Đề án Hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với cam kết hội nhập kinnh tế quốc tế

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 . Chính sách thương mại: 1.1.1 Chính sách thương mại. 1.1.2 Phân loại chính sách thương mại 1.1.3 Tầm quan trọng của chính sách thương mại 1.2 Dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt nam 1.2.1 Dịch vụ phân phối 1.2.2 Dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài 1.2.3 Quản lý dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài: 1.2.4 Thực trạng Việt Nam 1.3 Các cam kết hội nhập quốc tế CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG 2.1 Quá trình hội nhập thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam 2.1.2 Quá trình hội nhập thương mại 2.1.2 Quá trình quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam 2.2 Cơ chế chính sách quản lý nhà nước về thương mại của nước ta hiện nay. 2.3. Các cơ chế chính sách Thương Mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài đã phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế hay chưa? 2.3.1 Những cam kết của Việt Nam khi hội nhập nền kinh tế quốc tế ( chỉ xét trên thị trường có yếu tố nước ngoài). 2.3.1.1 Cam kết chung cho các ngành dịch vụ. 2.3.1.2 Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí 2.3.1.3 Dịch vụ viễn thông 2.3.1.4 - Dịch vụ phân phối 2.3.1.5 Dịch vụ bảo hiểm 2.3.1.6 Dịch vụ ngân hàng 2.3.2 Thực trạng của các cơ chế chính sách của thương mại quản lý phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam . 2.3.2.1 Cơ chế chính sách đối với thị trường phân phối 2.3.2.2 Đối với ngành dầu khí 2.3.2.3 Đối với các ngành dịch vụ viễn thông 2.3.2.4 Đối với các ngành bảo hiểm và ngân hàng CHƯƠNG III: Giải pháp 3.1 Bối cảnh, định hướng hội nhập kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. 3.1.1Bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay: 3.1.2 Định hướng hội nhập kinh tế trong giai đoạn sắp tới. 3.2 Giải pháp hoàn thiện để hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở VN phù hợp vói cam kết hội nhập kinh tế quốc tế 3.2.1 Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật về việc quản lý các hoạt động thương mại quản lý dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài. đầu tư vốn vào Việt Nam một cách thuận lợi và hiệu quả. 3.2.2 Đẩy mạnh cải cách hành chính và đơn giản hoá các loại thủ tục trong thương mại. 3.2.3. Đảm bảo về mặt cơ chế quản lý 3.2.4 Sắp xếp lại, bồi dưỡng và đào tạo kịp thời nhân sự bộ máy tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước 3.2.5 Sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý thương mại KẾT LUẬN

doc33 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với cam kết hội nhập kinnh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nước, nân cao vị thế nước ta trên thế giới, góp phần củng cố hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc… Dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt nam 1.2.1 Dịch vụ phân phối Theo phân loại của WTO, Việt Nam cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối sau: - Dịch vụ đại lý hoa hồng; - Dịch vụ bán buôn; - Dịch vụ bán lẻ; - Dịch vụ nhượng quyền thương mại (dịch vụ này thực chất là một thỏa thuận theo đó một nhà phân phối được phép sử dụng một hình thức bán lẻ hoặc một thương hiệu nhất định). 1.2.2 Dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài Đối với các sản phẩm mà Việt Nam đã cam kết mở cửa Kể từ ngày gia nhập (11 tháng 1 năm 2007), các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài được quyền phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, ngoại trừ xi măng và clinke; lốp (trừ lốp máy bay); giấy; máy kéo; phương tiện cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt thép; thiết bị nghe nhìn; rượu và phân bón. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy. Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam. Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào Việt Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1 (cung cấp qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, đối với phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán các loại hàng hoá sau: - Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân; - Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì mục đích thương mại. Đối với các sản phẩm khác, việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Cam kết của ta trong WTO là phù hợp với định hướng phát triển ngành phân phối và thậm chí còn chặt hơn thực tiễn mở cửa ngành dịch vụ này ở trong nước. Trước khi gia nhập WTO, trên thực tế ta đã cho phép các doanh nghiệp phân phối nước ngoài được thiết lập liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ta đã cho phép một số tập đoàn phân phối lớn thành lập siêu thị 100% vốn nước ngoài và mở hàng loạt các siêu thị tại các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Tới cuối năm 2006 trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân phối lớn của thế giới như: Metro Cash & Carry (Đức) với 6 siêu thị hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. BigC có các siêu thị đang hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội và Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia) ở TP.HCM. Bên cạnh đó, Tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, Lotte (Hàn Quốc) cũng vào VN thông qua hình thức liên doanh. 