Đề án Bàn về kế toán tài sản cố định thuê tài chính và các giải pháp hoàn thiện

Tóm lại, những phân tích về thực trạng hoạt động và hạch toán TSCĐ thuê tài chính cho thấy những vướng mắc chủ yếu là về phía cơ chế tài chính. Những văn bản pháp quy được ban hành chồng chéo và không đồng bộ. Chính những điều này gây khó khăn, lúng túng cho bên cho thuê và bên đi thuê. Vì lợi ích của hoạt động này mong rằng các cơ quan chức năng quan tâm giải quyết. Có thể Đề án này chưa phản ánh đầy đủ thực trạng hoạt động và hạch toán TSCĐ thuê tài chính do nguồn tài liệu thu thập được không nhiều và những kiến nghị trên đây tôi cũng không dám khẳng định đó là những giải pháp tốt nhất nhưng dó cũng là một trong các giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán TSCĐ thuê tài chính. Tôi mong rằng nó sẽ góp phần nào đó vào việc phát triển hoạt động thuê tài chính nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về kế toán tài sản cố định thuê tài chính và các giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảng cân đối kế toán. Riêng đối với tiền cho thuê bất thường được ghi nhận vào thu nhập trong kỳ. 2.3) So sánh Chuẩn mực kế toán TSCĐ thuê tài chính của Việt Nam (VAS 06 ) với Chuẩn mực kế toán quốc tế về TSCĐ thuê tài chính (IAS 17 ). Những điểm giống nhau. Việc phân loại tài sản cho thuê là thuê tài chính hay thuê hoạt động được thực hiện từ khi bắt đầu cho thuê và tuân theo nguyên tắc coi trọng nội dung hơn hình thức của hợp đồng thuê. Kế toán của bên thuê Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, TSCĐ thuê tài chính phải được ghi nhận là tài sản và nợ phải trả trong Bảng cân đối kế toán của bên đi thuê cùng với một giá trị. Bên cạnh đó, việc tính toán giá trị hiện tại của khoản thanh toán trên thuê tối thiểu sẽ phải sử dụng lãi suất ngầm định trong hợp đồng thuê (là tỷ lệ chiết khấu tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, để tình giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu và giá trị còn lại không được đảm bảo để cho tổng cuả chúng đúng bằng giá trị hợp lý của tài sản thuê) hoặc lãi suất bên đi vay của bên đi thuê (là lãi suất mà bên thuê sẽ phải trả cho một hợp đồng thuê tài chính tương tự hoặc là lãi suất tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản mà bên thuê sẽ phải trả để vay một khoản cần thiết cho việc mua tài sản với một thời hạn và với một đảm bảo tương tự). Các chi phí trực tiếp ban đầu liên quan tới các hoạt động cho thuê được vốn hoá vào tài sản như chi phí đàm phán, ký kết hợp đồng… khoản thanh toán cho hợp đồng CTTC phải được tách ra thành chi phí tài chính và khoản phải trả nợ gốc. Chi phí tài chính phải được tính theo từng kỳ kế toán trong suốt thời hạn thuê theo tỷ lệ lãi suất định kỳ cố định trên số dư nợ còn lại cho mỗi kỳ kế toán . Trong quá trình sử dụng, bên thuê phải trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính vào chi phí sản xuất kinh doanh cho mỗi kỳ kế toán. Chính sách khấu hao tài sản thuê phải nhất quán với chính sách khấu hao tài sản cùng loại thuộc sở hữu của doanh nghiệp đi thuê. *Việc công bố thông tin của bên thuê bao gồm: giá trị còn lại của những tài sản là đối tượng của hợp đồng thuê tài chính tại thời điểm lập báo cáo, tiền cho thuê bất thường được ghi nhận là thu nhập trong kỳ. Bên cạnh đó bên đi thuê phải diễn giải khái quát về những thoả thuận cho thuê quan trọng. b) Những điểm khác biệt Mặc dù kế thừa và chịu ảnh hưởng nhiều mặt của chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng ngoài những điểm giống nhau về cơ bản nêu trên, Chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn có sự khác biệt, mang bản sắc riêng. Xét về mặt hình thức trình bày thì VAS 06 trình bày mỗi vấn đề cho từng bên ( đi thuê, cho thuê ) còn IAS 17 lại trình bày các vấn đề có liên quan đối với từng bên thuê và bên cho thuê như cho thuê tài chính, cho thuê hoạt động và công bố. Mỗi cách trình bày có những ưu điểm và nhược điểm riêng tuy nhiên các cách này đều chung mục đích là giúp người thực hiện dễ đọc và dễ hiểu . Việc phân loại tài sản thuê, VAS 06 có nói thêm là bất cứ tại thời điểm nào hai bên thoả thuận các điều khoản của hợp đồng (trừ việc gia hạn hợp đồng) dẫn đến sự thay đổi cách phân loại tài sản thì các điều khoản mới thay đổi này được áp dụng cho suốt thời gian hợp đồng . Tuy nhiên, những thay đổi về ước tính hoặc thay đổi khả năng thanh toán của bên thuê không dẫn đến sự phân loại mới về thuê tài sản. Về việc ghi nhận tài sản và nợ phải trả trên bảng cân đối kế toán của bên đi thuê theo cùng một giá trị thì IAS 17 quy định giá trị ghi nhận ở đây thấp hơn giá trị hợp lý của tài sản và khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu theo hợp đồng, VAS 06 lại quy định rõ ràng việc ghi nhận này theo giá trị hợp lý của tài sản thuê tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, nếu giá trị hợp lý của tài sản thuê cao hơn giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu cho việc thuê tài sản thì ghi theo giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu. Ơ điểm này thì VAS 06 sát thực tế hơn và đón trước vấn đề có thể xảy ra . Về việc công bố của bên đi thuê: trong VAS 06 có đưa thêm thông tin về căn cứ xác định tiền thuê phát sinh thêm, điều khoản gia hạn hợp đồng thuê hoặc quyền được mua lại tài sản. Còn IAS 17 quy định cung cấp thêm một số thông tin như: các khoản nợ đối ứng với các tài sản thuê phải được trình bày tách biệt với các khoản nợ khác và phải phân biệt phần nợ ngắn hạn và nợ dài hạn, nhưng yêu cầu về khấu hao đối với nhà xưởng, máy móc, thiết bị cho thuê, số tiền thanh toán thuê lại tối thiểu trong tương lai dự tính thu được dưới hình thức cho thuê lại không thể huỷ bỏ vào ngày lập Bảng cân đối kế toán. Những sự khác biệt trên là do IAS đưa ra những quy định chung nhất cho tất cả các nước. Khi đưa vào áp dụng ở mỗi nước, nó phải chịu ảnh hưởng của điều kiện kinh tế xã hội, cùng với chế độ chính trị... của nước đó. Do vậy mỗi nước phải có hệ thống Chuẩn mực kế toán riêng phù hợp với thực tiễn, không thể áp dụng máy móc Chuẩn mực kế toán quốc tế. Đó là sự áp dụng sáng tạo để phù hợp và từng bước hoàn thiện. IAS s là những quy định chung còn VAS s là những quy định cụ thể áp dụng cho Việt Nam. III) Nội dung hạch toán TSCĐ thuê tài chính. 3.1) Thủ tục chứng từ. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục do vậy mà TSCĐ nói chung và TSCĐ thuê tài chính nói riêng của doanh nghiệp cũng thường xuyên biến động. Điều này thuỳ thuộc vào đường lối chính sách, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các đối thủ cạnh tranh. Để quản lý tốt TSCĐ, đặc biệt là TSCĐ thuê tài chính, kế toán phải phản ánh theo dõi chặt chẽ đầy đủ mọi trường hợp biến động. Khi có tài sản tăng do bất kỳ nguyên nhân nào đều phải có ban kiểm nghiệm TSCĐ làm thủ tục nghiệm thu, đồng thời cùng với bên giao lập “Biên bản giao nhận TSCĐ ” ( Mẫu số 01- 01 TSCĐ /BB) theo mẫu quy định trong “Chế độ ghi chép ban đầu” cho từng đối tượng ghi TSCĐ.Đối với những TSCĐ cùng loại ,giao nhận cùng lúc, đo cùng một đơn vị chuyển giao thì có thể lập chung một biên bản .Sau đó phòng kế toán phải sao lại cho mọi đối tượng một bản để lưu vào sổ hồ sơ riêng .Hồ sơ này bao gồm;hợp đồng thuê tài sản, biên bản giao nhận TSCĐ,các bản sao tài liệu kỹ thuật ,các hoá đơn ,giấy vận chuyển ... Căn cứ vào đó, phòng kế toán mở thẻ hoặc sổ để hạch toán chi tiết TSCĐ thuê tài chính theo mẫu thống nhất .Thẻ TSCĐ thuê tài chính lập làm một bản và để lại phòng kế toán để theo dõi ghi chép diễn biến phát sinh trong quá trình sử dụng. Sau đó, thẻ TSCĐ thuê tài chính được đăng ký vào sổ TSCĐ. Sổ này lập chung cho toàn doanh nghiệp một quyển và cho từng đơn vị sử dụng mỗi nơi một quyển thẻ hoặc sổ TSCĐ sau khi lập xong phải được sắp xếp bảo quản trong hòm thẻ TSCĐ và giao cho kế toán TSCĐ giữ, ghi chép và theo dõi. Mỗi đơn vị hoặc bộ phận (phân xưởng, phòng ban) thuộc doanh nghiệp phải mở một sổ để theo dõi tài sản. Trong quá trình sử dụng doanh nghiệp phải trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính vào chi phí sản xuất kinh doanh và từng kỳ lập “ Bảng phân bổ khấu haoTSCĐ” . Khi hết hạn hợp đồng thuê, căn cứ trên các điều khoản hợp đồng quy định kế toán ghi tăng TSCĐ và xoá sổ TSCĐ thuê tài chính ( nếu doanh nghiệp mua lại) hoặc xoá sổ TSCĐ thuê tài chính (nếu doanh nghiệp trả lại đơn vị cho thuê). 3.2) Tài khoản sử dụng. Hạch toán TSCĐ thuê tài chính sử dụng tài khoản 212 – TSCĐ thuê tài chính.TK này phản ánh sự biến động và giá trị hiện có của toàn bộ TSCĐ thuê tài chính của doanh nghiệp. Đơn vị thuê dùng TK này để hạch toán nguyên giá TSCĐ thuê tài chính . Những tài sản này chưa thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp có nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý quản lý và sử dụng như tài sản của doanh nghiệp. Nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính là giá chưa có thuế GTGT do bên thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê. Nếu TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động sản suất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thuế thì số thuế GTGT phải trả từng kỳ được ghi vào bên nợ TK 133 – thuế GTGT được khấu trừ ( 1332). Nếu TSCĐ này dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì số thuế GTGT phải trả từng kỳ được ghi vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Trường hợp bên thuê nhận nợ cả số thuế GTGT mà bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê thì số thuế GTGT được theo dõi trên tài khoản 138 – phải thu khác và số phân bổ để khấu trừ thuế GTGT hoặc chi phí kinh doanh trong kỳ theo từng kỳ nhận hoá đơn thanh toán tiền thuê. Tài khoản này không phản ánh giá trị của các TSCĐ đi thuê hoạt động. Nó được mở chi tiết để theo dõi từng loại, từng tài sản đi thuê. Việc ghi nhận nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính tại thời điểm khởi đầu thuê đựoc thực hiện theo quy định của Chuẩn mực kế toán số 06 “ Thuê tài sản”. Giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu đuợc tính theo công thức: = Trong đó : PV là giá trị hiện tại T là thời gian thuê i là lãi suất ngầm định hoặc lãi suất biên đi vay ngân hàng của bên thuê tại thời điểm thuê. a là khoản thanh toán tiêng thuê tối thiểu Khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu được tính theo từng trường hợp của hợp đồng. Nếu hợp động quy định bên thuê có quyền mua lại tài sản với giá thấp hơn giá trị hợp lý tại ngày mua thì khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu bao gồm: tiền thuê tối thiểu ghi trong hợp đồng và các khoản thanh toán cần thiết để mua lại tài sản thuê tại thời điểm mua. Nếu hợp đồng không có điều khoản quyền được mua lại tài sản thuê với giá trị thấp hơn giá trị hợp lý tại ngày mua khi hết hạn hợp đồng thì khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu bao gồm: Tiền thuê tối thiểu ghi trong hợp đồngvà giá trị còn lại của tài sản thuê đựoc đảm bảo thanh toán bởi bên thuê hoặc bên liên quan đến bên cho thuê. Cần lưu ý là khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu không bao gồm chi phí dịch vụ và thuế bên cho thuê đã trả hộ bên đi thuê phải hoàn lại và tiền thuê phát sinh thêm. Sau thời điểm thuê, kế toán TSCĐ thuê tài chính trên TK 212 được thực hiện theo quy định của Chuẩn mực kế toán số 03 “ TSCĐ hữu hình”. Kết cấu và nội dung phản ánh của TK 212 – TSCĐ thuê tài chính. Bên nợ: Phản ánh nguyên giá TSCĐ thuê tài chính tăng. Bên có: Phản ánh nguyên giá TSCĐ thuê tài chính giảm do chuyển trả lại cho bên cho thuê khi hết hạn hợp đồng hoặc mua lại thành TSCĐ của doanh nghiệp. Số dư bên nợ: Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính hiện có của doanh nghiệp. Ngoài TK 212 doanh nghiệp còn phải sử dụng các TK sau: TK 342 – Nợ dài hạn. TK 315 – Nợ dài hạn đến hạ trả TK 2142 – Hao mòn TSCĐ thuê tài chính TK 133 – Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ. TK 242 – Chi phí trả trước dài hạn. TK 635 – Chi phí hoạt động tài chính. 3.3) Phương pháp hạch toán a) Khi phát sinh các chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến TSCĐ thuê tài chính trước khi nhận TS thuê như chi phí đàm phán, ký kết hợp đồng... ghi: Nợ TK 142- chi phí trả trước Có TK 111, 112... b) Khi doanh nghiệp chi tiền ứng trước khoản tiền thuê tài chính, ký quỹ, ký cược để đảm bảo việc thuê TS, ghi: Nợ TK 242- chi phí trả trước dài hạn( số tiền thuê trả trước – nếu có ) Nợ TK 244- Ký quỹ, ký cược dài hạn Có TK 111,112... c.1) Nếu nợ gốc phải trả về thuê tài chính theo giá mua chưa có thuế GTGT mà bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ cho thuê thì trình tự hạch toán như sau: Khi nhận TSCĐ thuê tài chính, kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê tài sản và các chứng từ có liên quan phản ánh giá trị TSCĐ thuê tài chính theo giá chưa có thuế GTGT đầu vào, ghi: Nợ TK 212 – TSCĐ thuê tài chính ( giá chưa có thuế GTGT) Có TK342 – Nợ dài hạn giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu hoặc giá trị hợp lý của tài sản thuê trừ ( - ) số nợ gốc phải trả kỳ này. Có TK 315 – Nợ dài hạn đến hạn trả (số nợ gốc phải trả kỳ này) Các chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến hoạt động thuê tài chính được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ thuê tài chính, ghi: Nợ TK 212 – TSCĐ thuê tài chính Có TK 142- Chi phí trả trước Có TK 111, 112 (số chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động thuê phát sinh khi nhận TSCĐ thuê tài chính) . Cuối niên độ kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê tài sản xác định số nợ gốc thuê tài chính đến hạn trả trong niên độ kế toán tiếp theo, ghi: Nợ TK 342- Nợ dài hạn Có TK 315 – Nợ dài hạn đến hạn trả Định kỳ, nhận hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính + Nếu TSCĐ thuê tài chínhdùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tih theo phương pháp khấu trừ thuế - Khi xuất tiền trả nợ gốc ,tiền lãi cho thuê và thuế GTGT cho đơn vị cho thuê ,ghi; Nợ TK635-chi phí tài chính (tiền lãi thuê trả kỳ này ) Nợ TK315-Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gốc phải trả kỳ này ) NợTK133-ThuếGTGT được khấu trừ(1332) CóTK111,112... -Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài sản nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay ,căn cứ vào hoá đơn phản ánh số nợ phải trả lãi thuê tài chính và số thuế GTGT vào TK 315 – nợ dài hạn đến hạn trả, ghi: Nợ TK 635- Chi phí tài chính ( tiền lãi thuê) Nợ TK133- Thuề GTGT được khấu trừ (1332) Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả . + Nếu TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp : Khi xuất tiền trả nợ gốc, tiền lãi thuê và thuế GTGT cho đơn vị cho thuê, ghi: Nợ TK 635- Chi phí tài chính (tiền lãi thuê trả kỳ này) Nợ TK315-Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gổc trả kỳ này ) Nợ TK 623,627, 641, 642( số thuế GTGT trả kỳ này) Có các TK 111, 112... Khi nhân được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay căn cứ vào hoá đơn phản ánh số nợ phải trả lãi thuê tài chính và số thuế GTGT phải trả vào TK 315 – nợ dài hạn đến hạn trả ghi: Nợ TK 635- Chi phí tài chính ( Tiền lãi thuê) Nợ TK 623, 627, 641, 642 (số thuế GTGT trả kỳ này) Có TK 315- nợ dài hạn đến hạn trả c.2) Nếu số nợ phải trả về thuê tài chính xác định theo giá mua có thuế GTGT mà bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê : Khi nhận TSCĐ thuê tài chính bên đi thuê nhận nợ cả số thuế GTGT do bên cho thuê đã trả khi mà TSCĐ để cho thuê mà bên thuê phải hoàn lại cho bên cho thuê, kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê tài chính và các chứng từ liên quan phản ánh giá trị TSCĐ thuê tài chính theo giá chưa có thuế GTGT phải hoàn lại cho bên cho thuê, ghi: Nợ TK 212 – TSCĐ thuê tài chính ( giá chưa có thuế GTGT) Nợ TK 138- Phải thu khác ( số thuế GTGT đầu vào của TSCĐ thuê tài chính) Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả ( số nợ phải trả kỳ này có cả thuế GTGT Có TK 342- Nợ dài hạn (giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu hoặc giá trị hợp lý của tài sản thuê trừ (-) số nợ phải trả kỳ này cộng (+) số thuế GTGT bên thuê còn phải trả dần trong suốt thời hạn thuê) . Các chi phí trực tiếp ban đầu được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ thuê tài chính, ghi: Nợ TK 212- TSCĐ thuê tài chính Có TK 142- Chi phí trả trước Có TK 111,112 ( Chi phí trực tiếp phát sinh liên quan đến hoạt động thuê tài chính khi nhận TSCĐ thuê tài chính). Cuối niên độ kế toán, căn cứ vào hợp đồng thuê tài chính xác định số nợ gốc thuê tài chính đến hạn trả trong niên độ kế toán tiếp theo, ghi: Nợ TK 342- Nợ dài hạn Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả Định kỳ, nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính: + Khi chi tiền trả nợ gốc và tiền lãi thuê tài sản cho đơn vị cho thuê, ghi: Nợ TK 635- Chi phí tài chính( tiền lãi thuê trả kỳ này) Nợ TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (nợ gốc phải trả kỳ này có cả thuế GTGT). Có các TK 111, 112.... + Căn cứ vào hoá đơn thanh toán tiền thuê phản ánh số thuế GTGT phải thanh toán cho bên thuê trong kỳ, ghi: Nếu TSCĐ thuê tài chính được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, ghi: Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ ( 1332 ) Có TK 138- Phải thu khác. Nếu TSCĐ thuê tài chính được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, ghi: Nợ các TK 623, 627, 641, 642. Có TK 138- Phải thu khác. + Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay, căn cứ vào hoá đơn phản ánh số lãi thuê tài chính phải trả kỳ này vào TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả, ghi: Nợ TK 635- Chi phí tài chính. Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả ( tiền lãi thuê phải trả kỳ này ). Căn cứ vào hoá đơn thanh toán tiền thuê phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ hoặc tính vào chi phí trong kỳ giống như trường hợp chi tiền trả nợ khi nhận được hoá đơn. d) Khi trả phí cam kết sử dụng vốn phải trả cho bên thuê tài sản, ghi: Nợ TK 635- Chi phí tài chính. Có các TK 111, 112... e) Định kỳ, kế toán tính, trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính vào chi phí sản xuất, kinh doanh hoặc vốn hoá vào giá trị tài sản dở dang, ghi: Nợ TK 623, 627, 641, 642 241... Có TK 214- Hao mòn TSCĐ thuê tài chính (2142) Đồng htời ghi đơn bên nợ TK 009- Nguồn vốn khấu hao TSCĐ. TSCĐ thuê tài cũng phải áp dụng chính sách khấu hao tương tự như chính sách khấu hao TSCĐ cùng loại thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đi thuê. Do đo, việc áp dụng khấu hao TSCĐ ban hành kèm theo Quyết định số 166/1999/ QĐBTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính (khấu hao theo phương pháp tuyến tính). Việc đầu tiên, quan trọng là phải xác định rõ giá trị khấu hao và thời gian khấu hao. - Giá trị phải khấu hao tài sản thuê tài chính là nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính trừ đi(-) giá trị thanh lý ước tính. - Thời gian khấu hao TSCĐ thuê tài chính có 2 trường hợp sau: + Nếu hợp đồng thuê kết thúc bằng việc quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao thì thời gian khấu hao là thời gian sử dụng hữu ích của Tài sản đó. + Nếu hợp đồng thuê tài sản kết thúc không có sự chuyển giao quyền sở hữu tài sản thuê hoặc không chắc chắn chuyển giao quyền sở hữu thì thời gian khấu hao là thời gian thuê thời gian thuê tài sản. = g) Khi trả lại TSCĐ thuê tài chính theo quy định của hợp đồng thuê cho bên cho thuê, kế toán ghi giảm giá trị TSCĐ thuê tài chính, ghi: Nợ TK 214- Hao mòn TSCĐ ( 2142) Có TK 212- TSCĐ thuê tài chính h) Nếu hợp đồng thuê tài sản quy định bên đi thuê chỉ thuê hết một phần giá trị tài sản, sau đó mua lại thì khi nhận chuyển giao