Thị trường bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam ra đời và phát triển mới chỉ được một năm nhưng nó được rất nhiều người quan tâm. Đây là một sự kiện quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói riêng vàc đóng góp vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước nói chung. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi hết sức quan trọng bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và lành mạnh, mặt khác nó không chỉ đem lại lợi ích cho công chúng, doanh nghiệp, ngân hàng, mà còn cho cả quỹ tín dụng. Ngoài những vai trò to lớn và những thuận lợi của bảo hiểm tiền gửi, chúng ta không thể phủ nhận rằng khi triển khai nhgiềp vụ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu những kiến thức lý thuyết vững vàng để có thể vận dụng nó một cách khôn khéo, linh hoạt và năng động trong mọi tình huống góp phần phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi trong nước.
56 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mang tính dây chuyền và công phạt khôn lường về kinh tế, chính trị và xã hội. Nó liên quan đến lợi ích của nhà nước và nhiều tầng lớp dân cư.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, khi những tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng ngoài quốc doanh như các ngân hàng thương mại cổ phần, các HTX tín dụng, các quỹ tín dụng nhân dân mới bước vào nghề thì mọi việc còn quá sớm, niềm tin của khách hàng chưa có là bao, trong khi đó dư âm về sự đổ vỡ hàng loạt HTX tín dụng trước đây vẫn còn "ám ảnh" trong dân. Trước tình hình đó, một vấn đề nghiêm túc đặt ra với nhà nước và xã hội là tìm những giải pháp hữu hiệu để đề phòng và ngăn chặn sự đổ bể, sự mất an toàn của hệ thống ngân hàng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng cho người gửi tiền. Do đó, cách bảo toàn chọn vẹn, có hiệu quả nhất để đảm bảo cho người gửi tiền là áp dụng biện pháp BHTG cho người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng thương mại và các TCTD.
Thực tế trên đây cho thấy việc ra đời một công ty BHTG ở Việt nam đã trở thành nhu cầu bức xúc. Nó sẽ là chỗ dựa vững chắc để khắc phục rủi ro tín dụng và làm lành mạnh hoạt động tín dụng của ngân hàng, giúp cho thị trường tài chính của ta phát triển ổn định hơn, từ đó tạo đà cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh hơn, đưa nước ta rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực cũng như các nước phát triển trên thế giới.
II. Thực trạng BHTG ở việt nam
Thực trạng về hoạt động BHTG ở Việt Nam hiện nay
Hệ thống ngân hàng ở Việt nam hiện nay là hệ thống ngân hàng hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại hoạt động theo cơ chế thị trường, tuan theo "pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam" và " pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính". Hệ thống các tổ chức tín dụng đã có một mạng lưới rộng lớn, bao gồm ngân hàng nhà nước, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 2 công ty tài chính cổ phần, 1 quỹ tín dụng nhân dân trung ương, 5 quỹ tín dụng nhân dân khu vực, 900 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Năm 1996 so với năm 1995, vốn huy động tiền gửi của các ngân hàng tăng 659%, dư nợ cho vay tăng 883%.
Để củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với các quỹ tín dụng nhân dân, tạo cơ sở cho các quỹ tín dụng nhân dân hoạt động ổn định và phát triển, ngày 1/ 3/ 1994 Bộ tài chính đã ban hành quyết định 101/ TCQĐ-BH về quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi. Với quyết định này, lần đầu tiên nước ta có một tổ chứclà Bảo Việt thực hiện nghiệp vụ BHTG. Song người gửi tiền được bảo hiểm chỉ giới hạn gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, loại tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, mức tối đa là 100 triệu đồng đối với một thể nhân, 500 triệu đồng đối với một pháp nhân, và chỉ bồi thường tiền gốc không bồi thường tiền lãi. Thực tế triển khai BHTG của Bảo Việt còn nhiều hạn chế, đến cuối năm 1995 mới chỉ có 162 quỹ tín dụng tham gia với sổ tiền bảo hiểm là 100 tỷ đồng, chiếm 33, 22% tiền gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, và chỉ chiếm 0, 2% tổng số dư tiền gửi tại các TCTD trong cả nước, cuối năm 1996 có 300 quỹ tham gia bảo hiểmvới số tiền bảo hiểm hơn 854 tỷ đồng và cuối quý 1 năm 1997 có 370 quỹ tham gia với số tiền bảo hiểm hơn 322 tỷ đồng. Hiện nay hiệp hội ngân hàng Việt Nam đang chuẩn bị thành lập quỹ BHTG của hiệp hội. Nghiên cứu dự thảo Điều lệ hoạt động quỹ BHTG của các TCTD Việt nam và quy chế hoạt động quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, chúng ta thấy rằng:
-Quỹ BHTG là quỹ của các thành viên hiệp hội, có mục đích bảo vệ an toàn cho các thành viên. Song quỹ là một tổ chức tương hỗ, không có vốn ban đầu, chỉ khi nào đi vào hoạt động các ngân hàng tham gia mới đóng lệ phí nên nguồn vốn của qũy rất nhỏ bé, do đó nếu rủi ro lớn quỹ sẽ không đủ vốn để thực hiện trách nhiệm đền bù của mình.
-Quỹ bảo toàn tiền gửi là một quỹ tương hỗ nên việc đóng góp vốn lập quỹ, đặc biệt là các khoản đong góp bất thường sẽ bị ràng buộc bởi chế độ tà chính của nhà nước quy định.
-Quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam chỉ là quỹ của các hội viên hiệp hội, do đó các chi nhánh nước ngoài, các ngân hàng liên doanh và các ngân hàng khác sẽ không được tham gia BHTG.
-Do đặc điểm phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam, hiện nay vốn tiền gửi do 4 ngân hàng quốc doanh huy động đã chiếm khoảng 90% tổng doanh số huy động trong toàn hiệp hội. Điều đó có nghĩa là quỹ bảo toàn tiền gửi nếu được hình thành thì chủ yếu do 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đóng góp, song nếu các ngân hàng quốc doanh có rủi ro thì quỹ sẽ gặp khó khăn về vốn để đền bù, thập chí không thực hiện được vì doanh số hoạt động của các ngân hàng quốc doanh rất lớn. Song, nếu các ngân hàng khác gặp rủi ro thì quỹ sẽ thực hiện đền bù dễ dàng hơn. Đây chính là điểm bất bình đẳng về lợi ích giữa các thành viên trong hiệp hội.
Cho đến nay, mặc dù tổ chức BHTG mới được thành lập vào tháng 7/2000 nhưng trình độ chuyên môn chưa cao, quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ hẹp, vốn tự có chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu BHTG đối với các ngân hàng lớn mạnh.
Mặt khác đại bộ phận tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và các TCTD chưa được bảo hiểm. Số tiền được bảo hiểm mới chỉ là một bộ phận tiền gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, tập trung chủ yếu tại các vùng nông thôn và chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng số dư tiền gưỉ mà hệ thống ngân hàng huy động trong toàn quốc.
Thêm vào đó, việc Bảo Việt BHTG cho các quỹ tín dụng nhân dântheo quyết định 101/TCQ-BH với giới hạn chỉ bảo hiểm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên. Trên thực tế số tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội là rất lớn nhưng không được bảo hiểm, điều đó sẽ hạn chế khả năng huy động vốn của các TCTD. Theo quy định hiện hành Bảo Việt chỉ trả bồi thường sau khi quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm ngừng hoạt động 1 tháng, và chỉ trả tiền gốc. Như vậy, nếu là người gửi tiền chỉ cần nghe tin quỹ tín dụng khó khăn về tài chính thì họ sẽ đổ xô đến để rút tiền nhằm lấy lại cả gốc lẫn lãi, đồng thời tránh được phải chờ đợi lâu trong trường hợp phải nhận tiền bồi thường từ bảo hiểm. Rõ ràng trong tình huống này hoạt động bảo hiểm cũng không có mấy tác dụng ngăn ngừa sự hoảng loạn ngân hàng khi gặp rủi ro.
Ngoài ra quyết định trường hợp quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm nếu vi phạm nghiêm trọng pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính thì rủi ro sẽ không được bồi thường. Điều này là chưa thoả đáng, bởi vì bồi thường rủi ro là bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền. Khi hợp đồng bảo hiểm chưa bị huỷ bỏ, khi vi phạm pháp luật là do lỗi của TCTD và lỗi của cơ quan bảo hiểm thiếu kiểm tra giám sát để phát hiện, chấn chỉnh kịp thời thì hậu quả không nên để cho người gửi tiền gánh chịu.
Nhìn chung, hiện nay ở Việt Nam nghiệp vụ BHTG rất còn mới mẻ và chưa phát triển như các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nó vẫn trong thời gian thử nghiệm và hoàn thiện dần cho phù hợp với điều kiện cũng như hoàn cảnh của đất nước. Chính vì vậy, Chính phủ và ngân hàng nhà nước cần coi hoạt động BHTG là một mắt xích quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia, nó có vai trò đòn bẩy thu hút tiền gửi và đảm bảo tạo ra sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời phải có những quy định cụ thể về các nội dung của BHTG.
Nội dung hoạt động nghiệp vụ BHTG áp dụng ở Việt Nam
Tổ chức kinh doanh BHTG
Tổ chức BHTG là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động dưới sự điều tiết của Thủ tướng Chính phủ, được nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, có tư cách pháp nhân và được miễn nộp các loại thuế. Trong trường hợp thiếu vốn tạm thời, tổ chức BHTG phải báo cáo ngân hàng nhà nước để ngân hàng nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức BHTG được vay từ các TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ. Tuy nhiên, trong thời gian đầu của bước sơ khai thì ngân hàng nhà nước có thể giúp đỡ BHTG nhưng về lâu dài ngân hàng nhà nước không thể làm thay (vì đó là tác nghiệp cụ thể của BHTG Việt Nam) không thuộc chức năng của ngân hàng nhà nước.
Phí bảo hiểm tiền gửi
Phí BHTG được điều chỉnh theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, mức hiện hành là 0, 15%/ năm trên số dư tiền gửi bình quân tại các tổ chức tham gia BHTG, được nộp làm 4 lần trong năm tài chính. Có thể thấy rằng, mức phí này áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng là chưa hợp lý. Vì mức độ rủi ro của mỗi loại hình tổ chức tín dụng có khác nhau, do mục đích và tính chất hoạt động khác nhau, do trình độ quản trị, điều hành, kinh nghiệm khác nhau. Ngân hàng thương mại quốc doanh trung ương với quy mô huy động vốn của cá nhân có thể lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, với mức phí này thì phí bảo hiểm có thể lên đến con số rất lớn trong lúc mức độ rủi ro của các cá nhân tại các ngân hàng này không đáng kể, ngược lại ở ngân hàng cổ phần thì cao hơn mhiều, quỹ tín dụng nhân dân do tính chất giúp đỡ thành viên trong cộng đồng, hơn nữa mới ra đời nên rủi ro không phải là ít, ngân hàng chính sách thì rủi ro có thể lớn hơn v. v. . . Thêm vào đó, phí phạt đối với các trường hợp nộp chậm là 0, 1% số tiền nộp chậm một ngày; nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài tới 30 ngày, tổ chức BHTG có quyền yêu cầu ngân hàng nhà nước (hoặc các TCTD, kho bạc nhà nước) trích tài khoản tiền gửi của các TCTD (hoặc các tổ chức khác có tham gia hoạt động ngân hàng) để chuyển nộp phí bảo hiểm và các khoản tiền phạt. Tổ chức BHTG sẽ quyết định chấm dứt việc bảo hiểm và thông báo ra công chúng nếu tổ chức tham gia bảo hiểm không nộp phí bảo hiểm quá thời hạn 3 tháng, trách nhiệm bảo hiểm đối với tiền gửi trong trường hợp này tiếp tục được bảo tồn với thời hạn là 6 tháng.
Mức tiền được bảo hiểm tiền gửi
Mức tiền tối đa mà một người gửi tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được BHTG Việt Nam trả là 30 triệu (cả gốc và lãi) lớn hơn 30 triệu đồng tại một tổ chức tham gia BHTG thì phần vượt so với quy định trên đây sẽ được hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG phù hợp với quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
Như vậy mức tiền mà BHTG Việt Nam trả ngay cho một người gửi tiền của tất cả các khoản tiền gửi tối đa chỉ 30 triệu đồng, bất chấp người đó gửi nhiều hay ít. Sự cào bằng đó sẽ dẫn đến hạn chế múc tiền của mỗi người gửi vào các TCTD. Nếu gửi trên mức 30 triệu thì khi TCTD rơi vào tình trạng bị phá sản thì chỉ là sự thiệt thòi đáng kể. Sự chênh lệch trên mức 30 triệu có thể rất lớn, nếu đợi chờ hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản thì quả là "ế ẩm". Không chỉ vì thời gian kéo dài mà có thể rơi vào nhiều tình huống: Nếu giá trị tài sản còn lại của TCTD đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ (cá nhân) được thanh toán đủ số nợ của mình. Nhưng ngược lại không đủ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng. Thế thì dại gì họ gửi trên mức 30 triệu để phải thấp thỏm lo âu!
Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính nhà nước được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự an toàn, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy, đối tượng tham gia BHTG là tất cả các TCTD và các tổ chức không phải là TCTD nhưng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các TCTD bắt buộc phải tham gia BHTG.
Đối tượng được bảo hiểm
Theo điều 3 của NĐ 89/1999/NĐ-CP quy định " tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại tổ chức tham gia BHTG" như vậy là:
-Đối tượng chính được điều chỉnh của NĐ này là cá nhân. Vậy thì tiền gửi là đồng Việt Nam của các pháp nhân thì giải quyết như thế nào? Các ngân hàng thương mại thì có quan hệ với các pháp nhân rất nhiều và họ có một khối lượng tiền gửi khổng lồ. Nhưng nếu theo quy định trên thì không được BHTG. Đây còn là vấn đề bất hợp lý và không công bằng trước pháp luật. Điều đó tất yếu sẽ hạn chế pháp nhân gửi vốn vào TCTD.
-Chỉ BHTG là đồng Việt Nam. Như vậy tiền gửi ngoại tệ không được bảo hiểm. Trong lúc đó NĐ63/1988 NĐ-CP của Chính Phủ về quản lý ngoại hối hiện hành thì cho phép: tổ chức cá nhân có ngoại tệ tiền mặt hợp pháp được bảo đảm quyền sử dụng ngoại tệ của mình.
Rõ ràng giữa NĐ 89/1999 NĐ-CP và NĐ 63/1988 có một nghịch lý! Ngoại tệ không được bảo hiểm sẽ có tác động ngược lại, không nhưng không khuyến khích tổ chức, cá nhân có ngoại tệ hợp pháp gửi, bán cho các TCTD được phép kinh doanh ngoại hối hay cá nhân có ngoại tệ (không kể nguồn gốc) gưỉ tiền tiết kiệm vào ngân hàng, mà thậm chí còn tạo "sơ hở", "điều kiện" để họ mua bán ngoại tệ ở thị trường tự do trái với yêu cầu mục đích của chủ trương quản lý ngoại hối của ta hiện nay.