1.2.3 Quản lý dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài: Ta đã xây dựng quy định riêng trong lĩnh vực phân phối, đặc biệt chú ý đến bán lẻ và quy hoạch bán lẻ để tạo khung pháp lý cần thiết, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển kinh doanh trong lĩnh vực này. Khi ta gia nhập WTO, các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trước đó (kể cả các doanh nghiệp, siêu thị 100% vốn đầu tư nước ngoài) sẽ tiếp tục được hoạt động với các điều kiện như đã quy định trong giấy phép. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ phải tuân thủ các cam kết trong WTO đối với dịch vụ phân phối. Về diện mặt hàng, Việt Nam mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau đây: - Thuốc lá và xì gà; - Sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình; - Kim loại quý và đá quý; - Dược phẩm; - Thuốc nổ; - Dầu thô và dầu đã qua chế biến; - Gạo, đường mía và đường củ cải. Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được quyền phân phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của biểu thuế quan) của các mặt hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ-BTM của Bộ Thương mại. 1.2.4 Thực trạng Việt Nam Sau hơn 3 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ nói riêng. Tuy là một thị trường quy mô nhỏ nhưng lại có tốc độ phát triển nhanh, tiềm năng lớn, chính trị ổn định, cơ cấu dân số trẻ, Việt Nam có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị so với năm 2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 21 siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu FDI bán lẻ chỉ chiếm 4-5% doanh thu bản lẻ toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... đã có mặt ở nước ta. Mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam liên tục tăng cao qua các thời kỳ: 1996-2000: 10,75%/năm, 2001-2005: 18,3%, 2006-2008: 25%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 6 tháng đầu năm 2010 đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, Việt Nam liên tục được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ (GRDI). Theo A.T. Kearney (hãng tư vấn Mỹ), năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm 2008 vượt lên đứng đầu. Các cam kết hội nhập quốc tế Phạm vi sản phẩm thuộc quyền phân phối Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài không được phép phân phối một số loại sản phẩm tại Việt Nam. Những sản phẩm này có thể phân thành 2 nhóm: sản phẩm hạn chế dài hạn (with long-term restrictions) và sản phẩm hạn chế theo từng giai đoạn (with phased-in restrictions).Danh sách các sản phẩm hạn chế dài hạn nêu chi tiết tại phần cam kết nền (horizontal) của biểu cam kết dịch vụ phân phối với tên gọi “các biện pháp áp dụng đối với mọi phân ngành trong lĩnh vực dịch vụ phân phối”, trong đó bao gồm thuốc lá và xì gà, sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình, kim loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ, dầu thô và dầu đã qua chế biến, gạo, đường mía và đường củ cải. Đây là những sản phẩm nhạy cảm mà Chính phủ không muốn cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phân phối tại Việt Nam. Nhà phân phối nước ngoài cũng không được phép làm đại lý hoa hồng, nhà bán buôn, bán lẻ hoặc bên nhượng quyền cho tất cả những sản phẩm này. Ngoài ra, họ không được phép bán những sản phẩm này ở cơ sở bán lẻ tại Việt Nam, chẳng hạn như liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, và không được phân phối những sản phẩm này trực tuyến hoặc bằng bất kỳ hình thức thương mại điện tử nào khác. Danh sách các sản phẩm hạn chế theo từng giai đoạn được nêu cụ thể ở cột tiếp cận thị trường mà theo đó, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, cụ thể là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được phép phân phối tại Việt Nam trong một giai đoạn nhất định kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO. Danh sách này bao gồm xi măng và clinke; lốp (trừ lốp máy bay); giấy; máy kéo; phương tiện cơ giới; ôtô con và xe máy; sắt thép; thiết bị nghe nhìn; rượu; và phân bón. Tuy nhiên, đến năm 2010 danh sách này sẽ bị bãi bỏ và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phép