Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp

Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải phápMỤC LỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT 2 MỞ ĐẦU 3 Chương I 6 LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU 6 1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu 7 2. Phõn loại đào tạo theo nhu cầu 7 3. Vai trũ và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu 8 4. Phân loại nhu cầu đào tạo 9 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường 10 6. Kinh nghiệm 11 Chương II 18 THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 18 1. Những hạn chế của quỏ trỡnh đào tạo theo nhu cầu 21 2. Những thành tựu đạt được từ đào tạo theo nhu cầu 29 Chương III 33 GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở NƯỚC TA 33 1. Giải phỏp 33 2. Lộ trỡnh thực hiện từ 2007 đến 2010 39 KẾT LUẬN 40 TÀI LIỆU THAM KHẢO 42

doc42 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1721 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u trung học. Trong các phương thức đào tạo nghề ở các nước Đông Á thì phương thức nổi trọi nhất là đào tạo nghề ngay tại nơi làm việc (phát triển nhất ở Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc). Phương thức đào tạo này đảm bảo được nguyên tắc gắn học với hành và hầu như không có sự bất cập giữa cung và cầu lao động được đào tạo vì các công ty thực hiện đào tạo chủ yếu cho và từ nhu cầu của chính mình. Gần đây, Nhật Bản đã đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ của đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Những hướng cải cách chủ yếu là loại bỏ dần tính thống nhất và bình đẳng thái quá trong giáo dục; giảm thiểu kiến thức, nhất là phần lý thuyết suông trong các trường phổ thông và tăng thêm phần thực hành; chuyển cách dạy và học từ chỗ nặng về "thày dạy, trò ghi nhớ một cách máy móc" sang chỗ "thày chủ yếu khơi gợi vấn đề, trò chủ động tham gia thảo luận"; giảm dần sự can thiệp quá mức của Nhà nước, đề cao tính chủ động và tự quản của các địa phương, các nhà trường trong các vấn đề giáo dục; và đa dạng hoá các loại hình trường lớp, linh hoạt hoá các chương trình giảng dạy để tạo cho mọi người có thể chủ động tham gia vào quá trình học tập bất cứ lúc nào trong đời. Để khắc phục sự chậm trễ của mình trong công nghệ thông tin và cũng để nhanh chóng phổ cập tin học đến mọi người dân, tháng 12 năm 1999 Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra Dự án thiên niên kỷ "Millennium Project" trong đó có mục "Digitalization of Education" (số hoá giáo dục) nhằm phổ cập máy tính và Internet tại tất cả các cấp học phổ thông, kể cả các trường dành cho người khuyết tật vào năm tài chính 2001, và chuẩn bị môi trường và điều kiện để có thể sử dụng được máy tính vào việc dạy và học ở tất cả các trường công lập vào năm 2005. Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang xúc tiến mở các khoá tiếng Anh trên khắp cả nước và tăng cường mời các thầy giáo tiếng Anh bản xứ vào dạy học tại các trường Nhật Bản ngay từ tiểu học, phấn đấu tạo cho mọi công dân đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của mình khi đến tuổi trưởng thành trong tương lai không xa. Về lâu dài, tiếng Anh sẽ dần được coi là ngôn ngữ chính thức thứ hai sau tiếng Nhật. Cùng với việc cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, Nhật Bản cũng tiến hành đổi mới hệ thống quản lý xí nghiệp theo hướng chuyển từ chế độ coi trọng thâm niên và kinh nghiệm công tác, coi trọng tính tập thể và phục tùng cấp trên sang chế độ coi trọng hơn năng lực và thành tích cá nhân, đề cao tính độc lập và sáng tạo của công nhân, khuyến khích mọi người hăng hái học tập để nâng cao trình độ hơn là ỷ lại vào thâm niên phục vụ công ty và kinh nghiệm "sống lâu lên lão làng". Ở châu Âu, các doanh nghiệp thường kết hợp chặt chẽ với ngành giáo dục để tạo thuận lợi cho các sinh viên từ nhà trường đến làm việc ở các doanh nghiệp. Để phổ cập Internet trong dân chúng, Hội nghị thượng đỉnh EU tại Lisbon, Bồ Đào Nha (23/3/2000) nhất trí quyết định tăng cường đầu tư đào tạo nhân tài, thúc đẩy cải cách kinh tế xã hội, để EU thích ứng hơn nữa với "xã hội tin học dựa trên cơ sở tri thức và đổi mới". Các nước này đã đặt mục tiêu, trong vòng 10 năm tới, đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu "khu vực kinh tế có sức sống mạnh nhất, có sức cạnh tranh nhất thế giới", với một số biện pháp cụ thể như hoàn tất khung pháp lý cho thương mại điện tử, tất cả các trường học đều có thể truy cập Internet; năm 2002, kết nối mạng với tốc độ cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu. Còn ở Trung Quốc thì trong nhiều năm qua, Đảng và chính phủ Trung Quốc đã coi việc hỗ trợ, thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ chiến lược quốc gia, trong đó giáo dục được coi là khâu quan trọng nhất. Trung Quốc đã tiến hành cải cách và đổi mới mạnh mẽ quá trình phát triển giáo dục và hướng giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai, có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích tinh thần sáng tạo và khả năng thực tiễn. Ngoài việc cải cách và phát triển giáo dục phổ thông, Trung Quốc còn đặc biệt chú ý đến việc phát triển giáo dục đại học và coi đó là một biện pháp quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Cụ thể, Trung Quốc đã đưa ra Dự án 21 nhằm nâng cấp 100 trường đại học của mình trong một số lĩnh vực trọng điểm như cơ khí, phát triển nông thôn và công nghệ thông tin lên ngang tầm thế giới. Đồng thời, ngoài việc nâng cao chất lượng đào tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách khuyến khích thanh niên đi du học và nghiên cứu ở nước ngoài để sau đó trở về xây dựng đất nước. Trên đây là những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện đào tào theo nhu cầu xã hội ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên không phải mọi bài học đó đều có thể áp dụng vào Việt Nam một cách thành công. Vì vậy trong quá trình học hỏi chúng ta phải xác định rõ những bài học nào phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta để vận dụng một cách tốt nhất, tránh tình trạng sao chép một cách máy móc. Chương II THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đào tạo theo nhu cầu là mục tiêu của đổi mới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho quá trình CNH – HĐH đất nước. Nó không chỉ là trách nhiệm của nhà trường; của Bộ, ngành trung ương, địa phương mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong mối quan hệ đa chiều này nhà nước đóng vai trò điều phối dẫn đường thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng, các ngành kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp làm cho cung cầu xích lại gần nhau vì lợi ích chung. Sở dĩ vấn đề đào tạo theo nhu cầu hiện đang nổi lên nhu một vấn đề có ý nghĩa thời sự cũng chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao động. Cụ thể là: - Sự hình thành những ngành nghề mới đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng lao động, đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, đào tạo lại hoặc thường xuyên bồi dưỡng theo những chương trình được cá biệt. - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, do môi trường hoạt động của các loại lao động, các doanh nghiệp và cá nhân người lao động có những nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng rất riêng biệt, thường đòi hỏi phải có những chương trình được thiết kế riêng. Đối với cá nhân người lao động, các yếu tố chủ quan và kỳ vọng phát triển cá nhân cũng đòi hỏI được đáp ứng bằng những chương trình đào tạo, bồI dưỡng riêng biệt. - Thị trường lao động ngày càng hoàn thiện và có quy mô rộng hơn. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà đã vươn ra phạm vi quốc tế. Cùng với sự phát triển của thị trường này, sức ép đối với người lao động cũng tăng lên, đòi hỏi họ phải không ngừng được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng khi chuẩn bị cho bước phát triển tiếp hoặc khi chuyển sang công việc khác - Sự luân chuyển ngày càng nhanh và với quy mô ngày càng rộng làm nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trở nên ngày càng lớn. Xuất phát từ trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng khác nhau, sự chuyển đổi kiến thức, kỹ năng của các cá nhân, nhóm người lao động khác nhau sẽ khác nhau, khiến các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng phải đa dạng để có thể đáp ứng để có thể đáp ứng được những yêu cầu này. - Bản thân người lao động có những điều kiện, đặc điểm riêng khiến cho họ có những trình độ chuyên môn, tay nghề khá khác nhau dù có cùng một điểm xuất phát giống nhau về đào tạo cơ bản, về môi trường và điều kiện làm việc… Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của mỗi người sẽ ngày càng khác biệt. Hiện nay, do tính chất của thị trường lao động, do những yêu cầu kiến thức và kỹ năng tổng hợp đối với sinh viên tốt nghiệp mới ra trường, thậm chí cả do yêu cầu về hiệu quả kinh tế - tài chính đối với quá trình đào tạo, sức ép đòi hỏi phải đào tạo kiến thức phổ thông trên quy mô đại trà cũng còn khá nặng nề. Riêng ở Việt Nam, trong nhiều năm, do nhận thức “đào tạo để hình thành con người toàn diện”, nên thường có xu hướng đào tạo đại trà cho nhiều học sinh. Lượng kiến thức và kỹ năng cũng được cung cấp cho học sinh theo hướng mở rộng ra nhiều lĩnh vực ngày càng chiếm ưu thế hơn so với đào tạo chuyên sâu các kiến thức, kỹ năng thuộc chuyên ngành hẹp. Chính vì thế, trong các cơ sở đào tạo hiện nay, việc cá biệt hóa đào tạo trong các trường học nếu có được thực hiện cũng luôn được gắn với việc đào tạo chung trên diện rộng, có vị trí thứ yếu hơn so với đào tạo đại trà theo kiểu “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Điều này làm cho sinh viên khi ra trường có thể làm việc trong nhiều ngành nghề khác với ngành nghề được coi là chuyên ngành của mình, nhưng hầu hết đều chỉ phát huy tác dụng được sau khi đã được bổ túc nghiệp vụ, tập huấn thêm về các kỹ năng, kiến thức chuyên ngành đặc trưng. Theo Bộ Giáo dục Đào tạo, khảo sát về việc làm của sinh viên (năm 2006) sau khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo cho thấy chỉ 50% sinh viên có việc làm khi tốt nghiệp, trong đó chỉ 30% là làm đúng ngành nghề đào tạo. Điều này cho thấy một thực trạng khá phổ biến hiện nay là đào tạo không đáp ứng nhu cầu xã hội, sinh viên ra trường không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp ở trình độ tương ứng từ đó gây lãng phí lớn cho bản thân người học, nhà trường và xã hội. Điều này cũng dẫn đến thực trạng là ở nước ta lao động phổ thông thì quá thừa trong khi đó lao động chất lượng cao còn rất thiếu do không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng buộc họ trong nước phải tìm kiếm nguồn lao động này từ bên ngoài. Tôi xin đơn cử một ví dụ sau: Đầu tháng 3 năm 2007, Công ty Thực phẩm Vilad (thuộc FG Group) tức tốc đăng thông báo tuyển dụng các chức danh giám đốc và trợ lý giám đốc nhãn hàng để phục vụ nhu cầu kinh doanh. Chỉ một tuần sau, với hy vọng có chỗ làm triển vọng và khả năng thăng tiến, số người nộp hồ sơ dự tuyển ở bộ phận nhân sự của hãng đã lên tới 700 người, trong đó ứng viên người nước ngoài chiếm 10% và đặc biệt có đến 40% là số sinh viên khối ngành kinh tế mới tốt nghiệp. Sau khi đọc kỹ hồ sơ, săm soi từng chi tiết bảng thành tích “bạch” theo kiểu “vào từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”, rốt cuộc công ty cũng lựa ra 50 người có nhiều ưu điểm hơn cả để mời đến phỏng vấn. Và kết cục dù nhu cầu nhân lực còn rất cao, Vilad cũng chỉ “gật” được 2 người… đã từng có kinh nghiệm làm giám đốc nhãn hàng của 2 công ty lớn của nước ngoài tại Việt Nam và số lượng nhân lực thiếu còn lại phải tuyển dụng bằng cách thuê người nước ngoài làm. Tình trạng này hiện nay khá phổ biến ở các công ty khi có nhu cầu tuyển dụng. Như vậy công việc dành cho người lao động là rất lớn song chính người lao động đã bỏ mất cơ hội của mình. Sở dĩ lao động nước ta luôn gặp khó khăn trong vấn đề tìm việc làm phù hợp với những gì đã học và phù hợp vớI nhu cầu của nhà tuyển dụng chính là xuất phát từ hệ thống giáo dục của nước ta còn nhiều bất cập mà mà yếu tố chính là do giáo dục nước ta chủ yếu đào tạo cái mình có chứ không quan tâm đến cái thị trường cần. Hay nói cách khác cung và cầu lao động ở nước ta còn quá vênh. Một điều đáng buồn nữa là theo điều tra trong quý II/2007, nhu cầu lao động của 45/56 ngành nghề tăng cao đáng kể, tập trung vào những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn và trình độ cao. Trong khi đó, theo khảo sát, nếu nguồn cung tăng khoảng 30%, thì nhu cầu nguồn lao động lại tăng đến 142% so với quý trước. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới (năm 2007)thì tại Việt Nam, khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường cao đẳng cần được đào tạo lại ngay sau khi tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1 năm cho khoảng 80%-90% sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp VN lý giải: “Bán cái khách hàng cần, thay vì bán cái mình có” là câu châm ngôn tưởng như đơn giản nhưng không phải dễ thực hiện. Bản chất của nó là các đơn vị đào tạo phải xuất phát từ phân tích nhu cầu của khách hàng trước khi bắt tay vào “sản xuất”. Và chất lượng của “sản phẩm” cũng do khách hàng đánh giá và quyết định! Thiết kế nội dung đào tạo hiện nay vẫn đang gặp nhiều trở ngại do thiếu tư duy “định hướng khách hàng” và do đó, chất lượng đào tạo cũng đương nhiên chưa đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng. 1. Những hạn chế của quá trình đào tạo theo nhu cầu a) Từ phía nhà trường và người học Thứ nhất: Nhận thức của các trường cũng như của người dân về đạo tạo theo nhu cầu xã hội còn hạn chế. Nhiều trường đã đánh đồng quan điểm đào tạo theo nhu cầu là đào tạo những ngày đang “nóng”. Đây chỉ là giảI pháp tạm thờI cho nhu cầu hiện tạI chứ không phảI là cốt lõi của vấn đề đào tạo theo nhu cầu. kết quả là nếu như những năm trước, các thí sinh chen chúc đua tranh “nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa…” rồi lại “nhất kinh, nhì thương,…” thì nay ưu tiên số 1 được chuyển qua các ngành “thị trường chứng khoán”, “đầu tư chứng khoán”. Và “sàn” tuyển sinh năm nay dưới áp lực của “sàn chứng khoán” đã chuyển hướng qua “nguyện vọng cổ phiếu” với mong muốn… đáp ứng nhu cầu xã hội. Khi dân tình nô nức “lên sàn” thì các cơ sở đào tạo cũng vội vã trưng biển, dán thông báo đào tạo “cấp tốc” để sau 8 tuần học… là có thể đầu tư chứng khoán có lãi! Và dưới sức “nóng” này, trong những chương trình tư vấn tuyển sinh vừa qua, các trường ĐH, CĐ bỗng giật mình lo ngại một mùa hướng nghiệp mất cân đối khi số học sinh hỏi về ngành chứng khoán nhiều hơn các ngành học khác. Còn nhớ 5-7 năm về trước, một số trường kinh tế với quan điểm “đi tắt, đón đầu” đã cho mở các chuyên ngành đào tạo chứng khoán, song ngay lập tức bị xếp vào hạng “kém hấp dẫn” và phải “khớp lệnh đóng” vì không có hoặc có rất ít người học. Nhưng giờ gió đã chuyển hướng, thổi phấp phới cái tam giác màu xanh trên “sàn giao dịch”. Và các trường – không có một sách lược nhất quán từ nhiều năm trước – đã “thức thời” mở ngay chuyên ngành này dù giảng viên vừa thiếu lại vừa yếu. Thế nhưng liệu cảnh đua chen thi vào ngành chứng khoán có kịp bổ khuyết nguồn nhân lực đang bị hụt hẫng? PGS-TS Trần Hoàng Ngân, Trưởng khoa Ngân hàng Trường ĐH Kinh tế TPHCM cho rằng chỉ trong 3 năm nữa, các công ty chứng khoán sẽ đủ nhân lực, nhu cầu sẽ chững lại. Bây giờ là “sốt” nhưng sau đó rất có thể xuất hiện tình trạng “thừa ảo” nhân lực. Và điều này cũng từng xảy ra đối với các ngành “nóng” một thời như quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học… dẫn đến kết cục bão hòa thị trường nhân lực. Theo đuổi ngành công nghệ sinh học trên cơ sở kỹ thuật hạt nhân, TS Lê Xuân Thám cho rằng, cái sự “làng nhàng” của cử nhân lãnh vực sinh học hiện giờ là bởi có độ vênh giữa kiến thức thu nhận và thực tiễn phải cập nhật khi mà chúng ta chỉ lo phần “ngọn” với sự nhồi nhét, chồng chất thông tin trong khi phần “gốc” là khả năng tiếp cận, ứng dụng trong cuộc sống lại gần như không có. Đó cũng chính là cách lấy lượng đè chất và hậu quả là nguồn nhân lực thừa thì vẫn thừa mà thiếu vẫn hoàn thiếu: Nhân lực chất lượng cao thì thiếu trong khi dạng “bình dân” lại quá dư thừa. Hiện nay còn tồn tại một xu hướng nữa làm mất cân bằng giữa thầy và thợ đó là tình trạng sính bằng ĐH, nhà nhà, người người đua nhau cho con đi học ĐH để mong con mình đổi đời. Người ta rất sợ làm nghề vì lương thợ trung cấp quá thấp (trong khi đó nước ngoài trả lương thợ có tay nghề nhiều khi cao hơn lương ĐH chỉ biết lý thuyết và nghiên cứu Vì vậy ít người nghèo thích vào học trường nghề, mà chỉ muốn đi thẳng lên ĐH. Trong khi đó, phát triển kinh tế địa phương rất cần nguồn nhân lực có tay nghề, kỹ năng hiện đại trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, các loại dịch vụ và chuẩn bị lao động xuất khẩu. Trong thời đại WTO, nhu cầu nguồn nhân lực tay nghề này quan trọng gấp nhiều lần hơn nguồn lao động lý thuyết hàn lâm từ các ĐH mà phải mất ít nhất 4 năm mới đào tạo được một ít phần trăm lao động ở mỗi địa phương. Do đó, chúng ta nên nhanh chóng điều chỉnh hành vi của con người để hướng con người đến với nhu cầu thực tế của nền kinh tế chứ không phải hư danh. Thứ hai: Nguồn nhân lực sau đào tạo tuy có dồi dào song chất lượng còn cách xa so với nhu cầu của các doanh nghiệp Sinh viên của chúng ta mặc dù phải học rất nhiều thứ nhưng ít được thực hành nên khi đi làm “đụng” đến công việc đều phải “học” lại cái lẽ ra phải được chuẩn bị từ trong trường ĐH. Nghĩa là, khi hỏi vấn đề gì thì tất cả đều trả lời rất chuẩn bằng những… khái niệm và định nghĩa có sẵn trong giáo trình. Và đều dừng lại ở mức đó. Thêm nữa là họ rất rụt rè khi phải phát biểu, trình bày kế hoạch. Thêm nữa là khi đi thi tuyển trong túi hồ sơ của ai cũng có 2-3 chứng chỉ về trình độ vi tính và bằng C tiếng Anh nhưng sau khi kiểm tra thì số “tạm tuyển” chỉ đạt chưa tới 10%! Còn về các kỹ năng như soạn thảo văn bản, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức không gian làm việc, kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng đàm phán và thuyết phục… thì lại rất kém và chỉ có mỗi cái tạm được là sức khỏe tốt. Còn riêng khoản “sinh ngữ” thì “hết nói”. Ngay như ông giám đốc Công ty Saigontourist cũng phải than vãn có tới 70% số sinh viên tốt nghiệp khoa ngoại ngữ… chỉ được cái giỏi nói tiếng Việt. Theo kết quả một cuộc điều tra của Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo thuộc ĐHQG TPHCM thì - mặt bằng trình độ sinh viên bắt đầu năm thứ 3 chỉ mới đạt trong khoảng 360 - 370 điểm TOEFL hoặc 3,5 điểm IELTS - đây là số điểm ở trình độ rất thấp so với thế giới. Và ở mức “sơ khởi” này, sinh viên chưa thể tham gia vào các cuộc trao đổi ý kiến mà chỉ tiếp nhận thông tin đơn giản. Đấy là nguồn nhân lực có được từ các trường ĐH, CĐ, TCCN; còn ở tầm lao động giản đơn tình thế không có gì là khả quan. Ví dụ như: Đầu năm 2007, các KCN – KCX thành phố cần tuyển 10.000 lao động phổ thông cho các ngành dệt – may, cơ khí, lắp ráp điện tử với mức lương khởi điểm 1 triệu đồng/người/tháng, song tìm đỏ mắt cũng mới kiếm ra 20% số lao động đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Với chất lượng cũng vậy, nguồn nhân lực Việt Nam khó có sức “bơi” được tới con tàu “WTO” Trong một kỳ thi sát hạch CNTT của Hội đồng Sát hạch CNTT của các nước Châu Á ITPEC được tổ chức tại 7 nước Nhật Bản, Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Thái Lan, Philipins và Việt Nam mới đây cho thấy, cùng với độ khó của đề thi, tỷ lệ đạt của sinh viên các trường dạy nghề CNTT của Nhật Bản có thể đạt đến 70-80%, còn sinh viên các trường dạy nghề của Việt Nam chỉ có tỷ lệ đạt dưới mức 3%. Nguyên nhân của tình trạng trên là độ vênh còn quá lớn giữa hệ thống đào tạo và nhu cầu của ngành. Có thể thống