Loại tiền gửi cần được bảo hiểm
Như chúng ta đều biết, tiền gửi thông thường được chia làm hai loại: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. BHTG lại là một nghiệp vụ hoàn toàn mới mẻ ở nước, chúng ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong tổ chức kinh doanh BHTG, Mặt khác do tính luân chuyển vốn, tiền gửi không kỳ hạn mang tính chất thất thường nên việc tính toán phí rất phức tạp. Do đó, ở thời kỳ đầu của việc thử nghiệm bảo hiểm tiền gửi, chúng ta chỉ nên bảo hiểm tiền gửi loại có kỳ hạn và là bản tệ thì phù hợp hơn. Thực tế trên thế giới, việc bảo hiểm các loại tiền gửi cũng không giống nhau, chẳng hạn các nước Mỹ, Italy, Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha thì bảo hiểm tất cả các loại tiền gửi. Nhưng ở các nước Nhật, Pháp, Anh thì bảo hiểm tiền gửi bằng bản tệ.
Hình thức áp dụng bảo hiển tiền gửi
Để thực sự đảm bảo niềm tin cho khách hàng khi gửi tiền, khai thác tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư phù hợp với thực tế nước ta hiện nay là quỹ tín dụng nhân dân mới ra đời, (hợp tác xã tín dụng cũ đổ vỡ còn để lại dư âm, trình độ quản lý, trình độ dân trí nhiều mặt còn hạn chế), cần áp dụng hình thức bảo hiểm tiền gửi bắt buộc mà không nên dùng cơ chế tự nguyện mua bảo hiểm tiền gửi.
Tuy nhiên, theo quyết định 101/TCQD- BH ngày 1 tháng 2 năm 1994 của Bộ tài chính, thì việc mua bảo hiểm tiền gửi dựa trên cơ sở ký kết hợp đồng giữa đôi bên. Điều này cũng không hoàn toàn mâu thuẫn với ý kiến cho rằng mua BHTG là bắt buộc đối với quỹ tín dụng nhân dân; không mâu thuẫn với mục tiêu của các nhà kinh doanh bảo hiểm tiền gửi. Vì rằng hệ thống quỹ tín dụng nhân dân theo mô hình mới đang ở giai đoạn làm thử thì việc hướng dẫn, chỉ ra cho các quỹ tín dụng nhân dân thấy rõ trách nhiệm của mình, thấy rõ mua BHTG là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với thực tế. Hơn nữa tính bắt buộc ở đây là đối với quỹ tín dụng nhân dân nơi nhận tiền gửi. Họ phải có trách nhiệm đảm bảo an toàn tiền gửi cho khách hàng, chứ không phải bắt buộc người gửi tiền mua bảo hiểm; có thể coi như một "nguyên tắc" trong những "điều kiện cần và đủ" để quỹ tín dụng nhân dân ra đời và hoạt động an toàn.
Trên thế giới ngay cả nước tiên tiến, đã có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh bảo hiểm như Nhật, Pháp, Anh, Hà Lan. . cũng vẫn dùng hình thức bảo hiểm bắt buộc với tiền gửi.
Như vậy, việc dùng hình thức bảo hiểm bắt buộc hay tự nguyện trong kinh doanh bảo hiểm tiền gửi là tuỳ thuộc điều kiện tình hình, đặc điểm, trình độ tổ chức quản lý v. v. . của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng, không có một khuôn mẫu thống nhất cho mọi nước.
Những điểm còn tồn tại thị trong thị trường BHTG ở Việt Nam
Mặc dù BHTG có vai trò to lớn trong việc bảo vệ người gửi tiền và góp phần làm sôi động thêm các hoạt động ngân hàng ở nước ta. Tuy nhiên, còn thấy một số điểm còn tồn tại sau:
Thứ nhất: đây là loại hình bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc và là tổ chức bảo hiểm duy nhất, điều này sẽ nảy sinh sự bắt bình đẳng trong cơ chế thị trường và sự độc quyền.
Thứ hai: tỷ lệ phí bảo hiểm 0, 15% tính trên số tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Theo nhiều ý kiến (cả những người quan tâm và các TCTD) là cao và chưa phù hợp với tình hình thực tế, ảnh hưởng đến hoạt động, đặc biệt trong trường hợp các TCTD vừa phải xử lý tồn tại cũ, vừa phải trích dự phòng rủi ro và như vậy sẽ ảnh hưởng tới hoạt động thu chi tài chính và đời sống cán bộ, nhân viên của TCTD. Đối với các tổ chức tín dụng nhà nước hiện nay thì phí đóng BHTG là lớn nhất, nhưng việc bảo hiểm tiền gửi phải can thiệp thì hầu như ít xẩy ra do có những đặc thù riêng (năng lực huy động vốn thường xuyên dồi dào, do là ngân hàng của nhà nước. . . ).
Thứ ba: những quy định về trích và nộp phí bảo hiểm còn cứng (do là bảo hiểm bắt buộc). Mặt khác, một tổ chức tài chính của nhà nước ( thực chất như là một công ty) không có chức năng quản lý nhà nước (vừa thực hiện hoạt động bảo hiểm, vừa có tính kinh doanh) nhưng lại được phép xử lý vi phạm hành chính đối với các đơn vị tham gia BHTG (cảnh cáo, phạt tiền. . . ).
Thứ tư: việc tổ chức giám sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi là vấn đề cần phải xem xét.
Chúng ta thấy rằng, bất cứ một tổ chức nào khi mới đi vào hoạt động không thể không có những thiếu sót. Chính vì vậy, trước khi đưa vào hoạt động chúng ta phải phân tích kỹ càng và nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của những nước đi trước.
Kinh nghiệm hoạt động BHTG ở một số nước trên thế giới và định hướng tổ chức BHTG ở Việt Nam
a. Kinh nghiêm hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới
Hoạt động BHTG rất phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Trong mỗi nước do điều kiện kinh tế xã hội và lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng có những nét khác nhau nên hệ thống bảo hiểm tiền tệ của các nước rất đa dạng.
ở Canada, hệ thống quỹ tín dụng Desjardins của Canada được thành lập từ năm 1900 tại Quebéc (Canada) đến nay hệ thống quỹ tín dụng này hoạt động rất an toàn, bởi có một môi trường pháp lý và các điều kiện, yếu tố về kinh tế, về tổ chức hết sức chặt chẽ và có hiệu quả.
Về môi trường pháp lý, nhà nước đã ban hành các đạo luật có liên quan để các hoạt động của người cho vay, người đi vay, người gửi tiền và người sản xuất kinh doanh đều trong hành lang pháp luật, mọi hoạt động trong lĩnh vực này đều được pháp luật điều chỉnh. Để điều chỉnh các hoạt động của quỹ tín dụng có: "luật về quỹ tiết kiệm và tín dụng"; "Luật về tổng thanh tra các định chế tài chính". Để điều chỉnh các hoạt động vay nợ, cho vay, gửi tiền có: "Luật về công ty tài chính nông nghiệp"; "Luật về bảo hiểm cho vay nông nghiệp" và "Luật về bảo hiểm tiền gửi".
Về bộ máy thực thivà nguồn tài chính bảo đảm an toàn cho hoạt động của các quỹ tín dụng, phải kể đến cả hai hệ thống: bên ngoài hệ thống quỹ tín dụng và bên trông hệ thống quỹ tín dụng Desjardins.
