Công ty sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà là một công ty con của tổng công ty xây dựng Hồng Hà , thuộc sở Nông - Lâm nghiệp Hà Nội . Tổng công ty xây dựng Hồng Hà ra đời vào năm 1970, là một doanh nghiệp nhà nước . Với các nghành nghề kinh doanh chính sau:
+ Xây dựng công trình nhà ở ,công trình công cộng , văn hoá giáo dục, công trình công nghiệp,nông nghiệp và thuỷ lợi .
+ Kinh doanh nhà ở và khách sạn , dịch vụ du lịch .
+ Sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng xuất nhập khẩu thiết bị và vật liệu xây dựng .
+ Liên doanh , liên kết với các đơi vị kinh doanh trong và ngoài nước, để sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng.
Cùng với các nhiệm vụ kinh doanh như vậy, để thích ứng với cơ chế mới, ngày 16/ 3/ 1993 UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 177 QĐ/ UB thành lập doanh nghiệp theo nghị định số 388/ HĐUB .
Để đáp ứng nhu cầu đang còn thiếu trên thị trường về sản phẩm gạch ốp lát , tháng 8 năm 1996 Tổng công ty đã họp và được sự nhất trí và ủng hộ của UBND thành phố Hà Nội , sở Nông - Lâm nghiệp Hà Nội ,dự án thành lập nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà tại xã Mai Đình ,thị trấn Sóc Sơn , Hà Nội đã được thông qua . Đến tháng 9 năm 1997 nhà máy chính thức đi vào hoạt động với công suất 1000.000m^ 2/năm trong đó :
Gạch lát 800.000m^2/ năm .
Gạch ốp 200.000m^2/ năm
Tổng số vốn đầu tư cho xây dựng nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà là 55791,15 triệu đồng trong đó : Vốn xây lắp : 9607,3 trđ .
Thiết bị : 38086,5 trđ
Kiến thiêt cơ bản khác : 8097,7 trđ.
Nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà ra đời có nhiều lợi thế sau :
+Sản xuất trên dây truyền đồng bộ , hiện đại nhất của Italya .
+ Sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ như : sét , cao lanh , thạch anh . Với mức giá rẻ một phần hai so với các nhà máy khác .
+ Trên thị trường lúc nàu tuy đang có 7 đối thủ cạnh tranh nhưng theo báo cáo tổng kết của bộ xây dựng trên cả nước còn thiếu khoảng 8,1 triệu m2/ năm .
+ Cũng theo dự thảo chiến lược phát triển nghành công nghiệp vật liệu xây dựng năm 2000 đến năm 2010 của bộ xây dựng nhịp độ tăng trưởng của công nghiệp vật liệu xây dựng phải đạt được 20%.
Trên đây là một số tiền đề và thuận lợi ban đâu giúp cho việc ra đời và đi đến hoạt động có hiệu quả của nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà .
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hiện trạng xây dựng nhãn hiệu của công ty ceramic Hồng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong những năm gần đây vấn đề xây dựng một nhãn hiệu mạnh là yêu cầu bức bách đối với sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp.Đặc biệt là khi nước ta đang tiến tới ra nhập các tổ chức thương mại trong khu vực và thế giới thì vai trò của nhãn hiệu càng vô cùng quan trọng .
Đối với hoạt động kinh doanh nói chung ,nhãn hiệu có thể giúp doanh nghiệp đạt được vị thế dẫn đầu trong nghành .Nhãn hiệu mạnh sẽ giúp doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh và dễ dàng tìm thấy sự tin tưởng của khách hàng.Nó làm tăng giá trị của sản phẩm trên thị trường đồng thời tạo lợi nhuận bền vững cho công ty sở hữu. Nhãn hiệu càng nổi tiếng thì khả năng gia tăng thị phần của nó trên thị trường càng cao.
Nhãn hiệu sản phẩm là trung tâm của hoạt động marketing.Nó hỗ trợ cho hoạt động sản phẩm ,giúp kéo dài chu kì sống của sản phẩm.Nhãn hiệu là tiền đề quan trọng để doanh nghiệp gia tăng hiệu quả của của chiến lược giá. Ngoài ra nó thực hiện chi phối kênh phân phối và định hướng cho hoạt động quảng cáo.
Trong quá trình hội nhập, nhãn hiệu lại càng trở nên quan trọng .Nhãn hiệu được coi như một tài sản quý giá của doanh nghiệp và là một công cụ cạnh tranh của thời kì hội nhập.Đã xuất hiện khá nhiều hiện tượng hàng Việt Nam bị ăn cắp thương hiệu trên thị trường nước ngoài.Do đó một sự nhận thức đúng đắn về nhãn hiệu là yêu cầu ,và là sự bắt buộc nếu doanh nghiệp muốn thành công trên thương trường.
Với tầm quan trọng như vậy,nhãn hiệu đã đẩy các doanh nghiệp Việt Nam phải tiến hành một nhiệm vụ chiến lược đó chính là định vị được một hình ảnh nhãn hiệu trong tâm trí khách hàng .Họ sẽ phải:”hình tượng hoá nhãn hiệu hay là chết”.Theo Kotler thì nhãn hiệu chỉ là một bộ phận nhỏ của sản phẩm .Nhưng trong thời điểm hiện tại ,theo các nhà nghiên cứu thị trường thì nó gần như đã thoát ly ra khỏi sản phẩm và trở thành một công cụ quan trọng của marketing hương vào thị trường mục tiêu của doanh nghiệp.Cùng với các công cụ khác của marketing nhãn hiệu là công cụ vô cùng quan trọng để thực hiện chiến lược thị trường.Đó là những lí do dẫn đến sự ra đời của đề tài.
Với xuất phát điểm là công ty Hồng Hà ,vấn đề mà đề tài phát triển là chiến lược xây dựng hình ảnh nhãn hiệu ceramic Hồng Hà. Đề tài sẽ đặt mục tiêu nghiên cứu hàng đầu là tìm hiểu hiện trạng xây dựng nhãn hiệu của công ty.Đồng thời đề tài cũng chú ý tới việc tìm hiểu tình hình thực hiện chiến lược marketing của doanh nghiệp.Người thực hiện sẽ theo sát nhưng mục tiêu nghiên cứu đó khi tiếp xúc với công ty thông qua nhưng người có tầm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty.Qua đó người thực hiện đưa ra nhưng biện pháp nhằm hỗ trợ hoạt động xây dựng nhãn hiệu ceramic Hồng Hà.
Để bài viết đi đúng hướng và khai thác được chiều sâu của vấn đề,người thực hiện đưa ra một số kết quả giả định như sau: Doanh nghiệp nhận thức được nhãn hiệu là quan trọng đông thời đầu tư để xây dựng nó .Doanh nghiệp rút ra được nhưng bài học và khắc phục những yếu điểm trong định hướng chiến lược và quá trình thực thi .Để có một sự nhận thức đúng đắn ,khái quát nhất về nhãn hiệu ngươì thực hiện sẽ nghiên cứu về cơ sở lý luận ,đặc biệt và vai trò của nhãn hiệu trong hoạt động kinh doanh .Đề tài cũng sẽ chú trọng tương đối đến giá trị của nhãn hiệu vì đây là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hươngr đến chất lượng xây dựng nhãn hiệu .
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa đã định hướng và dẫn dắt giúp em có niềm tin và sự kiên định để theo đuổi đề tài này.