quyền sở hữu tài sản, kế toán ghi giảm TSCĐ thuê tài chính và ghi tăng TSCĐ hữu hình thuộc quyền sở hữu của doah nghiệp: * Khi chuyển từ TSCĐ thuê tài chính sang TSCĐ thuộc sở hữu, ghi: Nợ TK 211- TSCĐ hữu hình Có TK 212- TSCĐ thuê tài chính *Số tiền trả khi mua lại TSCĐ thuê tài chính, ghi: Nợ TK 211- TSCĐ hữu hình Có các TK 111, 112. Đồng thời chuyển giá trị hao mòn, ghi: Nợ TK 2142- Hao mòn TSCĐ thuê tài chính. Có TK 2141- Hao mòn TSCĐ hữu hình. Quá trình hạch toán nghiệp tài chínhTSCĐ của doanh nghiệp được khái quát qua sơ đồ sau: Sơ đồ kế toán TSCĐ thuê tài chính (trường hợp khoản nợ phải trả xác định theo giá mua chưa có thuế GTGT) Nguyên Giá Tài sản cố định thuê tài chính TK 111, 112 TK 142 TK 244 TK 635 TK 133 TK623,627, 641,642 (1) TK 315 TK 342 TK 111, 112 TK 111, 112 TK 211 (15) (6) TK 212 TK 2142 TK 623, 627, 641,642 (2) (3) (4) (4a) (4b) (4c) (4d) (5) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) Trong đó: : khi phát sinh các chi phí trực tiếp ban đầu trước khi nhận TSCĐ thuê : kết chuyển số chi phí trực tiếp ban đầu phát sinh trước khi nhận TSCĐ thuê : khi chi tiền ký quỹ đảm bảo thanh toán tiền thuê : định kỳ nhận được hoá đơn chi tiền trả nợ (4a): nợ gốc (4b): nợ lãi (4c): thuế GTGT (phương pháp khấu trừ) (4d): thuế GTGT (phương pháp trực tiếp) (5): nhận hoá đơn nhưng chưa trả tiền (6): khi chi tiền trả nợ thuê TSCĐ thuê tài chính (7): cuối kỳ kết chuyển số nợ đến hạn trả vào kỳ sau (8): số nợ phải trả kỳ này (9): số nợ phải trả trong các kỳ tiếp theo (10): chi phí trực tiếp phát sinh khi nhận TSCĐ thuê tài chính (11): khi hết thời hạn thuê trả TSCĐ thuê tài chính cho bên cho thuê (12): khi trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính (13): kết chuyển hao mòn khi hết hạn thuê mua lại TSCĐ thuê tài chính (14): khi mua lại TSCĐ thuê tài chính (15): khi phải trả thêm tiền để mua lại TSCĐ thuê tài chính kế toán TSCĐ thuê tài chính TK 111,112 TK 142 TK 244 TK 212 Tk 2142 TK 623, 627, 641, 642 TK 2141 TK 211 TK 111,112 TK 315 TK 342 TK 635 TK 111,112 TK 138 TK 133 TK 623,627, 641, 642 (1) (2) (2a) (3) (4a) (6) (8) (7) (10) (11) (12) (13) (14) (15) (16) (2b) (4b) (5) (9) (4) (Trường hợp các khoản nợ phải trả tính theo giá mua có cả thuế GTGT) Trong đó: (1): khi phát sinh các chi phí trực tiếp ban đầu trước khi nhận TSCĐ thuê tài chính (2): kết chuyển số chi phí trực tiếp ban đầu phát sinh khi nhận TSCĐ thuê tài chính (2a): nguyên giá TSCĐ thuê tài chính (2b): số nợ thuế GTGT (3): khi chi tiền ký quỹ đảm bảo thanh toán tiền thuê TSCĐ (4): khi nhận được hoá đơn doanh nghiệp chi tiền trả luôn (4a): nợ gốc (4b): nợ lãi thuê (5): số nợ phải trả kỳ này (6): cuối kỳ kết chuyển số nợ đến hạn trả vào kỳ sau (7): số nợ phải trả các kỳ tiếp theo (8): nhận hoá đơn nhưng chưa thanh toán (9): chi phí trực tiếp phát sinh khi nhận TSCĐ thuê tài chính (10): trả lại TSCĐ thuê tài chính cho bên cho thuê khi hết hạn thuê (11): khi trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính (12): kết chuyển số khấu hao TSCĐ thuê tài chính (13): kết chuyển giá trị TSCĐ thuê tài chính khi hết hạn thuê doanh nghiệp mua lại (14): trả thêm tiền để mua lại TSCĐ thuê tài chính (15): định kỳ nhận hoá đơn tính thuế GTGT (phương pháp khấu trừ thuế) (16): định kỳ nhận hoá đơn tính thuế GTGT vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ (phương pháp trực tiếp) Phần II: Đánh giá thực trạng hoạt động thuê tài chính và hạch toán TSCĐ thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay I. Một số quy định đối với đơn vị đi thuê 1.1 Một số quy định chung Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP (thay thế cho Nghị định 64/NĐ-CP) thì đối tượng cho thuê là các tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam. Bên thuê có quyền lựa chọn, thoả thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, cách thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt và bảo hành;quyền quyết định việc mua tài sản hoặc tiếp tục thuê sau khi hết hạn hợp đồng cho thuê tài chính; quyền yêu cầu bên cho thuê bồi thường thiệt hại khi bên cho thuê vi phạm hợp đồng CCTC. Bên cạnh đó, bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước hạn khi bên cho thuê vi phạm một trong các trường hợp: bên cho thuê không giao đúng hạn tài sản cho thuê hoặc bên cho thuê vi phạm hợp đồng. Đi kèm theo các quyền trên bên thuê có nghĩa vụ cung cấp các báo cáo quý, quyết toán tài chính năm và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, các vấn đè liên quan đến tài sản thuê khi bên cho thuê yêu cầu; sử dụng tài sản thuê đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp dồng CTTC; trả tiền thuê theo thoả thuận trong hợp đồng CTTC và thanh toán các chi phí có liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, lệ phí đăng ký quyền sở hữu, bảo hiểm đối với tài sản thuê; không được dùng tài sản thuê để thế chấp, cầm cố hoặc để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác; chịu trách nhiệm bảo dưỡng thường xuyên hoặc định kỳ; sửa chữa tài sản thuê bị hư hỏng và chịu thiệt hại khi tài sản thuê bị mất, hư hỏng không còn khả năng phục hồi trong suốt thời gian thuê; theo dõi, quản lý, sử dụng và trích khấu hao đối với TSCĐ thuê tài chính như đối với TSCĐ cùng loại thuộc sở hữu của mình. Tóm lại, bên thuê phải thực hiện đầy đủ và đúng các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng thuê TSCĐ. 1.2 Các quy định về thuế GTGT Thông tư số 49/1999/TT-BTC ban hành ngày 6/05/1999 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Luật thuế GTGT đối với hoạt động CTTC có quy định: thuế GTGT của tài sản thuê tài chính do bên cho thuê tài chính đã nộp sẽ được bên thuê trả dần trên cơ sở hợp đồng thuê tài chính, như vậy bên thuê ngoài việc trả tiền thuê còn phải trả tiền thuế GTGT mà bên cho thuê đã thanh toán với người cung cấp tài sản. Căn cứ vào hoá đơn mà bên cho thuê xuất, bên đi thuê thực hiện hạch toán phần thuế GTGT đã trả cho bên cho thuê vào tài khoản khấu trừ thuế. Phần thuế được khấu trừ mỗi kỳ được tính theo quy định của Thông tư 105/2003/TT-BTC ban hành ngày 4/11/2003. Ngoài ra còn có một số quy định về quản lý hoá đơn bao gồm: Bên cho thuê chịu trách nhiệm quản lý hoá đơn GTGT khi mua tài sản dùng vào hoạt động cho thuê. Trong trường hợp bên cho thuê trực tiếp nhập khẩu hàng hoá thì bên cho thuê phải quản lý biên lai nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu (nếu có). Các chứng từ này sẽ dược chuyển giao cho bên thuê sau khi khấu hao hết số thuế GTGT và chuyển quyền sở hữu cho bên thuê khi kết thúc hợp đồng CTTC. Nếu hợp đồng CTTC quy