Bên ngoài hệ thống Desjardins, nhà nước lập ra ba tổ chức, cơ quan ảo hiểm nông nghiệp của Quebéc, cơ quan tín dụng và cơ quan BHTG của Quebéc.
Cơ quan bảo hiểm nông nghiệp của Quebéc làm dịch vụ bảo hiểm thị trường và bảo hiểm mùa màng. Bảo hiểm thị trường là bảo hiểm về giá cả. Nếu giá bán nông phẩm trên thị trường bị giảm sút so với mức giá tính bảo hiểm thì cơ quan này sẽ trả cho phần chênh lệch giá đó, với mức bảo hiểm 80%. Cơ cấu nguồn bảo hiểm được chia làm ba phần: một phần cho nông dân đóng góp, hai phần còn lại do chính phủ tiểu bang tài trợ. Bảo hiểm mùa màng tức là bảo hiểm về năng suất thu hoạch của cây trồng. Nếu do những yếu tố khách quan làm cho năng suát thu hoạch giảm sút, thì cơ quan bảo hiểm trả cho phần giảm đó. Nguồn kinh phí bảo hiểm loại này do nông dân đóng góp 50%, Chính phủ tiểu bang Quebéc: 25% và Chính phủ Canada tài trợ 25%.
Cơ quan tín dụng của Quebéc chỉ làm nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng. Cơ quan này bảo lãnh cho người đi vay quỹ tín dụng, hoặc vay của các ngân hàng, Nếu người đi vay không trả được nợ thì cơ quan tín dụng trả thay. Từ năm 1990 trở về trước, người đi vay phải nộp phí bảo lãnh là 2% trên số tiền vay. Nhưng từ năm 1991 trở lại đây, người vay được miễn phí hoàn toàn. Theo luật của Canada, Bộ tài chính tạm ứng cho cơ quan tín dụng này 10 triệu đô la canada, với lãi suất rất thấp và có những điều kiện nhất định do chính phủ tiểu bang Quebéc quy định để làm nguồn bảo lãnh. Đến năm 1993 cơ quan tín dụng này được đổi tên thành Cônh ty tài chính nông nghiệp.
Cơ quan BHTG của Quebéc có trách nhiệm bảo hiểm cho những người gửi tiền ở các ngân hàng hoặc ở quỹ tín dụng Desjardins. Mức tiền bảo hiểm tối đa cho một người là 60. 000 đô la Canada. Nguồn tài chính cho quỹ bảo hiểm này là tất cả các quỹ tín dụng Desjardins phải đóng góp 1/15 của 1% tổng số các loại tiền gửi ngắn hạn và dài hạn tại quỹ tín dụng (1. 327 quỹ tín dụng Desjardins hàng năm phải đóng góp 11 triệu đo la canada cho quỹ bảo hiểm này). Người gửi tiền phải đống góp 1/15 trên 1% của tổng số tiền được bảo hiểm.
Trong hệ thống quỹ tín dụng Desjardins có công ty an toàn vốn và quỹ bảo hiểm nhân thọ.
Công ty an toàn vốnlà một tổ chức của tổng liên đoàn quỹ tín dụng được thành lập từ năm 1949. Công ty này chỉ bảo hiểm tiền gửi cho những người gửi tiền trong hệ thống quỹ tín dụng Desjardins. Công ty có vai trò rất quan trọng nó không để cho bất kỳ quỹ tín dụng nào mất khả năng chi trả, tức là gián tiếp bảo vệ những người gửi tiềnvào quỹ tín dụng. Nguồn tài chính để bảo hiểm là phí do các quỹ tín dụng nộp cho công ty an toàn vốn theo mức 0, 65 tiền gửi và cá nhân người gửi tiền đóng phí 1/15 của 1% tiền gửi được bảo hiểm. Khi quỹ tín dụng gặp tình huống khủng hoảng, công ty an toàn vốn gửi người đến xem xét để xử lý việc trợ giúp quỹ tín dụng để có nguồn trả cho người gửi tiền.
Ngoài ra còn có tổ chức bảo hiểm nhân thọ để mỗi xã viên của quỹ tín dụng mua bảo hiểm đề phòng lúc ốm đau, tuổi già.
Như vậy, ở Canada, để đảm bảo an toàn cho sự hoạt động của các quỹ tín dụng Desjardins và bảo đảm an toàn về tiền gưỉ cho người gửi tiền, người ta tổ chức đồng thời nhiều cơ quan bảo hiểm khác nhau và có nhiều hình thức bảo hiểm khác nhau. Về nguồn phí bảo hiểm thì có sự tài trợ lớn của chính phủ bang và tiểu bang và có sự đóng góp cuả quỹ tín dụng, còn người gửi tiền chỉ đóng góp một phần.
ở Cộng hoà Liên bang Đức năm 1937, liên minh hệ thống bảo đảm tiền gửi của HTX tín dụng cũng được thành lập. Sau đó đổi tên quỹ bảo đảm người gửi tiền của hiệp hội HTX tín dụng và ngân hàng tiết kiệm CHLB Đức. Luật của CHLB Đức quy định, việc HTX tín dụng Tham gia hiệp hội là tự nguyện, nhưng việc tham gia vào quỹ bảo đảm người gửi tiền là bắt buộc. Khi cấo giấy phép thành lập HTX tín dụng, Nhà nước quy định HTX tín dụng phải tham gia bảo đảm tiền gửi.
Hàng năm các thành viên (HTX tín dụng) phải đóng góp cho quỹ này 0, 05% tổng số tiền cho vay, hay tổng tài sản có 90% khoản đóng góp của HTX tín dụng được giữ lại ở các hiệp hội khu vực, 10% giữ lại ở hiệp hội liên bang. Do có quỹ bảo đảm người gửi tiền, nên từ năm 1937 đến nay không có bất kỳ HTX tín dụng nào bị phá sản và chưa có ai bị mất tiền khi gửi vào các HTX tín dụng.
Như vậy, thực chất của quỹ bảo đảm người gửi tiền là quỹ bảo hiểm tiền gửi. Người có trách nhiệm mua BHTG ở CHLB Đức là các HTX tín dụng.
Trên đâylà hai ví dụ cụ thể về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi cho những người gửi tiền trong hệ thống quỹ tín dụng nhân dân và HTX tín dụng. Nhìn chung, trên toàn thế giới, hình thức của loại bảo hiểm này cũng khá đa dạng. Trước hết là việc bảo hiểm các loại tiền gửi không giống nhau. Chẳng hạn như ở các nước Mỹ, Italia, Hà Lan, Đức và Tây Ban Nha thì bảo hiểm tất cả các loại tiền gửi. Nhưng ở các nước Nhật Bản, Bỉ, Pháp, Anh và Cộng hoà Ai Len thì chỉ bảo hiểm tiền gửi nội tệ. Thứ hai là ngay cả các nước tiên tién trên thế giới, mặc dù có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bảo hiểm vẫn dùng hình thức bắt buộc đối với bảo hiểm tiền gửi, như: Nhật Bản, Pháp, Anh, Hà Lan, và Cộng hoà Liien Bang Đức. Sau nữa là việc xác định mức tiềm gửi là bao nhiêu. Tất nhiên nó phụ thuộc vào yếu tố rủi ro, nguồn phí bảo hiểm huy động được, nhưng các nước đều quy định số tiền gửi tối đa được bảo hiểm, chẳng hhạn như: Mỹ:100. 000 USD; Nhật Bản:10 triệu JPY; Bỉ 5 triệu BEF; Pháp:4 triệu Fre; Anh: 20 triệu GBP; Canada 60. 000 đôla Canada. Về mức phí đóng bảo hiểm, mỗi quốc gia cũng có tỷ lệ quy định khác nhau, chẳng hạn như ở Mỹ, tỷ lệ này là 0, 15% trên tổng số tiền gửi có kỳ hạn; Bỉ:0, 2%; Anh: 0, 3%; Ai len: 0, 2%; Tây Ban Nha: 0, 2%; Nhật Bản: 0, 125 và CHLB Đức: 0, 05%. . .
