do đó, tìm hiểu về đào tạo nguồn nhân lực và đưa ra các đề xuất góp phần 
hoàn thiện hơn một nội dung hợp tác trong tiến trình phát triển của hai nước. 
Trong khi đó, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế - văn hóa – giáo dục 
lớn của Việt Nam. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu về nguồn nhân lực 
– một yếu tố then chốt và quyết định - hiện đang đặt ra cho nền kinh tế nước ta nói 
chung cũng như cho thành phố Hồ Chí Minh những vấn đề nan giải, cấp bách. Từ nhiều 
năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định nguồn nhân lực là một trong những nhân 
tố tạo nền tảng cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, chủ trương phát triển nguồn 
nhân lực đã được Đảng bộ Thành phố đề ra từ Đại hội lần thứ VII (2001-2005) và lần 
thứ VIII (2006-2010) Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX, nhiệm kỳ 
2010-2015 đã phân tích nhiều nhu cầu cấp bách phải tái cấu trúc kinh tế của thành phố 
Hồ Chí Minh trong giai đoạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, xác định phát 
triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là một trong sáu chương trình đột phá của 
thành phố Hồ Chí Minh. 
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 
Nghiên cứu về quan hệ Nhật – Việt từ lâu không còn xa lạ với giới nghiên cứu 
quan hệ quốc tế nói riêng và lịch sử nói chung. Nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã dày 
công tập hợp tư liệu và cho ra đời những tác phẩm, chuyên khảo, bài báo đề cập đến 
quan hệ Nhật – Việt từ quá khứ đến hiện nay. Các tác phẩm này đề cập đến nhiều lĩnh 
vực của mối quan hệ song phương giữa hai nước như: chính trị - ngoại giao; kinh tế - 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(47)-2020 
 91 
thương mại; văn hóa - xã hội - giáo dục và khoa học kỹ thuật. Trong đó, đề cập đến 
quan hệ chính trị - lịch sử được các nhà nghiên cứu đề cập đến nhiều nhất. Đây là thuận 
lợi đầu tiên cho tác giả, vì khi tập hợp, xử lý, tổng hợp chúng tôi có cơ hội nhìn nhận và 
đánh giá một cách khách quan nhất về quan hệ Nhật – Việt trong quá khứ cũng như định 
hướng cho sự phát triển trong tương lai. Riêng phần hợp tác trong lĩnh vực đào tạo và 
phát triển nguồn nhân lực giữa Nhật Bản – Việt Nam hiện nay còn tương đối ít các tác 
phẩm, bài báo, chuyên khảo. Đây là khó khăn lớn nhất đối với chúng tôi khi thực hiện 
nghiên cứu đề tài. 
Nguồn tư liệu quan trọng nhất, mang tính quan trọng, chính thống là các văn kiện, 
tài liệu của đảng và nhà nước về đối ngoại, về quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản. 
Nguồn tài liệu này gồm có 2 loại cơ bản: thứ nhất, các văn kiện của Đảng chỉ đạo về hội 
nhập kinh tế quốc tế, đường lối đối ngoại từ đại hội VI đến nay. Thứ hai, các văn bản ký 
kết về hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh, giáo 
dục và khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam và Nhật Bản được lưu trữ ở Bộ ngoại giao và 
các Tổng lãnh sự quán. Có thể nói, các văn kiện này thể hiện rõ quan điểm chính thống 
của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ đối ngoại với các quốc gia, khu vực nói chung 
và Nhật Bản nói riêng (Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, 1991), (Đảng bộ Thành phố 
Hồ Chí Minh, 1994), (Sở Ngoại vụ TP. HCM, 2011), (Sở Ngoại vụ TP. HCM, 2014), 
(Sở Ngoại vụ TP. HCM, 2015). 
Về mối quan hệ chung Việt Nam – Nhật Bản từ năm 1992 đến, một số công trình 
trong và ngoài nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích chủ đề này, đặc biệt Cơ quan Hợp 
tác Quốc tế Nhật Bản là đơn vị trực tiếp thực hiện và tiến hành thực tiễn hoạt động hợp 
tác trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực với Việt Nam (Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật 
Bản, 2013). Đồng thời, quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản với sự hợp tác 
trên nhiều lĩnh vực, trong đó có đào tạo nguồn nhân lực, thậm chí nhấn mạnh việc “tăng 
cường sự gắn kết giữa con người với con người” đã được nghiên cứu trong nhiều công 
trình khoa học (Nguyễn Tiến Lực, 2013). Đặc biệt, hợp tác phát triển nguồn nhân lực tại 
Thành phố Hồ Chí Minh là một điểm sáng trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản (Hồ Thị 
Lệ Thủy, 2013), (Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Phan Thu Hằng, 2011). Ngoài ra, việc sử 
dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cùng với thúc đẩy mô hình hợp tác phát triển nguồn 
nhân lực của VJCC luôn nhận được sự quan tâm lớn (Trần Kim Chung, Đào Xuân Tùng 
Anh, 2015), (Nguyễn Hoàng, Tuyết Nhung, 2013). 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Nhu cầu hợp tác với Nhật Bản trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng 
