Đề án Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng Việt Nam

Ngành xi măng Việt Nam nói chung và tổng công ty xi măng Việt Nam nói riêng đang còn rất nhiều khó khăn cần phải vượt qua. Nhiệm vụ quan trọng trước mắt là phải cân đối được cung cầu, tiêuthụ được lượng xi măng dư thừa để duy trì nhịp độ sản xuất bình thường, sau đó phải có một hướng đi thích hợp để quy hoạch và phát trển ngành xi măng ăn nhập với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế toàn khu vực. Khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ và hơn nữa Việt Nam là thành viên của WTO thì sự cạnh tranh trong ngành còn quyết liệt hơn nhiều. Điều đó bắt buộc tất cả các doanh nghiệptrong ngành đều phải tự mình xác định được hướng đi cho mình. Để tạo điều kiện phát trển ngành xi măng và tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong ngành không thể thiếu được vai trò to lớn của Chính Phủ.

doc27 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoan đầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường mỏ ra một thời kỳ mới đầy cơ hội song cũng muôn vàn thách thức cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp,các ngành ở Việt Nam. Một tất yếu khách quan đòi hỏi cấp thiết trong nền kinh tế thị trường đối với mọi thành phần hoạt động kinh tế đó là cạnh tranh. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các ngành,rộng hơn nữa là cạnh tranh giữa các nước. Sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn bởi các doanh nghiệp không bao giờ thoả mãn với thị phần đã chiếm lĩnh được vìnhư vậy đồng nghĩa với sự diệt vong mà không một doanh nghiệp nào lại muốn như vậy cả, mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường đồng nghĩa với tăng lợi nhuận. Để đạt được điều này các doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả phải luôn luôn nổ lực hết mình để xây dựng một chiến lược cạnh tranh với những giải pháp tốt nhất, tối ưu nhất, thích hợp nhất. Trong điều kiện hộinhập nền kinh tế, nền kinh tế Việt Nam nói chungvà từng ngành cụ thể đang phải đươngđầuvới không ít khó khăn. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế mở cửa với sự đầu tư ồ ạt của nước ngoài vào Việt Nam đang và sẽ phải chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt giữa một bên là tổng công ty xi măng Việt Nam (chủ quản là Bộ Xây Dựng) một bên là các liên doanh nước ngoài tại Việt Nam và rộng hơn nữa là ngành xi măng của khu vực, vậy nên em chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng Việt Nam” đề tài gồm hai chương: Chương I: Lý luận chung về cạnh tranh Chương II: Thực trạng về sự đối đầu với cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành xi măng Vì thời gian nghiên cứu có hạn, đề án không tránh khỏi thiếu sót mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo: Nguyễn Thị Thu đã giúp em hoàn thành đề án này. Chương I: Lý luận chung về cạnh tranh I. Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 1. Các hình thái của cạnh tranh trên nền thị trường 1.1. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có vô số người bán và người mua,sảnphẩm bán trên thị trường là đồng nhất, không có rào cản, không có cạnh tranh bằng giá cả,thông tin hoàn hảo. Cạnh tranh hoàn hảo là một hình thức đơn giản của cấu trúc thị trường,trong đó các điều kiện sau được thoả mãn: - Có nhiều người mua và bán nhỏ,không ai trong số họ đủ lớn để bằng hành động của mình ảnh hưởng đến giá cả. - Có sự tự do gia nhập ngành, như thể không doanh nghiệp nào muốncạnh tranh với các doanh nghiệp đang tồn tại. - Sản phẩm giống nhau. - Tất cả các doanh nghiệp có hành vi tối đa hoá lợi nhuận. - Tính di động hoàn hảo của tất cả các yếu tố sản xuất. - Sự hiểu biết hoàn hảo về các cơ hội của thị trường. Tác dụng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo: - Thúc đẩy các doanh nghiệp phải cải tiếncông nghệ, thay đổi sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. - Làm cho người thị trườngêu dùng dễ dàng lựa chọn những sản phẩm vừa ý với mức giá thấp. - Các và các nguồn lực được phân phối theo hướng có lợi nhất làm cho doanh nghiệp chuyển sang kinh doanh măt hàng phù hợp với xã hội. 1.2. Thị trường độc quyền Thị trường độc quyền là thị trường mà ở đó có một người bán duy nhất có thể kiểm soát được thị trường, có rào cản tuyệt đối, đường cầu của hãng độc quyền là đường cầu của ngành. Doanh nghiệp độc quyền có thể chi phốivà quyết định giá cả và sản lượnghàng hoá bán ra trên thị trường. Nhà độc quyền sẽ sản xuất sản lượng và bán giá tại điểm doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên, nếu các điều kiện chi phí và cầu thuận lợi thì siêu lợi nhuận sẽ được tạo ra, và nó không bị xói mòn do cạnh tranh. Độc quyền gây ra sự thiếu hụt hàng hoá ảnh hưởng xấu đến người tiêu dùng và còn gắn với sự trì trệ, phân bổ tài nguyên không tối ưu, không công bằng. Tuy nhiên nó cũng đem lại lợi ich cho xã hội nhờ đảy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển. Doanh nghiệp độc quyền thường có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng được quy mô sản xuất nên giảm được chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm. 1.3. Cạnh tranh độc quyền Cạnh tranh độc quyền giống cạnh tranh hoàn hảo ở chỗ nó chứa nhiều doanh nghiệp nhỏ và có sựgia nhập ngành tự do trong dài hạn, nhưng trong cạnh tranh độc quyền có sự khác biệt về sản phẩm. Trong ngắn hạn giống như cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp có thể tạo ra siêu lợi nhuận. Nhưng như thế các doanh nghiệp mới sẽ bị cuốn hút vào ngành, mỗi doanh nghiệp sẽ mất một số kháchhàng cho những người gia nhập mới và cuối cùng siêu lựi nhuận có thể biến mất do cạnh tranh. Trong dài hạn doanh nghiệp không thu được siêu lợi nhuậnvà vì thế không thẻ cho là”không công bằng” nhưng giá không bằng chi phí cận biên do đó có sự phân bổ tài nguyen không hợp lý. ảnh hưởng chính của sự đa dạng hoá sản phẩm là làm giảm hiệu quả vì mỗi doanh nghiệp không khai thác được đến mức tối đa tính kinh tế của quy mô. Kết luận này đôi khi được gọi là “ định lý công suất thưà”. 