kê một loạt những bất cập trong đào tạo, giáo dục CNTT hiện nay như: Phương thức, chương trình đào tạo chậm đổi mới, không phù hợp với yêu cầu, đặc thù ngành CNTT; Đào tạo chính quy có mức xã hội hoá thấp, không khai thông được nguồn lực đầu tư từ xã hội và tạo được động lực thúc đẩy sự đổi mới trong đào tạo... Tuy nhiên đây không phảI là những bất cập chỉ có trong đào tạo CNTT mà nó là bất cập chung của nền giáo dục nước ta hiện nay. Thứ ba: Cơ sở đào tạo Các nhà doanh nghiệp than thở trang thiết bị dạy học ở một số trường, một số phòng thí nghiệm vừa thiếu, vừa lạc hậu so với trình độ hiện tại. Họ nói: “Hàng ngày chúng tôi phải đọc hàng chục tờ báo, tạp chí tiếng Việt và tiếng nước ngoài, phải truy cập Internet để thu thập thông tin về tiến bộ kỹ thuật, những phát minh, sáng chế mới v.v... phải tổng hợp, phân tích các dữ liệu, chọn lọc để ứng dụng vào công việc. Thế nhưng, ở nhiều trường, chúng tôi thấy có ngành sinh viên thực hành trên thiết bị được sản xuất cách đây 30 - 40 năm. Còn các loại dụng cụ, vật liệu dùng cho nghiên cứu, thực nghiệm cũng đều là những loại mà các nước tiên tiến đã bỏ từ lâu... Tài liệu nghiên cứu, tham khảo thì được biên dịch từ sách báo thế giới cũng từ nhiều năm trước, thiếu cập nhật, thông tin đã lỗi thời! Một số giáo trình, giáo án được soạn thảo và sử dụng từ nhiều năm, trong khi tiến bộ về khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý biến đổi rất nhanh lại không được cập nhật, hiệu chỉnh, bổ sung hàng năm, thậm chí có loại cần phải nhanh hơn nữa. Đó là chưa kể, do kinh phí eo hẹp, ở nhiều trường, các thầy cô ít có điều kiện ra nước ngoài tham quan, trao đổi học tập để nắm những thông tin khoa học hiện đại”. Với những cơ sở vật chất giảng dạy như vậy đã làm cho ngườI học ít được tiếp cận với thành tựu khoa học mới nên khi đi làm tiếp cận với các công nghệ mớI họ luôn gặp nhiều khó khăn. Để việc cải tạo, mua trang thiết bị học và dạy mớI, các trường phải có một nguồn lực tài chính rất dồi dào trong khi đó kinh phí do nhà nước cấp lại rất hạn chế, các khoản thu từ học phí còn quá ít nên các trướng có xu hướng đào tạo những ngành nghề vớI chi phí thấp, ít phải đầu tư máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm, nhà xưởng như Kinh tế, Kế toán, , Tin học văn phòng, Ngoại ngữ… chiếm 40 đến 50% quy mô đào tạo toàn quốc. Còn những ngành kĩ thuật và công nghiệp đòi hỏi đầu tư với chi phí lớn về thiết bị, nhà xưởng như khoa học vật liệu, kĩ thuật cơ khí, kĩ thuật điện, kĩ thuật khai thác mỏ, dầu khí … ít được mở thêm. Điều này làm giảm khả năng tìm việc làm của sinh viên sau khi ra trường, hạn chế khả năng sáng nghiệp, tăng tỷ lệ thất nghiệp do không đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Như vậy các trường mới chỉ tập trung đào tạo những gì mình có chứ chưa đào tạo theo nhu cầu Thứ tư: Nội dung chương trình đào tạo hiện nay còn nặng về lý thuyết ít thực hành thậm chí không có vì không đủ điều kiện, chưa dựa trên kết quả khảo sát thị trường lao động, chưa phân tích nhu cầu đào tạo và tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp. Chương trình đào tạo trong các trường ĐH của chúng ta hiện nay không khác mấy so với nội dung, chương trình của mấy chục năm trước. Điểm khác biệt căn bản chỉ ở chỗ đã có bổ sung, điều chỉnh chút ít chứ chưa phải là chương trình được xây dựng để thích hợp với những đòi hỏi của tình hình phát triển hiện nay. Bên cạnh đó thì việc xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá chương trình đào tạo với sự tham gia của các nhà tuyển dụng và doanh nghiệp chưa được phổ biến nhân rộng. Nhiều cơ sở đào tạo vẫn thực hiện chương trình cũ thiếu gắn kết với nhu cầu xã hội. Ngoài ra các trường mới thành lập, các ngành mới mở chỉ là sao chép chương trình đào tạo của một số cơ sở nào đó đã có sẵn, ít khi được xây dựng thích ứng với đặc điểm của trường, của ngành, của địa phương và trên cơ sở khảo sát phân tích nhu cầu lao động. Thêm vào đó thời gian giành cho các môn chuyên ngành còn quá ít dẫn đến tình trạng sinh viên sau khi ra trường cái gì cũng biết nhưng chẳng có gì là sâu sắc cả. Ví dụ như ngành Công nghệ thông tin Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, thờI gian đào tạo đã bị mất phân nửa cho những môn học không liên quan đến chuyên ngành nên sinh viên không được đào tạo sâu, chỉ được học những kiến thức nền tảng. Thứ năm: Đội ngũ giảng viên, giáo viên Cho đến nay tiêu chuẩn về giảng viên, giáo viên chưa được xây dựng thành tiêu chuẩn quốc gia. Việc tuyển chọn, phân loại và đáng giá giảng viên giáo viên trong các cơ sở đào tạo mới chỉ dựa trên quy định của Luật giáo dục về khung trình độ, chưa có tiêu chuẩn năng lực cụ thể cho việc lựa chọn, đánh giá, trả lương cho giảng viên, giáo viên. b) Từ phía Nhà nước Thứ nhất: Trong nhiều năm qua, Nhà nước chưa có cơ quan dự báo cấp quốc gia về nhu cầu xã hội, chưa có mạng lưới các cơ quan thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và dự báo nhu cầu xã hội về số lượng lao động, cơ cấu trình độ, ngành nghề đạo tạo từ các Bộ ngành Trung ương đến các địa phương. Dự báo nhu cầu xã hội phải được tiến hành ở từng đại phương, từ dưới lên trên và cho từng bộ ngành. Cơ quan dự báo nhu cầu xã hội phải thường xuyên cung cấp số liệu làm cơ sở cho các trường lập kế hoạch đào tạo và điều chỉnh chiến lược phát triển cho từng giai đoạn Thứ hai: Sự chồng chéo của các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục đã làm cản trở sự chủ động của cơ sở đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội do quán tính của nền hành chính quan liêu để lại. Như cầu đào tạo của doanh nghiệp xuất hiện và không ngừng thay đổi, nhưng sự đáp ứng của các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở công lập với các nhu cầu đó rất chậm chạp do phải mất thời gian thực hiện các thủ tục rườm rà. Thứ ba: Sự bất cập về cơ cầu hệ thống giáo dục, về thời gian đào tạo giữa cao đảng và TCCN, về khung trình độ như cao đẳng và cao đẳng nghề nghiệp, TCCN và trung cấp nghề, các loại trường lớp, học viện, văn bằng chứng chỉ… tạo nên sự chồng chéo, trùng lặp trong đào là một trong những nguyên nhân của viậc thièu gắn kết giữa đào tạo và nhu cầu xã hội, gắn kết giữa đào tạo ban đầu và đào tạo thường xuyên, đào tạo nâng cao và đào tạo chuyên sâu. Thứ tư: Việc tổ chức đánh giá chương trình đào tạo với sự tham gia của doanh nghiệp, cựu sinh viên, hội nghề nghiệp … không được thực hiện thường xuyên để điều chỉnh chương trình. Hội đồng trường với chức năng nhiệm vụ được quy định trong Luật Giáo dục và Quyết định 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về việc ban hành “Điều lệ trường