Chương I : Khái quát về nhãn hiệu và vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược Marketing
Khái quát về nhãn hiệu
Các khái niệm
Nhãn hiệu
Định nghĩa
Nhãn hiệu là tài sản quý giá nhất của một công ty. Nó là gì? Nhãn hiệu là tên sản phẩm, là nhãn mác. Nhiều người đã cho rằng như vậy. Họ đã nhầm lẫn. Họ không chỉ lầm tưởng có vậy, tôi chắc chắn rằng chủ nghĩa mập mờ giữa nhãn hiệu và thương hiệu vẫn tồn tại trong tâm chí nhiều người.Vậy nhãn hiệu là gì, và sự phân biệt của nó với các khái niệm vừa được đề cập là như thế nào? Trong phần này bài viết sẽ đề cập đến việc đưa ra một định nghĩa đầy đủ nhất về nhãn hiệu đồng thời đưa ra quan điểm về khoảng cách giữa nhãn hiệu và thương hiệu, còn các sự phân biệt khác sẽ được giải quyết trong các phần sau.
Có rất nhiều định nghĩa về nhãn hiệu tuy nhiên những định nghĩa này đều có những điểm chung đặc định. Nhưng trước khi đưa ra một định nghĩa được tin cậy nhất bài viết sẽ chỉ ra nguồn gốc của nhãn hiệu. Xuất phát từ việc phân biệt nhãn hiệu và thương hiệu, theo nhiều nhà marketing thì nhãn hiệu và thương hiệu chỉ là một. Bất kì một công ty nào muốn kinh doanh trên thị trường đều phải đăng kí nhãn hiệu với pháp luật. Nhãn hiệu đã đăng kí bản quyền và chịu sự bảo hộ của pháp luật thì ta gọi là thương hiệu. Sự phân biệt ở đây chỉ mang tính chất tương đối. Thương hiệu (nhãn hiệu) có nguồn gốc từ chữ Brandr, theo tiếng Aixơlen cổ nghĩa là đóng dấu. Xuất phát từ thời xa xưa, khi những chủ trại chăn nuôi muốn phân biệt đàn cừu của mình với những đàn cừu khác, họ đã dùng một con dấu bằng sắt nung đỏ đóng lên lưng từng con một, thông qua đó khẳng định giá trị của hàng hoá và quyền sở hữu của mình. Như thế nhãn hiệu xuất hiện từ nhu cầu tạo sự khác biệt cho sản phẩm của nhà sản xuất. Theo hiệp hội Marketing Mỹ:
Nhãn hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay sự phối hợp của các yếu tố trên nhằm xác định các sản phẩm hay dịch vụ của một (một nhóm) người bán và phân biệt các sản phẩm đó với các đối thủ cạnh tranh.
Các cấp độ ý nghĩa của nhãn hiệu.
Nhãn hiệu là một sự hứa hẹn của người bán đảm bảo cung cấp cho người mua một tập hợp nhất định những tính chất, lợi ích và dịch vụ. Những nhãn hiệu danh tiếng bao hàm một sự bảo đảm về chất lượng. Nhãn hiệu là một biểu tượng phức tạp. Những người làm Marketing đưa ra sáu cấp độ ý nghĩa của nhãn hiệu:
Thuộc tính: ví dụ như Mercedes gợi cho ta những thuộc tính đặc trưng như đắt tiền, sang trọng, uy tín, thiết kế hoàn hảo, dùng lâu bền.
Lợi ích: khách hàng không mua những thuộc tính mà mua những lợi ích do chúng đem lại. Các thuộc tính cần phải có những khả năng chuyển hoá thành các lợi ích. Ví dụ: thuộc tính bền cho ta ý nghĩa về tiết kiệm, thuộc tính thiết kế hoàn hảo cho ta cảm nhận sự an toàn sau tay lái.
Giá trị: chẳng hạn, nhãn hiệu Mercedes nói lên những giá trị mà người mua tìm kiếm đó sự hoàn hảo, an toàn, uy tín.
Văn hoá: nhãn hiệu của nhà sản xuất thể hiện một nền văn hoá nhất định. Mercedes đại diện cho nền văn hoá Đức: có tổ chức, hiệu quả và chất lượng cao.
Tính cách: nhãn hiệu biểu đạt một tính cách nhất định. Mercedes cho ta hình ảnh về một người chủ không phải kém cỏi.
Người sử dụng: nhãn hiệu còn thể hiện khách hàng mua hay sử dụng một sản phẩm, nếu người sử dụng biết tôn trọng giá trị, văn hoá và phong cách mà sản phẩm đó thể hiện. Kể ra thì giá trị, văn hoá và cá tính của sản phẩm đều phản ánh đặc điểm của người sử dụng.
Nếu một công ty chỉ chú ý đến cái tên của nhãn hiệu, tức là coi nhẹ điều mấu chốt của nội dung. Thách thức của nhãn hiệu là phải khai thác chiều sâu ý nghĩa của nó. Nếu người ta có thể nhận ra sáu tầng hàm ý của một nhãn hiệu, thì ta gọi đó là nhãn hiệu thâm ý; ngược lại thì gọi là nhãn hiệu hời hợt. Xe hơi Mercedes là một nhãn hiệu thâm ý, bởi vì chúng ta nhận ra hàm ý về sáu phương diện của nó.
Các thuật ngữ liên quan đến nhãn hiệu
Phần này bài viết chỉ đề cập đến một số thuật ngữ mà: nhãn hiệu thể hiện giá trị của nó (sản phẩm); dễ nhầm lẫn với nhãn hiệu (nhãn mác); sự biểu thị của nhãn hiệu (bao bì). Còn các thuật ngữ có liên quan khác bài viết sẽ đề cập trong các phần sau.
Sản phẩm: là bất cứ thứ gì có thể đưa vào một thị trường để tạo ra sự chú ý, mua sắm, sử dụng hay tiêu thụ nhằm thoả mãn một nhu cầu hay ước muốn. Nó có thể là những vật thể, những dịch vụ, những con người, những địa điểm, những tổ chức và những ý nghĩ.
Người tiêu dùng cảm nhận nhãn hiệu như một phần thực chất của sản phẩm và việc đặt tên cho nhãn hiệu có thể làm tăng gía trị cho sản phẩm.
Nhãn mác: là tập hợp những ngôn từ, số liệu, kí hiệu, hình ảnh được in chìm, in nổi trực tiếp hoặc được dán, đính, cài chắc chắn trên hàng hoá hoặc bao bì để thể hiện các thông tin cần thiết, chủ yếu về hàng hoá.
Quyết định 178/QĐ-TTG do thủ tướng chính phủ ban hành ngày 30-8-1999 đã quy định nội dung nhãn hàng hoá bao gồm: tên hàng hoá, tên cơ sở sản xuất, địa chỉ, định lượng, thành phần cấu tạo các chỉ tiêu chất lượng hướng dấn sử dụng bảo quản, ngày tháng năm sản xuất, hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá. Trong tên hàng hoá có hai phần: tên nói về công dụng và nhãn hiệu.
Quyết định này làm nhiều người nhầm tưởng là nhãn hiệu chỉ là một bộ phận của nhãn mác. Nhưng thật ra nhãn hiệu là một bộ phân riêng rẽ độc lập. Nó có thể đứng một mình và có thể được sử dụng trên sản phẩm, trong quảng cáo, biển hiệu và bao bì thương phẩm chứ không chỉ trong nhãn mác. Quyết định này do chính phủ đưa ra nhằm quản lý chặt chẽ hơn về hàng hoá.