cao của Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1992 đến nay 
Năm năm sau khi triển khai kế hoạch phát triển toàn diện kinh tế - xã hội Thành 
phố được khởi xướng từ năm 1986, Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố tại Đại hội 
Đảng bộ thành phố lần thứ V (10/1991) chủ trương trong Báo cáo chính trị tại Đại hội 
“trong thực hiện chính sách xã hội, cần quán triệt tư tưởng của Đảng lấy con người làm 
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.04.061 
 92 
trung tâm, kết hợp thật tốt hai mặt: công bằng về lợi ích kinh tế và khuyến khích yếu tố 
tinh thần, khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực, 
tự cường, quan hệ bình đẳng, đoàn kết xây dựng và bảo vệ đất nước. Tập trung sức 
nhanh chóng khắc phục quan liêu, tham nhũng, sửa đổi những chế độ chính sách bất 
hợp lý, nhất là chế độ tiền lương, mở rộng khả năng tạo việc làm, coi đó là vấn đề cơ 
bản của chế độ” (Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, 1991). Bên cạnh đó, Văn kiện Hội 
nghị Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh giữa nhiệm kỳ khóa V (tháng 3/1994) 
đã chủ trương tiếp tục chăm lo các vấn đề xã hội với hiệu quả cao hơn. Trong đó, cần 
chú trọng tổ chức thực hiện các chương trình giải quyết việc làm với mức thu hút mỗi 
năm 150.000 lao động trở lên, hỗ trợ đầu tư thêm qua các dự án nhỏ; tăng cường các 
trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm; từng bước hình thành thị trường lao động có 
tổ chức (Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1994). Tiếp đó, cụ thể hóa hơn cơ cấu lao 
động Thành phố, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố tại Đại hội 
VI vào tháng 05/1996 nhấn mạnh: “Đã quan tâm khuyến khích phát triển các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ với nhiều hình thức sở hữu, phát triển dịch vụ và kinh tế hộ gia đình, 
bảo đảm cho người lao động được tự do hành nghề, thuê mướn lao động. Tiếp nối 
những chủ trương của Đại hội Đảng bộ lần thứ V, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 
VI, nhiệm kỳ 1996-2000 tiếp tục xác định nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát cho những năm 
cuối thế kỷ XX của Thành phố là: “Giữ vững và tăng cường ổn định chính trị, tập trung 
sức khai thác thời cơ, vượt qua thử thách, đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ 
tầng kỹ thuật và xã hội tương ứng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo đảm 
hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế liên tục, vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa, 
nâng cao tích luỹ nội bộ với giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội, an ninh - quốc 
phòng, nâng dần mức sống của Nhân dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trình 
độ mọi mặt của cán bộ đảng viên, góp phần cùng cả nước thúc đẩy công cuộc đổi mới 
phát triển một cách toàn diện và đồng bộ, đạt và vượt các mục tiêu của “Chiến lược ổn 
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”. Những chủ trương xây dựng và phát 
triển toàn diện Thành phố về kinh tế - xã hội đã cho thấy tư duy chính trị của chính 
quyền các cấp ở Thành phố Hồ Chí Minh đã từng bước đổi mới, cụ thể hóa và đồng bộ 
hóa hơn theo tiến trình đổi mới tư duy về kinh tế - chính trị - xã hội liên tục và thống 
nhất của đất nước, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn trong những năm 
đầu của thế kỷ XXI. 
Đồng thời, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới kinh tế, 
muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới, số lượng các đoàn 
khách quốc tế tới thăm Thành phố Hồ Chí Minh tăng nhanh, trong đó có nhiều đoàn là 
nguyên thủ quốc gia các nước trên thế giới. Cùng với các đoàn khách quốc tế, số lượng 
các phóng viên nước ngoài tới tìm hiểu, đưa tin và số lượng các nhà đầu tư nước ngoài 
tới tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh cũng tăng mạnh. Đặc biêt là số lượng các cơ 
quan đại diện nước ngoài và các tổ chức quốc tế đã tăng lên nhanh chóng. Các hoạt 
động giao lưu văn hóa quốc tế cũng diễn ra thường xuyên với quy mô lớn hơn tại Thành 
phố. Nhìn chung, hoạt động đối ngoại tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn này 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(47)-2020 
 93 
được mở rộng nhanh cả về chất và lượng. Đặc biệt, ngoại giao văn hóa và ngoại giao 
nhân dân nhận được sự quan tâm lớn thông qua chuỗi sự kiện “Những ngày Thành phố 
Hồ Chí Minh” tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ... Công tác hội nhập và hợp tác quốc tế 
của Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phát triển mạnh, nâng cao về chất lượng hội 
nhập, đảm bảo ổn định an ninh chính trị, củng cố và mở rộng quan hệ với các quốc gia, 
các chủ thể trên nhiều cấp độ. 
Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định nguồn nhân lực là một trong những nhân tố 
tạo nền tảng cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, chủ trương phát triển nguồn 
nhân lực đã được Đảng bộ thành phố đề ra từ Đại hội lần thứ VII (2001-2005) và lần 
thứ VIII (2006-2010). Đáng chú ý, Thành phố Hồ Chí Minh có chủ trương phát triển 
300-500 thạc sĩ, tiến sĩ đã qua đào tạo phục vụ cho nguồn nhân lực chất lượng cao của 
đất nước và được cử đi học ở các nền giáo dục tiên tiến như Nhật Bản. Nguồn nhân lực 
Thành phố có lợi thế dồi dào, con người được đánh giá là năng động, sáng tạo, luôn tìm 
tòi cái mới, là nguồn nhân lực quý giá góp phần vào sự phát triển của Thành phố cũng 
như cả nước (Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Phan Thu Hằng, 2011). Một số dự án hợp tác 
của Việt Nam và Nhật Bản về đào tạo nguồn nhân lực được thực hiện với hình thức 
“hợp tác kỹ thuật” nằm trong nguồn viện trợ ODA như: Dự án bồi dưỡng cán bộ lãnh 
đạo nhằm hiện đại hóa hành chính ngành thuế quan, được thực hiện từ năm 2004 đến 
2007; Dự án nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm y tế tỉnh Hòa Bình từ năm 2004 đến 
năm 2009; Dự án nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên tại chức từ năm 2004 đến 2007; 
Dự án cải cách chế độ quản lý cảng biển từ năm 2005 đến 2008 
3.2. Tiến trình hợp tác phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam – Nhật Bản tại 
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1992 đến nay 
Trên nền tảng chủ động hội nhập của Thành phố Hồ Chí Minh, quan hệ của 
Thành phố và Nhật Bản có nhiều tiến triển tích cực trên nhiều lĩnh vực. Thực chất, Nhật 
Bản là một trong những đối tác quan trọng nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Một trong 
những thành công trong hoạt động đối ngoại thành công thời kỳ này chính là chuyến 
viếng thăm Nhật Bản vào năm 2007 của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh. Đoàn 
đại biểu chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh và các doanh nghiệp tiêu biểu do Chủ 
tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Lê Hoàng Quân dẫn đầu đã có chuyến thăm Nhật 
Bản từ ngày 22-27/10/2007. Trong bối cảnh số lượng các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt 
Nam ngày càng tăng thì bản ghi nhớ hợp tác giữa Thành phố Hồ Chí Minh với thành 
phố Yokohama được xem như bước đệm để doanh nghiệp hai bên xúc tiến các chương 
trình hợp tác. Trong buổi làm việc, tỉnh trưởng Osaka cũng cho biết sẵn sàng giúp đỡ 
Thành phố Hồ Chí Minh đào tạo đội ngũ điều hành và quản lý metro khi thành phố triển 
khai xây dựng hệ thống metro đầu tiên từ Bến Thành đến Suối Tiên (nguồn vốn ODA 
của Nhật Bản). Vào ngày 24/11/2009, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Yokohama 
của Nhật Bản đã thỏa thuận chính thức thiết lập quan hệ đối tác nhằm thúc đẩy hơn nữa 
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai thành phố. Đây là bước phát triển mới trong quan 
hệ giữa hai thành phố, nâng lên một bước từ Bản ghi nhớ về hợp tác kinh tế giữa hai 
bên ký ngày 23-10-2007. Tiếp nối những hoạt động đối ngoại của thành phố, ngày 
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.04.061 
 94 
22/12/2009, Phó Chủ tịch HĐND Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Thành Lập đã tiếp 
Đoàn Tổ chức vì hòa bình và hữu nghị Osaka (MOA) – Nhật Bản do ông Ono Susumu, 
Chủ tịch MOA dẫn đầu nhân dịp Đoàn đến thăm và làm việc tại TPHCM. Đây là sự 
kiện cầu nối giúp thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa thành phố và các doanh nghiệp Nhật 
Bản. Ngày 24/12/2011, Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị và Hội hữu nghị Việt - Nhật 
Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ trao kỷ niệm chương “Vì hòa bình, hữu nghị giữa 
các dân tộc” cho Hội hữu nghị Nhật - Việt tỉnh Hiroshima - Nhật Bản và các ông 
Sugimoto Reiji - Chủ tịch Hội, Kobayashi Kazunari - Tổng thư ký Hội. Kỷ niệm 
chương “Vì hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc” do Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị 
Việt Nam dành tặng các tổ chức, cá nhân có những đóng góp to lớn trong việc củng cố 
và tăng cường quan hệ hữu nghị giữa nhân dân các nước với nhân dân Việt Nam vì sự 
nghiệp hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển (Sở Ngoại vụ TP. HCM, 2011). Ngày 
3/11/2013, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Hứa Ngọc Thuận đã tiếp ông 
Masayuki Kusumoto, Cục trưởng Cục đối ngoại tỉnh Osaka (Nhật Bản) và các thành 
viên của tỉnh Osaka đến chào xã giao, nhân chuyến thăm tại TPHCM. Trong buổi đón 
tiếp, cả hai nhấn mạnh quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản đang rất phát triển. 
Chính phủ hai nước đã nâng mối quan hệ lên đối tác chiến lược, tạo cơ hội cho các địa 
phương trong đó có TPHCM và tỉnh Osaka tăng cường hợp tác phát triển hơn nữa trên 
nhiều lĩnh vực (Sở Ngoại vụ TP. HCM, 2014). Tiếp nối các chuỗi hoạt động đối ngoại 
với các tỉnh Nhật Bản, ngày 31/10/2013, Chủ tịch UBND TP Lê Hoàng Quân tiếp Đoàn 
đại biểu Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (JCCI) do ông Kohei Watanabe, 
Chủ tịch Ủy ban Hợp tác kinh tế Mekong - Nhật Bản (thuộc JCCI) dẫn đầu thăm 
TPHCM. Tiếp nối chuỗi hoạt động đối ngoại sôi nổi của năm, trưa ngày 8/10/2015, Phó 
Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Liêm đã có buổi tiếp và làm việc 
với đoàn Hiệp hội Công nghiệp Nhật Bản do ông Hattori Shigehiko, Chủ tich hiệp hội 
dẫn đầu. Tại buổi tiếp đón, ông Hattori Shigehiko đánh giá cao những thành quả phát 
triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh và nhấn mạnh doanh nghiệp Nhật 
Bản đang tiếp tục xem Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là điểm 
đến có nhiều triển vọng về đầu tư kinh doanh. Bên cạnh đó, ông còn bày tỏ mong muốn 
chính quyền thành phố tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
của Nhật Bản đến tìm hiểu cơ hội hợp tác, đầu tư tại Thành phố Hồ Chí Minh (Sở Ngoại 
vụ TP. HCM, 2015). 