định bên thuê chỉ thuê hết một phần giá trị tài sản thì chứng từ để bên thuê (khi mua lại tài sản) được khấu trừ tiếp phần thuế GTGT giống như khi mua trực tiếp TSCĐ có thuế GTGT đầu vào gồm: Hoá đơn GTGT mua tài sản (mua trong nước) hoặc chứng từ nộp thuế GTGT (nhập khẩu) của bên cho thuê chuyển giao, hoá đơn dịch vụ CTTC tại thời điểm bên thuê mua lại tài sản. Nếu hợp đồng CTTC đã thực hiện xong và số thuế GTGT đã được bên thuê trả hết, hai bên thoả thuận thì việc xuất hoá đơn dịch vụ CTTC sẽ không phản ánh thuế GTGT. II. Thực trạng hoạt động thuê tài chính TSCĐ hiện nay. 2.1. Những kết quả đạt được ở nước ta CTTC là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, nhưng đây là một phương thức tài trợ vốn thích hợp, góp phần đa dạng hoá các hình thức tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn, góp phần tháo gỡ những khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Luật pháp đã công nhận CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và các động sản khác. Trước đây, ở nước ta một số thiết bị với số vốn lớn mà trong nước không thể sản xuất được như máy bay, tàu thuỷ trọng tải lớn,…chúng ta đã áp dụng phưông thức này với các nhà sản xuất hoặc nhà cho thuê nước ngoài. Trước tình hình đó, tháng 5/1995 NHNN Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng thuê mua ở Việt Nam. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này đã nảy sinh nhiều bất cập, đén tháng 10/1995 Chính phủ chính thức ban hành Nghị định 64/CP quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt đông của công ty CTTC Việt Nam. Trên cơ sở Nghị định 64/CP hoạt động CTTC ra đời và hiện nay cả nước có 8 công ty CTTC hoạt động ở 3 loại hình gồm: 5 công ty CTTC trực thuộc các Ngân hàng thương mại (NHTM) , đều thành lập năm 1998 gồm: công ty CTTC của Ngân hàng công thương; công ty CTTC của Ngân hàng Ngoại thương; công ty CTTC của Ngân hàng đầu tư và phát triển; và hai công ty CTTC của Ngân hàng nông nghiệp. 2 công ty CTTC 100% vốn nước ngoài là: công ty CTTC Kexim, 100% vốn của Hàn quốc, thành lập năm 1996; công ty CTTC ANZVTRAC 100% vốn của Ngân hàng ANZ (úc) và tập đoàn V-TRAC (Mỹ), thành lập năm 2000. 1 công ty CTTC liên doanh giữa Ngân hàng công thương Việt Nam và một đối tác nước ngoài là công ty VILC, thành lập năm 1996. Cho đến nay, các công ty CTTC đã từng bước ổn định, hoạt động có hiệu quả và đang mở rộng dần thị phần. Chỉ tính riêng trogn năm 2001 lợi nhuận ròng của các công ty CTTC đã là 40,4 tỷ đồng (trừ hai công ty nước ngoài bị thua lỗ). Nhằm mục đích củng cố hoạt động của các công ty CTTC, ngày 2/5/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP thay thế Nghị định 64/CP và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Thông tư 08/2001/TT-NHNN ngày 6/9/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định trên. Các công ty CTTC, ngoài vốn tự có theo pháp định (là 50 tỷ đồng đối với các công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty 100% vốn nước ngoài), hạch toán kinh tế độc lập, còn được huy động vốn dưới các hình thức sau: một là, huy động vốn dài hạn từ 1 năm trở lên; hai là, phát hành trái phiếu hoặc chứng chỉ tiền gửi dài hạn; ba là, vay vốn các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước; bốn là, được nhận các nguồn vốn khác do NHNN Việt Nam quy định (theo Nghị định 16, các công ty CTTC chỉ được nhậ tiền gửi ó kỳ hạn trên 1 năm và phát hành các loại giấy tờ có giá trị nếu được sự đồng ý của NHNN, ngoài ra còn có thể huy động vốn từ tiền ký quỹ của khách hàng thuê và đi vay của các NHTM). Tính đến 30/6/2002 tổng số vốn điều lệ của 8 công ty CTTC là 670,4 tỷ đồng chiếm 29,88% tổng nguồn vốn;tổng vốn huy động của 8 công ty là 1550,6 tỷ đồng chiếm 70,12% tổng nguồn vốn; dư nợ cho thuê trong toàn hệ thống là 2021,7 tỷ đồng chiếm 90,11% trên tổng tài sản có, trong đó dư nợ quá hạn chỉ chiếm 3,45% tổng dư nợ. Khách hàng chủ yếu của các công ty CTTC là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp và công ty tư nhân mới thành lập. Chứng tỏ phương thức tài trợ này đã khắc phục được những hạn chế của phương thức cho vay bằng tiền và là kênh dẫn vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn Ngân hàng. 2.2. Những vướng mắc còn tồn tại Mặc dù hoạt động CTTC đã đạt được những kết quẩ nhất định nhưng do mới đi vào hoạt động và một số cơ chế chính sách chưa hoàn thiện cùng với việc nhiều người chưa biết đến nên vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục. Về tổ chức Mặc dù là ngành kinh doanh có nhiều triển vọng và mang lại lợi ích hiết thực đối với nền kinh tế nhưng mạng lưới hoạt động của các công ty CTTC còn hạn hẹp, toàn hệ thống chỉ có 8 công ty và trụ sở chỉ tập trung ở các thành phố lớn (5 công ty có trụ sở chính ở Hà Nội, 3 công ty ở Thành phố Hồ Chí Minh). Một số công ty đã mở các chi nhánh nhưng vãn còn hạn chế:công ty CTTC thuộc Ngân hàng Nông nghiệp I đã mở một chi nhánh ở Hải Phòng; công ty CTTC thuộc Ngân hàng Nông nghiệp II mở 2 chi nhánh tại Đà Nẵng và Cần Thơ. Mạng lưới này còn quá mỏng so với mạng lưới rộng khắp của các NHTM. Nhu cầu về vốn trung và dài hạn hiện nay rất lớn. Có nhiều đối tượng muốn mở rộng, chuyển đổi mô hình sản xuất mà không có đủ điều kiện vay vốn Ngân hàng, muốn được nhận phương thức tài trợ này nhưng lại ở những nơi mà ngành này chưa vươn tới. Như vậy nhu cầu vốn và người cung ứng vốn chưa gặp nhau. Về tổ chức bộ máy các công ty CTTC còn cồng kềnh và kém hiệu quả. Theo Luật các tổ chức tín dụng, Nghị định 10/Cp và thông tư 08 của NHNN quy định các công ty CTTC phải có hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Quy định này chỉ phù hợp với các công ty CTTC độc lập còn các công ty CTTC trực thuộc NHTM thì không cần thiết vì đó là các công ty con thuộc công ty mẹ (NHTM). Về nội dung hoạt động Theo Nghị định 64/CP (9/10/1995) quy định “Bên thuê là doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam trực tiếp sử dụng tài sản thuê trong thời hạn thuê theo mục đích kinh doanh hợp pháp của mình”. Chính quy định này bó hẹp đối tượng thuê tài chính. Vào ngày 2/5/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP để nới rộng quy định này: ”Bên thuê là tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thuê cho mục đích hoạt động của mình”. Nhưng trong thông tư 08 của NHNN lại cụ thể hoá đối tượng thuê như sau: “Cá nhân có đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp, hộ gia đình, các tổ chức khác thuộc đối tượng vay vốn của các tổ chức tín dụng ”. Trong thực tế, khách hàng chủ yếu của các công ty CTTC