1.4. Độc quyền tập đoàn Độc quyền tập đoàn là thị trường mà ở đó có một vàidoanh nghiệp đáp ứng hầu hết nhu cầu về một vài loại hàng hoádịch vụ cụ thể nào đó, các doanh nghiệp này rất nhạy cảm với các hoạt đọng kinh doanh của nhau. Đặc tính quan trọng của độc quyền tập đoàn là các doanh nghiệp trong ngành đó phụ thuộc lẫn nhauvì thế mà hành động của một công ty có ảnh hưởng rõ rệt đến các công ty khác. Các doanh nghiệp độc quyền tập đoàn chủ yếu quan tâm đến chiến lược cạnh tranh của mình và coi các đói thủ cạnh tranh là người chơi trong một trò chơi rất phức tạp. Cactel hoá: nếu các doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau và biết sự phụ thuộc đó thì một kết quả có thể xẩy ra là chúng sáp nhập với nhau và hành động như một nhà độc quyền, bằng cách đó chúng có thể tối đa hoá lợi nhuận và tránh được những chi phí của việc cạnh tranh với nhau. Một trong những hình thức quan trọng nhất của cấu kết ngầm là chỉ đạo giá, một trong số các doanh nghiệp trong ngành thực hiện vai trò của người chỉ đạo giá, đặt một mức giá để các doanh nghiệp khác đặt theo. 2. Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Ba vấn đề kinh tế cơ bản là:sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ? được giải quyết thông qua thị trường, thông qua các mối quan hệ cung cầu, giá cả và cạnh tranh mà quyết định nên sản xuất mặt hàng gì, với số lượng bao nhiêu kỹ thuật công nghệ nào và kết quả sản xuất ấy phân phối cho ai. Một điều tất yếu là đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường đó là bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động kinh doanh một loại hàng hoá nào đó trên thị tường đều phải chấp nhận cạnh tranh, cạnh tranh là quy luật trong nền kinh tế thị trường, đã tham gia hoạt động kinh tế thì không thể lẫn tránh cạnh tranh. Theo Marx “cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp đó là cái khung, cái xương sông cho các hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp nếu chiến lược đúng đắn thì nó sẽ giúp cho doanh nghiệp đánh bại các đối thủ đề đứng vững trên thị trường còn nếu chiến lược sai lệch thì sẽ dẫn doanh ngiệp tới chổ thất bại. Cờu trúc cạnh tranh trong một ngành có thể được mô tả bằng mô hình “năm lực lượng”. Mỗi một rtong năm lực lươbgj này chịu ảnh hưởng cẳa nhiều yếu tốkhác mà bản thân các yếu tố đó cũng cần phải đượcnghiên cứu để tạo ra một bức tranh đầy đủ về sự cạnh tranh trong một ngành. Sự tác động qua lại giữa năm lực lượng quyết định một ngành hấp dẫn như thế nào đối vơí các doanh nghiệp đang ở trong đó. Thực chất của sự cạnh tranh là sự tranh dành về lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia kinh doanh rtên thị trường. đối với người mua thì muón mua được hàng hoá dịch vụ chất lượng cao,giá rẻ còn ngược lại các doanh nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình. Về mục tiêu lợi nhuận, họ phải giảm chi phí và tìm cách giành giật khách hàng và thị trường về phía mình, và kết cục là cạnh tranh xảy ra. Cạnh tranh là tất yếu của thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng linh hoạt có những chiến lược có hiệu quả. Nếu như lợi nhuậnlà động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt độnh sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ phải tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhằm thu được lợi nhuận tối đa. ở Việt Nam cùng với sự chuyển đổi kinh tế, cạnh tranh được thừa nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi là một nguyên tắccơ bản trong tổ chức điều hành kinh tế ở từng doanh nghiệp. Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường nuế doanh nghiệp nào không phù hợp, thích nghi với cơ chế đó thì sẽ bị loại ra khỏi thị trường trong khi một số doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa, điều này đặt ra cho các doanh nghiệp đang yếu kém phải nhanh chóng thích nghi,nuế thích nghi được thì đó là cơ hội để phát triển và ngược lại, nuế không thích nghi được thì đó là dấu hiệu của sự phá sản. Vì vậy trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đạt được một trình đọ cạnh tranh cao là con đươngf đảm bảochắc chắncho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Mục tiêu của các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh đó là lợi nhuận vì đó là thu nhập hiện tại của mỗi doanh nghiệp và là tiền đề để hiện đại hoá và phá triển doanh nghiệp. Bên cạnh đó thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường là không tránh khỏi vì đó là cuộc cạnh tranh vì lợi ích vật chất giữa các doanh nghiệp vơi nhau. Cạnh tranh lành mạnh làmột động lực quan trọng để phát trểnlực lượng sản xuất, tiến bộ khoahọc kỹ thuật là điều kiện để phát trển tính tháo vát năng động nhạy bén và sáng tạo của các doanh nghiệp. 3. Vai trò của cạnh tranhđối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nếu như không có cạnh tranh thì thị trường sễ ở trong hai loại đó là: thị trường cạnh tranh hoàn hảo hoặc là thị trường độc quyền, ở thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì công nghệ, khoa học, kỷ thuật sễ không phát triển còn ở trong thị trường độc quyền thì không tốt nó gây ra phần tổn thất cho xã hội và ép giá người mua. Vậy thì phải có thị trường có cạnh tranh. Cạnh tranh là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường và cơ chế vận động thị trường, cơ chế thị trường là giải pháp tốt để giải quyết các vấn đề kinh tế vì nó có khả năng để lập lại trật tự kinh tế, nhất là nó tạo cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách cải tiến, phát huy những kinh nghiệm thành công, khắc phục những thất bại để phát trển xã hội.Kỹ thuật hệ thống thị trường có tính năng động uyển chuyển tự điều chỉnh được, tự sữa chữa được những yếu kém, cơ chế thị trường thể hiện những mặt ưu việt đó một phần là do cạnh tranh giữ một vai trò quan trọng. Cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống, vì các doanh nghiệp hạ giá bán sản phẩm nhằm mục đich lôi kéo khách hàng và mở rộng thị trường, cùng với việc hạ giá là hạ thấp giá thành sản phẩm. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh, đẻ tối đa hoá lợi nhuận các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào để sao chochi phí sản xuất là thấp nhất. Trong điều kiện có cạnh tranh các nguồn lực được sử dụng một cách tốt nhất, tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất đẻ thu được sản phẩm đẩua là hàng hoá dịch vụcó chất lượng cao nhất. chất lượng sản phẩm tạo uy cho doanh nghiệp, nó tạo lòng tin của khách hàng cho nên để cạnh tranh có hiệu quả thì chất lượng khách hàngông ngừng được nâng cao. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Để theo kịp và vượt lên đối thủ cạnh tranh các doanh nghiệp phải đưa tiến bộ khoa học kỹ thuậtvào sản xuất bởi vì tiến boọ khoa học đóng vai trò là một lực lượng sản xuấtquan trọng, tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo thêm lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ngoài ra, cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh hàng hoá và khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp, cạnh tranh là sự thay thế những doanh nghiệp làm ăn thua lổ dụng lãng phí nguồn lực của xã hội bằng những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát trển. Đồng thời cạnh tranh là điều kiện giáo dục tính tháo vát năng động và sáng tạo cho các nhà sản xuất kinh doanh, có thể nói cạnh tranh lành mạnh là động lực phát trển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như từng doanh nghiệp. II. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và sự cần thiết khách quan phải tăng khả năng cạnh tranh 1. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1.1. Khả năng cạnh tranh ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nàomuốn có vị trí vững chắc trên thị trường cần phải có tiềm lực đủ mạnh đê cạnh tranh. Khả năng của doanh nghiệp là năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trỳ vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện các mục tiêu cuả doanh nghiệp. Tăng sức cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các ưu thế về mặt giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng, uy tín của sản phẩm và doanh thu nhằm dành được những ưu thế tương đối trong cạnh tranh đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Cạnh tranh một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát trển, mặt khách hàngác nó sẽ đào thải những doanh nghiệp yếu thế không đủ sức cạnh tranh. do vậy để tồn tại và phát trển, các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất, giá bán sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ một cách tốt nhất, đúng lúc nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Đi đôi với sự phát trển như vũ bão của khoa học kỹ thuật nhưng đòi hỏi, yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng ở mức cao hơn, đẻ đáp ứng nhu cầu thị trường đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp buộc phải tiết hành các hoạt đoọng marketing dịch vụ sau bán tốt, tìm hiểu thị trường thật tốt để không thua trong các cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá thành, giá bán, chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp hay gián tiếp như các hoạt động quảng cáo, tham gia các hội chơ triển lãm … Để duy trì và tăng khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp phải luôn luôn đưa ra các phương án, các giải pháp tối ưu để giảm chi phí sản xuất để từ đó giảm giá thành sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,nâng cao hiệu quả quản lýđể nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và biết chọn đúng thời điểm bán hàng nhằm thu hút được khách hàng mở rộng thị trường. Chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá sức mạnh cạnh tranh của một doanh nghiệp là thị phần mà doanh nghiệp chiếm được, thị phần càng lớn càng thể hiện rõ sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và có sức cạnh tranh doanh nghiệp phải chiếm giữ một phần thị trường bất kể nhiều hay ít, chính điều này đã phản ánh được quy mô của doanh nghiệp. Qua đó ta cũng có thể đánh giá được sức mạnh cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếutương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong ngành. Tăng sức cạnh tranh là một điều tất yếu của mỗi doanh nghiệp hoạt động trongcơ chế thị trường, trong điều kiện cạnh tranh khách hàngốc liệt, một doanh nghiệp nếu không tìm cách để vượt lên đối tthủ thì nghĩa là doanh nghiệp đó đang thụt lùi. Bởi lẽ tất cả đều có ý thức vượt lên chính mình và vượt lên đối thủ,không nổ lực liên tục, không tìm cách để tăng sức cạnh tranh thì đồng nghĩa với diệt vong. Việt Nam đang từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước chắc chắn có phần nào bở ngỡ, từ chỗ chỉ hoạt động sản xuất một cách thụ động theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước đến nay tất cả các doanh nghiệp phải tự quyết định lấy nhỡng vấn đề quan trọng mang tính sống còn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước buộc phải làm quen với điều này cũng như phải thích nghi với môi trường kinh doanh mới của thị trường, chấp nhận cạnh tranh. Đặc biệt là trong giai đoạn này, khi đất nước ta đang xây dựng một nền kinh tế mở kêu giọi đầu tư từ bên ngoài vào,họ có ưu thế hơn mình về tài chính cũng như trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý. Môi trường cạnh tranh ngày càng rộng hơn và mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Muốn phát trển kinh tế, theo kịp cácông nhânước trong khu vực và trên thế giới không còn cách nào khác ngoài các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh và tìm mọi cách để ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh Bất kỳ doanh nghiệp nào khi hoạt động kinh doanh cũng gắn liền với môi trường kinh doanh vì vậy nó phải chịu tác động ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Vậy khi nói tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì ta phải nghiên cứu môi trường và các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.2.1. Nhân tố khách quan nhóm nhân tố kinh tế là những nhân tốquan trọng nhất của môi trườnghoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao kéo theo sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân cũng tăng lên do vậy nhu cầu hay sức mua của người dân cũng sẽ tăng lên, mặt khác nền kinh tế phát trển cũng có nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn, như vậy tốc độ đầu tư phát trển sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Đây