Bao bì: rất nhiều sản phẩm phải được đóng gói trước khi đưa vào thị trường. Bao bì có thể có vai trò nhỏ (những mặt hàng kim loại rẻ tiền), hoặc có vai trò lớn (hàng mỹ phẩm). Triển khai một bao bì hữu hiệu cho sản phẩm đòi hỏi nhiều quyết định. Nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng khái niệm về bao bì đó. Khái niệm về bao bì là việc định nghĩa bao bì đó phải là gì hay làm được gì cho sản phẩm ấy. Như vậy, nhiệm vụ chủ yếu của bao bì phải là bảo vệ sản phẩm, giới thiệu một kiểu phân phối mới, gợi ra những phẩm chất của sản phẩm, của công ty hay là việc gì khác nữa? Ta định nghĩa bao bì như sau:
Bao bì sản phẩm là đồ chứa hay bao gói cho sản phẩm nhằm vào một số mục đích cụ thể (làm đẹp cho sản phẩm, bảo vệ, gia tăng tiện ích khi sử dụng)
Cùng với nhãn hiệu, bao bì là công cụ đắc lực của Marketing nhằm làm tăng giá trị cho sản phẩm.
Giá trị của nhãn hiệu.
Giá trị tài sản nhãn
Sản phẩm chỉ có giá trị sau khi được sản xuất ra, còn bản thân nhãn hiệu là tài sản vô hình. Lực lượng và giá trị của các loại nhãn hiệu khác nhau trên thị trường là không giống nhau. Tình hình tệ nhất là tuyệt đại đa số người mua không biết gì về các nhãn hiệu. Hơi khá một chút là người mua biết nhãn hiệu đến mức độ nhất định. Khá hơn chút nữa là người mua biết nhãn hiệu đến mức độ cao, họ chọn nhãn hiệu này chứ không chọn nhãn hiệu khác. Cuối cùng là người mua trung thành với nhãn hiệu.
Ta có thể hình thành một hiểu biết về giá trị tài sản nhãn như sau: giá trị tài sản nhãn đề cập đến giá trị mà một nhãn hiếu sản phẩm có được theo thời gian. Nếu một chiến lược Marketing cho một nhãn hiệu thành công, tất cả các thành phần của nhãn sẽ hình thành nên một sự liên tưởng mạnh mẽ trong nhận thức của khách hàng (uy tín, chất lượng, giá cả...). Nhãn hiệu càng có uy tín trên thị trường thì giá trị tài sản nhãn càng cao. Giá trị này không được hạch toán trên sổ sách tài khoản cụ thể nhưng nó có giá trị to lớn khi đánh giá doanh nghiệp, tiến hành giao dịch, hoặc liên doanh với các doanh nghiệp khác. Phương pháp xác định giá trị tài sản của nhãn hiệu là xem số lượng tiêu thụ của nó cao hay thấp bao nhiêu so với bình quân nhãn hiệu. Từ những hiểu biết trên, ta có thể đưa ra định nghĩa:
Giá trị tài sản nhãn là tập hợp tài sản hay những khoản nợ liên quan đến nhãn, tên gọi, biểu tượng. Chúng có thể hỗ trợ hay làm giảm đi giá trị mà sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Nếu một nhãn hiệu hay biểu tương thay đổi, những tài sản này có thể bị ảnh hưởng thậm chí bị mất hết dù giá trị này có thể chuyển dịch sang tên mới hay biểu tưởng mới.
Các yếu tố cấu thành giá trị nhãn
Sự trung thành đối với nhãn hiệu
Trung thành với nhãn hiệu là yếu tố cốt lõi của giá trị tài sản nhãn, là thước đo về sự gắn bó mà khách hàng có được đối với một nhãn sản phẩm: nếu khách hàng không quan tâm đến nhãn khi mua sản phẩm có nghĩa là lòng trung thành đối với nhãn sẽ thấp và ngược lại. Yếu tố này ảnh hưởng mạnh đến giá trị tài sản nhãn, đến lợi nhuận và doanh số bán trong tương lai. Có năm mức độ khác nhau về lòng trung thành của khách hàng:
Khách hàng sẽ thay đổi nhãn hiệu đặc biệt là vì lý do giá cả, không trung thành với nhãn hiệu: đây là những người hoàn toàn không quan tâm đến nhãn hiệu sản phẩm. Họ chọn mua một sản phẩm nào đó do yếu tố giá cả, sự tiện dụng. Đối với họ, uy tín nhãn hiệu chỉ đóng vai trò thứ yếu trong quyết định mua sắm sản phẩm.
Khách hàng hài lòng, không có lý do thay đổi nhãn hiệu: đây là những người mua theo thói quen. Khi một sản phẩm mà khách hàng mua đã trở nên quá quen thuộc họ cảm thấy bằng lòng, họ sẽ chọn nhãn hiệu đó. Khách hàng ít nghĩ đến chuyện thay đổi nhãn khi không có sự bất mãn nào đối với sản phẩm đủ để thúc đẩy họ quyết định thay đổi nhãn.
Khách hàng trung thành nửa vời: họ thoả mãn khi lựa chọn một nhãn hiệu nào đó, nhãn hiệu sản phẩm là một yếu tố để họ lựa chọn sản phẩm. Những người này sẽ sẵn sàng thay đổi nhãn hiệu khi chúng ảnh hưởng đến chi phí của họ (thời gian, tiền bạc, hoặc những rủi ro khác)
Khách hàng hài lòng và sẽ không vì giá cả mà thay đổi nhãn hiệu: đối với họ nhãn hiệu cũng là một yếu tố để lựa chọn sản phẩm. Đối với họ, giá cả là không quan trọng. Nhưng họ có thể thay đổi nhãn hiệu vì một lý do khác ngoài giá, chẳng hạn như chất lượng giảm, các lí do cá nhân...
Khách hàng nhận thức được giá trị của nhãn hiệu và coi nó như người bạn: là những khách hàng thật sự trung thành, họ tự hào khi sử dụng nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Nhãn hiệu sản phẩm là yếu tố quan trọng đối với họ khi lựa chọn sản phẩm, nó phản ánh chất lượng, đặc tính sản phẩm và cho biết họ là ai. Khác với các nhóm khác, họ luôn sẵn sàng đóng góp cho nhãn hiệu nhằm cải tiến hay khắc phục khuyết điểm của sản phẩm.
Về lý thuyết có năm dạng người mua liên quan đến sự trung thành đối với nhãn hiệu, nhưng trong thực tế không có sự phân biệt rõ ràng và thuần chất như trên, nhưng nó cho thấy mức độ trung thành với nhãn ảnh hưởng đến giá trị nhãn hiệu như thế nào. Mức độ trung thành đối với nhãn phụ thuộc vào cạnh tranh giữa các nhãn và bản chất của sản phẩm.
Nhận biết về nhãn hiệu
Nhận biết về nhãn là khả năng người mua nhận thức được hoặc ghi nhớ được một nhãn hiệu gắn với một loại sản phẩm nào đó. Có các mức độ nhận biết về nhãn khác nhau:
Không nhận biết--------->Nhận biết sơ sài -------->Nhớ ------>Ghi nhớ sâu
Nhận biết thường xuyên sẽ tạo ra sự thân thuộc dẫn đến sự tin cậy đối với nhãn, đây là một trong những yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng đến quyết định mua của khách hàng. Để nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này, bài viết đưa ra sáu giai đoạn của quy trình nhận thức nhãn hiệu đối với khách hàng.
