KẾT LUẬN Vacxin tai xanh nhược độc chủng PRRS Hanvet1.vn có thể dùng theo đường tiêm bắp hoặc tiêm dưới da cho lợn (hiệu giá kháng thể IPMA đạt 1/3417,19). Lợn có đáp ứng miễn dịch ngay ở ngày thứ 7 sau khi tiêm (hiệu giá kháng IPMA đạt 1/45,95) và sau tiêm 4 tuần, lợn được bảo hộ hoàn toàn khi công cường độc (hiệu giá kháng thể IPMA đạt 1/3177,77; hiệu giá kháng thể trung hòa đạt 1/1,32). Kháng thể tồn tại được 6 tháng, sau tiêm 5 tháng, hiệu giá kháng thể IPMA còn 1/670,27 và hiệu giá kháng thể trung hòa còn 1/2,76. Có thể tiêm cho lợn lúc 2 tuần tuổi, nhưng nên tiêm lúc 4 tuần tuổi để đạt được hiệu quả miễn dịch cao nhất. Tiêm vacxin cho lợn mẹ, lợn con nhận được kháng thể thụ động, kháng thể này tồn tại đến 35 ngày tuổi sau sinh. Tại thời điểm 28 ngày sau tiêm, vacxin tai xanh nhược độc chủng PRRS Hanvet1.vn có hiệu giá cao nhất so với các vacxin khác trên thị trường. Sử dụng vacxin tai xanh nhược độc chủng PRRS Hanvet1.vn phòng được bệnh tai xanh một cách hiệu quả.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đáp ứng miễn dịch của lợn sau khi tiêm vacxin tai xanh nhược độc chủng prrs hanvet 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
ÑAÙP ÖÙNG MIEÃN DÒCH CUÛA LÔÏN SAU KHI TIEÂM VACXIN
TAI XANH NHÖÔÏC ÑOÄC CHUÛNG PRRS HANVET 1.VN
Bùi Trần Anh Đào1, Nguyễn Thanh Ba2, Nguyễn Thu Trang2,
Trần Văn Khánh2, Nguyễn Thị Ngọc2, Nguyễn Thị Nga3, Nguyễn Hữu Vũ2
TÓM TẮT
Nghiên cứu đáp ứng miễn dịch của lợn sau khi tiêm vacxin tai xanh nhược độc chủng PRRS
Hanvet1.vn đã được tiến hành tại Công ty Hanvet. Sự khác biệt về diễn biến kháng thể trung hòa và
kháng thể được xác định bằng phản ứng IPMA trong huyết thanh lợn. Kết quả nghiên cứu cho thấy
kháng thể xuất hiện 7 ngày sau miễn dịch và đạt hàm lượng cao nhất vào tuần thứ 5 sau khi tiêm
vacxin (1/4888,7), sau đó hàm lượng kháng thể giảm dần, đến tháng thứ 6 chỉ còn 1/463,13. Kháng
thể trung hòa xuất hiện muộn, 4 tuần sau khi tiêm vacxin, và đạt hiệu giá cao nhất ở tuần thứ 11 sau
miễn dịch (1/21,11) sau đó giảm dần. Đến tháng thứ 5 sau tiêm vacxin, hàm lượng kháng thể trung
hòa chỉ còn ¼, đến tháng thứ 6 kháng thể trung hòa không còn khả năng bảo hộ cho lợn. Lợn con
sinh ra từ lợn nái đã được tiêm vacxin tai xanh nhận được nhiều kháng thể từ mẹ qua sữa đầu. Hàm
lượng kháng thể trong máu lợn con đạt cao nhất vào thời điểm 1 ngày sau sinh (1/1835,46 với IPMA
và 1/8,46 với kháng thể trung hòa). Sau đó kháng thể trong máu lợn con giảm nhanh. Đến 14 ngày
sau sinh hàm lượng kháng thể trong máu lợn con chỉ còn 1/676,49 (IPMA) và 1/4,11(trung hòa). Lợn
4 tuần tuổi cho đáp ứng miễn dịch tốt nhất sau khi tiêm vacxin.
Từ khóa: đáp ứng miễn dịch, vacxin nhược độc tai xanh, PRRS Hanvet1.vn.
Study on immune response of pigs vaccinated with
Hanvet 1.vn PRRS attenuated virus vaccine
Bui Tran Anh Dao, Nguyen Thanh Ba, Nguyen Thu Trang,
Tran Van Khanh, Nguyen Thi Ngoc, Nguyen Thi Nga, Nguyen Huu Vu
SUMMARY
The research on immune response of the pigs after vaccination with Hanvet1.vn PRRS
attenuated virus vaccine was carried out at Hanvet company. The changes of neutralising
antibody and antibody were determined by the IPMA method. The studied result showed that
7 days after vaccination, antibody appeared and reached the highest content in the 5th week
after vaccination (1/4888.7), then the antibody content decreased in the 6th month, remaining
1/463.13 only. Neutralising antibody appeared later, 4 weeks after the vaccination, and reached
the highest titre at the 11th week after vaccination (1/21.11) then it was decreased. Up to the
5th month after vaccination, the neutralising antibody content remained only ¼ and then the
antibody content was not capable to protect the pigs in the 6th month after vaccination. The
piglets were born from the sows vaccinated with Hanvet1.vn PRRS vaccine, they received
antibody through colostrum. The antibody content in the blood of the piglets reached the highest
level at the 1st day after birth (1/1835,46 with IPMA and 1/8.46 with neutralising antibodies).