chính là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp phát trển, doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt được những cơ hội này thì chắc chắn sẽ thành công và sức cạnh tranh sẽ tăng lên. Tuy vậy, do sư tăng trưởng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường và như vậy mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt, ai đi trước trong cuộc cạnh tranh này người đó sẽ thắng và ngược lại nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả tăng lên, sức mua của người dân bị giảm sút các doanh nghiệp phải tìm cách để giữ khách hàng, do đó cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên khốc liệt hơn. Lãi suất cho vay của ngân hàng cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp, với mức lãi suất đi vay cao chi phi sản xuất của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn do vậy sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ giảm dần đặc biệt là với đối thủ mạnh về tiềm lực tài chính. Chính trị và pháp luật là nền tảng cho phát trển kinh tế cũng là cơsở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường. Luật pháp rõ ràng chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. mặt khách hàngác chúng cũng có thể đem lại trở ngại, khó khách hàngăn thậm chí là rủi ro cho các doanh nghiệp. Khoa học công nghệ tác động một cách mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán. Bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất đều phải gắn một công nghệ kỹ thuật nhất định. Khoa học công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp xử lý thông tin một cách chính xác, đồng thời khoa học công nghệ mới sẽ tạo ra hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quôc dân nói chung cũng như từng doanh nghiệp nói riêng,đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định nâng cao sức cạnh tranh của mình. Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị trí địa lý, nguồn tài nguyên sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát trển . Tốc độ tăng trưởng của ngành sẽ quyết định mức độ cạnh tranh của ngành đó. Số lượng các doanh nghiệp cạnh tranh và các đối thủ tiềm ẩn cũng là một yếu tố tác động đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm thay thế cũng là nhân tố đe doạ tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.2.2. Nhân tố chủ quan Đây chính là nội lực của doanh nghiệp tác động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực, là người tạo ra sản phẩm một cách trực tiếp và gián tiếp, đội ngũ cán bộ quản lý là những người quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ chính là những người quyết định cạnh tranh như thế nào, sức cạnh tranh của công ty sẽtới mức bao nhiêu, bằng cách nào, cùng với máy móc thiết bị, công nhân là những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Một hệ thống cơ sở vật chất kỷ thật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng sức cạnh tranh của công ty lên rất nhiều. Ngược lại, không một doanh nghiệp nào mà lại có sức cạnh tranh cao khi mà công nghệ sản xuất lậc hậu máy móc thiết bị cũ kỹ vì chính nó sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm tăng chi phí sản xuất. Khả năng tài chính là yếu tố quan trọng quyết định sản xuất kinh doanh cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của từng doanh nghiệp, bbất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị nguyên vật liệu hay phân phối quảng cáo … đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng trang bị những dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại đảm bảo hạ giá thành. 2. Một số giải pháp làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 2.1. Lựa chọn sản phẩm và cơ cấu sản phẩm Ba vấn đề kinh tế cơ bản là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Bất cứ một đơn vị nào bước vào kinh doanh đều phải trả lời ba câu hỏi này, doanh nghiệp phải nghiên cứu, phân tích thị trường để tìm ra sản phẩm cho doanh nghiệp và thiết lập chiến lược cho sản phẩm đó. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không có sản phẩm kinh doanh cho dù hữu hình hay vô hình, vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là phải làm sao cho sản phẩm của mình thích ứng với thị trường, mở rộng thị trường tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có thể cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường doanh nghiệp phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn được thoả mãn khách hàngông ngừng để theo kịp nhu cầu của thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm hiện đanglà thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường để có thể quyết định chiến lược về sản phẩm của mình có thể đa dạng hoá hoặc trọng tâm hoá sản phẩm, sản phẩm của công ty sẽ nhằm vào những khách hàngách hàng nào, thị trường nào có thể phân loại thị trường để sản xuất các loại sản phẩm phù hợp với các thị trường đó, doanh nghiệp lựa chọn một cơ cấu sản phẩm hợp lý để có thể giảm chi phí. Doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm bbằng cách thực hiện sự khách hàngác biệt hoá sản phẩm, tạo ra các nét độcđoá riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng và các sản phẩm của mình nâng cao uy tín của doanh nghiệp, ngoài việc cải tiến sản phẩm của doanh nghiệp tì có thể nghiên cứu để cho ra đời sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu khách hàng. Như vậy sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. 