+ Phát hiện: khách hàng thấy hoặc nghe tới nhãn hiệu
+ Chú ý: khách hàng bị thu hút và có ấn tượng về nhãn hiệu
+ Tìm hiểu: khách hàng quan tâm đến các thông tin truyền đạt và tìm hiểu ý nghĩa của nhãn hiệu
+ Chấp nhận: khách hàng chấp nhận và thích thú với các thành phần nhãn
+ Đáp ứng: khách hàng chia sẻ và tham gia vào việc phổ biến nhãn hiệu với những người khác
+ Ghi nhớ: khách hàng lưu giữ nhãn hiệu trong trí nhớ và sẽ truy cập khi có nhu cầu mua sắm
Nhãn hiệu mà khách hàng ghi nhớ có cơ hội được chọn mua lớn hơn những nhãn hiệu khác. Cần lưu ý rằng nhận biết về nhãn tự nó không tạo ra doanh số hay lợi nhuận, vấn đề là doanh nghiệp cần tạo ra nhu cầu và lý do dẫn đến quyết định mua đối với sản phẩm đó nhưng phải khẳng định một điều: nhận biết là một trong những dấu hiệu của lòng trung thành.
Nhận thức về chất lượng sản phẩm
Nhận thức về chất lượng sản phẩm là nhận thức của khách hàng về chất lượng tổng thể hay tính tuyệt hảo của một sản phẩm, dịch vụ có liên quan đến mục đích sử dụng cụ thể. Nhận thức của khách hàng về chất lượng sản phẩm tạo nên giá trị tài sản của nhãn do những yếu tố sau:
Hình thành nên động cơ mua sắm: nhận thức về chất lượng đối với một nhãn ảnh hưởng rất mạnh đến quá trình quyết định mua của khách hàng. Khi chọn mua sản phẩm người mua sẽ xem xét những nhãn hiệu có mức chất lượng mà họ quan tâm, loại trừ những nhãn hiệu họ không hiểu rõ về chất lượng hoặc không phù hợp để đưa ra quyết định lựa chọn nhãn hiệu.
Nó ảnh hưởng đến công tác định vị: đặc điểm của công tác định vị đối với một nhãn hiệu chủ yếu dựa vào yếu tố nhận thức về chất lượng sản phẩm.
Xác định mức giá cao: với lợi thế về chất lượng nhãn hiệu, nhà sản xuất có thể đề nghị mức giá cao cho khách hàng, và khách hàng thấy có thể chấp nhận được, qua đó giúp doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận. Không những vậy, mức giá cao còn có tác động tới mức độ nhận thức về chất lượng sản phẩm với niềm tin “ Tiền nào của đó”, đặc biệt trong trường hợp sản phẩm hay dịch vụ không có nhiều thông tin.
Liên tưởng đối với nhãn.
Giá trị của một nhãn hiệu xuất phát từ khả năng giành được một ý nghĩa vượt trội, chủ động và riêng biệt trong tâm trí của phần đông khách hàng. Nó dẫn đến việc ta phải nghiên cứu sự liên tưởng đối với nhãn.
Liên tưởng là những gì lưu trong tâm trí khách hàng liên quan đến nhãn hiệu sản phẩm, người mua có thể liên tưởng đến hiệu McDonald’s như sau: đặc điểm sản phẩm là dịch vụ, với một cảm giác là sự vui vẻ, thị trường mục tiêu là trẻ em, biểu tượng là vòm cung vàng, lối sống vội vã...
Những sự liên tưởng này đạt được qua nhiều năm thông qua việc không ngừng đầu tư của công ty: trong sản xuất luôn duy trì một mức độ chất lượng cao, trong việc nghiên cứu sản phẩm mới phải thích nghi với những thay đổi của khách hàng, trong hệ thống phân phối... sự liên tưởng giúp cho quá trình tìm kiếm thông tin của khách hàng dễ dàng hơn tạo ra cảm giác và thái độ có lợi cho sản phẩm. Nó chính là nền tảng của công tác định vị nhãn hiệu.
Tầm quan trọng của giá trị nhãn
Đối với khách hàng: uy tín của nhãn có thể làm tăng hay giảm giá trị của nhãn đối với khách hàng. Chúng có thể giúp họ mô tả, xử lý, lưu trữ một lượng thông tin nhất định về sản phẩm, tác động đến niềm tin của khách hàng trong quá trình quyết định mua (do kinh nghiệm sử dụng hoặc thông qua đặc tính của chúng). Danh tiếng của nhãn hiệu sẽ gia tăng nếu như nhãn hiệu đó được khách hàng tin cậy và làm tăng sự thoả mãn nhu cầu của họ.
Đối với doanh nghiệp.
Giá trị tài sản cao của nhãn hiệu sẽ đem lai ưu thế cạnh tranh cho công ty vì:
Người tiêu dùng biết tiếng và trung thành cao độ với nhãn hiệu, nên giá thành hay chi phí marketing của công ty giảm đi.
Do chất lượng của nhãn hiệu cao hơn, nên công ty có thể bán với giá cao hơn đối thủ.
Do nhãn hiệu có uy tín cao nên giúp công ty gia tăng hiệu quả của chương trình marketing. Ví dụ hoạt động khuyến mại nhằm khuyến khích khách hàng thử hương vị mới hoặc sử dụng sản phẩm mới sẽ dễ dàng hơn nếu nhãn hiệu đó đã quen thuộc.
Trong cạnh tranh gay gắt về giá cả nhãn hiệu có tác dụng bảo hộ công ty.
Gia tăng sức mạnh của nhãn hiệu
Một vấn đề liên quan đến giá trị tài sản nhãn mà doanh nghiệp cần quan tâm là những nỗ lực nhằm gia tăng sức mạnh nhãn hiệu. Điều gì sẽ xẩy ra nếu giá trị nhãn hiệu bị giảm sút, liệu doanh nghiệp có phát triển nếu vẫn duy trì một nhãn hiệu không còn được khách hàng ưa chuộng mà không có những nỗ lực marketing phù hợp. Việc tăng cường sức mạnh nhãn hiệu không chỉ giúp duy trì và tăng doanh số bán hàng mà còn là cơ sở để gia tăng giá trị tài sản nhãn, tăng lòng trung thành của khách hàng đối với nhãn, qua đó thổi luồng sinh khí mới cho nhãn.
Các cách để gia tăng sức mạnh nhãn:
Mở rộng nhãn
Khuyến khích gia tăng việc sử dụng sản phẩm
Tìm kiếm công dụng mới cho sản phẩm
Khai thác khúc thị trường mới
Định vị sản phẩm
Tăng cường dịch vụ cho sản phẩm
áp dụng kỹ thuật thế hệ mới để sản xuất ra sản phẩm
Các bộ phận cấu thành nhãn hiệu
Tên gọi nhãn hiệu:
Là phần đọc được của nhãn hiệu. Ví dụ như bia Sài Gòn, bột giặt VISO... doanh nghiệp có thể tốn rất nhiều tiền để tìm tên thích hợp cho sản phẩm.
Khẩu hiệu: là những thông điệp mà một doanh nghiệp muốn nó tồn tại trong tâm trí khách hàng, nhằm mục đích làm mạnh thêm ảnh hưởng của nhãn hiệu trong nhận thức của khách hàng. Ví dụ khẩu hiệu của Vinamilk là “sức khoẻ và trí tuệ”.