Then antibody content in the blood of piglets decreased rapidly. Up to the 14th days after birth,
antibody content in the blood of piglets reached 1/676.49 (IPMA) and 1/4.11 (neutralising). The
piglets at 4-weeks-old presented the best immune response after the vaccination.
Keywords: immune response, attenuated vaccine, Hanvet 1.vn PRRS.
1. Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2. Công ty thuốc thú y Hanvet
3. Viện kỹ thuật hóa sinh và tài liệu nghiệp vụ, Bộ Công an
29
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
(Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome
– PRRS), hay còn gọi là bệnh tai xanh, là một
trong những dịch bệnh nguy hiểm nhất đối với
ngành chăn nuôi lợn của Việt Nam cũng như trên
thế giới hiện nay. PRRS được ghi nhận lần đầu
tiên ở Việt Nam vào năm 1997. Tuy nhiên, tại
thời điểm đó và các năm sau, không ghi nhận
được các ca bệnh lâm sàng. Năm 2006, PRRS
thể độc lực cao đã được ghi nhận ở Trung Quốc
làm hơn 2 triệu lợn mắc bệnh và diễn biến phức
tạp trong năm 2007. Do quan hệ thông thương
phức tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc, PRRS
đã trở thành dịch lớn ở nước ta. Năm 2007, cả
nước có 70.577 lợn mắc PRRS, số lợn chết và
tiêu hủy là 20.366 con. Năm 2008 có 309.586 ca
bệnh, số lợn chết và tiêu hủy 300.906 con. Năm
2010, dịch lại nổ ra hai đợt vào tháng 3 và tháng
10 làm 812.947 lợn mắc bệnh, số lợn chết và
tiêu hủy lên đến 442.699 con. Có thể nói PRRS
ngày càng trở thành vấn đề thời sự trong ngành
chăn nuôi thú y. Trước tình trạng nghiêm trọng
đó, Chính phủ đã tiến hành nhiều biện pháp khác
nhau để khống chế dịch, trong đó quan trọng nhất
là việc nhập khẩu và phân phối các loại vacxin
phòng bệnh. Tuy nhiên, các vacxin nhập khẩu từ
các nước khác nhau có tính kháng nguyên khác
nhau, đặc biệt từ các nước châu Âu do chủng virus
gây bệnh tại Việt Nam là một biến chủng mới của
virus PRRS dòng Bắc Mỹ. Ngoài ra, giá của các
loại vacxin nhập khẩu rất cao (trên 30 nghìn đồng/
liều), nguồn nhập cũng không chủ động, gây khó
khăn cho công tác tiêm phòng. Trước tình hình
trên, Công ty Hanvet đã tập trung nghiên cứu, chế
tạo được vacxin tai xanh nhược độc từ chủng virus
PRRS Hanvet1.vn với mong muốn tạo ra vacxin
có chất lượng tốt, giá thành hạ, góp phần vào việc
phòng chống dịch bệnh tai xanh ở nước ta.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá khẳng định
chất lượng của vacxin tai xanh nhược độc chủng
PRRS Hanvet1.vn làm cơ sở cho việc đăng ký lưu
hành sản phẩm.
II. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Vật liệu nghiên cứu gồm vacxin tai xanh
nhược độc do Công ty Hanvet sản xuất từ
chủng virus nhược độc PRRS Hanvet1.vn lô
0614, ngày sản xuất 04/11/2014, hạn sử dụng
04/05/2016. Mỗi liều vacxin chứa 105TCID
50
virus nhược độc PRRS Hanvet1.vn trong chất
bổ trợ đông khô. Chủng virus PRRS cường độc
phân lập tại Việt Nam được giữ giống tại Trung
tâm kiểm nghiệm thuốc thú y trung ương I. Một
số loại vacxin phòng bệnh PRRS trên thị trường
và tế bào dòng Marc 145.
Lợn thí nghiệm gồm lợn lai hướng nạc, khỏe
mạnh, ở các độ tuổi khác nhau và lợn nái mang
thai ở ngày thứ 80 của thai kỳ. Tất cả lợn sử dụng
trong thí nghiệm đều được chúng tôi xét nghiệm
và xác định âm tính với các bệnh: PRRS, dịch tả
lợn, bệnh do Mycoplasma và Circo virus bằng
kỹ thuật rRT-PCR.
Nghiên cứu được tiến hành tại Trung tâm
nghiên cứu và Sản xuất sinh phẩm – Công ty
Hanvet, các trại thực nghiệm và trại liên kết của
Công ty tại Hưng Yên, Bắc Ninh và Hòa Bình.
2.2. Nội dụng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo các nội
dung sau:
- Xác định đường đưa vacxin thích hợp vào
cơ thể lợn
- Nghiên cứu đáp ứng miễn dịch dịch thể và
độ dài miễn dịch khi tiêm vacxin cho lợn
- Nghiên cứu khả năng truyền kháng thể từ
lợn mẹ sang lợn con qua sữa đầu
- Đánh giá khả năng bảo hộ của vacxin khi
thử thách với virus PRRS cường độc
- Xác định độ tuổi sử dụng vacxin thích hợp
- So sánh đáp ứng miễn dịch dịch thể của
vacxin tai xanh chủng PRRS Hanvet1.vn với
một số vacxin trên thị trường.