Các chương trình trao đổi sinh viên, các khóa học ngắn hạn ngày càng phổ biến ở 
Việt Nam lẫn Nhật Bản. Tại Việt Nam, hai nước cũng hết sức quan tâm đến đào tạo 
nguồn nhân lực chất lượng cao tại chỗ, ở đào tạo đại học, Trường Đại học Khoa học Xã 
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có các chương trình hợp tác 
với các đối tác là trường đại học của Nhật Bản như Đại học Osaka, Đại học Thương mại 
Nagoya Không chỉ vậy, ngành Nhật Bản Học nhận được sự quan tâm của đông đảo phụ 
huynh, học sinh trong kỳ tuyển sinh Đại học, Cao đẳng hằng năm ở Việt Nam với điểm 
chuẩn luôn nằm ở top đầu. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng dành một khoản viện 
trợ không hoàn lại cho việc nâng cao trang thiết bị dạy học và nghiên cứu cho các trường 
đại học và các cơ quan nghiên cứu Việt Nam. Dự án nâng cao cơ sở vật chất cho trường 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(47)-2020 
 95 
Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia 
Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, vào năm 2008, Nhật Bản đã ký kết viện trợ 67 ngàn 
USD cho trường Đại học Sư phạm TP. HCM nhằm trang bị phòng nghe nhìn đa phương 
tiện phục vụ cho khóa học tiếng Nhật hệ chính quy đầu tiên. Đáng chú ý, trong chuyến 
viếng thăm Nhật Bản của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn 
Thiện Nhân vào tháng 3/2008, Nhật Bản và Việt Nam đã ký thỏa thuận về việc Nhật Bản 
giúp đào tạo 1000 tiến sĩ cho Việt Nam đến năm 2020 và tiếp tục tăng học bổng cho Việt 
Nam trong 3 năm tới. Số cán bộ được đào tạo trình độ cao này sẽ được bổ sung vào đội 
ngũ giảng viên của các trường đại học Việt Nam. Ngoài ra, có nhiều du học sinh Việt 
Nam đang theo học theo học bổng chính phủ hai nước hoặc tự túc. 
Hội Hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản (The Ho Chi Minh City’s Vietnam – Japan 
Friendship Association, Tiếng Anh; ホーチミン市 ベトナム-日本友好協会, Tiếng 
Nhật): Việt Nam và Nhật Bản vốn đã phát triển mối quan hệ ngoại giao thân thiện và tốt 
đẹp từ lâu trong lịch sử. Những năm 1980, khi Việt Nam thực hiện quá trình chuyển đổi 
sang nền kinh tế thị trường theo đường hướng Đổi mới, Nhật Bản đã tạm ngưng viện trợ 
ODA cho Việt Nam mà chỉ tiến hành cứu trợ thiên tai khẩn cấp. Từ những năm 90 của 
thể kỷ XX trở đi, quan hệ hai nước được nối lại và phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh 
vực khác nhau, nhất là kinh tế và văn hóa (Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, 2013). 
Hội hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào ngày 
17/8/1992 có các hoạt động nhằm tăng cường sự hiểu biết giữa nhân dân hai nước Việt 
– Nhật, củng cố và phát triển tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai nước nói chung và giữa 
Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương của Nhật nói riêng. Trong những năm gần 
đây, Nhật Bản đã trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam, do đó Hội Việt –Nhật càng 
có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngoại giao nhân dân thông qua việc giao lưu 
văn hóa nghệ thuật, góp phần thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai nước. 
Văn phòng JICA Thành phố Hồ Chí Minh tiền thân là Văn phòng Liên lạc tại Tp. 
HCM của JICA, thành lập vào tháng 5/2002 sau khi được Chính phủ Việt Nam chấp 
thuận. Văn phòng Liên lạc dần được mở rộng và từ 10/2008 khi JICA và Ngân hàng Hợp 
tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) hợp nhất. Để đáp ứng với sự gia tăng và đa dạng hóa trong 
công việc, tháng 10/2016, Văn phòng Liên lạc chính thức được nâng cấp thành Văn 
phòng JICA chi nhánh Tp. HCM như hiện nay. Đặc biệt, giai đoạn 2011-2015 được xem 
là giai đoạn ký kết và giải ngân cao nhất từ trước đến nay ở Việt Nam, trong đó, tỷ lệ giải 
ngân vốn ODA Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ nhì và năm 2012 đứng thứ 
nhất thế giới (Trần Kim Chung, Đào Xuân Tùng Anh, 2015). Tính đến 2015, có khoảng 
50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp vốn ODA và vốn vay 
ưu đãi cho Việt Nam. Những đặc điểm chính của việc thu hút và triển khai các dự án 
ODA ở Việt Nam như sau: (i), Tình hình cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA được cải 
thiện qua các thời kỳ; (ii), ODA vốn vay tăng trong khi viện trợ không hoàn lại giảm qua 
các thời kỳ; (iii), Các địa phương ngày càng tham gia nhiều hơn trong việc tiếp nhận, 
quản lý và thực hiện nguồn vốn ODA; (iv), Đóng góp của ODA vào tăng trưởng kinh tế 
ngày càng cao. Hiện tại, Thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai thực hiện 20 dự án với 
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.04.061 
 96 
tổng giá trị tài trợ ODA là 130.946,10 tỷ Đồng. Vì vậy thành phố đã mạnh dạn xây dựng 
chiến lược phát triển đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và Tầm nhìn đến năm 
2020. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, Nhật Bản là nhà tài trợ ODA lớn nhất, thị trường 
xuất khẩu thứ ba, thị trường du lịch thứ năm và nhà đầu tư lớn thứ tư của thành phố. Tính 
đến cuối tháng 6/2019, Nhật Bản có 1300 dự án với số vốn khoảng 4,4 tỷ USD (Thanh 
Tùng, 2019). Các công ty Nhật Bản luôn tạo điều kiện thuận lợi để người lao động có thể 
tham gia học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ với nhiều hình thức từ khả 
năng sử dụng tiếng Nhật, các khóa học kinh doanh hoặc hoạt động giao lưu. Đơn cử như 
Công ty Tokyo Robe Viet Nam cử nhân lực là cán bộ, nhân viên tham gia các chương 
trình đào tạo kinh doanh tại Trung tâm Hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam - Nhật tại 
Thành phố Hồ Chí Minh (VJCC). Ngoài ra, VJCC kết hợp với Hiệp hội các Doanh 
nghiệp Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh (JBAH) tổ chức hàng năm Hội chợ Nghề 
nghiệp (JOB FAIR) thu hút hàng chục doanh nghiệp Nhật Bản và hàng nghìn sinh viên từ 
các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia. Bên cạnh các hoạt động trên, 
VJCC cũng hợp tác để đào tạo học viên Nhật Bản cho các doanh nghiệp Nhật Bản như 
Hitachi, Fukokou, Mitani,... Các học viên này, thông qua các buổi học trên lớp và những 
chuyến đi tham quan, được học tiếng Việt, tìm hiểu lịch sử, văn hóa và kinh tế Việt Nam 
(Nguyễn Hoàng, Tuyết Nhung, 2013). 