Đoạn nhạc đặc trưng: tồn tại trong những đoạn quảng cáo, cũng với mục đích ăn sâu vào tâm trí khách hàng một nhãn hiệu. Ví dụ bài hát “đôi cánh tình yêu” do ca sĩ Mỹ Tâm thể hiện là đoạn nhạc đặc trưng cho quảng cáo của xe Ford Escape. Nghe thấy đoạn nhạc đặc trưng người ta có thể có những liên tưởng đến nhãn hiệu.
Biểu tượng (Logo): là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể nhận biết được nhưng không thể đọc được. Biểu tượng là tín hiệu mang tính điển hình hoá cao, có quy cách chặt chẽ cô đọng được cấu tạo bằng kí hiệu, mầu sắc, kiểu chữ đặc thù hoặc hình ảnh có cấu trúc nghiêm ngặt. Biểu tượng nhãn như ngôi sao ba cánh của Mercedes Benz... cũng quan trọng như tên gọi của doanh nghiệp, của nhãn hiệu, khi xây dựng hình ảnh sản phẩm. Thậm chí khi một nhãn hiệu được xem là yếu, biểu tượng có thể quan trọng hơn tên gọi.
Ngoài những yếu tố trên còn một số yếu tố khác cấu thành nhãn hiệu như từ ngữ chữ cái, hình khối sản phẩm... cũng phải lưu ý rằng ta còn cách khác để phân bộ phận cấu thành nhãn hiệu. Đó là phân nó thành hai phần:
Phần phát âm được: là những dấu hiệu có thể nói thành lời, tác động vào thính giác người nghe như tên gọi, từ ngữ, chữ cái, khẩu hiệu, đoạn nhạc đặc trưng
Phần không phát âm được: là những dấu hiệu tạo sự nhận biết thông qua thị giác người xem như hình vẽ, biểu tượng, nét chữ, mầu sắc...
Sự phân thành hai bộ phận này giúp chúng ta có thể khái quát hơn về các phần cấu thành của nhãn hiệu.
Chức năng của nhãn hiệu
Phân theo phạm vi tác động
Phân biệt hàng hoá
Chức năng thứ nhất của nhãn hiệu hàng hoá là chức năng phân biệt các hàng hóa hoặc các dịch vụ của cơ sở này với các hàng hoá hoặc các dịch vụ cùng loại của cơ sở khác. Ví dụ xà phòng mang nhãn hiệu ‘Daso’ của công ty hoá mỹ phẩm Daso-dacco khác với xà phòng mang nhãn hiệu ‘Omo’ của công ty liên doanh Unilever. Do đó nhãn hiệu hàng hoá giúp người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn khi mua những sản phẩm nhất định hoặc sử dụng những dịch vụ mà họ ưa thích.
Chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hoá dịch vụ
Chức năng thứ hai của nhãn hiệu hàng hoá là đề cập đến một số cơ sở cụ thể cung cấp các sản phẩm dịch vụ trên thị trường, tức là chỉ dẫn nguồn gốc hàng hoá hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng. Ví dụ khi mua sản phẩm bánh đậu xanh mang nhãn hiệu ‘Rồng Vàng’ hầu hết mọi người đều có thể biết sản phẩm đó xuất xứ từ Hải Dương.
Cho biết mức chất lượng
Chính từ hai chức năng trên đã dẫn đến chức năng thứ ba của nhãn hiệu hàng hoá là chức năng chỉ dẫn một mức chất lượng cụ thể của sản phẩm hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu hàng hoá. Ví dụ đã là bánh trung thu mang nhãn hiệu ‘Kinh Đô’ thì có chất lượng hơn hẳn bánh trung thu mang nhãn hiệu ‘Hữu Nghị’.
Thúc đẩy hoạt động bán hàng hoặc dịch vụ.
Chức năng này ngày càng trở nên quan trọng. Nó có khả năng lôi cuốn người tiêu dùng, tạo ra sự quan tâm và cảm giác tin tưởng.
Phân theo lợi ích của người tiêu dùng:
Ta có bảng sau:
Chức năng
Sự nhận biết
b. Tính thực tiễn
c. Sự đảm bảo
Nhận xét lạc quan
Cá tính hoá
f. Tính liên tục
g. Cảm giác thú vị
h. Đạo đức
Lợi ích dành cho người tiêu dùng
Được nhận thấy một cách rõ ràng, lời quảng cáo có ý nghĩa, nhanh chóng nhận biết những sản phẩm được ưa thích.
Cho phép tiết kiệm thời gian và sức lực qua việc mua lặp lại sản phẩm.
Chắc chắn tìm ra chất lượng tương tự cho dù bạn mua sản phẩm dịch vụ bất kỳ khi nào hay bất kỳ nơi đâu.
Đảm bảo việc mua sản phẩm tốt nhất trong cùng chủng loại, thực hiện tính năng tốt nhất đối với một mục đích đặc biệt.
Khẳng định hình ảnh của chính bạn hay hình ảnh mà bạn giới thiệu cho người khác.
Hài lòng với sự quen thuộc với nhãn hiệu bạn đã dùng trong nhiều năm.
Sự hài lòng kết hợp với sự hấp dẫn của nhãn hiệu, logo, thông tin về chúng.
Sự hài lòng kết hợp với thái độ trách nhiệm của nhãn hiệu trong mối quan hệ của chúng với xã hội (sinh thái học, việc làm, tư cách công dân, quảng cáo không gây sốc).
Lợi ích đối với người tiêu dùng được thực hiện thông qua 8 chức năng trên của nhãn hiệu. Trong đó 2 chức năng đầu đảm nhiệm chức năng dấu hiệu được thừa nhận để giúp cho việc lựa chọn khác nhau thêm thuận tiện và tiết kiệm thời gian, 3 chức năng tiếp theo cho người tiêu dùng biết sản phẩm họ đang mua có chất lượng bảo đảm, ổn định và phù hợp với thị hiếu của họ, 3 chức năng cuối cùng tạo cho khách hàng những điều thú vị, chức năng đạo đức cho thấy người mua đang đòi hỏi ngày càng nhiều hơn thái độ có trách nhiệm từ nhãn hiệu họ mua... Càng là nhãn hiệu mạnh thì chức năng nó cung cấp cho người mua càng nhiều.
Các quyết định liên quan đến nhãn hiệu
Quyết định về việc gắn nhãn
Việc đặt nhãn hiệu ngày nay đã trở nên phổ biến đến nỗi khó mà có sản phẩm nào không có nhãn hiệu. Muối được đóng gói riêng của người sản xuất, cam được đóng dấu của người trồng...
Có một số vấn đề đặt ra khi xem xét việc lập nhãn hiệu cho sản phẩm là: tại sao phải đặt hiệu? Nó có lợi cho ai? Chi phí để đặt hiệu?...Để xem xét vấn đề này bài viết sẽ hướng vào quan điểm của các bên liên quan đến việc đặt nhãn hiệu.
Quan điểm của người mua: Một số người mua cho rằng việc đặt nhãn hiệu là một công cụ để người bán tăng giá. Nhưng hầu hết người mua đều muốn sản phẩm có nhãn hiệu vì nó giúp người mua biết được phần nào về chất lượng, gia tăng hiệu quả của người mua, giúp người mua nhận biết các sản phẩm mới có thể có ích cho họ.