là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn các cá nhân lại bị hạn chế vào diện có đăng ký kinh doanh (các công ty tư nhân) và các hộ kinh doanh. Như vậy, các xã viên HTX, nghệ nhân các làng nghề, cá hộ nông, lâm, ngư, diêm nghiệp chưa được các công ty CTTC quan tâm; mà đây lại là những người rất cần loại hình tín dụng này vì họ không có tài sản thế chấp các món vay trung và dài hạn bằng tiền ở Ngân hàng. Tất nhiên các công ty CTTC CTTCần thận trọng để bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh. Nhưng với người bán thì người mua nào sòng phẳng sẽ được đặt quan hệ giao dịch. Mặt khác, việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng rất cần thiết. Các loại máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất, chế biến, vận chuyển như máy kéo, máy cày, máy xay xát,trạm bơm, phương tiện đánh bắt thuỷ sản… sẽ đến được với nông dân nếu các công ty CTTC mở rộng đối tượng thuê như pháp luật quy định. Hiện nay các công ty CTTC không thể thực hiện nghiệp vụ mua và thuê lại tài chính vì một số quy định bất cập. Các tài sản thuộc diện này thường là hàng nhập khẩu và thường được miễn thuế nhập khẩu. Để ngăn ngừa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi dụng trốn thuế, Nghị định 24 của Chính phủ đã quy định: các tài sản này không được bán lại ở thị trường Việt Nam, nếu bán phải được Bộ thương mại cho phép. Thực tế, Bộ thương mại đã từ chối giải quyết nhiều giao dịch với nội dung trên. Việc mua bán này khác hẳn với các giao dịch mua bán thông thường vì nó chỉ diễn ra trên giấy tờ còn doanh nghiệp vẫn tiếp tục sử dụng tài sản và khi hết hạn thuê sẽ được phục hồi tư cách chủ sở hữu. Các quy định về giợi hạn cho thuê tài chính đối với một khách hàng cũng có vấn đề cần xem xét. Theo luật các tổ chức tín dụng, khoản 1 điều 79 “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của các tổ chức tín dụng”. Còn trong Nghị định 16/2001/NĐ-CP điều 31 lại quy định: “Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của các công ty CTTC”. Thực chất công ty CTTC là một tổ chức tín dụngnên không thể có sự phân biệt này. Trong thực tế,khi nhu cầu của khách hàng vượt quá giới hạn CTTC hoặc khách hàng có nhu cầu thuê từ nhiều nguồn thì các công ty CTTC chưa thể triển khai hoạt đông cho thuê hợp vốn vì chưa có quy định này. Đó là thiệt thòi cho các khách hàng có những dự án đầu tư lớn. Hơn nữa, việc mở rộng loại tài sản cho thuê cũng là vấn đề cần quan tâm Vấn đề gây nhiều bức xúc hiện nay của hoạt động CTTC là việc thu hồi tài sản thuê khi bên thuê vi phạm Hợp đồng. Về mặt lý thuyết, hoạt động CTTC có vẻ rất an toàn vì các văn bản pháp quy đều quy định cho bên thuê được thu hồi tài sản cho thuê khi bên thuê vi phạm hợp đồng như nợ tiền thuê, sử dụng tài sản sai mục đích… Trên thực tế vấn đề này không đơn giản vì các công ty CTTC mất rất nhiều thời gian mà khách hàng vi phạm vẫn không chịu tự giác giao trả tài sản và công ty cũng không có một lực lượng nào để cưỡng chế khách hàng cả. Bên cạnh đó, vấn đề huy động vốn nhằm tăng trưởng dư nợ cho thuê của các công ty CTTC rất khó khăn. Hiện nay hầu hết các công ty CTTC đã sử dụng hết vốn tự có. Khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh nhất là đối với các công ty có vốn nước ngoài, ba công ty đã phải vay vốn trên thị trường trong và ngoài nước. Cho đến nay chưa có một văn bản nào của NHNN cho phép các công ty CTTC được phép vay vốn trung và dài hạn của Ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng. Đối vớicác công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài để được vay vốn tại các Ngân hàng trong nước, tài sản duy nhất mà có thể cầm cố tại Ngân hàng là nguồn vốn tiền gửi ngoại tệ mạnh. Nghịch lý này cần được tháo gỡ. Mặt khác, họ cũng không dược tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi của nước ngoài như vốn ODA, các dự án tài trợ của Chính phủ… Trong điều kiện cạnh tranh lãi suất diễn ra gay gắt giữa các NHTM thì lãi suất cho thuê cũng là vấn đề làm đau đầu các Giám đốc công ty CTTC. Nguồn vốn thì có hạn, lãi suất đầu vào gần như cố định và có thể nói là rất cao. Trong thực tế, nhiều dự án có tính khả thi cao, quá trình thương thảo đã cơ bản thống nhất, nhưng khi bàn dến lãi suất cho thuê thì bên thuê và công ty CTTC lại không thể vượt qua nổi vì các NHTM trên địa bàn đưa ra lãi suất quá hấp dẫn, thấp hơn nhiều so với thuê tài chính, đặc biệt là khi điều kiện vay được nới lỏng(các doanh nghiệp nhà nước vay vốn không phải thế chấp tài sản). Các công ty CTTC không có lợi thế nào về cạnh tranh lãi suất cho thuê, chưa kể đến phí cho thuê khoảng từ 2% đến 3%/năm. Thêm vào đó, một số văn bản pháp lý ban hnàh chưa đồng bộ cũng gây không ít khó khăn lúng túng cho những người tham gia hoạt động này. Luật thuế vẫn còn một số điểm chưa phù hợp như: đến thời gian đáo hạn, khách hàng mua lại tài sản vẫn phải nộp thuế trước bạ mặc dù công ty CTTC đã nộp trước đó; chưa xác định rõ các mức thuế khác nhau đối với từng phương thức thuê mua; các vụ việc tranh chấp về hợp đồng CTTC chưa có cơ quan nào giải quyết theo quy định. Những quy chế xử lý rủi ro trong hoạt động nhập khẩu đối với tài sản CTTC chưa được ban hành; các vă bản quy định việc cấp giấy phép hoạt động tài sản thuê là các phương tiện vận tải đường bộ và đường thuỷ chưa được ban hành… Những vướng mắc trên đây cần được giải quyết để hoạt động CTTC phát triển đúng với những lợi ích mà nó mang lại. III. Thực trạng hạch toán TSCĐ thuê tài chính Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, chính phủ và Bộ tài chính đã ban hành khá đầy đủ các văn bản quy định và các Thông tư hướng dẫn cụ thể việc thực hiện chế độ đối với hoạt động thuê tài chính. Thông tư mới nhất về hạch toán TSCĐ thuê tài chính là Thông tư 105/2003/TT-BTC của Bộ tài chính ban hành ngày 4/11/2003 hướng dẫn thực hiện 6 Chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC. Mặc dù đã ban hành nhiều văn bản pháp quy để hướng dẫn thực hiện nhưng các văn bản này nhiều khi chồng chéo lên nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau gây lúng túng cho người thực hiện. Điều này thể hiện ngay từ cách tính giá TSCĐ thuê tài chính. Theo quy định, nguyên gía TSCĐ thuê tài chính được tính theo giá trị hiện tại của khoản tiền thuê theo công thức: PV = Trong đó: PV: giá trị hiện tại của khoản tiền thuê (gốc) FV: tổng số tiền thuê TSCĐ phải trả (cả gốc và lãi) i: tỷ lệ lãi suất t: số kỳ đi thuê Cách tính này đựơc sử dụng trong những doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính lãi gộp tức là: Lãi kỳ sau = (tiền gốc – số lãi kỳ trước)*lãi suất Thực chất