2.2. Chính sách giá cả Giá của mỗi sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi, giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp “ Khách hàng là thượng đế” họ có quyền lựa chọn những gì mà họ cho là tốt nhất và cùng một loại sản phẩm với chất lượng tương đương nhau chắc chắn họ sữ lựa chọn sản phẩm có mức giá thấp hơn, khách hàng đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Xác định giá vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật, giá là chiến lược đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu mục đích của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận thì việc định giá có thể coi là một trong những vấn đề mà các giải pháp tối ưu phải được đưa ra để đạt được tập hợp mục đích đó. Như vậy mục đích của việc định giá là tối đa hoá lợi nhuận, do đó việc xem xét những mục đích riêng rẽ đọc lập của quá trình định giá sẽ đem lại rất ít lợi ích. Phương pháp định giá phổ biến nhất được sử dụng trong thực tế là tính chi phí trung bình trực tiếp củ việc sản xuất ra sản phẩm rồi cộng thêm các chi phí gián tiếp và cộng thêm một phần để có lãi, và các phương pháp định giá, tuỳ theo từng loại sản phẩm và đối tượng mua sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng các chiến lược như là: lúc đầu doanh nghiệp định giá cao để nhằm thu hồi chi phí mau và có vốn để đầu t ưnghiên cứu sản phẩm mới và sau đó hạ giá dần để chiếm lĩnh thị trường hoặc có thể doanh nghiệp lúc đầu đặt giá thấp để chiếm lĩnh thị trường và tạo lòng tin trong khách hàng và tạo thói quen tiêu dùng sản phẩm rồi sau đó sẽ tăng giá lên để thu lợi nhuận. Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng đoạn thị trường. 2.3. Đảm bảo chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là tiêu chuẩn để đánh giá của khách hàng, là tiêu thức đầu tiên được khách hàng xét đến trước khi quyết định mua sản phẩm. Chất lượng ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh theo hai hướng cơ bản đó là, chất lượng ssp cao sẽ tạo danh tiếng, uy tín cho doanh nghiệp giúp doanh nghiệp đặt giá cao cho sản phẩm của mình và chất lượng sản phẩm cao sẽ giảm chi phí sản xuất sản phẩm hỏng và giảm chi phí sữa chữa các sản phẩm hỏng làm cho năng suất cao hơn và dẫn tới doanh nghiệp tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí thấp. Vai trò của chất lượng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh đang tăng lên một cách đáng kể, thực tế đối với nhiều công ty, nhiều ngành thì chất lượng không chỉ được xem là tạo nên lợi thế cạnh tranh mà nó là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự sống còn và phát trển của doanh nghiệp. Nếu như trước kia giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, trong thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang giai đoạn phát trển mạnh, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao nhiều thì họ sẽ quyết định mua sản phẩm thoả mãn nhu cầu họ nhiều hơn và chất lượng là điều quan trọng chứ không phải là số lượng như trước nữa. Tại sao người Việt Nam bây giờ lại thích hàng ngoại? đó cũng là một phần do vấn đề về chất lượng vậy thì các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề chất lượng để có thể cạnh tranh với hàng ngoại. Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc có thể so sánh được, thoả mãn những điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội, chất lượng của sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả khâu tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố công nghệ, dây chuyền sản xuất,nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát trển, một quan điểm mới về chất lượng đã xuất hiện, chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền đẹp mà nó còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng mang tính khách quan, ở đây nhân tố khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan.Đây là một quan điểm mới xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn. 2.4. Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tư của quá trình tổ chứctiêu thụ sản phẩm là phải lựa chọn các kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng để bù đắp chi phí sản xuất thu hồi vốn. Xây dựng một mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây dựng một nền vững chắc để phát trển thị trường bảo vệ thị phần của doanh nghiệp. Bên cạnh việc tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo,khuyến mãi, dịch vụ sau bán hàng. Đây cũng chính là hình thức cạnh tranh phi giá gây sự chú ý thu hút khách hàng. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt sẽ tăng sản lượng bán hàng từ đó sẽ tăng doanh thu, tăng lợi nhuận dẫn tới tốc độ thu hồi vốn nhanh kích thich sản xuất phát triển. Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong những yếu tố làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường các hoạt động như quảng cáo, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng là những hình thức tốt để giới thiệu về sản phẩm và doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp tìm ra được nhiều bạn hàng mới, mở rộng thị trường nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng về sự đối đầu với cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành xi măng 1. Thực trạng về cơ cấu ngành và cơ chế quản lý Trong công cuộc đổi mới của đất nước, cùng với sự công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhu cầu xây dựng ngày càng tăng, tất cả những công trình xây dựng trên khắp mọi miền đất nước như nhà cửa, đường xá, công trình thuỷ lợi, cầu cảng, thuỷ điện, trường học, khách hàngách sạn, nhà máy, công trường đều cần đến xi măng. Xi măng trở thành một ngành công nghệp then chốtcủa đất nước. Trong những năm 1991-1997 nền kinh tế tăng trưởng nhanh đã làm cho nhu cầu xi măng Việt Nam tăng lên 3 lần từ 3 triệu tấn đến 9 triệu tấn. Theo tổng công ty xi măng Việt Nam năm 2000 nhu cầu tiêu thụ xi măng đã tăng khá mạnh đạt tới 13,7 triệu tấn cao hơn 1.2 triệu tấn so với dự đoán. Vào thời kỳ:1991-1996 sản xuất xi măng luôn thấp hơn nhu cầu, do điều hành nhập khẩu khách hàngông kịp thời nên thị trường xi măng luôn trong tình trạng“sốt nóng”. Nhà nước đã phải dùng nhiều biện pháp để làm dịu “cơn sốt”này đồng thời có kế hoạch tổng thể quy hoạch ngành xi măng trong tương lai. Hiện nay,Nha nước thực hiện quản lý thị trường xi măng dưới hình thức giao cho tổng công ty xi măng độc quyền quyết định giá bán buôn còn ban vật giá chính phủ lại khống chế giá bán lẻ ở những thành phố lớn. Đồng thời Nhà nước quản lý về nhập khách hàngẩu về xi măng và nguyên vật liệu chủ yếu để sản xuất xi măng là clinker. Điều kiện tự nhiên nước ta được đánh giá là rất thuận lợi cho phát trển xi măng. Hơn thế nữa, Việt Nam đang trong thời kỳ tăng trưởng nên thị trường tiêu thụ xi măng ngày càng phát trển,xuất phát từ tình hình thị trường xi măng những năm 1991-1996 và những dự báo về thị trường xi măng những năm đó, Nhà nước đã phê