Quan điểm của người bán: Tại sao người bán phải nghĩ đến việc đặt nhãn hiệu khi biết chắc là nó sẽ làm tăng chi phí: bao bì, dán nhãn, đăng kí bảo hộ?...Thực tế việc đặt nhãn hiệu đem lại cho người bán nhiều ích lợi: giúp họ dễ dàng xử lý các đơn đặt hàng và tìm ra các vấn đề nhanh chóng; đảm bảo sự bảo hộ của pháp luật đối với các đặc điểm độc đáo của sản phẩm, vốn là thứ dễ bị các đối thủ cạnh tranh bắt chước; giúp họ có cơ hội thu hút được những khách hàng trung thành và có lợi; giúp người bán phân đoạn thị trường; những nhãn hiệu tốt sẽ giúp donh nghiệp có được hình ảnh tốt trong tâm trí khách hàng. Nếu sản phẩm mang nhãn hiệu của chính doanh nghiệp, nó giúp cho việc quảng cáo chất lượng và quy mô doanh nghiệp đó.
Quan điểm xã hội: xã hội có hai loại ý kiến khác nhau về vấn đề đặt nhãn hiệu.
+ Những người ủng hộ việc đặt nhãn cho rằng: việc đặt nhãn hiệu sẽ yêu cầu chất lượng sản phẩm phải cao hơn và phù hợp hơn; thúc đẩy các nhà sản xuất tăng cường cải tiến, tìm những đặc điểm mới để hoàn thiện sản phẩm, đồng thời tạo ra nhiều mặt hàng hơn, đa dạng hoá sự lựa chọn của khách hàng; gia tăng hiệu suất của người mua vì nó cung cấp cho họ nhiều thông tin về sản phẩm và cho biết phải tìm mua ở đâu.
+ Một số người khác phê phán rằng: việc lập nhãn hiệu sinh ra sự phân biệt giả tạo và không cần thiết giữa các hàng hoá, nhất là loại hàng thuần nhất. Nó làm tăng giá cả vì tăng chi phí quảng cáo, bao bì và các chi phí khác là gánh nặng người tiêu dùng phải gánh chịu. Nó đào sâu thêm ý thức về địa vị của người dân, họ mua một số nhãn hiệu nào đó chỉ để “làm oai” với người khác.
Tóm lại vấn đề nào cũng có hai mặt, nhưng từ sự phân tích trên ta thấy việc đặt nhãn hiệu là hết sức cần thiết do các lợi ích của nó đem lại cho người bán người mua và xã hội.
2.Quyết định về người đứng tên nhãn hiệu:
Trong việc quyết định đặt nhãn hiệu, nhà sản xuất có ba cách lựa chọn về người đứng tên nhãn hiệu. Sản phẩm có thể được tung ra với nhãn hiệu của nhà sản xuất. Hoặc nhà sản xuất có thể bán sản phẩm cho một trung gian, người này sẽ đặt một nhãn hiệu riêng. Hoặc người sản xuất có thể để một phần sản lượng mang nhãn hiệu của mình và một số khác mang nhãn hiệu của nhà phân phối.
3.Quyết định chọn tên nhãn hiệu
Người sản xuất khi đặt nhãn hiệu cho sản phẩm của mình còn phải cân nhắc cách đặt tên nhãn hiệu. Có 4 chiến lược về đặt tên nhãn hiệu có thể xem xét để lựa chọn:
-Tên nhãn hiệu cá biệt cho từng sản phẩm.
-Tên họ chung cho tất cả các sản phẩm.
-Tên họ riêng cho tất cả các sản phẩm.
-Tên công ty đi kèm với tên riêng của sản phẩm.
Mỗi chiến lược về tên nhãn hiệu đều có những lợi ích và bất lợi khác nhau đối với nhà sản xuất, vì vậy cần căn cứ vào đặc điểm của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu và đặc điểm cạnh tranh để có quyết định đúng.
Việc lựa chọn tên nhãn hiệu cụ thể cho sản phẩm là công việc hết sức khó khăn và phức tạp, do tầm quan trọng của tên nhãn hiệu trong kinh doanh, marketing và cạnh tranh vì vậy phải thận trọng và hết sức nghiêm túc khi quyết định tên nhãn hiệu. Vì mức quan trọng của nó nên bài viết đề ra 5 nguyên tắc cơ bản khi xây dựng nhãn hiệu:
+Nhãn hiệu phải dễ nhớ.
+Nhãn hiệu phải có ý nghĩa.
+Nhãn hiệu phải có tính dễ bảo hộ.
+Nhãn hiệu phải có tính dễ thích ứng.
+Nhãn hiệu phải có tính dễ phát triển, khuyếch trương.
4.Quyết định chiến lược nhãn hiệu.
Chiến lược nhãn hiệu đòi hỏi phải đưa ra các quyết định phù hợp về mở rộng loại sản phẩm, mở rộng nhãn hiệu , sử dụng nhiều nhãn hiệu và nhãn hiệu mới.
4.1.Mở rộng loại sản phẩm.
Một doanh nghiệp có thể mở rộng loại sản phẩm bằng cách bổ sung thêm vào trong loại sản phẩm những mặt hàng mới dưới cùng một tên nhãn hiệu, như mặt hàng có hương vị mới, màu sắc mới, thành phần mới...Đa số hoạt động phát triển sản phẩm mới thực chất là mở rộng loại sản phẩm.
Cần lưu ý rằng việc mở rộng loại sản phẩm có thể làm tên nhãn hiệu mất đi ý nghĩa đặc biệt của nó và một số rủi ro khác, do đó có thể gây thiệt hại về mặt kinh doanh.
4.2Mở rộng nhãn hiệu
Quyết định mở rộng nhãn hiệu là bất kì nỗ lực nào nhằm sử dụng một nhãn hiệu đã thành công để tung ra những sản phẩm mới hay những sản phẩm cải tiến. Việc mở rộng nhãn hiệu tiết kiệm cho nhà sản xuất khoản chi phí tốn kém khi phải quảng cáo cho một nhãn hiệu mới, đồng thời sản phẩm mới đó vẫn được thị trường chấp nhận nhanh chóng do nhãn hiệu đã đuợc biết đến.Tuy nhiên, nếu sản phẩm mới mang tên một nhãn hiệu đã thành công mà không làm thoả mãn được khách hàng thì sẽ làm mất thiện cảm của khách hàng đối với các sản phẩm khác có cùng nhãn hiệu.
4.3.Sử dụng nhiều nhãn hiệu.
Chiến lược nhiều nhãn hiệu là việc triển khai hai hoặc nhiều nhãn hiệu trong cùng một loại sản phẩm. Nhà sản xuất dùng chiến lược này vì một số lý do: thứ nhất, họ có thể chiếm nhiều chỗ trên quầy bầy hàng, khiến các nhà bán lẻ sẽ lệ thuộc hơn vào những nhãn hiệu của họ; thứ hai, ít có khách hàng nào trung thành với một nhãn hiệu đến nỗi họ khong muốn dùng thử một nhãn hiệu khác; thứ ba, kích thích tăng năng suất và tính năng động giữa những người tham gia sản xuất và phân phối những nhãn hiệu khác nhau của doanh nghiệp; thứ tư, chiến lược nhiều nhãn hiệu định vị được lợi ích và mức độ hấp dẫn khác nhau, trong đó mỗi nhãn hiệu có thể thu hút một số người ủng hộ khác nhau. Cần phải lưu ý rằng mối nguy hiểm chính của việc sử dụng nhiều nhãn hiệu là mỗi nhãn hiệu chỉ dành được một thị phần nhỏ và không có nhãn hiệu nào có thể có khả năng sinh lời đáng kể.
4.4Sử dụng nhãn hiệu mới.