3.3. Tiến trình hợp tác phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam – Nhật Bản ở 
các công ty Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1992 đến nay 
Sự phát triển nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh cùng tiến trình hội nhập 
quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Tại TP. Hồ Chí 
Minh, chương trình “Phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng sản xuất công 
nghiệp” đã vận hành. Đây là chương trình do JICA tài trợ, phối hợp cùng Tổ chức Kết 
nối hợp tác kỹ thuật châu Á (ATCN), Ban quản lý các Khu chế xuất - Khu công nghiệp 
thành phố (Hepza) và Trường Doanh thương Trí Dũng thực hiện. Chương trình kéo dài 
từ năm 2017 - 2020 với 5 khóa học tại TP. Hồ Chí Minh và 1 khóa đào tạo thực tế tại 
Nhật Bản, đào tạo cho gần 400 học viên. Các học viên bao gồm công nhân kỹ thuật, kỹ 
sư, nhà quản lý doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp trọng yếu và giảng viên các 
trường dạy nghề của TP. Hồ Chí Minh. Tại mỗi khóa học, các chuyên gia Nhật Bản sẽ 
cung cấp các kiến thức về kỹ thuật ứng dụng, kỹ năng xử lý vấn đề từ phương pháp 5S 
(phương pháp quản lý, sắp xếp nơi làm việc trong sản xuất), tư duy Kaizen (cải tiến liên 
tục) trong giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất. Ngoài ra, học viên sẽ 
được tham quan, tiếp cận các dây chuyền sản xuất, cách thức quản lý của các doanh 
nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam. 
Đặc biệt, tại các công ty Nhật Bản, việc đào tạo nhân lực vô cùng được chú trọng. 
Nguyên tắc quản trị nguồn nhân lực của các công ty Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí 
Minh là nhân viên được đầu tư thỏa đáng để phát triển các năng lực riêng nhằm thỏa 
mãn các nhu cầu cá nhân, đồng thời tạo ra năng suất lao động, hiệu quả làm việc cao. 
Đồng thời, các chính sách, chương trình, thực tiễn quản trị nhân lực cũng tạo điều kiện 
tích cực cho nguồn nhân lực nâng cao chất lượng lao động thông qua đào tạo dưới nhiều 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(47)-2020 
 97 
hình thức. Với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, các doanh nghiệp Nhật Bản 
đảm đảo cho nhân viên trong doanh nghiệp có các kỹ năng, trình độ lành nghề cần thiết 
để hoàn thành tốt công việc được giao và tạo điều kiện cho nhân viên phát triển tối đa 
các năng lực cá nhân. Một số hoạt động thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực của các công 
ty Nhật Bản giai đoạn này là các hoạt động hướng nghiệp, huấn luyện, đào tạo kỹ năng 
thực hành cho người lao động, bồi dưỡng nâng cao trình độ lành nghề và cập nhật kiến 
thức quản lý, kỹ thuật công nghệ cho cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ. 
Tuy nhiên, đây là giai đoạn mà hợp tác đào tạo nhân lực cấp độ chính phủ phát triển 
mạnh, các công ty Nhật Bản đang trong giai đoạn tìm hiểu và tiếp cận thị trường Thành 
phố Hồ Chí Minh. Chủ yếu các doanh nghiệp này là những tập đoàn đa quốc gia lớn 
trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, máy tính, cơ khí... Đơn cử như Công ty Sony Việt 
Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh, công ty tuyển dụng nhân sự bằng hình thức tự nguyện 
với các buổi “nhập gia”, “nhập hãng” trang trọng. Người lao động trong công ty đều 
bình đẳng như nhau dù có cấp bậc, nhiệm vụ như thế nào ở công ty. 