30
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
2.3. Bố trí thí nghiệm và phương pháp
nghiên cứu
2.3.1. Bố trí thí nghiệm
Để xác định đường sử dụng vacxin thích hợp,
đã lựa chọn 45 lợn con 4 tuần tuổi đồng đều về
giống, tình trạng sức khoẻ, điều kiện chăn nuôi
và vệ sinh thú y. Phân chia ngẫu nhiên số lợn trên
vào 3 nhóm, sử dụng vacxin virus nhược độc
PRRS Hanvet1.vn cho các nhóm với liều như
nhau, nhưng theo 3 đường sử dụng khác nhau:
tiêm bắp, tiêm dưới da và nhỏ mũi. Xác định hiệu
giá kháng thể sau khi tiêm vacxin 28 ngày.
Đánh giá sự hình thành đáp ứng miễn dịch
và độ dài miễn dịch sau khi tiêm vacxin bằng
lấy máu lợn tại các thời điểm sau tiêm vacxin 1,
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 tuần; 2, 3, 4, 5, 6
tháng, xác định hiệu giá kháng thể bằng IPMA
và hiệu giá kháng thể trung hòa.
Để xác định khả năng truyền kháng thể từ lợn
mẹ sang lợn con, đã tiêm vacxin cho 5 lợn nái
mang thai 80 ngày. Sau tiêm vacxin, theo dõi tình
trạng sức khỏe của các lợn nái, lấy máu lợn nái
sau khi sinh 24 giờ và lợn con sau khi sinh 24 giờ
để kiểm tra hiệu giá kháng thể. Cho đến khi lợn
con đạt 5 tuần tuổi, hàng tuần lấy máu 5 lợn con/ổ
để kiểm tra hiệu giá kháng thể.
Để đánh giá khả năng bảo hộ của vacxin với
chủng virus cường độc, đã tiêm vacxin cho 12
lợn 4 tuần tuổi có huyết thanh âm tính với kháng
thể PRRS. Sau tiêm 28 ngày, lấy máu 12 lợn
được miễn dịch (lô thí nghiệm này) và 4 lợn
không tiêm vacxin (lô đối chứng) để kiểm tra
hiệu giá kháng thể bằng phản ứng IPMA và phản
ứng trung hòa trên tế bào. Sau đó lợn thí nghiệm
và đối chứng được thử thách với virus PRRS
cường độc phân lập tại Việt Nam với liều 106
TCID
50
. Sau khi công cường độc, theo dõi các
biểu hiện lâm sàng, thân nhiệt, khả năng tăng
trọng, đồng thời lấy máu lợn ở các thời điểm 3,
5, 7, 10, 14, 21 ngày sau khi công cường độc để
phân lập, xác định virus huyết và mổ khám xác
định bệnh tích.
Để xác định độ tuổi thích hợp cho việc sử
dụng vacxin: Tiêm vacxin cho 3 nhóm lợn con
ở lứa tuổi khác nhau: 2, 4 và 6 tuần tuổi. Xác
định hiệu giá kháng thể bằng IPMA và kháng
thể trung hòa sau 28 ngày miễn dịch.
Nhằm so sánh đáp ứng miễn dịch của vacxin
tai xanh do Hanvet sản xuất với một số vacxin
phòng bệnh PRRS hiện có trên thị trường, chọn
24 lợn cùng một giống, lứa tuổi và sức khoẻ
tương đương, chia làm 4 nhóm. Lợn con trong
các nhóm được tiêm cùng một liều (105TCID
50
)
với một trong 4 loại vacxin tai xanh khác nhau:
Vacxin của Hanvet (từ chủng PRRS Hanvet1.
vn), vacxin A (từ chủng JXA1 – R), vacxin B
(từ chủng VP-046BIS) và vacxin C (từ 1 chủng
nhược độc, nhưng không công bố cụ thể). Xác
định hiệu giá kháng thể bằng IPMA và kháng
thể trung hòa.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu
gồm: Phương pháp IPMA; phương pháp phân
lập virus; phương pháp rRT- PCR thực hiện theo
TCVN 8400-21:2014.
Phương pháp trung hòa virus trên tế bào để
xác định hiệu giá kháng thể trung hòa thực hiện
theo phương pháp của Yoon & cs (1994).
Phương pháp mổ khám xác định bệnh tích
theo TCVN 8400-21:2014.
Số liệu được xử lý thống kê, sử dụng phần
mềm Minitab 16 với phép thử phân tích phương
sai một nhân tố (ANOVA_One way).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đáp ứng miễn dịch của lợn được tiêm
vacxin tai xanh nhược độc
Kết quả thu được cho thấy có sự khác biệt
rất rõ rệt về khả năng sinh đáp ứng miễn dịch
của vacxin tai xanh khi đưa theo các đường
khác nhau. Đáp ứng miễn dịch của lợn được
đưa vacxin theo đường nhỏ mũi không cao.
Cụ thể hàm lượng kháng thể chỉ đạt trung bình
1/339,03. Đưa vacxin theo đường tiêm dưới da
và tiêm bắp đều cho đáp ứng miễn dịch cao,
hàm lượng kháng thể sau 28 ngày miễn dịch của
31
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
cả 2 cách tiêm này đều là 1/3417,19. Sự sai khác
về hiệu giá kháng thể của lợn khi đưa vacxin
theo đường nhỏ mũi với đường tiêm là có ý
nghĩa thống kê (P < 0,05). Mặt khác, tiêm dưới
da hoặc tiêm bắp thịt cũng đơn giản, thuận tiện
hơn phương pháp nhỏ mũi.
Diễn biến hàm lượng giá kháng thể trung
bình (GMT) của lợn sau khi tiêm vacxin được
xác định bằng IPMA và kháng thể trung hoà
được thể hiện qua hình 1.