Đồng thời ở các nước Canada, Mỹ, Bỉ, Ai Len, Anh và Tây Ban Nha, Chính phủ đều tài trợ một phần phí bảo hiểm cho các tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Tóm lại, BHTG ở các nước khác nhau là khác nhau, song nhìn một cách khái quát thì hoạt động BHTG của nhiều nước đều có một số điểm chung sau đây:
-Các nước đều có luật quy định về lĩnh vực hoạt động BHTG. Công ty BHTG liên bang Mỹ hoạt động theo luật ngân hang 1933. Các tổ chức BHTG ở Canada hoạt động theo luật BHTG năm 1990. Các hệ thống BHTG cộng hoà liên bang Đức hoạt động theo luật BHTG năm 1971. . .
-Nhiều nước có tổ chức BHTG lớn, độc lập, chuyên môn hoá và được nhà nước quan tâm trợ giúp đặc biệt. Công ty BHTG Liên bang Mỹ thực hiện BHTG cho các thành viên trong hệ thống dự trữ liên bang và moọt số ngân hàng không phải là thành viên. Khi cần thiết công ty BHTG liên bang có quyền ưu tiên được vay tại kho bạc 3 tỷ USD, trường hợp đặc biệt có thể được quốc hội tăng thêm hạn mức. Công ty BHTG Nhật Bản hoạt động trong phạm vi toàn quốc có vốn tự có ban đầu là 455 triệu yên, trog đó chính phủ cấp 150 triệu yên, phần còn lại do các tổ chức tài chính tham gia bảo hiểm tiền gửi đóng góp. Khi cần thiết công ty được quyền vay từ ngân hàng Nhật đến hạn mức 500 tỷ yên.
-Nhìn chung hệ thống bảo hiểm tiền gửi của các nước đều gồm nhiều tổ chức độc lập, cùng hoạt động theo luật pháp và mỗi tổ chức thực hiện bảo hiểm tiền gửi cho các tổ chức tín dụng trong phạm vi nhất định.
-Loại tiền gửi được bảo hiểm và số lượng được bồi thường được quy định có mức độ tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và dần được mở rộng theo quý trình phát triển của hệ thống bảo hiểm. Công ty BHTG Liên bang Mỹ khi mới thành lập chỉ bảo hiểm cho mỗi người gửi tiền là 2. 500 USD, ngày nay nâng lên mức 100. 00 USD.
-Hệ thống BHTG của các nước đều tiến hành bồi thường khi bên tham gia bảo hiểm gặp rủi ro bảo hiểm, không phải chờ xác minh mức độ thiệt hại như những loại bảo hiểm thông thường khác.
-Các tổ chức BHTG của các nước đều có quyền kiểm tra, yêu cầu các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro theo quy định. Tuy nhiên mức độ về quyền hạn được quy định khác nhau phù hợp với hệ thống luật của từng nước. Qua bảng sau, chúng ta càng thấy rõ những nét riêng biệt cũng như những điểm chung khi triển khai nghiệp vụ BHTG ở các nước.
Một số chỉ tiêu về BHTG của 12 nước thuộc uỷ ban Basle và Việt Nam
Quốc gia
Mức BH tối đa cho 1 cá nhân
Căn cứ để tính phí BH
Mức phí BH
Tiền được BH
Hình thức BH
Mô hình
Cơ quan quản lý
Anh
28. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
Tính toán sau(2)
Bản tệ & ngoại tệ
Bắt buộc
Công ty BHTG
Chính phủ
Canada
50. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
0, 02%
Bản tệ
Bắt buộc
Công ty BHTG
Chính phủ
Đức
30% vốn pháp định của NH
Dư nợ cho vay
0, 03%
Bản tệ & ngoại tệ
Bắt buộc
bảo toàn tiền gửi
Hiệp hội ngân hàng
Bỉ
28. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
0, 06%
Bản tệ
Bắt buộc
Công ty BHTG
Viện bảo lãnh & chiết khấu
Hà Lan
28. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
Tính toán sau(2)
Bản tệ & ngoại tệ
Bắt buộc
Bảo toàn tiền gửi
Chính phủ
Mỹ
100. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
0, 00%đến 0, 27%
Bản tệ & ngoại tệ
Bắt buộc
Công ty BHTG
Quốc hội
Luxem-bourg
28. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
Tính toán sau(2)
Bản tệ
Bắt buộc
Công ty BHTG
Chính phủ
Nhật
80. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
0, 084%
Bản tệ & ngoại tệ
Bắt buộc
Công ty BHTG
Bộ tài chính
Pháp
70. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
Tính toán sau(2)
Bản tệ & ngoại tệ
Bắt buộc
Bảo hiểm tiền gửi
Hiệp hội ngân hàng
Thuỵ Điển
31. 000USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
0, 5%
Bản tệ
Bắt buộc
Công ty BHTG
Chính phủ
Thuỵ Sỹ
19. 700USD
Tổng tài sản có
Tính toán sau(2)
Bản tệ
Tự nguyện
Bảo toàn tiền gửi
Hiệp hội ngân hàng
Italy
125. 000
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
Tính toán sau(2)
Bản tệ & ngoại tệ
Bắt buộc
Bảo toàn tiền gửi
Ngân hàng trung ương
Việt Nam
30triệu VND tương đương 2. 142USD
Số dư tiền gửi được bảo hiểm
0, 15%
Bản tệ
Bắt buộc
BHTG Việt Nam
Chính phủ
(2) Tính toán sau: Khi có khủng hoảng mới cụ thể
b. Định hướng tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
ở nước ta, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đang được thành lập và mới đi vào hoạt động, trong khi hậu qủa đổ vỡ của hệ thống HTX tín dụng vẫn còn ám ảnh lớn trông nhân dân. Nước ta mới bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, hộ nông dân nhìn chung còn nghèo, sản xuất nông nghiệp phân tán, năng suất thấp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên và mang tính bấp bênh. Công nghệ ngân hàng còn lạc hậu, trình độ kinh doanh tiền tệ - tín dụng còn hạn chế nhiều mặt. . .
Để tiến tới hoà nhập nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới, để phù hợp với xu hướng phát triển nhanh hệ thống ngân hàng, của các tổ chức tín dụng và của hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam, việc sớm tiến hành bảo hiiểm tiền gửi là tất yếu khách quan. Đồng thời do đặc điểm cụ thể của Việt Nam, Trong giai đoạn đầu chỉ nên bảo hiểm loại tiền gửi có kỳ hạn của quỹ tín dụng nhân dân. Trách nhiệm mua bảo hiểm thuộc về quỹ tín dụng nhân dân và cần có sự tài trợ của nhà nước. Nhà nước cũng nên quy định mức phí đóng bảo hiểm tương ứng với mức của các nước trên thế giới và cũng cần phải quy định mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm với người gửi tiền. Việc tổ chức BHTG phải đi đôi với việc mở rộng bảo hiểm sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm kinh doanh nông sản và bảo hiểm tai nạn cho nông dân. Về mô hình của tổ chức bảo hiểm, chúng ta cần có sự liên doanh, liên kết giữa ngân hàng nhà nước trung ương và tổng công ty bảo hiểm Việt nam, thành lập một công ty bảo hiểm riêng. Nhà nước không nên thu thuế đối với công ty bảo hiểm tiền gửi này. Phần lợi nhuận của công ty này cần được đầu tư trở lại cho chính các quỹ tín dụng nhân dân.