Trong trường hợp doanh nghiệp đưa ra những sản phẩm mới nhưng không có nhãn hiệu nào trong số những nhãn hiệu đang sử dụng thích hợp với chúng, thì cần phải đặt nhãn hiệu mới. Khác với khi đặt nhãn hiệu lần đầu tiên cho sản phẩm của mình, doanh nghiệp đặt nhãn hiệu cho sản phẩm mới cần xem xét số lượng các nhãn hiệu sản phẩm đang có đã đủ lớn hay chưa, đã khai thác hết các nhãn hiệu đã có hay chưa...
5.Quyết định tái xác định lại vị trí nhãn hiệu.
Một nhãn hiệu thoạt đầu được định vị trên thị trường có thể là thích hợp nhưng sau đó công ty có khi đành phải định vị lại. Sau khi công ty đưa ra nhãn hiệu, đối thủ cạnh tranh có thể tung ra nhãn hiệu khác làm giảm thị phần của công ty; ngoài ra khách hàng có thể không ưa thích nhãn hiệu của công ty nữa.
Việc tái định vị nhãn hiệu có thể đòi hỏi sự thay đổi cả sản phẩm lẫn hình ảnh của nó, hoặc có thể chỉ bằng cách thay đổi hình ảnh của nó mà thôi. Đây là công việc khó nó đòi hỏi vừa có thể giữ được khách hàng cũ trong khi vẫn thu hút thêm khách hàng mới.
III.Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược marketing.
1.Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lựoc định vị.
1.1Khái niệm định vị.
Định vị nhãn hiệu là việc doanh nghiệp tạo ra những hình ảnh sản phẩm khác biệt so với đối thủ cạnh tranh trong nhận thức của khách hàng, hình ảnh sản phẩm là tập hợp những sự liên tưởng kết hợp với nhau tạo nên một ý nghĩa nào đó về sản phẩm.
1.2Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược định vị.
Việc tạo ra những nhãn hiệu khác biệt là tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu quả của chiến lược định vị.
Phần lớn các nhà cung cấp đều muốn sản phẩm của họ được thị trường nhận biết và phân biệt được nó với các sản phẩm cạnh tranh khác. Mục đích của hoạt động định vị là tạo ra sự khác biệt và hấp dẫn cho nhãn hiệu của doanh nghiệp. Nếu nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp được nhận thức là khác biệt với các sản phẩm khác thì khách hàng sẽ thích nó hơn và sẵn sàng trả giá nó cao hơn. Để thực hiện chiến lược định vị thì những yếu tố được sử dụng để định vị phải quan trọng đối với khách hàng mục tiêu đủ để làm cơ sở phân biệt với các nhãn hiệu khác. Các yếu tố này có thể là những yếu tố cấu thành nên nhãn hiệu hoặc là các cấp độ hàm ý của nhãn hiệu. Chẳng hạn, bạn muốn bán dầu gội đầu, vậy làm cách nào để khách hàng chú ý đến sản phẩm của bạn trong rất nhiều loại dầu gội trên thị trường? Cô Hạnh chỉ dùng dầu gội đầu bồ kết của một công ty mỹ phẩm Việt Nam mà không dùng các loại khác, vì sao? Công ty này đã khéo khai thác được niềm tin truyền thống và hình ảnh thời thơ ấu qua hình ảnh tráí bồ kết mà bà ngoại ta hay mẹ ta thường gội. Hình ảnh này chính là nhãn hiệu sản phẩm và việc chỉ dùng dầu gội của công ty đó là kết quả của định vị nhãn hiệu, và do có sự khác biệt của bồ kết với các loại dầu gội khác nên việc định vị hướng vào khách hàng mục tiêu là cô Hạnh mới cho kết quả tốt.
2.Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược marketing
2.1Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược trong chiến lược sản phẩm
Nhãn hiệu phối hợp với sản phẩm thành công sẽ tạo nên một nhóm khách hàng trung của doanh nghiệp .Và nó sẽ kéo dài khả năng kinh doanh đối với sản phẩm đó .Vai trò chủ yếu của nhãn hiệu đối với chiến lược sản phẩm là hỗ trợ cho hoạt động sản phẩm.Nhờ nó mà doanh nghiệp triển khai thành công sản phẩm trong môi trường toàn cầu hoá.Nó cũng có vai trò khá quan trọng trong việc thực hiện chiến lược mở rộng dong sản phẩm. Nó giúp doanh nghiệp tung ra các sản phẩm mới hoặc dịch vụ nhanh hơn .Nhãn hiệu là công cụ hữu hiệu để người tiêu dùng nhận biết sự tồn tạI của sản phẩm.Nó khắc hoạ hình ảnh của sản phẩm trong tiềm thức và tình cảm khách hàng ,khi nhắc đến tên nhãn hiệu ta có thể nghĩ ngay đến sản phẩm.Nhãn hiệu còn cung cấp một khả năng mạnh mẽ cho sản phẩm của bạn trước sản phẩm mới và trước các đối thủ cạnh tranh mới.Giá trị nhãn hiệu được dùng như một đòn bẩy khi giới thiệu sản phẩm mới.
Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược giá .
Việc đưa ra các quyết định về giá là một công việc tương đối khó khăn,nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.Giá trị ,uy tín nhãn hiệu là yếu tố vô cùng quan trọng để doanh nghiệp tăng hiệu quả chiến lược giá.Một nhãn hiệu mạnh có thể giúp doanh nghiệp điều tiết thị trường ,định giá cao hơn đối thủ cạnh tranh do chất lượng của nhãn hiệu cao hơn.Giúp doanh nghiệp tung ra thị trường các sản phẩm mới với chi phí thấp hơn,góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường.
Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược phân phối.
Nhãn hiệu sẽ chi phối các kênh phân phối .Khi nhãn hiệu thành công trên thị trường thì hoạt động phân phối của doanh nghiệp cũng trở nên dễ dàng hơn.Colgate Palmolive đã từng rất khó khăn khi thuyết phục các siêu thị nhận phân phối nước xịt phòng Savard wonder lúc mới tung ra thị trường,nhưng khi nhãn hiệu này đã nổi tiếng thì việc có mặt trên các kệ hàng ở siêu thị không còn là vấn đề khó khăn của công ty nữa.
Vai trò của nhãn hiệu trong chiến lược xúc tiến hỗn hợp.
Đối với việc quảng cáo ,chiến lược nhãn hiệu như là kim chỉ nam cho hoạt động quảng cáo xây dựng nên thương hiệu chinh phục người tiêu dùng .Nhãn hiệu uy tín giúp quảng cáo có hiệu quả hơn bằng việc nhanh chóng khắc hoạ hình ảnh của sản phẩm trong tiềm thức và tình cảm của khách hàng .
Giá trị nhãn hiệu có thể thúc đẩy quá trình tiêu thụ .Nó giúp cho sản phẩm bán được nhiều hơn do người tiêu dùng đã nhận thức được nhãn hiệu của doanh nghiệp, chấp nhận hình ảnh ,danh tiếng của sản phẩm và tin tưởng vào chất lượng của nó.
Do nhãn hiệu có uy tín cao nên công ty có thể gia tăng hiệu quả của các chương trình marketing .Chẳng hạn như hoạt động khuyến mại nhằm khuyến khích khách hàng thử hương vị mới hoặc sử dụng sản phẩm mới sẽ dễ dàng hơn nếu nhãn hiệu đó đã quen thuộc.