Xác định bằng IPMA Xác định bằng kháng thể trung hoà
Hình 1. Biến động kháng thể sau khi tiêm vacxin tai xanh
Một tuần sau khi tiêm vacxin, lợn bắt đầu
có đáp ứng miễn dịch thông qua hiệu giá kháng
thể xác định bằng IPMA. Hàm lượng kháng thể
trong máu lợn tăng dần và đạt giá trị cao nhất
vào tuần thứ 5 với hiệu giá kháng thể trung bình
đạt 1/4888,78. Sau đó hàm lượng kháng thể
giảm xuống ở tuần thứ 6 sau khi tiêm vacxin.
Diễn biến của hàm lượng kháng thể trung hòa
trong máu lợn sau khi tiêm vacxin cho thấy sự
xuất hiện của kháng thể trung hòa trong huyết
thanh lợn được tiêm vacxin muộn hơn so với
kháng thể xác định bằng IPMA. Sau tiêm vacxin
4 tuần, trong huyết thanh lợn mới xuất hiện
kháng thể trung hòa (1/1,32) và đạt hiệu giá cao
nhất (1/21,11) ở tuần thứ 11 sau khi tiêm vacxin.
Như vậy, có sự khác biệt rõ rệt về sự xuất
hiện của kháng thể được xác định bằng phản ứng
IPMA và kháng thể trung hòa virus. Kháng thể
đặc hiệu được xác định bằng phản ứng IPMA
xuất hiện từ rất sớm, ngay từ tuần đầu tiên sau
khi tiêm vacxin và đạt đỉnh ở tuần thứ 5. Trong
khi đó, sự xuất hiện của kháng thể trung hòa
muộn hơn. Ở tuần thứ 4 sau khi tiêm vacxin,
lợn mới bắt đầu có kháng thể trung hòa. Kháng
thể trung hòa virus đạt hiệu giá cao nhất vào
tuần thứ 10 đến tuần thứ 11 sau khi tiêm vacxin
và chỉ đạt ngưỡng 1/21,11. Điều này được giải
thích như sau: Các epitop của virus có khả năng
gây ra sự xuất hiện kháng thể trung hòa nằm ở
GP
5
. Epitop chính chịu trách nhiệm trong hoạt
động sinh kháng thể trung hòa nằm ở acid amin
37 đến 44 và được gọi là epitop B (Mateu và
Diaz, 2008). Tuy nhiên, ngay ở trước epitop B
của virus PRRS, có một epitop khác đã được xác
định có ưu thế miễn dịch vượt trội gọi là epitop A
nằm ở acid amin 27 đến 31 (sát kề phía đối mặt
với epitop B). Đặc điểm này phù hợp với chức
năng của một epitop ngụy trang hay là epitop
đánh lừa (decoy epitop). Epitop ngụy trang này
mạnh hơn epitop B, có thể làm giảm đáp ứng
miễn dịch của epitop trung hòa B nằm liền kề,
dẫn đến sự chậm trong đáp ứng miễn dịch trung
hoà. Hiện tượng này tương tự như trường hợp
với protein GP
41
của HIV ở người (virus gây
suy giảm miễn dịch, bệnh AIDS) đã được chứng
minh trên thỏ; cũng tương tự như VP-3P, đặc
điểm của virus lactate dehydrogenase elevating
(LDV) (cùng họ Arteviridae với PRRS) là
epitop có thể nhận biết bằng kháng thể trung
32
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
hòa nhưng lại không có tính gây miễn dịch, giả
thiết cho rằng có một chất nào khác nữa có thể
hạn chế việc sinh ra kháng thể trung hòa (Lopez
và Osorio, 2004).
Kết quả trong nghiên cứu này tương đồng
với kết quả nghiên cứu của Lopez và Osorio
(2004); Molina R.M. và cộng sự (2008) về sự
hình thành đáp ứng miễn dịch của virus PRRS.
Với hiệu giá kháng thể đạt mức 1/4, lợn bắt đầu
được bảo hộ, khi công cường độc lợn không có
biểu hiện lâm sàng của bệnh, hiện tượng virus
huyết vẫn còn nhưng hàm lượng thấp. Nếu hiệu
giá kháng thể trung hòa đạt 1/8, lợn được bảo
hộ hoàn toàn khi công cường độc (Lopez và
Osorio, 2004; Lopez et al., 2007).
Từ kết quả nghiên cứu trên có thể thấy lợn
được tiêm vacxin tai xanh nhược độc chủng
Hanvet1.vn sinh đáp ứng miễn dịch dịch thể tốt.
3.2. Độ dài miễn dịch lợn được tiêm vacxin
tai xanh nhược độc
Kết quả kiểm tra hiệu giá kháng thể trong
huyết thanh bằng phản ứng IPMA và phản ứng
trung hòa trong các tháng sau khi tiêm vacxin
được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Hiệu giá kháng thể của lợn xác định bằng phản ứng IPMA và trung hoà
Hiệu giá kháng thể 1 tháng 2 tháng 3 tháng 4 tháng 5 tháng 6 tháng
Phản ứng IPMA 3880,23 2334,01 1612,70 1167,00 670,27 463,13
Phản ứng trung hòa 1,32 5,79 15,28 6,06 4,39 2,76
Kết quả cho thấy hiệu giá kháng thể IPMA
của lợn đạt cao nhất ở tháng đầu tiên sau khi
tiêm vacxin (1/3880,23). Sau đó kháng thể giảm
dần, đến tháng thứ 6 hàm lượng kháng thể giảm
thấp, chỉ còn 1/463,13.