cách tính này chỉ phù hợp với cách cho thue TSCĐ thu hồi một lần cả gốc lẫn lãi. Mặt khác, chế độ còn quy định, nếu trong hợp đồng ghi rõ số tiền bên thuê phải trả cho cả giai đoạn thuê, trong đó ghi rõ số tiền lãi phải trả cho mỗi năm thì nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính được xác định theo công thức: = - Những quy định này đều không phù hợp với TSCĐ thuê tài chính.Thực tế, xu hướng của người cho thuê và người đi thuê là thoả thuận với nhau sao cho trong suốt thời gian thuê số tiền trả cuối mỗi kỳ bằng nhau (mỗi kỳ trả nợ bao gồm tiền lãi và một phần tiền gốc). Điều này vừa tránh được rủi ro, vừa có nguồn thu thực tế hàng năm cho người cho thuê một cách đều đặn, ổn định; mà người đi thuê thì tình hình tài chính không bị xáo trộn khi tìm nguồn trả nợ và giảm bớt chi phí lãi vay phải trả do số tiền phải trả hàng kỳ bằng nhau. Trong trườgn hợp chuyển quyền sở hữu hoặc bán lại TSCĐ cho bên đi thuê trước thời hạn, việc xác định giá trị còn lại chưa thu hồi khá dễ dàng. Số tiền trả đều đặn mỗi kỳ được tính theo công thức: = Ngoài ra, bên thuê và bên cho thuê còn tìm mọi cách để tránh các tiêu chuẩn để phân loại hợp đồng thuê tài sản để làm lợi cho chính mình. Bên thuê cố gắng tránh không phải vốn hoá tài sản thuê vì các hợp đồng CTTC thường liên quan tới một lượng tiền lớn và khi được vốn hoá sẽ làm tăng khoản nợ của doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng xấu tới tỷ suất vay nợ trên vốn chủ sở hữu. Ngược lại, bên cho htuê tìm cách tránh bị phân loại các hợp đồng thuê tài sản là thuê hoạt động. Về thực chất, chi phí lãi thuê tài chính là một khoản lãi vay vốn, một khoản phí về sử dụng vốn và việc chi trả lãi thuê đã được quy định trong hợp đồng thuê tài sản. Do vậy, khoản chi phí này đã nằm trong kế hoạch của doanh nghiệp. Trong trường hợp kỳ trả tiền không trùng với kỳ kế toán của doanh nghiệp thì định kỳ kế toán có thể tiến hành trích trước chi phí lãi thuê tài chính vào chi phí hoạt động tài chính của kỳ đó. Bên cạnh đó, việc xác định loại tài sản cho thuê không nhất quán giữa Chuẩn mực số 06 và Nghị định số 16 của Chính phủ cũng gây không ít khó khăn cho bên thuê và bên cho thuê. Theo Nghị định 16 của Chính phủ tài sản cho thuê là động sản, còn trong VAS 06 tài sản cho thuê có thể là động sản hoặc bất động sản. Do vậy, cần có sự thống nhất thực hiện theo văn bản nào cho phù hợp. Phần III: Phương hướng hoàn thiện hạch toán TSCĐ thuê tài chính I. Sự cần thiết phải hoàn thiện hạch toán TSCĐ thuê tài chính Trên thực tế, hoạt động cho thuê tài chính đã mang lại những lợi ích đáng kể. Đây là loại hình tài trợ vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ. Điều này đã được thực tế chứng minh. 1.1 Đối với nền kinh tế Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế bởi hoạt động này có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức tín dụng khác nên nó có thể khuyến khích các thành phần kinh tế, cá nhân, và nhất là các định chế tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Thực sự hoạt động cho thuê tài chính đã huy động được những nguồn vốn còn nhàn rỗi trong nội bộ nền kinh tế, thậm chí thu hút vốn từ các lĩnh vực đầu tư khác, kể cả vốn đầu tư nước ngoài. Đổi mới thiết bị, công nghệ, cải tiến khoa học kỹ thuật để hiện đại hoá nền kinh tế là nhu cầu bức bách hiện nay. Thông qua hoạt động này, các loại máy móc, thiệt bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình đọ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện có khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả đối với các nền kinh tế phát triển cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp,… cho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng, cập nhật hoá công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. 1.2 Đối với doanh nghiệp đi thuê Người đi thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong nhưng điều kiện hạn chế về vốn đầu tư. Nhu cầu gia tăng công suất, sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp có thể tăng lên bất cứ lúc nào, nó đòi hỏi phải có sự tích luỹ. Song khả năng tài chính của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu đó, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn, nếu đi vay theo các thể thức tín dụng thông thường lại thiếu tài sản thế chấp. Như vậy, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn có thể có được máy móc thiết bị phục vụ yêu cầu sản xuất và sau một số năm có thể có được một số tài sản tích luỹ nhất định. Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay mới thành lập, chưa có uy tín với Ngân hàng thường rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro, nên thường bị Ngân hàng từ chối do Ngân hàng không quản lý được các khoản tiền cho khách hàng vay. Khi có rủi ro xảy ra, khách hàng không trả được nợ thì Ngân hàng chỉ có quyền hạn giống như những chủ nợ khác trong khuôn khổ vật thế chấp mà thôi. Còn trong hoạt đông cho thuê tài chính, người cho thuê nắm quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản cho thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của người thuê. Nếu người thuê không trả được tiền thuê thì người cho thuê sẽ tiến hành thu hồi lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu pháp lý về tài sản đó. Như vậy, những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn Ngân hàng cũng có thể nhận được vốn tại trợ qua hoạt động cho thuê tài chính. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể sẽ có lúc muốn thay đổi lĩnh vực hoạt động khi nhận ra lĩnh vực của mình không còn có lợi. Thông thường, thay đổi hoạt động kinh doanh sẽ kéo theo sự thay đổi cơ cấu vốn và TSCĐ. Nếu bán TSCĐ thì giá bán sẽ rất thấp so với giá thực tế thậm chí không bán được. Dẫn đến những TSCĐ được mua sắm sẽ bị ứ đọng vốn đầu tư vào đó. Nhưng nếu là TSCĐ đi thuê thì đã hết thời hạn cơ bản của hợp đồng. Nkhi cần thay đổi tài sản, doanh nghiệp có thể huỷ hợp đồng trả lại tài sản và sau đó thuê tài sản khác để sử dụng. Như vậy, hoạt động này giúp cho doanh nghiệp thay đổi thiết bị đã lạc hậu một cách dễ dàng và nhanh chóng. So với các phương thức tài trợ khác thì cho thuê tài chính ít rủi ro hơn, thủ tục tài trợ cũng đơn giản hơn. Bằng cách cho phép người đi thuê được tìm kiếm lựa chọn trước tài sản từ nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu công ty CTTC tài trợ nên có thể cho phép người thuê rút ngắn thời gianđầu tư thiết bị. Mặt khác, các công ty CTTC thường chuyên môn hoá về tài sản cho thuê, nên thường tổ chức cung ứng các lọai thiết bị cho thuê theo phương thức khép kín. Nhờ đó, người đi thuê nhanh chóng đáp ứng được các cơ hội kinh doanh. II. Phương hướng hoàn thiện Những lợi ích mà hoạt động cho thuê tài chính mang lại là rất lớn nhưng hiện nay nó vẫn chưa được phổ biến rộng rãi và phát triển xứng đáng với tầm quan trọng của nó do còn nhiều vướng mắc. Để phát triển hoạt động này, tôi xin đưa ra một vài kiến nghị nhằm hoàn thiẹn chế độ tài chính kế toán TSCĐ thuê tài chính. 