CHƯƠNG II : CHIếN LƯợC XÂY DựNG NHãN HIệU GạCH CERAMIC HồNG Hà
I. Khái quát về công ty xây dựng Hồng Hà và nhãn hiệu CERAMIC Hồng Hà
1. Lịch sử ra đời và sự phát triển của công ty.
Công ty sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà là một công ty con của tổng công ty xây dựng Hồng Hà , thuộc sở Nông - Lâm nghiệp Hà Nội . Tổng công ty xây dựng Hồng Hà ra đời vào năm 1970, là một doanh nghiệp nhà nước . Với các nghành nghề kinh doanh chính sau:
+ Xây dựng công trình nhà ở ,công trình công cộng , văn hoá giáo dục, công trình công nghiệp,nông nghiệp và thuỷ lợi .
+ Kinh doanh nhà ở và khách sạn , dịch vụ du lịch .
+ Sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng xuất nhập khẩu thiết bị và vật liệu xây dựng .
+ Liên doanh , liên kết với các đơi vị kinh doanh trong và ngoài nước, để sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng.
Cùng với các nhiệm vụ kinh doanh như vậy, để thích ứng với cơ chế mới, ngày 16/ 3/ 1993 UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 177 QĐ/ UB thành lập doanh nghiệp theo nghị định số 388/ HĐUB .
Để đáp ứng nhu cầu đang còn thiếu trên thị trường về sản phẩm gạch ốp lát , tháng 8 năm 1996 Tổng công ty đã họp và được sự nhất trí và ủng hộ của UBND thành phố Hà Nội , sở Nông - Lâm nghiệp Hà Nội ,dự án thành lập nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà tại xã Mai Đình ,thị trấn Sóc Sơn , Hà Nội đã được thông qua . Đến tháng 9 năm 1997 nhà máy chính thức đi vào hoạt động với công suất 1000.000m^ 2/năm trong đó :
Gạch lát 800.000m^2/ năm .
Gạch ốp 200.000m^2/ năm
Tổng số vốn đầu tư cho xây dựng nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà là 55791,15 triệu đồng trong đó : Vốn xây lắp : 9607,3 trđ .
Thiết bị : 38086,5 trđ
Kiến thiêt cơ bản khác : 8097,7 trđ.
Nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà ra đời có nhiều lợi thế sau :
+Sản xuất trên dây truyền đồng bộ , hiện đại nhất của Italya .
+ Sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ như : sét , cao lanh , thạch anh .. Với mức giá rẻ một phần hai so với các nhà máy khác .
+ Trên thị trường lúc nàu tuy đang có 7 đối thủ cạnh tranh nhưng theo báo cáo tổng kết của bộ xây dựng trên cả nước còn thiếu khoảng 8,1 triệu m2/ năm .
+ Cũng theo dự thảo chiến lược phát triển nghành công nghiệp vật liệu xây dựng năm 2000 đến năm 2010 của bộ xây dựng nhịp độ tăng trưởng của công nghiệp vật liệu xây dựng phải đạt được 20%.
Trên đây là một số tiền đề và thuận lợi ban đâu giúp cho việc ra đời và đi đến hoạt động có hiệu quả của nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà .
1.Cơ cấu tổ chức :
Nhiệm vụ chính của nhà máy sản xuất gạch men CERAMIC Hồng Hà là sản xuất và kinh doanh gạch ốp lát phục vụ nhu cầu sử dụng gạch ốp lát ở địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận như : Hải Dương , Hoà Bình , Hà Tây , Thanh Hoá ... Hoạt động quảng cáo là hoạt động của phòng kinh doanh , chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty .
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty
Giám đốc
Các phó giám đốc
Phòng tài chính Phòng kế hoạch Phòng tổ chức
kế toán kinh doanh hành chính
Các cơ sở sản xuất
Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty là kiểu ccơ cấu trực tuyến chức năng . Với kiểu cơ cấu này :
Giám đốc là người đứng đầu công ty , có quyền ra quyết định chỉ đạo toàn bộ hoạt động sản xuất và kinh doanh của công ty . Giám đốc phải chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc công tỹây dựng Hồng Hà . Trong qúa trình ra quyết định giám đốc được trợ giúp bởi các phòng chức năng : Phòng tổ chức hành chính , phòng kế hoạch kinh doanh , phòng kế toán tài chính .
Các phó giám đốc là những người tham mưu cho giám đốc , giúp giám đốc giải quyết những công việc thuộc phạm vi quyền hạn mà giám đốc giao cho.
Các phòng chức năng có nhiệm vụ tham mưu , giúp đỡ giám đốc trong phạm vi chuyên môn , hướng dẫn , chỉ đạo , kiểm tra nhiệm vụ chuyên môn đối với các đơn vị trong công ty đồng thời chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty và trước pháp luật về nhiệm vụ của mình . Các phòng chức năng không có quyền ra mệnh lệnh cho các đơn vị trong công ty toàn bộ những đề xuất của phòng phải thông qua giám đốc , giám đốc xem xét rồi biến chúng thành mệnh lệnh và truyền đạt xuống theo tuyến chỉ định .
+ Phòng kế hoạch kinh doanh : Phụ trách việc lập và theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh cuă toàn bộ công ty và đơn vị trực thuộc.Phòng kế hoạch kinh doanh tổng hợp số liệu từ các đon vị trực thuộc để báo cáo vơi giám đốc,giám đốc nắm được tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty.
+ Phòng kế toán tài chính : Phụ trách và theo dõi phần tài chính kế toán của công ty.Hàng tháng,hàng quý và cuối năm lập báo cáo quyết toán về phòng tổ chức tài chính kế toán của công ty xây dựng Hồng Hà.
+ Phòng tổ chức hành chính : Phụ trách việc quản lý công tác tổ chức lao động,tiền lương ở công ty và các đơn vị.Theo dõi về cơ cấu,trình độ của các nhân viên.Phòng này cũng theo dõi và phụ trách công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và nâng cao trình độ kiéen thức tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty.
Các cơ sở sản xuất : Có tác dụng tiếp nhận và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh mà công ty giao cho.
3.Tình hình kinh doanh.
Với những điều kiện thuận lợi như đã trình bày ở trên,sau hơn 6 năm đi vào hoạt động công ty sản xuất và kinh doanh gạch men CERAMIC Hồng Hà đã đạt được những thành công đáng kể.
Theo kế hoạch dự án khi thiết lập thời gian hoàn vốn của dự án là 4 năm 11 tháng nhưng hiện tại tính đến năm 2003 thì số vốn của công ty đã được thu hồi từ cuối năm 2000.Sở dĩ công ty vừa ra đời đã hoạt động thành công là do chi phí đầu tư vào sản xuất thấp do công ty sáp nhập với công ty khai thác nguyên liệu tại Sóc Sơn nên giá nguyên vật liệu tại công ty rẻ bằng ??so với các công ty khác,chính nhờ lợi thế to lớn nàymà giá thành sản xuất của công ty thấp hơn rất nhiều so với đối thủ cạnh tranh . Cụ thể :Loại 1 : 68000 d / 1m ^ 2
Loại 2 : 60000 đ / 1m ^ 2
Doanh thu bình quân hàng năm của công tylà 85 000.000.000đ , nộp ngân sách nhà nườc lá 4.175.087.000đ . Tổng số lao động bình quân của công ty là 90 người với mức thu nhập bình quân đầu người là 800.000đ/người (Nguồn công ty xây dựng Hồng Hà).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0597.doc