Kháng thể trung hòa xuất hiện muộn hơn, đạt
hàm lượng cao tại thời điểm 2 – 3 tháng sau
tiêm vacxin, sau đó giảm dần. Đến tháng thứ
5, hiệu giá kháng thể chỉ còn khoảng 1/4 và ở
tháng thứ 6, kháng thể trung hòa không còn khả
năng bảo hộ cho lợn.
Như vậy đối với lợn nuôi thịt, chỉ cần tiêm
vacxin 1 lần là có thể bảo hộ trong suốt quả
trình nuôi. Với lợn nái, lợn đực giống nên tiêm
phòng 2 lần trong 1 năm để đảm bảo duy trì
miễn dịch cho lợn.
3.3. Khả năng truyền kháng thể từ lợn mẹ
sang lợn con qua sữa đầu
Kết quả theo dõi hiệu giá kháng thể của lợn
mẹ sau khi sinh con được trình bày qua bảng 2.
Bảng 2. Hiệu giá kháng thể của lợn mẹ sau khi sinh con
Lợn nái số Hiệu giá kháng thể xác định bằng IPMA (X-1) Hiệu giá kháng thể trung hòa (X-1)
N1 10.240 32
N2 5.120 16
N3 2.560 16
N4 10.240 32
N5 5.120 16
Trung bình 5.881,34 21,11
Bảng 2 cho thấy các lợn nái có đáp ứng miễn
dịch rất tốt, hiệu giá kháng thể xác định bằng
IPMA trung bình đạt 1/5881,34 và hiệu giá
kháng thể trung hòa trung bình đạt 1/21,11.
33
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
Hiệu giá kháng thể trong máu lợn con được thể hiện qua bảng 3.
Bảng 3. Hiệu giá kháng thể của lợn con theo mẹ
Hiệu giá kháng thể 1 ngày 7 ngày 14 ngày 21 ngày 28 ngày 35 ngày
Phản ứng IPMA 1.835,46 1.352,98 676,49 294,46 147,23 73,62
Phản ứng trung hòa 8,46 4,99 4,11 2,57 1,89 1,32
Qua kết quả nghiên cứu về khả năng truyền
kháng thể PRRS của lợn mẹ được tiêm vacxin
sang lợn con cho thấy, sau khi bú sữa đầu, lợn
con hấp thu được nhiều kháng thể từ mẹ truyền.
Hiệu giá kháng thể thụ động của lợn con đạt
được cao nhất tại thời điểm 24 giờ sau sinh
(1/1835,46 với IPMA; 1/8,46 với kháng thể
trung hòa). Kháng thể này lưu hành trong máu
lợn và giảm dần. Đến thời điểm 14 ngày sau
sinh, hiệu giá kháng thể thụ động còn lại của lợn
là 1/676,49 với IPMA và 1/4,11 với kháng thể
trung hòa. Với lượng kháng thể này, lợn con vẫn
có thể được bảo hộ với virus cường độc (Lopez
và Osorio, 2004). Nhưng đến thời điểm 21 ngày
sau sinh, hàm lượng kháng thể trong máu của
lợn con còn rất thấp (294,46 với IPMA và 2,57
với kháng thể trung hòa), không còn đủ để bảo
hộ lợn chống lại virus cường độc. Đến 5 tuần
tuổi, kháng thể thụ động của lợn con hầu như
không còn trong máu.
3.4. Hiệu quả bảo hộ của vacxin khi thử thách
với virus cường độc
Kiểm tra hiệu giá kháng thể trước khi công
cường độc nhận thấy: Cả 12 lợn sau khi tiêm
vacxin đều có đáp ứng miễn dịch tốt, tương ứng
với giá trị trung bình của IPMA và trung hoà
là 1/3417,19 và 1/1,19; trong khi đó, lợn đối
chứng không có đáp ứng miễn dịch với virus
PRRS trước khi công cường độc.
Sau khi công cường độc, 100% lợn trong lô
không tiêm phòng vacxin xuất hiện các triệu
chứng: ủ rũ, giảm ăn hoặc bỏ ăn, thở khó, ho,
sốt; trong khi đó cả 12 lợn đã tiêm phòng đều
không xuất hiện triệu chứng lâm sàng nêu trên.
Diễn biến thân nhiệt của lợn sau khi công
cường độc vào các thời điểm 8 giờ sáng và 4 giờ
chiều trong 10 ngày sau công cường độc được
biểu diễn trên hình 2.
Hình 2. Thân nhiệt của lợn sau khi công cường độc
34
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
Hình 2 cho thấy có sự khác biệt rõ rệt về
thân nhiệt giữa lợn đối chứng không được tiêm
vacxin và lợn thí nghiệm được tiêm vacxin. Sau
khi công cường độc, cả 12/12 lợn được tiêm
vacxin đều không có biểu hiện sốt, trong khi
đó cả 4 lợn đối chứng đều sốt rất cao (41,70C)
và kéo dài liên tục trong 3 ngày. Đặc biệt, có 1
lợn đối chứng thân nhiệt lên tới 420C và co giật
mạnh ở ngày thứ 3 sau khi công cường độc.
Kết quả phân lập virus tại các thời điểm 3,
5, 7, 10, 14 và 21 ngày sau khi công cường độc
cho thấy: Không phân lập được virus trong máu
của tất cả các lợn được tiêm vacxin ở tất cả các
thời điểm lấy máu.