Đại học” có tầm quan trọng để giúp nhà trường hoạch định chính sách đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, nhưng vẫn chưa được sự hưởng ứng của các trường. Hiện nay mới chỉ có 3 trường là Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Thái Nguyên, Đại học Giao thong Vận tải đã thành lập hội đồng trường. Hai trường là trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. HCM và trường Đại học Xây Dựng đang trong giai đoạn thẩm định hồ sơ đăng ký. Thứ năm: Các loại hình như trung tâm hướng nghiệp, trung tâm trợ giúp và theo dõi việc làm, trung tâm quan hệ doanh nghiệp, trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng giáo viên được thành lập nhằm phát triển năng lực chuyên môn tiếp cận với nhu cầu xã hội đang được nhiều trường thực hiện. Tuy nhiên đa số các trường chưa xây dựng được chiến lược và chưa tạo lập mối quan hệ với doanh nghiệp trong trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu đào tạo vè số lượng theo trình độ đào tạo. Thứ sáu: Kinh phí đầu tư cho giáo dục còn quá ít Mặc dù hàng năm ngân sách cấp cho giáo dục có tăng lên (chiếm khoảng 15 – 16% ngân sách nhà nước) nhưng nó vẫn còn là rất nhỏ so vớI nhu cầu của ngành giáo dục nhất là khi khoa học ngày càng phát triển, trang thiết bị cho học và dạy của giáo viên, học sinh ngày càng hiện đại. Theo số liệu mớI đây nhất thì ngân sách đầu tư cho hệ thống giáo dục quốc dân được phân bổ như sau: 4,5% cho mầm non, 27% cho GD Tiểu học, 23,5% cho THCS, 11% cho THPT, 20 % cho CĐ-TCCN, còn lại chi tiêu cho GDĐH chỉ chiếm khoảng 16%. Nhìn vào định mức có thể thấy riêng hai bậc Tiểu học và THCS đã chiếm hơn 50% tổng ngân sách chi cho giáo dục, và nếu chúng ta nâng mức chi cho GD mầm non lên 15% hoặc nâng mức chi cho GDĐH lên 20% thì rõ ràng không còn tiền để chi cho các mục tiêu khác. Do đó bài toán chi phí cho giáo dục chỉ được giải quyết khi chúng ta đầu tư hợp lý và phát huy có hiệu quả nguồn lực xã hội hoá giáo dục. Bên cạnh những mặt hạn chế kể trên thì thực tế của nước ta còn tồn tại khá nhiều những hạn chế khác xuất phát từ nhiều khía cạnh làm cho việc đào tạo theo nhu cầu xã hội của nước ta gặp nhiều khó khăn như: kinh phí cấp cho đào tạo còn hạn chế; số người ra khỏi thị trường lao động thấp hơn nhiều lần số người tham gia vào thị trường lao động, số việc làm mới được tạo ra còn hạn chế làm cho số lượng lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp không có khả năng tìm kiếm việc làm ( trong tổng số 90% sinh viên ra trường chỉ có 50% sinh viên có việc làm, trong đó chỉ có 30% làm đúng ngành nghề đào tạo); sự gia tăng số học sinh, sinh viên cao hơn nhiều lần số việc làm mới, các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa đảm bảo, các trường đào tạo theo số lượng cũng là nguyên nhân làm chậm quá trình đào tạo theo nhu cầu. 2. Những thành tựu đạt được từ đào tạo theo nhu cầu Bên cạnh những hạn chế còn tồn tạI chúng ta không thể không nhắc đến những mặt đã đạt được của quá trình đào tạo theo nhu cầu của nước ta. Trong nhiều năm qua cùng với các lĩnh vực khác của xã hội như y tế, văn hoá xã hội … đang thay đổi từng ngày theo nhu cầu của xã hội, giáo dục cũng có những bước chuyển mình thành công trong việc từng bước đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội cụ thể: Thứ nhất: Hệ thống giáo dục đào tạo nghề nghiệp bao gồm các trường đại học và cao đẳng, hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp và hệ thồng các trường nghề đã đòng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế, cung cấp hang triệu lao động mỗi năm ở các trình độ khác nhau với số lượng ngày càng tăng, chất lượng dần được nâng cao. Thứ hai: Cơ cấu trình độ đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề đã được điều chỉnh. Năm 2000 tỷ trọng cơ cấu trình độ ĐH/CĐ/TCCN/CN là 1/0/0,7/1.1; tỷ lệ hiện nay là: 1/0,4/0,9/3,8. Nguồn nhân lực trình độ nghề tham gia lao động trực tiếp tăng nhanh. - Về số lượng: Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo năm 2000: năm 2001 – 2002 cả nước có 77 trường đại học, 114 trường cao đẳng và 252 trường TCCN . Năm 2005 – 2006 số trường đại học là 148 trường tăng 92%; cao đẳng 163 trường tăng 42,9%; TCCN là 284 trường tăng 12,7%. Số sinh viên, học sinh học trong các cơ sở đào tạo năm 2001 – 2002: đại học 763.256, cao đẳng 210.836, TCCN 271.175. Con số tương ứng năm học 2005 – 2006: đại học 1.087.813 tăng 42,53%, cao đẳng là 299.294 tăng 41,95%, TCCN là 500.252 tăng 84,47%. Khối dạy nghề hết năm 2006 cả nước có 262 trường dạy nghề và 599 trung tâm dạy nghề. Số học sinh học nghề dài hạn năm 2001 là 126.100, năm 2005 là 228.600 tăng 79.69% - Về chất lượng: Cơ bản nguồn nhân lực có trình độ đào tạo đáp ứng được những yêu cầu thiết yếu của nền kinh tế và thị trường lao động. Nhiều chương trình đào tạo mới đã được mở và đưa vào áp dụng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của toàn xã hội như khoa học máy tính, cộng nghệ thông tin, tự động hoá, cơ điện tử, công nghệ cơ khí, nuôi trồng thuỷ sản, tài chính, ngân hang, các ngành dịch vụ và du lịch. Cho đến nay số chương trình đào tạo áp dụng đang được áp dụng trong các cơ sở ở các trình độ là: đại học 264, cao đẳng 126, TCCN 262 Thứ ba: Xuất hiện những nhân tố mới trong việc tăng cường gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động, đào tạo với thế giới việc làm, đào tạo với nhu cầu xã hội. Đó là mô hình đào tạo của các trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã cùng với đối tác Nga, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ thành lập trung tâm huần luyện hàng hải đạt tiêu chuẩn quốc tế, thành lập công ty lien doanh trong vận tải hàng hải. Hay như trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) với mô hình lien kết toàn diện với viện máy và dụng cụ Công nghệ (IMI), Bộ Công nghiệp trong việc đào tạo cử nhân ngành cơ điện tử cho toàn ngành công nghiệp. Mới đây mô hình phát triển chương trình đào tạo theo hướng nghề nghiệp của các trường Đại học NNI, Đại học nông lâm Thái Nguyên, Đại học Nông lâm Huế, Đại học Nông lâm Tp.HCM … đã được thực hiện dựa trên kết quả điều tra và phân tích nhu cầu đào tạo, phân tích năng lực, phát triển chung chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động . Hay như gần đây nhất cuối tháng 3-2007, Trường ĐH Công nghệ thông tin (ĐHQG-HCM) đã có cuộc “bắt tay” rầm rộ với Microsoft để cùng đào tạo nhân lực. Trước đó mấy ngày, Khoa Kinh tế (ĐHQG-HCM) cũng “tay trong tay” với Công ty cổ phần Hoa Sen (Hoa Sen Corporation) bằng việc ký kết hợp tác chiến lược giữa đơn vị đào tạo với doanh nghiệp nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Trong