Một số hình thức đào tạo nhân lực phổ biến trong các công ty Nhật Bản tại Thành 
phố Hồ Chí Minh như đào tạo trong công việc, đào tạo ngoài công việc. Đào tạo trong 
công việc hay còn gọi là đào tạo tại chỗ (On-the-job training) là các phương pháp đào 
tạo trực tiếp tại nơi làm việc, trong đó người học sẽ được học những kiến thức, kỹ năng 
cần thiết cho công việc thông qua thực tế thực hiện công việc và thường là dưới sự 
hướng dẫn của những người lao động lành nghề hơn với các hình thức như Đào tạo theo 
kiểu chỉ dẫn công việc, Đào tạo theo kiểu học nghề, Đào tạo theo kiểu kèm cặp và chỉ 
bảo, Luân chuyển và thuyên chuyển công việc (Phan Thùy Chi, 2008). Đào tạo trong 
công việc là hình thức đào tạo chủ yếu và phổ biến ở các công ty Nhật Bản. Theo điều 
tra của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) về Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực 
của các doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam năm 2014 thì có tới 61% doanh nghiệp 
đang tiến hành công tác đào tạo nhân lực. Nội dung đào tạo rất phong phú, đa dạng bao 
gồm từ đào tạo chuyên môn sản xuất, kỹ năng quản lý cho đến đào tạo về ngoại ngữ 
Tiếng Nhật, Tiếng Anh,  
Trong khi đó, Đào tạo ngoài công việc (Off-the-job training) là phương pháp đào 
tạo trong đó người học được tách ra khỏi sự thực hiện các công việc thực tế như Tổ 
chức các lớp ngoài doanh nghiệp, Cử đi học ở các trường chính quy, Các bài giảng, hội 
nghị và hội thảo, Đào tạo từ xa, Đào tạo theo kiểu chương trình hóa có sự trợ giúp của 
máy tính, Đào tạo theo kiểu mô hình ứng xử, Đào tạo kỹ năng xử lý công văn giấy tờ... 
Trong các hình thức trên, đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc, đào tạo nghề ngay tại nơi 
làm việc, luân chuyển chỗ làm việc đặc biệt phát triển ở các công ty Nhật Bản. Bởi lẽ, 
đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc có nhiều ưu điểm như: chi phí ít tốn kém, người lao 
động học hỏi ngay trong quá trình làm việc của họ, có tính linh hoạt cao, cho phép có 
những điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu, đặc điểm, kỹ năng cần thiết ngay trong công việc 
thường nhật của đối tượng được đào tạo. Trong khi đó, đào tạo nghề ngay tại nơi làm 
việc đảm bảo được nguyên tắc gắn học đi đôi với hành, lý thuyết với thực hành nghề và 
hầu như không có sự bất cập giữa cung và cầu lao động đã được đào tạo vì các công ty 
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.04.061 
 98 
thực hiện đào tạo chủ yếu cho chính nhu cầu của doanh nghiệp. Hình thức của loại hình 
đào tạo này khá đa dạng, song tựu trung lại có 3 loại chính: đào tạo theo nhóm, đào tạo 
tự nguyện và đào tạo bên ngoài. Để đảm bảo chất lượng, các khóa đào tạo của các công 
ty Nhật Bản thường mời giáo viên bên ngoài đến trình bày những vấn đề có liên quan. 
Đặc biệt, theo điều tra của JICA, khoảng 50% các doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam 
có nhờ các tổ chức bên ngoài tham gia đào tạo nguồn nhân lực. Các nội dung đào tạo 
chủ yếu về phát triển nhân lực, quản lý sản xuất, quản lý kinh doanh, năng lực tiếng 
Nhật và kế toán. 
Nhiều doanh nghiệp Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh đã liên kết với các cơ 
sở đào tạo chính quy để đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao như Đại học Bách 
khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thông qua việc nhận sinh viên tốt 
nghiệp ở Chương trình đào tạo Kỹ sư thiết bị xây dựng, Chương trình thao tác high – 
end CAD dành cho kỹ sư cơ khí, Khóa học về Robot hay cung cấp học bổng. Cùng với 
chế độ làm việc suốt đời, các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam nói chung và Thành 
phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng thường áp dụng chế độ lên lương và thăng thưởng theo 
thâm niên. Trong khối doanh nghiệp chế tạo, những người có thâm niên và giữ chức vụ 
quản lý của các công ty Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh có mức thu nhập cao lên 
tới 12.865 USD/người. Ở các doanh nghiệp phi chế tạo của Nhật Bản tại Thành phố Hồ 
Chí Minh, mức thu nhập trung bình của nhân viên và quản lý lần lượt là 7.224 
USD/người và 15.710 USD/người. Đa phần các doanh nghiệp Nhật Bản tại Thành phố 
Hồ Chí Minh xây dựng một quy trình đào tạo thống nhất qua các năm. Chương trình 
đào tạo cụ thể cho từng đối tượng giúp người lao động có được chương trình đào tạo 
toàn diện hơn. Không chỉ vậy, công tác xác định đối tượng đào tạo trong mỗi chương 
trình đào tạo đã có những tiêu chuẩn tương đối cụ thể: cán bộ quản lý và nhân viên. 