Ở lợn đối chứng, hiện tượng virus huyết xảy
ra ở cả 4/4 lợn (100%). Virus trong máu lợn xuất
hiện sớm, đạt hàm lượng cao nhất là 104 TCID
50
/
ml tại thời điểm 5 ngày sau khi công cường độc,
sau đó giảm dần và đến ngày thứ 14, không còn
phân lập được virus trong máu lợn.
Kết quả xác định virus trong huyết thanh 4
lợn đối chứng không tiêm vacxin sau khi công
cường độc được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4. Hàm lượng virus trong huyết thanh lợn đối chứng tại các thời điểm lấy máu
Thời điểm
lấy máu Ký hiệu lợn
Độ pha loãng huyết thanh phân lập
100 10-1 10-2 10-3 10-4
3 ngày
D1 + + - - -
D2 + + + + -
D3 + + - - -
D4 + + + - -
5 ngày
D1 + + + - -
D2 + + + + -
D3 + + + - -
D4 + + + - -
7 ngày
D1 + + + - -
D2 + - - - -
D3 + - - - -
D4 + - - - -
10 ngày
D1 + + + - -
D2 + - - - -
D3 + - - - -
D4 + - - - -
14 ngày
D1 - - - - -
D2 - - - - -
D3 - - - - -
D4 - - - - -
Các kết quả gửi mẫu phân tích tại Trung
tâm Chẩn đoán thú y quốc gia để xác định virus
huyết bằng kỹ thuật rRT – PCR được trình bày
trong bảng 5.
35
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
Bảng 5. Kết quả kiểm tra virus huyết bằng kỹ thuật rRT- PCR
Tỷ lệ dương tính (%)
3 ngày 5 ngày 7 ngày 10 ngày 14 ngày 21 ngày
Được tiêm vacxin 8,33 (1/12) 8,33 (1/12) 0 0 0 0
Không được tiêm vacxin 100 100 100 100 100 50
Bảng 5 cho thấy 100% lợn đối chứng không
tiêm vacxin dương tính với virus tại các thời điểm
3 ngày, 5 ngày, 7 ngày, 10 ngày và 14 ngày sau khi
công cường độc. Tại thời điểm 21 ngày sau công
cường độc, có 50% lợn dương tính với virus. Kết
quả trên đã khẳng định thêm về khả năng ngăn
chặn hiện tượng virus huyết của vacxin tai xanh
nhược độc chủng PRRS Hanvet1.vn.
Theo Lopez và Osorio (2004), hiệu giá kháng
thể trung hòa trong máu lợn phải đạt mức 1/8
mới có khả năng ngăn cản hiện tượng virus huyết
khi công cường độc cho lợn. Tuy nhiên trong
nghiên cứu này, chỉ với hiệu giá kháng thể trung
hòa trung bình ở mức 1/1,19, tất cả lợn đã tiêm
vacxin được bảo hộ và hoàn toàn không bị virus
huyết. Kết quả phân lập virus huyết cho thấy có
sự khác biệt trong nghiên cứu này với nghiên
cứu của Lopez và Osorio (2004) và Lopez et al.
(2007). Sự khác biệt này có thể do các tác giả đã
tạo miễn dịch cho lợn bằng kháng thể thụ động,
trong khi nghiên cứu này đã sử dụng vacxin để gây
đáp ứng miễn dịch chủ động cho lợn.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng khác
biệt với kết quả nghiên cứu của Tô Long Thành
và cs. (2014) khi đánh giá hiệu lực của vacxin
Amervac PRRS với chủng virus PRRS gây bệnh
độc lực cao ở Việt Nam. Sự khác biệt có thể do
chủng virus vacxin của các tác giả này là virus
nhược độc dòng châu Âu, trong khi chủng virus
vacxin trong nghiên cứu của chúng tôi được làm
nhược độc từ chủng virus độc lực cao thuộc dòng
Bắc Mỹ.
Kết quả của chúng tôi cũng khác biệt so với
kết quả của Nguyễn Tùng và cs (2011) khi khảo
nghiệm vacxin nhược độc chủng JXA1-R. Trong
nghiên cứu của các tác giả này, lợn được tiêm
vacxin, khi bị nhiễm virus cường độc, virus vẫn
nhân lên trong cơ thể nhưng thời gian bài thải virus
ra môi trường ngắn hơn (2 - 3 tuần) so với lợn
không tiêm phòng (21 ngày kết thúc thí nghiệm
vẫn còn bài thải).
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi lại
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Yu và cs.
(2015) khi nghiên cứu về tính an toàn và hiệu quả
của chủng virus vacxin nhược độc JXA1-R.
Kết quả theo dõi khối lượng của lợn thí nghiệm
được tiêm vacxin và đối chứng không được tiêm
vacxin khi bắt đầu và sau 21 ngày công cường độc
được thể hiện qua bảng 6.
Bảng 6. Khối lượng lợn được tiêm và không tiêm vacxin sau khi công cường độc
Khối lượng lợn (kg) Tỷ lệ tăng
so với lúc bắt đầu (%)Ngày bắt đầu Sau 21 ngày
Được tiêm vacxin 18,13 ±0,24 31,23 ±0,31 72,23
Không tiêm vacxin 18,35 ±0,14 21,28 ±0,59 15,97
Bảng 6 cho thấy có sự khác biệt rõ rệt về khối
lượng 21 ngày sau công cường độc giữa lợn không
được tiêm và lợn được tiêm vacxin. Do tiêm
vacxin, lợn được bảo hộ hoàn toàn với virus cường
độc nên vẫn khỏe mạnh bình thường, không sốt,
không giảm ăn, bỏ ăn, không bị virus huyết, do
vậy vẫn tăng cân bình thường với tỷ lệ tăng khối
lượng so với ban đầu đạt 72,23%. Trong khi đó
lợn không được tiêm có các biểu hiện bệnh lý rất
trầm trọng như sốt cao kéo dài liên tiếp 3 ngày, ủ
rũ, bỏ ăn, xuất huyết dưới da, virus huyết xuất hiện
và kéo dài đến 14 ngày sau khi công cường độc.