những cái bắt tay này, phía trường cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đơn vị thực hiện liên kết, rồi đào tạo nâng cao nghiệp vụ kinh doanh cho cán bộ công nhân viên của đơn vị… Ngược lại, các đơn vị sẽ hợp tác với trường nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng cũng như sẽ hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học; tài trợ học bổng, các hoạt động phong trào, học thuật cho sinh viên. Và quan trọng nhất là các đơn vị này sẽ tạo điều kiện cho sinh viên thực tập thực tế tại công ty. Tuy nhiên, tất cả những cuộc “bắt tay” như thế chỉ được coi như là nỗ lực đơn lẻ, một loại “giải pháp tình thế”, tuy được tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng nhưng vẫn chưa trở thành một giải pháp chiến lược Thứ tư: Một số mô hình phát triển nguồn nhân lực cấp quốc gia cũng đang được nghiên cứu áp dụng và nhân rộng như: Chương trình Kĩ sư, cử nhân chất lượng cao, Chương trình cử nhân tài năng, đặc biệt là Bộ đang triển khai chương trình tiên tiến nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tiếp cận những công nghệ tiên tiến trên thế giới từ đó làm thay đỏi cơ bản chất lượng giáo dục đại học nói riêng và chất lượng giáo dục dạy nghề nói chung. Thứ năm: Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn nghề nghiệp, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng là cơ sở và căn cứ để phát triển chương trình đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo xem có đúng là phù hợp nhu cầu xã hội hay không. Cho đến nay, một số tiêu chuẩn nghề nghiệp đã được xây dựng , ban hành và áp dụng thí điểm như: tiêu chuẩn giáo viên tiểu học được áp dụng thử nghiệm ở 10 tỉnh thành với 25000 giáo viên tiểu học; tiêu chuẩn năng lực kỹ thuật viên công nghệ thông tin ở trình độ TCCN đang trong giai đoạn phê duyệt và ban hành; năm 2006 tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường đại học đã được áp dụng cho 20 trường và dự kiến năm 2007 sẽ kiểm định các trường tiếp theo. Theo đó một số trường đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tổng thể và được cấp chứng chỉ ISO như: Đại học Hàng Hải Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001 – 2000 về lĩnh vực đào tạo hàng hải năm 2005; Đại học Đà Lạt – ISO 9001-2000 về tổ chức quản lý đào tạo năm 2005; Đại học Kinh tế Quốc Dân – ISO 9001-2000 về tổ chức và quản lý đào tạo năm 2005. Những nhân tố tạo nên những thành tựu: - Do đường lối giáo dục đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, chính sách đổi mới mà trực tiếp là chính sách đổi mới trong giáo dục đào tạo - Truyền thống hiếu học của dân tộc ta được phát huy, nhu cầu học tập của dân không ngừng tăng lên. Nhân dân đóng góp rất nhiều công, của xây dựng trường lớp và chăm lo sự nghiệp giáo dục. - Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và số đông học sinh, sinh viên có nhiều cố gắng rất lớn, đại bộ phần thầy cô có tâm huyết, gắn bó với nghề. Các giáo viên vùng sâu, vùng xa nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh. - Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhận thức rõ hơn vai trò của giáo dục đối với tương lai của đất nước, đã khắc phục nhiều khó khăn, tích cực tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục. Chương III GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở NƯỚC TA 1. Giải pháp Bộ trưởng Nguyện thiện Nhân đã từng khẳng định việc chuyển từ đào tạo dựa vào khả năng sẵn có của mình sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội là chuyển biến quan trọng nhất, cơ bản và bức bách trong giai đoạn hiện nay. Điều này tương tự như chuyển đổi từ kinh tế tập trung kế hoạch hoá trước kia sang nền kinh tế thị trường. Và để đảm bảo mục tiêu đến năm 2008 nước ta bước vào đào tạo theo nhu cầu thị trường thì ngay từ bây giờ chúng ta phải ý thức rõ chúng ta cần đào tạo những gì, đào tạo cho ai, đào tạo nhằm mục đích gì và phải đào tạo như thế nào. Hay nói cách khác là ngay từ bây giờ chúng ta phải tìm ra những giải pháp cụ thể nhất, chi tiết nhất để nhanh chóng xoá bỏ những yếu kém trong giáo dục hiện nay, đưa nền giáo dục đi theo mục tiêu phục vụ của xã hội, của nền kinh tế. Bộ trưởng Bộ giáo dục Nguyễn Thiện Nhân cũng đã nêu ra 9 tiêu chí nhằm đạt chuẩn trong quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội và doanh nghiệp. Trước hết, phải xác định chuẩn kỹ năng, năng lực của người tốt nghiệp; xác định chuẩn đầu vào của học sinh, sinh viên; tiêu chuẩn của chương trình đào tạo; đổi mới phương pháp giảng dạy trong đó có phương pháp đánh giá trình độ của nhà quản lý và các thầy cô giáo; giảng viên phải có trình độ chuyên môn cao; cán bộ quản lý phải có năng lực toàn diện; điều kiện cơ sở vật chất của trường đảm bảo đủ thiết bị dạy và học, phòng thí nghiệm…; năng lực tài chính đảm bảo chi phí đào tạo để người dạy và học yên tâm; phải tổ chức quản lý qui trình đào tạo, phân cấp hoặc theo tiêu chuẩn ISO Để cụ thể hoá các tiêu chí trên, trong hộI thảo quốc gia “Đào tạo theo nhu cầu xã hộI” nhằm tìm ra sự đồng bộ giữa nhà trường vớI thị trường lao động do Bộ Giáo dục Đào tạo tổ chức tạI TP.HCM, các đạI biểu đã nêu ra một loạt các giảI pháp sau: a) Hình thành ban điều hành để triển khai đào tạo theo nhu cầu Thành phần ban điều hành gồm: Đại diện của Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh xã hội, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Bưu chính viễn thông, Bộ Công nghiệp, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ... Ban điều hành xây dựng kế hoạch cấp quốc gia; tập hợp các nhu cầu từ cơ sở, doanh nghiệp, thị trường lao động; đồng thời phối hợp đánh giá năng lực của các trường, đánh giá chuẩn nghề nghiệp, giáo viên để từ đó thông báo cho các đơn vị có nhu cầu đào tạo biết đặt hang hoặc giao kế hoạch đối với nhu cầu đào tạo của cả nước. b) Thành lập cơ quan dự báo nhu cầu xã hội Cơ quan dự báo nhu cầu cần phải được thành lập từ Trung ương đến địa phương tạo gia một mạng lưới quốc gia do một trung tâm quốc gia điều phối các hoạt động. Cơ quan này có nhiệm vụ dự báo các nhu cầu ngắn hạn (1-2 năm), trung hạn (3-5 năm), dài hạn (trên 5 năm). Hệ thống cơ quan dự báo này được chia làm 2 cấp là cấp quốc gia và cấp địa phương. Trên cơ sở nguyên tắc hình thành mạng lướI dự báo nhu cầu đào tạo, các trung tâm dự báo địa phương cung cấp thông tin lên mạng quốc gia để cơ quan dự báo quốc gia xử lí và điều phối chung. ở cấp tỉnh, trung tâm dự báo này có thể trực thuộc một trong các sở ngành Giáo dục Đào tạo, Lao động – Thương binh xã hội. Các hiệp hội hiệp hội nghề nghiệp cùng các cơ quan bộ, ngành, địa phương dự báo nhu cầu xã hội, định kỳ thông