Trong khi đó, chi phí đào tạo cũng tăng lên hàng năm, thể hiện sự quan tâm đầu tư của 
công ty đến công tác đào tạo nhân lực. Công tác thực hiện chương trình đào tạo đa phần 
được tổ chức theo đúng kế hoạch, có giám sát, linh hoạt và thay đổi khi cần thiết. Có thể 
nói, đa phần doanh nghiệp Nhật Bản cho rằng, sự khác biệt giữa những nhà quản trị 
quốc tế và nhà quản trị trong nước là nhà quản trị quốc tế phải biết tìm cách làm cho các 
hoạt động tại nước nhà phù hợp với các địa phương ở nước ngoài và quan hệ tốt với 
chính phủ nước đó. Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà quản trị chi nhánh ở nước ngoài 
thường rộng hơn so với các nhà quản trị trong nước và phải đương đầu với khó khăn về 
thông tin liên lạc giữa các cơ quan đầu não của công ty và chi nhánh. Tại Thành phố Hồ 
Chí Minh ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác, các công ty đa quốc gia Nhật Bản 
thích bổ nhiệm các nhà quản trị địa phương vì sự thông hiểu các điều kiện hoạt động địa 
phương, ít tốn kém hơn. Hình thức đào tạo nhân lực cao cấp là công ty thuyên chuyển 
nhân viên ra nước ngoài để truyền đạt những kỹ năng chuyên môn và các hoạt động 
kinh doanh ở nước nhà nhằm kiểm soát các hoạt động ở nước ngoài và để phát triển các 
nhà quản trị. Tại Nhật Bản, việc huấn luyện và đào tạo nhân viên ở nước ngoài là nhằm 
xây dựng những kiến thức tổng quát cho các nhà quản trị và trang bị cho họ phương 
pháp để giải quyết những tình huống đặc biệt thường xảy ra. Đơn cử như Toyota Việt 
Nam đặc biệt coi trọng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại chỗ, tức nhân 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(47)-2020 
 99 
lực người Việt, một cách toàn diện trên toàn hệ thống từ nhà máy, đến các đại lý, nhà 
cung cấp và cả xã hội như trách nhiệm của một doanh nghiệp lớn trong ngành công 
nghiệp ô tô. Tinh thần hiếu khách Omotenashi nổi tiếng của Nhật Bản cũng được đào 
tạo, thực hành và trở thành văn hóa, tác phong của mỗi nhân viên khi phục vụ khách 
hàng tại tất cả đại lý, chi nhánh của Toyota trên toàn quốc. Toyota đã thành lập bộ phận 
chức năng chuyên trách, đào tạo và phát triển nhân sự cho nhà cung cấp, chuyển giao về 
5S, bí quyết sản xuất của Toyota (TPS), quản lý chất lượng (QCC). Ngoài ra, Toyota luôn 
tạo điều kiện khuyến khích nhân viên của hệ thống Đại lý Toyota nâng cao kỹ năng và 
kiến thức chuyên môn để phục vụ khách hàng tốt hơn. Trong đó, Hội thi Tay nghề Toyota 
là một ví dụ điển hình. Nhờ đó, năm 2018, Toyota Việt Nam đã đạt được thành tích xuất 
sắc trong Hội thi tay nghề Toyota Châu Á Thái Bình Dương, xếp thứ 4 trên tổng số 10 
quốc gia tham dự với 4 giải Vàng, 4 giải Bạc, 1 giải Đồng. Điều này minh chứng cho nỗ 
lực phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sản xuất của Toyota Việt Nam. Qua 
các hoạt động đào tạo nhân sự cả bên trong lẫn bên ngoài của Toyota Việt Nam có thể 
thấy rằng để nền kinh tế có thể phát triển nhanh hơn và mang tính cạnh tranh cao hơn, 
trách nhiệm không chỉ thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước hay chính quyền địa 
phương các cấp, mà còn phụ thuộc vào nội lực của chính doanh nghiệp. 
Đồng thời, với hình thức Đào tạo ngoài công việc, Công Ty Sony Electronics 
Vietnam thường xuyên tổ chức nhiều khóa học chất lượng, ví dụ như chương trình đào 
tạo “Lãnh đạo Kiến tạo/Proactive Leadership” tại công ty Sony Electronics Vietnam vào 
24/7/2018. Chương trình chắt lọc và đúc kết những tinh hoa quản trị nhằm mang lại giải 
pháp tổng thể độc đáo nhất, giúp các nhà lãnh đạo tại Sony Electronics Vietnam tiếp 
cận, hiểu rõ và biết cách ứng dụng một phương cách quản trị mới được mang tên “Quản 
trị bằng tự trị” hay “Quản trị bằng văn hóa”. Đồng thời, chương trình đã trang bị các mô 
hình, các lối tư duy, cùng những công cụ và phương pháp cụ thể giúp các nhà lãnh đạo 
sẵn sàng tiên phong mở đường, kiến tạo nên một tổ chức luôn có khả năng tiến tới 
những thắng lợi mới trong thời đại mới. Bên cạnh đó, 16-17/08/2018, chương trình đào 
tạo “Lãnh Đạo Với Tốc Độ Của Niềm Tin” tập trung vào Phương pháp này giúp các 
nhà lãnh đạo biết cách vận hành của Niềm tin, cách đo lường, thiết lập, phát triển, mở 
rộng và duy trì niềm tin - để triển khai một chiến lược kinh doanh thành công. Tính 
khoa học và thực tiễn của phương pháp “Tốc độ của Niềm tin” chính là lý do khiến 
chương trình đào tạo đặc biệt này trở thành giải pháp tối ưu cho lãnh đạo, nhất là trong 
bối cảnh khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng... 
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch phát triển nhân lực trong các công ty Nhật Bản 
tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng được hết sức quan tâm. Thông qua công tác rà soát, 
đánh giá người lao động dựa trên bản mô tả công việc, bản đánh giá mức độ hoàn thành 
công việc để lựa chọn ra những công chức có trình độ quản lý, kỹ năng nghề nghiệp tốt 
để bố trí, sẵn sàng cho những vị trí quản lý mới. Việc luân chuyển nhân viên thay cho 
tuyển dụng này cũng có ưu điểm là tận dụng được nhân lực đã có kinh nghiệm ở cơ sở 
để tiếp tục phát huy ở vị trí công việc mới. Không chỉ vậy, chính sách kế hoạch hóa 
nguồn nhân lực phù hợp với chủ trương, chính sách của nhà nước Việt Nam, phù hợp 
với yêu cầu về số lượng nhân lực, nâng cao về chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực 
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.04.061 
 100 
Thành phố Hồ Chí Minh đã được thực hiện tương đối tốt. Công tác lập kế hoạch nâng 
cao nguồn nhân lực trong ngắn hạn và dài hạn cũng được các công ty Nhật Bản tại 
Thành phố Hồ Chí Minh chú trọng và thực hiện. Điểm sáng trong đào tạo và phát triển 
nguồn nhân lực chính là sử dụng các tiêu chí đánh giá để đánh giá công việc của từng 
nhân viên, từng vị trí công việc. Từ đó, tạo cơ sở cho việc sử dụng, điều động và bổ 
nhiệm cán bộ nhân viên phù hợp với khả năng, năng lực và phù hợp với vị trí công việc. 