36
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
Các biểu hiện bệnh lý này làm cho lợn sinh trưởng
rất kém, thậm chí có 1 con còn bị giảm cân sau 21
ngày theo dõi.
Kết quả mổ khám khi kết thúc thời gian theo
dõi cho thấy: Tất cả lợn được tiêm vacxin đều
không có biểu hiện bệnh tích, các cơ quan nội tạng
đều ở trạng thái sinh lý bình thường. Trong khi đó
ở lợn không được tiêm vacxin có các bệnh tích rất
đặc trưng, tập trung ở phổi như xuất huyết phổi,
viêm phổi hoại tử gây chắc đặc, phổi bị nhục hóa.
Các vùng phổi bị bệnh màu đỏ xám, mặt cắt lồi và
khô, hạch lâm ba phổi xuất huyết.
Kết quả này cũng khác biệt với kết quả nghiên
cứu của Tô Long Thành và cs. (2014) khi đánh giá
hiệu lực của vacxin Amervac PRRS; Nguyễn Tùng
và cs. (2011) khi khảo nghiệm vacxin PRRS nhược
độc chủng JXA1-R. Nhưng kết quả này lại tương
đồng với nghiên cứu của Yu và cs. (2015) khi nghiên
cứu tính an toàn và hiệu quả của chủng virus vacxin
nhược độc PRRS JXA1-R.
Các bệnh tích đặc trưng của lợn không được
tiêm vacxin sau khi công cường độc được thể hiện
trong các hình 3, 4 và 5.
Hình 3. Xuất huyết dưới da
Hình 4. Viêm kẽ phổi, viêm phế quản-phổi
Hình 5. Phổi chắc đặc, mặt cắt lồi
3.5. Độ tuổi thích hợp sử dụng vacxin
Kết quả khảo sát độ tuổi thích hợp cho sử dụng
vacxin trên lợn con được trình bày qua hình 6.
Hình 6 cho thấy: Ở các lứa tuổi khi sử dụng
vacxin, lợn đều sinh đáp ứng miễn dịch. Tuy
nhiên, sử dụng vacxin cho lợn 2 tuần tuổi, khả
37
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
Hình 6. Hiệu giá kháng thể của lợn ở các độ tuổi
(Ghi chú: a, b là khác nhau có ý nghĩa thống kê)
Xác định bằng IPMA Xác định bằng kháng thể trung hoà
năng đáp ứng miễn dịch không cao, hiệu giá kháng
thể còn thấp, kháng thể trung hòa gần như chưa
xuất hiện. Sử dụng vacxin cho lợn từ 4 tuần tuổi
trở lên, đáp ứng miễn dịch tốt, hiệu giá kháng thể
trung bình là 1/3225,4 và 1/2873,5 với IPMA và
1/1,26 với kháng thể trung hòa. Không nhận thấy
sự khác nhau về đáp ứng miễn dịch của nhóm lợn
4 tuần tuổi và 6 tuần tuổi (P>0,05).
Như vậy, độ tuổi sử dụng vacxin thích hợp nhất
cho lợn là từ 4 tuần tuổi trở lên. Nên tiêm vacxin
lúc 4 tuần tuổi để lợn sớm được bảo vệ với virus
gây bệnh tai xanh.
3.6. Đáp ứng miễn dịch dịch thể của vacxin tai
xanh nhược độc chủng PRRS Hanvet1.vn so với
một số vacxin đang lưu hành trên thị trường
Kết quả so sánh hiệu quả sử dụng vacxin tai
xanh nhược độc chủng Hanvet1.vn với một số loại
vacxin nhược độc phòng bệnh PRRS khác trên thị
trường được trình bày ở bảng 7.
Bảng 7. Hiệu giá kháng thể của lợn được tiêm các loại vacxin phòng bệnh PRRS
Loại vacxin Hiệu giá kháng thể xác định bằng IPMA (X-1) Hiệu giá kháng thể trung hòa (X-1)
Hanvet 2031,87 1,26
A 1280 1,12
B 100,79 0
C 507,97 0
Bảng 7 cho thấy: cả 4 loại vacxin đều gây đáp
ứng miễn dịch cho lợn. Tuy nhiên hiệu giá kháng
thể là khác nhau giữa các nhóm lợn được miễn
dịch với các vacxin khác nhau khi sử dụng virus
PRRS cường độc để kiểm tra hiệu giá kháng thể
bằng IPMA. Các vacxin của Hanvet và Trung
Quốc cho đáp ứng miễn dịch với hiệu giá kháng
thể IPMA tương đối cao (1/2031,87 và 1/1280),
trong khi đó 2 loại vacxin của châu Âu cho hiệu
giá kháng thể rất thấp. Điều này có thể được lý
giải bằng sự tương đồng kháng nguyên của các
chủng virus vacxin với chủng virus cường độc
tại Việt Nam. Vacxin của Hanvet được chọn lọc
và làm nhược độc từ chủng virus phân lập tại Việt
Nam nên tính tương đồng kháng nguyên với chủng
cường độc là rất cao (98% khi giải trình tự gen theo
phiếu xét nghiệm số: VILAS 618-270501PTNTT/
XN). Trong khi đó vacxin A sử dụng chủng virus có
nguồn gốc từ chủng độc lực cao Trung Quốc thuộc
dòng Bắc Mỹ, còn vacxin B sử dụng chủng virus từ
chủng VP-046BIS thuộc dòng châu Âu, vì vậy tính
kháng nguyên cũng có sự khác biệt với virus cường
độc tại Việt Nam, vốn là một virus dòng Bắc Mỹ.