Tiếp theo việc thực hiện đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, Chính phủ cũng nên quy định BHTG đối với ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay cả nước có 30 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, 16 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và 2 công ty tài chính. Các tổ chức tín dụng này đang có xu hướng phát triển nhanh trong thời gian tới. Chính vì vậy, cần phải có quy định bảo hiểm tiền gửi.
Ngoài ra, để đảm bảo an toàn và khuyến khích mọi người dân gửi tiền vào các tổ chức tín dụng cổ phần, nhà nước sớm xem xét quy định bảo hiểm tiền gửi bắt buộc đối với họ. Hoặc có thể, các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại quốc doanh và các công ty tài chính cổ phần, nên tự nguyện cùng nhau tthành lập quỹ BHTG tại hiệp hội ngân hàng Việt nam.
Giải pháp nâng cao hiệu quả của BHTG
a. Vi mô
Để phát huy trọn vẹn mặt tích cực của loại BHTG quốc gia, kinh nghiệm thực tiễn một số quốc gia trên thế giới chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp sau:
Cải tiến và tăng cường hoạt động thanh tra ngân hàng. Trước hết là cần phải đẩy mạnh thường xuyên và tiến hành thanh tra tại chỗ. Nội dung thanh tra cần phải tập trung vào các vấn đề: Chất lượng tài sản có, cụ thể là chấtt lượng các khoản cho vay (bao gồm cả hồ sơ, tính pháp lý đầy đủ); các yêu cầu về vốn theo quy định của ngân hàng nhà nước; chất lượng quản lý kinh doanh và nhân sự (bao gồm cả việc thu thập và xử lý thông tin) ; lợi nhuận và khả năng sinh lời; khả năng thanh toán và tính thanh khoản. Nội dung thanh tra cần phải xây dụng bảng điểm đánh giá. Dựa vào thang điểm đánh giá, ngân hàng nhà nước có biện pháp kịp thời, răn đe đối với những tổ chức tín dụng nằm dưới mức điểm chuẩn. Sự răn đe, chấn chỉnh kịp thời của ngân hàng nhà nước sẽ góp phần làm hạn chế các tiêu cực. Công tác thanh tra cần phải kết hợp hình thức có và không có thông báo trước, cũng như phải có trọng điểm, tránh dàn đều. Đơn vị yếu kém, có vấn đề cần được trú ý và thanh tra nhiều hơn so với các đơn vị tốt. Cần có biện pháp khen thưởng đối với hoạt động giám sát nội bộ của TCTD nếu như kết quả phù hợp với đánh giá của thanh tra ngân hàng. Từ đó sẽ nâng cao vai trò, hiệu quả công tác giám sát nội bộ và giảm nhẹ khối lượng thanh tra ngân hàng.
Bổ sung và thực hiện nghiêm các quy định về vốn và tín dụng. Cho đến nay, ngân hàng nhà nước đã có nhiều quy định về vốn, xét cấp tínn dụng, hạn chế việc cho vay tập trung quá mức. Tuy nhiên, những quy dịnh này chưa được thực hiện nghiêm túc và công tác thanh tra, xử lý các vấn đề này vẫn còn nhẹ tay mặc dù những quy định này là biện pháp tốt nhất để hạn chế rủi ro cũng như sự liều lĩnh của các TCTD. Do vậy ngân hàng nhà nước cần bổ sung và yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm ngặt quy định về vốn và cấp tín dụng như: vốn điều lệ tối thiểu, tỷ lệ huy động vốn, vốn cấp 1 (Tier 1 capital), cấp 2 (Tier 2 capital), hạn mức cho vay một cá nhân và một pháp nhân, hạn mức cho vay một ngành nghề. . . Các quy định này cần gắn với các thông lệ quốc tế, đặc biệt là hiệp định Basel. Hiệp định quy định các khoản mục trong phần tài sản Có và ngoại bảng được phân chia thành 4 nhóm chính với hệ số rủi ro tương ứng là 0%, 20%, 50%, và 100%. Kế đó tính tổng giá trị tài sản Có được điều chỉnh theo mức độ rủi ro bằng cách nhân giá trị các khoản mục tài sản Có với hệ số rủi ro (đối với các khoản mục ngoại bảng, trước đó phải quy đổi ra thành khoản mục trong bảng theo một tỷ lệ phần trăm nào đó, ví dụ: tín dụng dụ phòng (standby L/C) bảo lãnh cho một khoản vay hoặc thương phiếu được quy đổi 100% thành một khoản vay, sau đó nhân với hệ số rủi ro tương ứng). Theo hiệp định nàyc các ngân hàng phải thoả mãn hai yêu cầu vầ vốn như sau: vốn cấp 1 (vốn cổ phần) phải đạt tối thiểu là 4% so với tổng tài sản Có được điều chỉng theo mức độ rủi ro; tổng vốn bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 (bao gồm vốn dự phòng thua lỗ và các khoản nợ thứ cấp (là khoản nợ chỉ được chi trả sau khi đã chi trả xong cho người gửi tiền và các chủ nợ khác) phải đatj ít nhất là 8% so với tổng tài sản Có chịu rủi ro. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước phải chú ý và bổ xung thêm các quy định về các khoản mục, hoạt động ngoại bảng. Bởi vì, các khoản mục ngoại bảng (cam kết, bảo lãnh, kinh doanh các công cụ tài chính) tuy không thể hiện trong bảng cân đối nhưng cũng dễ dẫn các TCTD đến các rủi ro, thua lỗ lớn.
Tách biệt hoạt động ngân hàng và hoạt động chứng khoán, bảo hiểm. Các TCTD (ngân hàng) không được tham gia thực hiện các hoạt động chứng khoán rủi ro (như bảo lãnh phát hành, kinh doanh chứng khoán) và bảo hiểm, nhưng có thể thực hiện các nghiệp vụ khác như lưu ký, môi giới, tư vấn. Ngược lại, các công ty chứng khoán, bảo hiểm và các tổ chức phi ngân hàng cũng không được tham gia các hoạt động ngân hàng truyền thống. Mục đích là ngăn ngừa rủi ro và giữ mức cạnh tranh vừa phải cho hệ thống ngân hàng. ở Việt Nam, các ngân hàng đã dược tách biệt với các công ty chứng khoán, nhưng cần phải xem xét đến tính độc lập của các công ty chứng khoán nguyên là các công ty con cuả các ngân hàng.
Duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thích hợp. Sự cạnh tranh buộc các TCTD hoạt động có hiệu quả hơn và phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên, sự cạnh tranh quá mức sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ và làm tăng sự liều lĩnh của các TCTD. Khi mức lợi nhuận bị giảm mạnh do cạnh tranh khốc liệt sẽ dễ hướng các TCTD lao vào các hoạt động có rủi ro cao. Do vậy, cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh bằng cách duy trì số lượng thích hợp của các TCTD, kiểm soát việc cho ra đời các TCTD mới cũng như việc mở thêm chi nhánh, văn phòng giao dịch.