duyệt về việc dầu tư xây dựng hàng loạt các nhà máy xi măng trong cả nước, trong ba năm sau đó một làn sóng ào ạt đầu tư vào ngành sản xuất xi măng. Năm1996,dây chuyền hai của nhà máy xi măng Hoàng Thạch đi vào sản xuất làm cho công suất của nhà máy tăng lên thêm 1,7 triệu tấn. Năm 1997,công ty xi măng chinfon Hải Phòng bắt đầu hoạt động với công suất 1,4 triệu tấn/năm và có thể đạt 1,7 triệu tấn/năm. Năm 1998, Nhà máy xi măng bút sơn (Hà Nam) công suất 1,4 triệu tấn đã hoàn thành và cho ra lò bao xi măng đầu tiên sau hai tháng. Nhà máy Sao Mai(kiên giang) ra lò mẻ clinker đầu. Ngoài ra còn có ba dự án xi măng đã được cấp giấy phép: Nhà máy xi măng Hải Long (Quảng Ninh), Phúc Sơn(Hải Dương) và nhà máy xi măng Hoàn Cầu(Quảng Ninh) với công suất 4,5 triệu tấn. Dây chuyền thứ hai của chinfon công suất 1,8 triệu tấn cũng chuẩn bị đưa vào sản xuất cùng vơí Lang Bang B 2 triệu tấn, Tràng kênh 1,2 triệu tấn. Tham gia phân chia thị trường xi măng giồm: Thứ nhất: đầu mối sản xuất và tiêu thụ xi măng lớn nhất trong cả nước là tổng công ty xi măng Việt Nam(chủ quản bộ xây dựng) được chính phủ giao cho nhiệm vụ nặng nề là phải “dự trữ, bình ổn và điều hoà cung-cầu xi măng” những con chim đầu đàn của ngành xi măng ở ngoài Bắc phải kể đến Hoàng Thạch, Bỉm Sơn; ở miền Nam phải kể đến Sao Mai,Hà Tiên. Thứ hai: các nhà máy liên doanh với nước ngoài đây là bộ phận tham gia phân chia thị trường và cạnh tranh với những nhà máy thuộc tổng công ty. Đến năm 1999 đã có 7 liên doanh xi măng với tổng số vốn đầu tư 52 tỷ USD,tổng công suất dự kiến 9 triệu tấn / năm. Đến năm 2001 con số này được dự báo là sẽ tăng lên gấp rưỡi và thị phần của tổng công ty sẽ bị co hẹp đáng kể. Điều này chứng tỏ giai đoạn tới sẽ là giai đoạn cạnh tranh quyết liệt giữa tổng công ty xi măng và các liên doanh để phân chia thị trường. Thứ ba: là các nhà máy xi măng ở địa phương, các nhà máy này chiếm thị phần nhỏ (10-15%) chủ yếu để đáp ứng nhu cầu giao thông, thuỷ lợi ở địa phương. Đây cũng là một giải pháp tốt để cân đối xi măng của nền kinh tế. Xi măng ở các nhà máy địa phương là xi măng lò đứng, giá thành hạ, công suất đầu tư thấp, phụ tùng thiết bị không phức tạp và ít nhập ngoại, tiêu thụ nội vùng nên chi phí vận chuyển thấp. Do xi măng lò đứng có ưu thế hơn xi măng lò quay về giá cả. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư thấp, nếu xét trên bình diện hiệu quả kinh tế vi mô của cả nền kinh tế và hiệu quả khai thác sử dụng các nguồn lực toàn xã hội. Hiện nay xi măng lò đứng ở địa phương đang gặp nhiều khó khăn do phải đối đầu với cạnh tranh nên thị trường càng thu hẹp. Ngoài ra, là nguồn nhập khẩu. Cách đây khoảng 6 năm một cơn sốt xi măng có một không hai ở Việt Nam bùng lên. Nguyên nhân là do cung trong nước thấp rất xa so với cầu. Để làm dịu cơn sốt này nhà nước phải nhập khẩu xi măng. Năm 1995 tổng sản lượng sản xuất là 5,854 triệu tấn, nhập khẩu là 1,32 rtiệu tấn. Năm 1996 tổng sản lượng sản xuất là 6,835 triệu tấn, nhập khẩu là 1,350 triệu tấn. Năm 1997 tổng sản lượng sản xuất là 9,120 triệu tấn, nhập khẩu là 0,88 triệu tấn. Năm 1998 tổng sản lượng sản xuất là 11 triệu tấn, nhập khẩu là 0,35 triệu tấn. Lượng nhập khẩu xi măng ngày càng giảm, trong khi cung về xi măng ngày càng tăng đuổi kịp và vượt cầu, trong thời gian gần đây thì vẫn có lượng xi măng nhập khẩu đáng kể. Nguyên nhân là do giá xi măng nhập rẻ hơn giá xi măng sản xuất trong nước mà chất lượng lại ngang bằng hoặc tốt hơn, đây cũng là một yếu tố làm cho thị trường xi măng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Từ 01/06/1999 cả 6 doanh nghiệp là thành viên của tổng công ty xi măng đều sản xuất xi măng theo tiêu chuẩn mới để hoà đòng với quốc tế và khu vực. Đó là hệ thống tiêu chuẩn chất lượng xi măng Pooclăng hỗn hợp, việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng này sẽ giúp cho xi măng Việt Nam có ưu thế hơn trên thị trường quốc tế và khu vực. Tháng 09/2000 toàn ngành xi măng hầu như tiêu thụ hết số xi măng tồn kho, cùng với tồn kho đầu năm 2000 lớn nguồn cung xi măng đáp ứng nhu cầu làm cho giá cả ổn định, theo tổng công ty xi măng Việt Nam, năm 2001 nhu cầu xi măng tiêu thụ sẽ tăng 12- 14% so với năm 2000 tăng lên 15,3-15,7 triệu tấn trong đó sản lượng xi măng các xí nghiệp liên doanh dự đoán sẽ là 5,2 triệu tấn tăng hơn 44% so với năm 2000, như vậy sản lượng xi măng sẽ thấp hơn nhu cầu 0,7-1,1 triệu tấn, chính phủ cho nhập khẩu Clinker để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu ổn định thị trường xi măng. 2. Thực trạng thị trường Đầu những năm 1990 mức tăng trưởng cao của nền kinh tế nói chung và của ngành xây dựng nói riêng đã làm cho cầu về xi măng tăng mạnh, vượt xa cung. Mức tiêu thụ xi măng năm 1990 là 2,755 triệu tấn, đến năm 1995 đã tăng lên 7,113 triệu tấn. Mức tăng bình quân hàng năm là 21%. Sự thiếu hụt và áp lực tăng giá bắt đầu lan rộng từ năm 1993- 1994 để lên tới đỉnh điểm là cơn sốt xi măng đầu năm 1995 với giá có lúc lên tới 173 USD/ tấn, trong khi giá cả quy định chỉ là 80-90 USD/ tấn, nhu cầu xi măng vẫn tiếp tục tăng lên đến 9,5 triệu tấn vào năm 1997, từ năm 1995- 1997 nhu cầu vẫn có giảm nhưng vẫn tăng 12% năm. nhập khẩu xi măng chủ yếu từ Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc và Singapore bù vào chỗ thiếu hụt. Thêm vào đó đầu tư của tổng công ty xi măng và các liên doanh đã tăng mạnh trên cơ sở dự đoán nhu cầu thị trường sẽ còn tăng lâu dài. Việc định giá chuẩn xi măng rất cao của nhà nước ta trong những năm vừa qua là một yếu tố rất quan trọng tạo ra động lực to lớn thúc đẩy việc tăng ra mạnh mẽ tốc độ đầu tư vào ngành công xi măng nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng mất cân đối cung cầu. Năm 1997 sản lượng xi măng trong nước đạt hơn 9 triệu tấn (kể cả các liên doanh) nhập khẩu 880000 tấn, tồn kho cuối năm 1997 là 600000 tấn. Tổng nguồn xi măng cung ứng năm 1997 là 10,5 triẹu tấn, tổng nhu cầu tiêu thụ là 9,5 triệu tấn. Như vậy cuối năm lượng xi măng thừa lên tới 1 triệu tấn. Năm 1998 sản lượng sản xuất trong nước đạt 11 triệu tấn, tồn kho năm 1997 chuyển sang 1 triệu tấn, nhập khẩu xi măng trắng, xi măng chuyên dùng khoảng 0.4 triệu tấn và như vậy