38
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019
IV. KẾT LUẬN
Vacxin tai xanh nhược độc chủng PRRS
Hanvet1.vn có thể dùng theo đường tiêm bắp hoặc
tiêm dưới da cho lợn (hiệu giá kháng thể IPMA
đạt 1/3417,19).
Lợn có đáp ứng miễn dịch ngay ở ngày thứ 7
sau khi tiêm (hiệu giá kháng IPMA đạt 1/45,95)
và sau tiêm 4 tuần, lợn được bảo hộ hoàn toàn
khi công cường độc (hiệu giá kháng thể IPMA
đạt 1/3177,77; hiệu giá kháng thể trung hòa đạt
1/1,32).
Kháng thể tồn tại được 6 tháng, sau tiêm 5
tháng, hiệu giá kháng thể IPMA còn 1/670,27 và
hiệu giá kháng thể trung hòa còn 1/2,76.
Có thể tiêm cho lợn lúc 2 tuần tuổi, nhưng nên
tiêm lúc 4 tuần tuổi để đạt được hiệu quả miễn
dịch cao nhất.
Tiêm vacxin cho lợn mẹ, lợn con nhận được
kháng thể thụ động, kháng thể này tồn tại đến 35
ngày tuổi sau sinh.
Tại thời điểm 28 ngày sau tiêm, vacxin tai
xanh nhược độc chủng PRRS Hanvet1.vn có hiệu
giá cao nhất so với các vacxin khác trên thị trường.
Sử dụng vacxin tai xanh nhược độc chủng
PRRS Hanvet1.vn phòng được bệnh tai xanh một
cách hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Tiến, Tình hình dịch bệnh Tai xanh
(PRRS) ở Việt Nam và phương hướng phòng trị
bệnh.
article/viewFile/8301/7734
2. Nguyễn Tùng, Tống Hữu Hiến, Nguyễn Trọng
Cường, Nguyễn Văn Cảm, 2011. Khảo nghiệm
vacxin nhược độc chủng JXA1-R (Trung Quốc)
phòng Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản
(PRRS). Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập
XVIII, số 6.
3. Tô Long Thành, Nguyễn Hoàng Đăng, Tống Hữu
Hiến, Bạch Quốc Thắng, Daniel Torrents, 2014.
Đánh giá hiệu lực của vacxin Amervac PRRS đối
với chủng virus PRRS gây bệnh độc lực cao ở
Việt Nam. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập
XXI số 1.
4. TCVN 8400-21:2014
5. Lopez O.J., Osorio F.A., 2004. Role of neutralizing
antibodies in PRRSV protective immunity.
Veterinary Immunology and Immunopathology
102: 155-163.
6. Lopez O.J.,. Olivera M. F, Alvarez Garcia E.,
Kwon B.J., Doster A., and Osorio F.A.: 2007,
Protection against Porcine Reproductive and
Respiratory Syndrome Virus (PRRSV) Infection
through Passive Transfer of PRRSV-Neutralizing
Antibodies Is Dose Dependent. Clinical and
Vaccine Immunology: 269-275.
7. Molina R. M., Cha S. –H., Chittick W., Lawson
S., Murtaugh M.P., Nelson E.A., Christopher-
Hennings J., Yoon K.J., Evan R., Rowland
R.R.R., Wu W.-H., Zimmerman J.J., 2008.
Immune response against porcine reproductive
and respiratory syndrome virus during acute and
chronic infection. Vet. Immunol. Immunopathol,
126 (3-4) (2008) 283-292.
8. Yoon I. J., Joo H.S., Gyal S. M., and Molitor T.
W., 1994.A modified serum neutralization test for
the detection of antibody to porcine reproductive
and respiratory syndrome virus in swine sera. J
Vet Diagn Invest 6:289-292 (1994)
9. Yoon K., Jeffrey J. Zimmerman, Sabrina
L. Swenson, Michael J. McGinley, Ken A.
Eernisse, Andy Brevik, Lydia L. Rhinehart,
Merwin L. Frey, Howard T. Hill and Kenneth
B. Platt: 1995, Characterization of the Humoral
Immune Response to Porcine Reproductive and
Respiratory Syndrome (PRRS) virus Infection . J
VET Diagn Invest 7: 305-312.
10. Xiuling Yu, Zhi Zhou, Zhen Cao, Jiajun Wu,
Zhangqiu Zhang, Baiwan Xu, Chuanbin Wang,
Dongmei Hu, Xiaoyu Deng, Wei Han, Xiaoxu
Gu, Shou Zhang, Xiaoxia Li, Baoyiu Wang,
Xinyan Zhai, Kegong Tian, 2015. Assessment
of safety and efficacy of attenuated live vaccine
base on hight pathogenic porcine reproductive and
respiratory syndroms virus. Clinical and Vaccine
Immunology, volume 22, number 5, May 2015.
Ngày nhận 2-8-2018
Ngày phản biện 20-8-2018
Ngày đăng 1-1-2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dap_ung_mien_dich_cua_lon_sau_khi_tiem_vacxin_tai_xanh_nhuoc.pdf