Công khai thông tin và hoạt động của các TCTD. Ngân hàng nhà nước cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các TCTD bắt buộc phải công khai cho công chúng (ít nhất là cho khách hàng và cổ đông) biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, trước mắt là các số liệu về các chỉ tiêu bắt buộc theo quy định của ngân hàng nhà nước. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân TCTD và cho xã hội. Đối với cổ đông, người gửi tiền, khách hàng có được nhiều thônh tin chính xác về chất lượng và hoạt động của TCTD sẽ giúp cho họ có được quyết định đúng đắn trong việc đầu tư, giao dịch với ngân hàng. Đây là cách tốt nhất để bảo vệ quyền lợi cho công chúng (thường không có đủ và rất khó để có được thông tin chính xác về các TCTD). Đồng thời phản ứng của khách hàng, chủ nợ trước các thông tin này sẽ buộc tài chính tín dụng định hướng hoạt động của mình. Đối với các TCTD, việc công khai chất lượng và hoạt động của mình sẽ làm giảm bớt sự liều lĩnh, bất hợp pháp (nếu có) trong tổ chức mình. Đối với cơ quản lý và pháp luật sẽ giảm được khối lượng công việc giám sát, theo dõi do được chia sẻ với công chúng đồng thời phát hiện nhanh và ngăn chặn kịp thời các hành vi nguy cơ. Hiện nay, thực hiện công tác này vẫn còn khá yếu kém ở Việt Nam và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ đổ bể kinh tế lớn và thua lỗ nặng của một vài ngân hàng.
Xây dựng phí bảo hiểm và tỷ lệ bồi thường tương ứng với mức độ rủi ro. Để giảm thiểu tình trạng sự liều lĩnh sau bảo hiểm và buộc người bảo hiểm pjải tiếp tục quan tâm đến hoạt động của các TCTD, một số nước đã bãi bỏ việc bồi hoàn 100%. Nghĩa là bất kỳ gửi nhiều hay ít, người gưit tiền vẫn phải gánh chịu một tỷ lệ nhất định thua lỗ trong trường hợp TCTD mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ bồi hoàn còn gắn với mức độ rủi ro (chất lượng hoạt động) của TCTD. Ngoài ra, phí bảo hiểm không giàn đều mà tuỳ vào mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng theo hướng phí bảo hiểm thấp khi rủi ro thấp và ngược lại. Như vậy, một TCTD có nhiều hoạt động rủi ro sẽ phải gánh chịu phí bảo hiểm cao và tỷ lệ bồi hoàn thấp. Đây cũng là hình thức thưởng phạt và khuyến khích các TCTD hoạt động thận trọng, lành mạnh. Đồng thời, căn cứ vào mức phí và tỷ lệ bồi hoàn, công chúng sẽ có ý thức hơn và thận trọng hơn trong việc giao dịch với các TCTD.
Ngoài những vấn đề cần quan tâm trên, cần phải khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi để xây dụng phí bảo hiểm, tỷ lệ bồi thường thích hợp.
Bên cạnh nhữnh giải pháp vi mô chúng ta không thể không kể đến giải pháp vĩ mô góp phần hoàn thiện BHTG ở Việt Nam.
b. Vĩ mô
Một là: Chúng ta cần sớm có luật về BHTG, có thể là một phần trong luật ngân hàng, hoặc cũng có thể ban hành đạo luật BHTG riêng.
Hai là: Chúng ta cần xây dựng hệ thống BHTG gồm những tổ chức BHTG lớn mạnh, độc lập, chuyên môn hoá có đủ sức BHTG cho các ngân hàng lớn ở nước ta. Trước tên chúng ta có thể xây dựng công ty BHTG nhà nước cho các ngân hàng thương mại. Công ty này thuộc sở hữu nhà nước, được cấp vốn ban đầu để hoạt động. VViệc thành lập công ty bảo hiểm tiền gửi nhà nước phù hợp với đặc điểm hiện nay của hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng, của nên kinh tế Việt Nam nói chung. Vì đại bộ phận tiền gửi trong phạm vi cả nước là do các ngân hàng quốc doanh huy động, và doanh số hoạt động của các ngân hàng quốc doanh chiếm khoảng 90% toàn bộ doánhố hoạt động của cả hêj thống ngân hàng. Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trong đó kinh tế quốc doanh chiếm vị trí chủ đạo. Trên thực tế ngân hàng quốc doanh đang chiếm vị trí chủ đạo trong ngành. Hệ thống BHTG phải đảm bảo được sự phát triển lành mạnh cho các ngân hàng quốc doanh vì sự nghiệp đó.
Ba là: Hệ thống BHTG có tác dụng quan trọng trong việc bảo đảm an toàn cho hệ thống các ngân hàng do đó góp phần ổn định và phát triển nên tài chính quốc gia. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của hệ thống BHTG cần được nhà nước quan tâm đặc biệt. Điều đó có thể được thực hiện thông qua việc nhà nước cấp vốn và cử người điều hành các tổ chức vào BHTG nhà nước hoặc nhà nước tài trợ, hoặc cho các tổ chức bảo hiểm vay vốn khi gặp khó khăn, Hoặc nhà nước có chính sách ưu tiên về thuế đối với các tổ chức BHTG trông thời gian đầu mới thành lập v. v. . .
Bốn là: Cần tiếp tục phát triển hoạt động BHTG của Bảo Việt đối với quỹ tín dụng nhân dân. Bao gồm triển khai hoạt động bảo hiểm cho tất cả các quỹ tín dụng nhân dân trên mọi miền đất nước; Hoàn thiện quy chế bảo hiểm trên tất cả các phương tiện cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, dù là giải pháp vi mô hay vĩ mô chúng ta cần phải tạo cho thị trường bảo hiểm tiền gửi những ưu thế hơn so với thị trường khác và có sân chơi lành mạnh cho chúng hoạt động.
cHƯƠNG III: MộT Số KIếN NGHị NHằM PHáT TRIểN thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
NHữNG THUậN LợI KHI TRIểN KHAI bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm tiền gửi mặc dù mới triển khai ở Việt Nam nhưng nó cũng có một số thuận lợi sau:
Thứ nhất: nó được đông đảo người gửi tiền ủng hộ vì nó tạo ra sự an tâm cho những người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng và làm lá chắn cho họ khi xảy ra rủi ro tín dụng . Đặc biệt là những tổ chức tín dụng vừa mới được thành lập, vẫn còn non trẻ, chưa có uy tín trên thị trường thì nhu cầu tham gia bảo hiểm tiền gửi càng cao.
Thứ hai: như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có hệ thống tổ chức tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân rộng khắp trên cả nước và số lượng tương đối lớn. Vì vậy bảo hiểm thị trường ra đời thu hút một lượng lớn các quỹ tín dụng nhân dân và các tín dụng tổ chức này tham gia. Đây là một thị trường có sức hút lớn có khả năng lôi kéo một số lượng khách hàng hiện tại cũng như tiềm năng khá lớn.
Thứ ba: khi đất nước phát triển càng mạnh thì nhu cầu bảo hiểm nói chung và nhu cầu bảo hiểm tiền gửi nói riêng ngày càng gia tăng, do họ thấy rõ được vai trò và tác dụng của bảo hiểm thị trường là bảo vệ người gửi tiền và bảo đảm cho các tổ chức tín dụng hoạt động có hiệu quả hơn.
Thứ tư: bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên thế giới, vì vậy chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của họ, tiếp thu những cái tinh hoa nhất và biết sàng lọc những điểm bất hợp lý.
Thứ năm: mặt khác bảo hiểm tiền gửi của ta là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, hoạt động dưới sự điều tiết của thủ tướng chính phủ, được Nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, được miễn nộp thuế. Chính vì được sự ưu đãi lớn của chính phủ dành cho nên các tổ chức bảo hiểm tiền gửi có một lợi thế hơn hẳn so vơí các loậi hình bảo hiểm khác.