nguồn cung cấp là 12.5 triệu tấn. Nhu cầu xi măng năm 1998 chỉ đạt được gần 10 triệu tấn, con số xi măng thừa là hơn hai triệu tấn. Năm 1999, trong 6 tháng đầu năm các nhà máy thuộc tổng công ty xi măng sản xuất 2723000 tấn mới tiêu thụ 2485000 tấn. Các nhà máy xi măng lò đứng sản xuất trên một triệu tấn, tiêu thụ 997000 tấn, ở các công ty liên doanh tình hình cũng không mấy khả quan. Xi măng chinfon sản xuất 684760tấn, chỉ tiêu thụ được 653100 tấn, xi măng Sao Mai sản xuất 470000 tấn,tiêu thụ 450000 tấn chỉ có một số ít công ty xi măng lớn như Bỉm Sơn, Hà Tiên II… đạt được hoặc vượt kế hoạch đặt ra.Xi măng cả nước có tổng công suất 11.5 triệu tấn (công suất tối đa lên tới 18 triệu tấn) mà nhu cầu tiêu thụ chỉ khoảng 13 triệu tấn. Dù cơn sốt xi măng năm 1995 đã kết thúc, giá xi măng trong nước hiện nay vẫn còn cao hơn nhiều so với giá thế giới khiến cho xi măng Việt Nam không cạnh tranh được ởnước ngoàiước ngoài. Năm 1998, giá bán lẻ xi măng PC30 là 60 USD/tấn và PC 40 là 73.8 USD/tấn trong khi giá xi măng nhập khẩu chính thức là 41.5 USD/ tấn và nhập lậu là 30 USD/tấn. Giá xi măng xuất khẩu (giá FOB) của singapore và Hàn Quốc lần lượt là 38.8USD và 29.2 USD. Giá xi măng Thái Lan xuất khẩu là 46 USD vào năm 1997 nhưng đã giảm xuống mạnh còn 25 USD vào tháng 3/1999. Giá xi măng Việt Nam cũng có giảm trong năm 1998 do đầu tư nước ngoài giảm sút, tác động của khủng hoảng khu vực và cạnh tranh gay gắt giữa các nước gặp khủng hoảng. Nhưng so với giá thế giới thì xi măng Việt Nam vẫn luôn cao hơn. Đến 90% xi măng Việt Nam sản xuất là xi măng PC30 Trung Quốc cũng chủ yếu sản xuất xi măng PC30. Trong khi đó Hàn Quốc và Thái Lan có mác xi măng cao hơn, xi măng Nhật Bản P60. Năm 1998 hầu hết các công ty xi măng đều thực hiện giảm giá. Trên thị trường đồng bằng sông CửuLong xi măng Hà Tiên chiếm thi phần chủ yếu nhưng giá đã giảm 1000 VND/1 bao.ở thành phố Hồ Chí Minh năm mác xi măng đen đang cạnh tranh để giành giật thị trường là Hà Tiên, Sao Mai, Chinfon, Hoàng Thạch và xi măng D.Hills(Trung Quốc). Xi măng Chinfon đã thực hiện giảm giá 10000 VND/tấn nếu đại lý mua trên 500 tấn/tháng và hạ giá bán lẻ. Xi măng Sao Mai cũng giảm giá bán lẻ xuống sát giá Chinfon. D.Hills cũng giảm giá xuống 38000-38500VND/bao (760000VND/tấn). Xi măng Hà Tiên đắt hơn loại khác 1000/bao nhưng vẫn được tin dùng. Cơn sốt xi măng năm 1995 gây ra một làn sóng ồ ạt đầu tư cho sản xuất xi măng. Từ chỗ 22 nhà máy đến năm 2000 lên đến 55 nhà máy công suất tăng lên 10 lần. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm sút, cơn sốt đất đai hạ nhiệt khiến cho hoạt động xây dựng chậm lại. Năm 1998 chính phủ thông báo hoãn khởi công xây dựng xa lộ Bắc- Nam, cảng Quy Nhơn, sân bay Đà Nẵng, Đài truyền hình Huế và nhà điều hành trung tâm thuộc Đại học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh. Chính phủ cũng quyết định giãn tiến đọ đầu tư 22 dự án khác nhau. Ngoài ra còn các dự án khách sạn, xi măng lò đứng… nguồn vốn đầu tư năm 1998 giảm 28000 tỷ VND so với nguồn vốn đề ra đầu năm. Năm 1999 nguyên nhân chính của sự suy giảm cầu xi măng là do những tháng đầu năm, tốc đọ tăng trưởng GDP cả nước chỉ đạt 4%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng yếu, sức tiêu thụ hàng hoá giảm, các công trình lớn của nhà nước phải giảm tiến độ, khối lượng thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách tập trung trong 11 tháng đầu năm, nay chỉ đạt 75,5% kế hoạch cả năm, đến cuối tháng 11/1999 vẫn còn hàng trăm dự án trong kế hoạch chưa được triển khai. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu á tác động đến nền kinh tế Việt Nam và các nước trong khu vực cũng như đến giá xi măng. Tình hình chung trong khu vực như sau: Năm 1998 tổng xi măng toàn khu vực Đông Nam á đạt 221.5 triệu tấn. Do khủng hoảng tài chính tiền tệ hoạt động đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở các quốc gia nói chung giảm sút rất rõ rệt. Nguồn đầu tư giảm sút, nhiều dự án chưa triển khai phải đình hoãn, những dự án đang triển khai bị thu hẹp quy mô đầu tư. Đặc biệt ngành kinh doanh bất động sản là ngành châm ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn còn kéo dài, bị đình đốn nghiêm trọng nhất. Hiệp hội các nhà sản xuất xi măng ASEAN cho biết nhu cầu của 6 nước trong năm 1998 đạt 100 triệu tấn giảm 12 triệu tấn so với năm 1997. Trong khi đó năng lực sản xuất thực tế của 6 nước là 163 triệu tấn(tương ứng 63%) riêng ở Thái Lan sản lượng năm 1998 là 51 triệu tấn nhưng nhu cầu chỉ khoảng 26.6 triêu tấn tức là có 23.4 triệu tấn sản xuất không có thị trường tiêu thụ. Nghiêm trọng hơn, xi măng của các nước Đông Nam á được đánh giá là khó có sức cạnh tranh trên thị trường ngoài khu vực. Cho đến nay tốc độ kinh tế nói chung đã được phục hồi sau khi nổ ra khủng hoảng tài chính tiền tệ. Những giải pháp của nhà nước với sự cố nhập lậu Clinker và khủng hoảng thừa xi măng: Để đối phó với tình hình thị trường xi măng từ năm 1997 nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp: +Năm 1997 cấm nhập khẩu xi măng. +Năm 1998 ngừng cấp phép cho những liên doanh xi măng mới trong năm. +Tách chức năng sản xuất và chức năng tiếp thị của tổng công ty. + Điều chỉnh giản dự báo về nhu cầu xi măng. Thủ tướng chính pphủ đã ban hành lệnh “từ năm 1999 không nhập khẩu xi măng và hạn chế nhập Clinker” vậy mà không biết từ đâu lượng Clinker thậm chí cả xi măng vẫn được nhập gây ảnh hưởng đến sản xuất và việc làm trong nước. Đầu năm 1999, 204000 nghìn ấn Clinker đã được cấp giấy phép và chuyển về nước. Ngoài ra còn có 475000 tấn Clinker đã và đang về Việt Nam với các hợp đồng ký trong tháng 1, riêng tổng công ty xi măng tồn kho trên 700000 tấn Clinker không tiêu thụ được, một phần do sự cố nhập lậu Clinker này. Sau “sự cố” lãnh đạo hai Bộ Xây Dựng và Thương Mại đã trao đổi và đi đến thống nhất: Năm 1999 không nhập Clinker mà sử dụng Clinker trong nước. 3. Sự cạnh tranh giữa tổng công ty xi măng và các liên doanh Trong những năm gần đây thị trường xi măng được cung cấp bởi bốn nguồn tỏng công ty xi măng Việt Nam, liên doanh, các nhà máy địa phương và nguồn nhập khẩu. Tổng công ty xi măng Việt Nam chiếm thị phần tờ 55-60%. Ngoài