báo nhu cầu theo từng loại ngành nghề và trình độ đào tạo. Đây là thông tin quan trọng cho các cơ sở đào tạo lập kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các trường được chủ động đào tạo những chuyên ngành mới nếu xã hộI có nhu cầu nhưng phảI cung cấp những thông tin cần thiết cho Bộ Giáo dục Đào tạo để đăng kí ngành học mới như: mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, dự báo nhu cầu của người học, thông tin thị trường lao động có liên quan đến ngành nghề mới và các điều kiện đảm bảo chất lượng. Để cơ quan dự báo nhu cầu xã hội hoạt động tốt cần phải thiết lập tam giác hợp tác: Nhà nước – Doanh nghiệp – Cơ sở đào tạo. Nhà nước ở đây là các bộ, ngành Trung ương và địa phương, doanh nghiệp bao gồm cả các hiện hộI và các cơ sở đào tạo thường xuyên trao đổI thông tin. c) Tăng cường cơ chế hợp tác, phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo Hợp tác, phối hợp ở đây là sự hợp tác giữa các bộ, các tổng công ty, giữa Bộ Giáo dục Đào tạo với phòng Công nghệ thông tin Việt Nam , Bưu chính viễn thông … hợp tác tại các địa phương, hợp tác giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp hoặc giữa các cơ sở đào tạo với nhau. Trên cơ sở đó tận dụng lợi thế của mỗi bên về con người, cơ sở vật chất để cùng nhau phát triển. Cụ thể: - Nhà nước có vai trò xây dựng chính sách hiệu quả; xây dựng khung luật pháp và loại bỏ những qui định không phù hợp với nền kinh tế thị trường, phát triển tiêu chuẩn chất lượng, đánh giá kỹ năng và công nhận kỹ năng, cung cấp thông tin cần thiết gắn với các tín hiệu thị trường lao động, đánh giá nhu cầu đào tạo ở phạm vi quốc gia, phạm vi ngành và điều chỉnh chính sách để đáp ứng nhu cầu thị trường, hoàn thiện thị trường việc làm đảm bảo vận hành hệ thống đào tạo hiệu quả để đạt tiêu chuẩn chất lượng, phát triển năng lực xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý... - Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc sẵn sàng cung cấp thông tin về nhu cầu (chất lượng và số lượng) nhân lực, nghiên cứu chuyển giao công nghệ của mình, tạo điểu kiện hỗ trợ nhà trường về cơ sở thực tập, bồi dưỡng giáo viên, chia sẻ chi phí, đào tạo nhân lực tại chỗ, thử nghiệm sản phẩm nghiên cứu, phối hợp phát triển mẫu mã sản phẩm, đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp cần xem việc đầu tư cho đào tạo là đầu tư phát triển và xem nguồn nhân lực là tài sản của doanh nghiệp. - Về phía nhà trường cần chủ động nắm bắt nhu cầu về lao động, bám sát hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, dự báo về sự phát triển của ngành nghề để xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, cùng nhau thảo luận để đưa ra giải pháp đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của các doanh nghiệp để sao cho nguồn nhân lực không bị láng phí. Sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp sẽ hạn chế tình trạng đào tạo xa rời với thực tiễn sản xuất, sinh viên được đào tạo đáp ứng được yêu cầu của xã hội và doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải tốn thêm chi phí đào tạo lại. Việc hợp tác này không chỉ giới hạn trong nước mà còn mở rộng liên kết các trường đạ học, các viện nghiên cứu ở nước ngoài thực hiện các hợp đồng đào tạo và nghiên cứu d) Xây dựng các danh mục nghề, các tiêu chuẩn nghề nghiệp và tư vấn hướng nghiệp Xây dựng danh mục nghề là việc quan trọng để đảm bảo công tác thống kê, dự báo nhu cầu nhân lực theo một tiêu chuẩn chung tránh việc 2 nghề giống nhau nhưng có tên khác nhau. Danh mục nghề cần được phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế, có mô tả nghề nghiệp, những ngành kinh tế sử dụng và cơ sở đào tạo ra nghề đó. Bên cạnh xây dựng danh mục nghề cần xây dựng tiêu chuẩn nghề nghiệp của người lao động. Việc xây dụng tiêu chuẩn nghề nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục nghề nghiệp, cao đẳng và một số lớn các ngành nghề trong giáo dục đại học. Để gắn đào tạo theo nhu cầu , tiêu chuẩn đào tạo phải bám sát vào tiêu chuẩn nghề. Việc đổi mới mục tiêu và nội dung đào tạo phải căn cứ vào yêu cầu tại nơi làm việc trong hiện tại và trong tương lai. Tư vấn hướng nghiệp được coi là cầu lối giữa giáo dục với việc làm; góp phần phân luồng cho THCS và THPT đi theo các con đường học vấn khác nhau nhưng vẫn có thể thành công trong cuộc đời, thúc đẩy sự di chuyển của người lao động trên thị trường trong và ngoài nước, giúp nhận thức vai trò cá nhân trong thế giới việc làm, cải thiện năng lực, nâng cao thái độ đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng việc làm, ý thức tôn trọng pháp luật. Các trường đại học và TCCN cấn thành lập các trung tâm dịch vụ, giới thiệu việc làm và có liên hệ chặt chẽ với cơ quan dự báo cấp địa phương và cấp quốc gia. e) Tăng thu cho trường bằng cách tăng học phí Việc cho phép các trường ĐH và CĐ, THCN tăng học phí được coi là một giải pháp tốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khi tăng học phí có thể dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ học sinh không tham gia học tập do không có điều kiện về mặt tài chính đo vậy khi thực hiện tăng học phí sẽ có hai chương trình đi kèm là: Chương trình giảm học phí cho những đối tượng nhất định, con em gia đình khó khăn nhưng đạt tiêu chuẩn vào học đại học sẽ có học bổng khuyến khích. Hình thành chương trình cho vay để học đại học. Hướng mà chúng ta đã làm lâu nay là duy trì học phí thấp thì các trường sẽ không có tiền để nâng cấp cơ sở nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo. Mà nếu đóng học phí cao từ nguồn gia đình thì không thể đóng nổi nên với khu vực đại học thì vay để học (thông qua quỹ tín dụng sinh viên) là một giải pháp tốt nhắm đảm bảo cho các em đủ trình độ về chuyên môn, có đạo đức thì đều có thể học. Học bằng thu nhập của gia đình mình với mức học phí được miễn giảm hoặc vay để học. Cụ thể như ở Nghệ An, có một trường cao đẳng kỹ thuật của tỉnh phối hợp với Hàn Quốc, học sinh chỉ đóng có 100.000 đồng học phí/ tháng, còn tỉnh bù thêm cho mỗi học sinh 400.000 đồng/ tháng nhưng đào tạo em nào ra trường, các doanh nghiệp nhận hết ngay. Chất lượng đầu ra rất tốt, như vậy rõ ràng duy trì học phí với mức học phí 100.000 đồng như hiện nay thì không thể có chất lượng chuẩn được. Do đó phải tiến tới chấm dứt việc đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. f) Phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý Quản lý giáo dục trong các cơ sở đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình đào tạo gắn với nhu cầu xã hội. Với một đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý năng động hoạt động trong thị trường, trong doanh