2.1Về phía Nhà nước Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan sớm ban hành những văn bản pháp quy và văn bản hướng dẫn thực hiện một cách đồng bộ phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế như: Bổ sung, chỉnh sửa luất thuế cho phù hợp với hoạt động CTTC (có chính sách miễn giảm thuế) để tạo điều kiện cho các công ty CTTC áp dụng lãi suất cho thuê phù hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường (thuế xuất nhập khẩu, thuếchuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động cho thuê…); quy chế xử lý rủi ro trong hoạt động nhập khẩu đối với tài sản cho thuê tài chính; có chính sách hướng dẫn và tạo điều kiện cho thị trường đồ cũ hoạt động và phát triển để hỗ trợ cho hoạt động thuê tài chính khi bên cho thuê thanh lý tài sản cho thuê (sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán, máy móc, thiết bị cũ); các quy định về mức thu lệ phí đăng ký và phí cung cấp thông tin về tài sản CTTC; quy định việc cấp giấy phép hoạt động cho các tài sản thuê là các hương tiện vận tải; mở rộng phạm vi cho thuê và mức cho thuê; có chính sách bảo vệ quyền lợi của bên cho thuê trong việc thu hồi tài sản khi bên thuê vi phạm hợp đồng… 2.2 Về phía doanh nghiệp Các công ty CTTC cần phải mở rộng phạm vi hoạt động và đa dạng hoá các loại tài sản cho thuê. Trên thực tế nhu cầu về vốn trung và dài hạn rất lớn. Bên cạnh đó, các công ty CTTC cần linh hoạt hơn trong việc cho thuê. Các cá nhân kinh doanh, các xã viên HTX… họ rất cần vốn nhưng đa số các công ty CTTC muốn đảm bảo hoạt động lâu dài của mình nên không nhằm vào những đối tượng này.Tuy nhiên đã là người bán thì ai chứng minh được khả năng thanh toán của mình thì được đặt quan hệ giao dịch. Mặt khác, mô hình tổ chức, quản trị, kiểm soát còn cồng kềnh và kém hiệu quả cần được tinh giảm những bộ phận không cần thiết để vận hành năng động hơn và giảm sự lãng phí nhân lực. Công ty CTTC cần phải đào tạo cán bộ,nhân viên tinh thông công việc, tăng cường công tác Marketing, quảng cáo, tiếp thị để khách hàng hiểu rõ tiện ích của hoạt động này. Về phía doanh nghiệp đi thuê, cần phải thực hiện đày đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý và sử dụng TSCĐ thuê tài chính như TSCĐ cùng loại thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Tại thời điểm khởi đầu thue tài sản,Doanh nghiệp cần phải tuân theo các tiêu chuẩn quy định để phân loại hợp đồng thuê tài sản là thuê tài chính hay thuê hoạt động để có chính sách quản lý và sử dụng cho phù hợp. Việc xác định nguyên giá TSCĐ thuê tài chính ngoài việc twn theo chế độ kế toán hiện hành còn phải phù hợp với cách thức tính lãi tiền thuê. Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính được ghi theo số nợ gốc mà bên đi thuê phải trả. Số nợ này xác định khá dễ dàng, dựa váóo vốn đầu tư thạc tế để có dược bản thân tài sản cho thuê. Trường hợp cần thiết có thể tiến hành định giá tài sản cho thuê theo phương thức phù hợp với tình trạng kỹ thuật của tài sản. Số lãi thuê phải trả từng kỳ nếu không trùng với kỳ kế toán của Doanh nghiệp thì kế toán trích trước vào chi phí tài chính trong kỳ (tài khoản 335) như sau: khi trích trước chi phí lãi thuê tài chính phải trả hàng kỳ, ghi: Nợ TK 635: Chi phí tài chính Có TK 335: Trích trước chi phí lãi thuê phải trả kỳ này Khi đến hạn thanh toán tiền lãi thuê, ghi: Nợ TK 335: Số lãi thuê tài chính phải trả kỳ này Có các TK :111, 112 2.3 Về Chế độ kế toán Theo quy định hiện nay, ở nước ta chỉ có các công ty CTTC mới được cho thuê tài sản. Điều này đã làm hạn chế sự phát triển của hoạt động này. Trên thực tế, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tự sản xuất ra TSCĐ ccũng có thể cho thuê; doanh nghiệp thương mại mua TSCĐ về để cho thuê; các doanh nghiệp có TSCĐ không dùng đén do chiến lược kinh doanh thay đổi cũng có thể cho thuê nếu doanh nghiệp khác cần.Nhu cầu thuê tài sản (thuê vốn) rất lớn trong khi mạng lưới hoạt động của các công ty CTTC còn hạn hẹp. Mặt khác, còn nhiều đơn vị khác có khả năng cho thuê nhưng không được pháp luật quy định. Do vậy,để mở rộng hoạt động cho thuê tài chính cần phải có chế độ cho phép các đơn vị có khả năng được phép cho thuê tài sản. Đây thực chất là một khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.TSCĐ cho thuê tài chính sẽ được hạch toán vào tài khoản 228- Đầu tư dài hạn khác. Hiện nay, một số quy định bất cập gây khó khăn cho việc mua và thuê lại TSCĐ thuê tài chính. Do vậy, cần có một quy định liên Bộ giữa Bộ Thương mại và NHNN để hướng dẫn cụ thể nghiệp vụ này để cho các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh và để các công ty CTTC mở rộng quy mô hoạt động. Mặt khác, NHNN nên sớm nghiên cứu để có văn bản hướng dẫn thực hiện việc cho thuê hợp vốn để những dự án đầu tư lớn có nguồn tài trợ. Có như vậy, các doanh nghiệp cũng như các công ty CTTC có thể mở rộng quy mô kinh doanh. Kết luận Tóm lại, những phân tích về thực trạng hoạt động và hạch toán TSCĐ thuê tài chính cho thấy những vướng mắc chủ yếu là về phía cơ chế tài chính. Những văn bản pháp quy được ban hành chồng chéo và không đồng bộ. Chính những điều này gây khó khăn, lúng túng cho bên cho thuê và bên đi thuê. Vì lợi ích của hoạt động này mong rằng các cơ quan chức năng quan tâm giải quyết. Có thể Đề án này chưa phản ánh đầy đủ thực trạng hoạt động và hạch toán TSCĐ thuê tài chính do nguồn tài liệu thu thập được không nhiều và những kiến nghị trên đây tôi cũng không dám khẳng định đó là những giải pháp tốt nhất nhưng dó cũng là một trong các giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán TSCĐ thuê tài chính. Tôi mong rằng nó sẽ góp phần nào đó vào việc phát triển hoạt động thuê tài chính nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tài liệu tham khảo Giáo trình “Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp” Giáo trình “Lý thuyết hạch toán kế toán” Giáo trình “Kế toán quốc tế” Hệ thống kế toán doanh nghiệp Chuẩn mực kế toán quốc tế Chuẩn mực kế toán Việt Nam Tạp chí kế toán Tạp chi kiểm toán Tạp chí Kinh tế và Phát triển Tạp chí Tài chính doanh nghiệp mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33777.doc
Tài liệu liên quan