NHững khó khăn khi triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Bên cạnh những thuận lợi thì việc triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam cũng gặp phải những khó khăn:
Như chúng ta đã biết loại hình bảo hiểm tiền gửi ở nước ta còn rất mới mẻ và non trẻ nên đội ngũ cán bộ trong ngành bảo hiểm tiền gửi chưa có trình độ chuyên môn cao (chủ yếu là cán bộ chuyển từ ngành ngân hàng sang), số lượng người hiểu biết về nghiệp vụ này quá ít. Do đó khi triển khai nghiệp vụ này, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong khâu quản lý và thực hiện. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng của ta chưa thấy hết được tác dụng của bảo hiểm tiền gửi, họ cho rằng việc tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ làm tăng chi phí trung gian (không tính chi phí đầu vào). Vì vậy hiện nay mặc dù số các tổ chức tín dụng trong cả nước khá lớn nhưng số lượng các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi là rất ít. Họ chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt mà không nghĩ tới lợi ích lâu dài. Do đó, chúng ta phải có biện pháp để khuyến khích họ tham gia nhiều hơn.
Thêm vào đó, bảo hiểm tiền gửi chưa hình thành một hệ thống luật riêng đồng bộ, mà nó mới chỉ được điều chỉnh bởi "luật tổ chức tín dụng ", nghị định 89 /1999/NĐ- CP về bảo hiểm tiền gửi và một số thông tư khác nhưng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, và phạm vi quá hẹp, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên khi thực hiện vẫn còn tạo ra nhiều khe hở dẫn tới nhiều hiện tượng tiêu cực như:
-Sự liều lĩnh sau khi được bảo hiểm, đó là tình trạng người đóng bảo hiểm (trong trường hợp này là các tổ chức tín dụng) sẽ trở nên bất cẩnvà dễ dàng thực hiện hành vi có độ rủi ro cao vì nghĩ rằng, mọi rủi ro sẽ được cơ quan bảo hiểm gánh chịu và đền bù.
-Tiếp đến chúng ta phải kể đến là sự lựa chọn ngược, hiện tượng mà trong đó những người bất cẩn có nhiều hành vi rủi ro lại muốn tham gia bảo hiểm hơn so với người cẩn trọng. Từ đó sẽ thu hút các doanh nhân có máu mạo hiểm, liều lĩnh tham gia vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó dẫn đến tình trạng cào bằng giữa tổ chức tín dụng tốt, hiệu quả với tổ chức tín dụng yếu kém.
-Hiện nay còn xuất hiện hiện tượng lách luật, né tránh giới hạn bảo hiểm tối đa dưới hình thức người gửi tiền tự mình hoặc nhờ tổ chức tín dụng hoặc một bên thứ ba chia nhỏ số tiền đem gửi đi nhiều nơi sao cho mỗi phần tương ứng với mức tối đa được bảo hiểm. Hiện tượng này làm tăng gánh nặng tài chính cho bảo hiểm tiền gửi và liều lĩnh của người gửi tiền.
một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Ngày nay, hội nhập quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các nước nói chung và nước ta nói riêng. Trong những năm qua, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao, thương mại với nhiều nước trên thế giới đạc biệt là việc ra nhập tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC. . . Trong điều kiện đó, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tiền gửi nói riêng phải chuẩn bị mọi tiền đề đủ mạnh về tài chính, kỹ thuật, con người. . . nhằm góp phần phát triển kịp với thị trường bảo hiểm tiền gửi của thế giới.
Do ngành bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam mới thành lập, khả năng tài chính và kinh nghiệm còn hạn chế. Là một sinh viên với kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần có tổ chức mạng lưới ở các địa phương. Trước mắt nên có ở từng khu vực và lâu dài nên có ở tất cả các tỉnh (đủ số lượng và mạnh về chất lượng) để có thể thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình (theo uỷ quyền) với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi ở các địa phương.
Ngân hàng nhà nước tỉnh cần chấm dứt vai trò làm thay những tác nghiệp cụ thể của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Nghị định 89 /1999 / NĐ- CP và thông tư 03 /2000/TTNH7 nên sửa đổi bổ sung một số nội dung cơ bản sau:
-Đối tượng thuộc diện điều chỉnh của NĐ này ngoài cá nhân còn có pháp nhân.
-Không chỉ bảo hiểm tiền gửi là đồng Việt Nam mà cả ngoại tệ.
-Mức phí bảo hiểm nên chăng có nhiều mức khác nhau áp dụng cho các loại hình
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
-Mức được bảo hiểm trả cho đồng nội tệ và ngoại tệ của một cá nhân và pháp nhân của tất cả những loại tiền gửi có kỳ hạn sẽ được tính theo tỷ lệ phần trăm, số còn lại sẽ được bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tiếp tục hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản phù hợp với quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
Trên đây là một vài kiến nghị của bản thân em qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tuy chưa nhiều vì vậy em rất mong được thầy cô góp ý nhằm hoàn thiện thêm kinh nghiệm, kiến thức cho bản thân.
Kết luận
Thị trường bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam ra đời và phát triển mới chỉ được một năm nhưng nó được rất nhiều người quan tâm. Đây là một sự kiện quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói riêng vàc đóng góp vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước nói chung. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi hết sức quan trọng bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và lành mạnh, mặt khác nó không chỉ đem lại lợi ích cho công chúng, doanh nghiệp, ngân hàng, mà còn cho cả quỹ tín dụng. Ngoài những vai trò to lớn và những thuận lợi của bảo hiểm tiền gửi, chúng ta không thể phủ nhận rằng khi triển khai nhgiềp vụ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu những kiến thức lý thuyết vững vàng để có thể vận dụng nó một cách khôn khéo, linh hoạt và năng động trong mọi tình huống góp phần phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi trong nước.
Qua nghiên cứu đề tài này, chúng ta thấy thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay mới ở giai đoạn đầu, thị trường diễn biến phức tạp cùng với sự phát triển không ổn định của thị trường tài chính-tiền tệ nhưng thị trường tiềm năng của nó lại khá lớn. Do đó chúng ta phải phát triển thị trường này sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế của đất nước và tiến tới đưa thị trường bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát triển ngang bằng với thị trường bảo hiểm tiền gửi thế giới. Là một sinh viên với kiến thức thực tế còn hạn chế, chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
Hà Nội ngày 20/11/2001
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Lan
mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm tiền gửi 2
I. Giới thiệu chung về bảo hiểm tiền gửi 2
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi
2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi 3
3. Sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm tiền gửi 4
II. Nội dung của bảo hiểm tiền gửi 5
1. Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi 5
2. Phạm vi của bảo hiểm tiền gửi 5
3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 8
4. Các hình thức của BHTG 9
Chương II:Thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 11
I. Tính tất yếu khách quan khách quan hình thành thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 11
II. Thực trạng thị trường bảo hiểm thị trường ở Việt Nam 12Thực trạng thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 12
Nội dung hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi áp dụng tại Việt Nam 14
Những điểm còn tồn đọng trong thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 17
Kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới và định hướng tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 18
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm tiền gửi 24
Chương III: Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 27
Thuận lợi khi triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 27
Khó khăn khi triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 28
Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm tiền gửi 29
Kết luận 33
tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Nhà xuất bản thống kê
Tạp chí kinh tế phát triển
Luật các tổ chức tín dụng
Nghị định 89/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi
Tạp chí ngân hàng
Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ
Tạp chí thị trường tài chính
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34411.doc