nhỡng nhà máy đã hoạt động trong nhỡng năm qua Tổng công ty xi măng tiếp tụcchuẩn bịđầu tư ba nhà máy lớn với tổng công suất 4,6 triệu tấn/năm, giồm Bút Sơn 2 (1,4 triệu tấn/năm), Lang Bang B (2 triệu tấn/năm), Trang Kênh (1,2 triệu tấn/năm) cạnh tranh với tổng công ty là lực lượng liên doanh. Năm 1998 ở Việt Nam đã có 7 liên doanh sản xuất xi măng với tổng công suất 9 triệu tấn/năm, các liên doanh xi măng đang và đã bắt đầu nhập cuộc như Chinfon, Luksvaxi, Sao Mai. Các liên doanh cở lớn khác bắt tay vào sản xuất như Nghi Sơn (đầu năm 1999), Phúc Sơn (giữa năm 1999), Hoàng Mai (cuối năm 1999). Các liên doanh đang thả giá cạnh tranh bằng cách hạ giábán sản phẩm mặc dù có quy chế của Chính Phủ định giá giới hạn tối đa xi măng bán ra trên thị trường. Điều này gây cản trở rất lớn cho tổng công ty xi măng trong việc đẩy mạnh tốc độ ttiêu thụ xi măng vì nếu hạ giá theo các liên doanh thì tổng công ty bị lỗ. Tình hình đang trở nên gay go và cần một giải pháp hữu hiệu từ phía Chính Phủ. Đó là còn chưa kể đến lượng xi măng nhập lậu với giá rẻ hơn nhiều qua biên giới xâm nhập thị trường và cùng tham gia cạnh tranh với xi măng trong nước. 4. Những hạn chế của tổng công ty và ưu thế của liên doanh Tổngcông ty xi măng, các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước thuộc tổng công ty đang gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh và sản xuất xi măng. Đầu tiên và đáng kể nhất đó là trình độ công nghệ và thiết bị lạc hậu cho đến nay nêú kể cả dây chuyền I của nhà máy xi măng Bút Sơn đang bước vào sản xuất chỉ có 2,6 triệu tấn công suất, công nghệ tiên tiến (chiếm gần 40%) 2,1 triệu tấn theo phương pháp làm khô nhưng thiết bị thuộc thậpkỷ 70 (chiếm gần 32%) còn tới1,9 triệu tấn công suất theo phương pháp ướt đã quá lạc hậu. Các cơ sở sản xuất xi măng bằng công nghệ lò đứng có chất lượng không đảm bảo. Mặt khác, ngay cả các doanh nghiệp sản xuất xi măng vào loại lớn bằng công nghệ lò quay một khu cung xi măng vẫn còn lớn hơn cầu thì sự tồn tại cũng là rất khó. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải đầu tư chiều sâu để nâng cao năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh được với xi măng của các liên doanh đang có lực lượng rất “ hùng hậu”. Ngoài ra còn có một loạt những khó khăn khác đang đè lên tổng công ty xi măng Việt Nam. Trong đó có những vấn đề lịch sử để lại như lực lượng lao động có phần bất cập tình trạng ô nhiễm môi trường nâựng nề ở một số cơ sỡ sản xuất. Một số nhà máy cũ lại thuận lợi về giao thông nhưng lại thiếu vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh. Trong thời gian vừa qua nhiều nhà máy xi măngthuộc tổng coong ty xi măng lâm vào tình trạng thua lỗ rồi phá sản cung vượt quá cầu đẫn đến sức ép giảm giá. Các liên doanh có khả năng giảm giá xuống thấp vẫn thu được lợi nhuận còn các nhà máy thuộc tổng công ty với mức giá đó thì phải chịu lỗ. Về liên doanh: khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa, ở Việt Nam hàng loạt các liên doanh sản xuất xi măng,được xây dựng xuất phát từ nhu cầu xi măng trên thị trường tăng mạnh những năm 1993-1995. Các liên doanh đang dần dần chiếm ưu thế trong cạnh tranh. Hơn thế nữa giá xi măng được giữ ở mức cao tao ra lợi nhuận siêu ngach cho các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành này. Trước hết các liên doanh có trình độ công nghệ sản xuất xi măng tiên tiến do vừa mới dược hoặc đang chuẩn bị đầu tư phát trển cho phép đạt được năng suất cao, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng thấp, hạ giá thành. Thiết bị các liên doanh sử dụng để sản xuất xi măng ở nước ta đều thuộc loại hàng đầu trên thế giới, liên doanh sản xuất với lợi thế, chất lượng chi phí sản xuất thấp hơn so với xi măng của các doanh nghiệp trong nước bởi công nghệ tiên tiến, chi phí lao động đặc biệt là chi phí nguyên vật liệu “đá vôi” khá rẻ ở Việt Nam. Với những lợi thế to lớn này chắc chắn các liên doanh sản xuất xi măng sẽ dễ dàng trụ vững trên thị trường xi măng ở nước ta bởi vì họ có thể giảm thiểu gia bán xi măng nhất để tiêu thụ hết số xi măng đã sản xuấtmà vẫn thu dược lợi nhuận. Có lẽ nhà nươc phải có những giải pháp thích hợptích cực hỗ trợ cho các doanh nghiệpsản xuất xi măng trong nước. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh thì các nhà máy thuộc tổng công ty xi măng Việt Nam có các biện pháp như: +Nâng cao chất lượng sản phẩm. +Hạ giá thành sản xuất sản phẩm xi măng. +Đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Kết luận Ngành xi măng Việt Nam nói chung và tổng công ty xi măng Việt Nam nói riêng đang còn rất nhiều khó khăn cần phải vượt qua. Nhiệm vụ quan trọng trước mắt là phải cân đối được cung cầu, tiêuthụ được lượng xi măng dư thừa để duy trì nhịp độ sản xuất bình thường, sau đó phải có một hướng đi thích hợp để quy hoạch và phát trển ngành xi măng ăn nhập với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế toàn khu vực. Khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ và hơn nữa Việt Nam là thành viên của WTO thì sự cạnh tranh trong ngành còn quyết liệt hơn nhiều. Điều đó bắt buộc tất cả các doanh nghiệptrong ngành đều phải tự mình xác định được hướng đi cho mình. Để tạo điều kiện phát trển ngành xi măng và tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong ngành không thể thiếu được vai trò to lớn của Chính Phủ. Chắc chắn là trong tương lai không xa, với nổ lực của các doanh nghiệp trong ngành, của Chính Phủ ngành xi măng Việt Nam sẽ không ngừng lớn mạnh xứng đáng là một ngành then chốt của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh là động lực để phát trển ngành. Tài liệu tham khảo sách: 1- Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam - trần xuân kiên - NXB Thống kê 1998 2- Giáo trình kinh tế quản lý - bộ môn kinh tế vi mô Báo &tạp chí. 1_Thời báo Kinh tế số: 120,25,30,62 –năm 1998 2_Tạp chí Kinh doanh số:3/1999; 4/1999; 5/1999 3_Báo Doanh nghiệp: 15/7-21/7/1999 4_Báo Diễn đàn doanh nghiệp:25/3/1999; 26/7/1999 5_Báo thời báo Kinh tế Sài Gòn:11/11/1999 6_Báo Đầu tư:9/12 7_Tạp chí Thị trường Giá cả:4/1999; 9/1999. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35190.doc
Tài liệu liên quan