nghiệp, nhanh chóng nắm bắt nhu cầu thị trường là điều kiện để nhà trường phát triển lám tốt chức năng đào tạo nhân lực cho nhà nước, và ngược lại nếu đội ngũ giảng viên, giáo viên không được đào tạo một cách chuyên nghiệp, thiếu cập nhập trí thức mới thì không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Bộ giáo dục đào tạo cần phối hợp với các bộ liên quan xây dựng tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý làm cơ sở cho việc đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm trong nhà trường. Các cơ sở đào tạo phải tạo điều kiện cho giáo viên, giảng viên tích cực thâm nhập thực tế, tìm hiểu nhu cầu doanh nghiệp, tạo mối liên lạc thường xuyên với doanh nghiệp. Khuyến khích các cơ sở đào tạo mời chuyên gia trong nước và quốc tế có trình độ, kinh nghiệm thực tiễn và năng lực nghiên cứu tham gia bồI dưỡng giáo viên, giảng viên và hướng dẫn nghiên cứu khoa học. Ngoài những giải pháp cơ bản trên, còn có những giải pháp sau giúp hỗ trợ cho những giải pháp trên thực hiện một cách có hiện quả: 1. Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề. Huy động công ty trong và ngoài nước hình thành đại học chất lượng cao. Tăng cường sự liên kết trong và ngoài nước 2. Triển khai các dự án quốc gia đào tạo theo nhu cầu xã hội: chương trình tiên tiến, xây dựng các trung tâm dạy nghề, các trường dạy nghề. Phối hợp các khu công nghiệp cao để triẻn khai kế hoạch hang năm và dài hạn. 3. Kiểm tra, đánh giá và kiểm định năng lực nghề nghiệp đào tạo theo nhu cầu xã hội. Phối hợp với VCCI tiến hành điều tra doanh nghiệp Trong số những giải pháp nêu trên theo em điều qua trọng hàng đầu để có thể thực hiện thành công đào tạo theo nhu cầu xã hội là trước hết phải xác định rõ: xu hướng phát triển tương lai ra sao?, người lao động mà doanh nghiệp, nhà nước,xã hội mong muốn phạt đạt những tiêu chuẩn nào?, rồi từ đó mới có hướng điều chỉnh cụ thể trong nội dung, phương pháp dạy và học tại các trường. Song để đảm bảo mục tiêu giai đoạn 2008 – 2010 hoàn th ành cơ bản công tác này thì những giải pháp hỗ trợ là điều không thể thiếu. 2. Lộ trình thực hiện từ 2007 đến 2010 - Bộ GD&ĐT phối hợp với các bộ ngành trung ương, đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực trong khuôn khổ và khả năng của từng bộ ngành; dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ quan doanh nghiệp trong các Bộ, ngành; phát triển tiêu chuẩn nghề nghiệp, xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo trong các lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH; hỗ trợ công tác đào tạo và giới thiệu việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. - Thành lập cơ quan Dự báo nhu cầu xã hội từ trung ương đến địa phương. Các địa phương có trách nhiệm thành lập mạng lưới hệ thống thông tin, giúp địa phương lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho từng giai đoạn. - Cơ sở đào tạo phối hợp với doanh nghiệp, xây dựng mối quan hệ đối tác trong việc xây dựng và kiểm định chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và bồi dưỡng giáo viên. - Cơ sở đào tạo thành lập các trung tâm dịch vụ hoạt động theo cơ chế thị trường như một doanh nghiệp trong cơ sở đào tạo, giới thiệu việc làm và theo dõi sinh viên sau khi tốt nghiệp. KẾT LUẬN Qua bài phân tích trên chúng ta thấy rõ việc đào tạo theo nhu cầu là rất cần thiết khi mà hình thức đào tạo trước đây đã bộc lộ rõ những yếu điểm của mình - một nền giáo dục nặng về lý thuyết xem nhẹ thực tế dẫn đến hậu quả là phần lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm nếu có thì đa phần là trái ngành trái nghề và phổ biến là sau khi nhận được việc làm những con người đó đều phải đào tạo lại từ 3 đến 6 tháng thậm trí là hơn một năm mới có thể đảm đương công việc được tuyển dụng. Những hậu quả này sẽ còn lớn hơn nhiều lần khi mà chúng ta vẫn tiếp tục đi theo con đường cũ đặc biệt khi nước ta đã là thành viên chính thức gia nhập WTO. Khi dó nước ta sẽ đón nhận rất nhiều cơ hội mới và những thách thức mới từ môi trường bên trong và bên ngoài, rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ đầu tư tại Việt Nam, nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao là rất lớn. Để có thể nắm bắt được cơ hội này thì hình thức đào tạo theo nhu cầu tỏ ra hơn hẳn. Nó giúp tạo ra những con người không chỉ giỏi về lí luận mà còn có chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà họ theo học. Song để chuyển hướng từ đào tạo theo cái mình có sang đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là chuyện một sớm một chiều. Nó đòi hỏi phải có những cái bắt tay chặt chẽ của 3 nhà – nhà trường, doanh nghiệp, Nhà nước - để có được những thông tin chính xác, được tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ mớI của thị trường. Ngoài ra còn cần có cả một hệ thống các cơ quan dự báo nhu cầu để nhanh chóng nắm bắt những đòi hỏi của xã hội. Bên cạnh đó sự đổi mới trong nếp nghĩ, cách thức học tập và làm việc của thầy và trò cũng rất quan trọng. Nó góp phần không nhỏ vào thành công của đào tạo theo nhu cầu xã hội. Mặc dù đến giai đoạn này, nước ta mới chú trọng đến đào tạo theo nhu cầu là khá muộn trong khi các nước trên thế giới đã tiến hành ngay từ giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng đất nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp… song sẽ không là quá muộn khi chúng ta tập trung mọi nguồn lực tâm trí ở mức độ cao nhất có thể để thực hiện thành công chiến lược này. Với những nỗ lực như hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng rằng năm 2008 nước ta cơ bản triển khai đào tạo theo nhu cầu trên phạm vi cả nước và sẽ cho ra đời những sản phẩm tốt nhất, đáp ứng nhu cầu của xã hội ở mức cao nhất có thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo Giáo dục và thời đại số 150 Lê Thị Ái Lâm - Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hộI 2003 N.H Jean - Lao động việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, NXB Thế giới 2001 Nguyễn Minh Dũng - Bồi dưỡng và đào tạo lại nguồn nhân lực trong điều kiện mới, NXB Hà Nội 1996 Phạm Thanh Nghị, Vũ Hoàng Ngân - Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam một số vấn đề và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội 2004 PGS.TS Nguyễn Duy Dũng, TS. Trần Thị Nhung - Phát triển nguồn nhân lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, NXB Khoa học xã hội 2005 PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – Giáo trình chính sách kinh tế - xã hội, NXB Khoa học và kỹ thuật 2006 Tạp chí Khoa học giáo dục (2/2007) Tạp chí Khoa học giáo dục (3/2007)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc75258.DOC