Sử dụng nhân lực phù hợp được thực hiện ngay từ công tác tuyển dụng, quy hoạch và 
đào tạo, phát triển nhân lực. Sau khi tuyển dụng, các công ty Nhật Bản tại Thành phố 
Hồ Chí Minh đã tổ chức các hoạt động đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân 
viên. Nội dung tập huấn về cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của nhân lực trong 
công việc, kịp thời cập nhật, bổ sung kiến thức cho nhân viên. Các hình thức đào tạo 
gồm có hình thức tự học, đào tạo bên trong và đào tạo bên ngoài. Đặc biệt, các công ty 
Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho nhân viên được tham gia các 
khóa học đào tạo bên trong và đào tạo bên ngoài để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. 
4. Kết luận 
Có thể nói, với vai trò là trung tâm kinh tế - văn hóa – giáo dục lớn của Việt Nam, 
Thành phố Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển nguồn 
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Với sự hỗ trợ của Nhật Bản từ năm 
1992 đến nay, trên nền tảng hợp tác sâu rộng của quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, quan 
hệ của Thành phố Hồ Chí Minh và Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực 
ngày càng được thúc đẩy. Thông qua nguồn tài trợ từ Chính phủ, các cơ quan đào tạo và 
nghiên cứu cùng các tổ chức, nhiều nhiều nghiên cứu của các trường đại học lớn ở Nhật 
Bản đã tham gia các chương trình đào tạo, trao đổi ở Việt Nam và ngược lại. Đồng thời, 
nhu cầu về hợp tác đào tạo nguồn nhân lực giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Nhật Bản 
ngày càng lớn. Bởi lẽ, để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ 
Chí Minh cần nguồn nhân lực lớn, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi 
đó, Nhật Bản là quốc gia có nhiều kinh nghiệm lẫn cơ sở vật chất và tài chính để thúc 
đẩy hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực trên thế giới thông qua nhiều kênh hợp tác, nhất là 
ODA. Trên nền tảng quan hệ tốt đẹp Việt Nam – Nhật Bản trong nhiều lĩnh vực, đặc 
biệt là lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực, các công ty Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí 
Minh đã thể hiện vai trò lớn trong nhiều hoạt động, chương trình thiết thực để nâng cao 
chất lượng nguồn nhân lực bản địa của Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Tiến Lực (2013). Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản hiện tại và 
tương lai. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế 40 năm quan hệ Việt Nam – Nhật Bản thành 
quả và triển vọng. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU-HCM). 
[2] Hồ Thị Lệ Thủy (2013). Hợp tác đào tạo nguồn nhân lực giữa Việt Nam và Nhật Bản – 
trường hợp trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam – Nhật Bản (VJCC). Kỷ yếu Hội 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(47)-2020 
 101 
thảo khoa học quốc tế 40 năm quan hệ Việt Nam – Nhật Bản thành quả và triển vọng 
(quyển 2). Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU-HCM). 
[3] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1991). Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ 
Thành phố lần thứ V. TPHCM, 10/1991. 
[4] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1994). Văn kiện Hội nghị Đại biểu Đảng bộ Thành phố 
Hồ Chí Minh giữa nhiệm kỳ khóa V. TP HCM, 3/1994. 
[5] Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Phan Thu Hằng (2011). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng 
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Tập 14, Số Q1, 
tr. 101-111. 
[6] Sở Ngoại vụ TP. HCM (2011). Lễ trao tặng kỷ niệm chương “Vì hòa bình, hữu nghị giữa 
các dân tộc” cho Hội Hữu nghị Nhật – Việt tỉnh Hiroshima ( Nhật Bản). 
[7] Sở Ngoại vụ TP. HCM (2014). Lãnh đạo TPHCM tiếp Cục trưởng Cục đối ngoại tỉnh 
Osaka (Nhật Bản). 
[8] Sở Ngoại vụ TP. HCM (2015). Phó Chủ tịch UBND TP Lê Thanh Liêm tiếp đoàn doanh 
nghiệp Nhật Bản. 
[9] Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (2013). Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản từ quá khứ đến tương 
lai: Tăng cường sự gắn kết giữa con người với con người, quốc gia với quốc gia vì hòa bình và 
ổn định trong khu vực, Kỷ niệm 40 năm quan hệ Việt Nam-Nhật Bản (1973-2013), tr.3. 
[10] Trần Kim Chung, Đào Xuân Tùng Anh (2015). Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA phục vụ 
phát triển kinh tế-xã hội. Tạp chí Tuyên giáo, Số 9, tr.31-35. 
[11] Thanh Tùng (2019). Nhật Bản là một trong những đối tác quan trọng nhất của TP. HCM. 
https://baoquocte.vn/nhat-ban-la-mot-trong-nhung-doi-tac-quan-trong-nhat-cua-tp-hcm-
98424.html. 
[12] Nguyễn Hoàng, Tuyết Nhung (2013). Đào tạo nguồn nhân lực theo Mô hình VJCC, 
[13] Phan Thùy Chi (2008). “Đào tạo nhân lực của các trường Đại học khối Kinh tế Việt Nam 
thông qua các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế”. Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Kinh 
tế Lao động. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
dao_tao_nguon_nhan_luc_trong_quan_he_viet_nam_nhat_ban_tu_na.pdf