phân phối tất cả các loại sản phẩm được sản xuất ở Việt Nam và nhập khẩu vào Việt Nam (trừ các loại sản phẩm hạn chế dài hạn). Điều cần lưu ý là danh sách này không áp dụng đối với dịch vụ nhượng quyền, nghĩa là nhà phân phối nước ngoài có thể cung cấp dịch vụ nhượng quyền đối với tất cả các sản phẩm hạn chế theo từng giai đoạn. Phân phối trực tuyến và bằng hình thức thương mại điện tử khác (Phương thức 1) Việt Nam không cho phép mua bán hàng hóa trực tuyến hoặc bằng bất kỳ hình thức thương mại điện tử nào khác, ngoại trừ phân phối bằng phương thức điện tử phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân hoặc phân phối bằng phương thức điện tử đối với các phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân và vì mục đích thương mại. Điều này nghĩa là các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam có thể mua mọi loại sản phẩm (trừ các sản phẩm hạn chế dài hạn) trực tuyến hoặc bằng bất kỳ hình thức thương mại điện tử nào khác phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân chứ không phải vì mục đích thương mại. Đối với phần mềm máy tính hợp pháp, họ được phép phân phối để tự sử dụng hoặc vì mục đích thương mại. Sở hữu vốn của nước ngoài trong dịch vụ phân phối Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập liên doanh với vốn góp không quá 49% ngay khi Việt Nam gia nhập WTO, tức là năm 2007. Kể từ ngày 1/1/2008, mức trần 49% về vốn góp bị bãi bỏ, nghĩa là phần vốn góp của nước ngoài có thể lên tới 99,99%. Kể từ ngày 1/1/2009, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được phép thành lập. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chỉ được phép thành lập một cơ sở bán lẻ tại Việt Nam. Việc lập cơ sở bán lẻ thứ hai phải được sự phê duyệt của các cơ quan hữu quan trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Các tiêu chí phê duyệt bao gồm nhưng không hạn chế ở số lượng nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện trong một khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý. Điều quan trọng cần lưu ý là các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài nghĩa là các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, các liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, và các doanh nghiệp Việt Nam có góp vốn của các cổ đông nước ngoài. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp 100% vốn trong nước được coi là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài nếu bán cổ phần hoặc cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài. Khi đó họ sẽ là đối tượng của việc kiểm tra nhu cầu kinh tế mặc dù họ không phải là đối tượng của biện pháp này trước khi bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài. Cuối năm 2007, nước ta chính thức trở thành thành viên WTO. Các cam kết WTO của Việt Nam, tương tự như cam kết của các nước mới gia nhập khác, nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc giữa đầu tư trong và ngoài nước và minh bạch hóa. Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam đã có cam kết gồm mở cửa thị trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan; chính sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các quy định của WTO; giảm hoặc điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với một số hàng hóa; không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập; duy trì hỗ trợ nông nghiệp trong nước ở mức không quá 10% giá trị sản lượng; bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp công nghiệp bị cấm từ thời điểm gia nhập; các ưu đãi đầu tư đã cấp trước ngày gia nhập WTO sẽ được bảo lưu trong 5 năm (trừ các ưu đãi xuất khẩu đối với ngành dệt may); tuân thủ Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM) của WTO từ thời điểm gia nhập; áp dụng các loại phí và lệ phí theo quy định của WTO; tuân thủ Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ khi gia nhập; tuân thủ Hiệp định về kiểm tra trước khi giao hàng cũng như các Hiệp định có liên quan khác của WTO; duy trì hệ thống thủ tục hải quan thống nhất, minh bạch, đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; các DNNN sẽ hoàn toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của DNNN; chấp nhận điều khoản về nền kinh tế phi thị trường trong thời gian tối đa là 12 năm; tham gia vào một số Hiệp định tự do hóa theo ngành; cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán, dịch vụ thuế. Các cơ hội thuận lợi chủ yếu là: - Thứ nhất, có thể tiếp cận được những thị trường rộng lớn hơn với những ưu đãi thương mại (giảm thuế quan và phi thuế, quy chế MFN, NT, GSP…) để tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và cung ứng được nguồn nguyên,nhiên liệu, thiết bị với giá cạnh tranh; - Thứ hai, cơ hội tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh; - Thứ ba, cơ hội cho việc phát triển quan hệ đối tác với nước ngoài; - Thứ tư, khả năng tiếp cận tốt hơn các nguồn tài chính, tín dụng đa dạng cả ở trong lẫn ngoài nước để tăng đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; - Thứ năm, thông qua cọ xát, cạnh tranh, học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm, tri thức, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ nhân lực; - Thứ sáu, nhìn chung các doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích quan trọng từ quá trình tự do hoá và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng hơn. Các thách thức/rủi ro chính bao gồm: - Thứ nhất, nguy cơ phá sản hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh do năng lực cạnh tranh kém. Nhiều doanh nghiệp của ta phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng này, bởi vì phải cạnh tranh trong điều kiện rất khó khăn cả từ phía bản thân các doanh nghiệp (quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, quản lý kém, hàng hoá sản phẩm thiếu sức cạnh tranh…) lẫn từ phía nhà nước (môi trường chính sách vĩ mô, hệ thống luật pháp, việc thực thi và năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập). - Thứ hai, phải chịu nhiều phí tổn hơn về giao dịch, tư vấn, tiếp thị, quảng cáo, đào tạo… - Thứ ba, có nhiều rủi ro khi hoạt động trên thị trường nước ngoài, nhất là trong điều kiện không hiểu rõ chính sách, luật lệ, thủ tục và cách thức làm ăn tại thị trường đó và các đối tác nước ngoài (khả năng bị lừa đảo, xử bất lợi trong các vụ tranh chấp…). Tóm lại, HNKTQT là cần thiết và tất yếu để phát triển trong một thế giới toàn cầu hoá. Đây là một quá trình đan xen của những cơ hội và thách thức. Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ về quá trình này, nắm bắt kỹ các cam kết và lộ trình hội nhập của ta để chuẩn bị vào cuộc một cách chủ động CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG 2.1 Quá trình hội nhập thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam 2.1.2 Quá trình hội nhập thương mại Hoạt động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) luôn luôn là một chủ đề nóng hổi bởi vì trước hết các doanh nghiệp là nền tảng của nền kinh tế quốc gia và tiến trình HNKTQT trực tiếp tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc nắm vững các cam kết hội nhập hiện nay của ta và nhìn thấy trước triển vọng của tiến trình này trong tương lai có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vì nó là cơ sở để các doanh nghiệp định hướng chiến lược phát triển và kế hoạch hoạt động phù hợp với tình hình đan xen giữa những cơ hội và thách thức, đặc biệt là sự cạnh canh ngày càng tăng từ nhiều phía và ngay cả trên thị trường trong nước. Có thể nói HNKTQT của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá trình từng bước tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường và tham gia vào các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có nghĩa là chúng ta từng bước tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có định hướng XHCN, mở cửa và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công… giữa Việt Nam và các nước được dễ dàng, phù hợp với những quy định của các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới mà Việt Nam tham gia. Đồng thời việc đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế-thương mại với các nước (đến nay, nước ta đã ký kết trên 70 hiệp định thương mại song phương, trong đó đáng chú ý nhất và toàn diện nhất là Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ ký năm 2001), Việt Nam đã lần lượt tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế. - Bước phát triển có tính đột phá của quá trình này là việc chúng ta chính thức gia nhập ASEAN ngày 25/7/1995 và tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng lần lượt cùng các nước ASEAN tham gia vào các cơ chế liên kết ASEAN trong các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin… - Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) – khối kinh tế khu vực lớn nhất thế giới, chiếm hơn 80% kim ngạch buôn bán, gần 2/3 đầu tư và hơn 50% viện trợ nước ngoài (ODA) của Việt Nam. - Tháng 12/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập tổ chức Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và năm 1995 đã chính thức xin gia nhập WTO- một tổ chức thương mại toàn cầu với 145 thành viên, hiện kiểm soát trên 90% tổng giá trị giao dịch thương mại của thế giới. Cho đến nay, ta đã tiến hành nhiều bước chuẩn bị theo yêu cầu của WTO, họp 5 phiên với Nhóm Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, hoàn thành giai đoạn diễn giải, minh bạch hoá chế độ thương mại của ta. Chúng ta đã chuyển Ban thư ký WTO bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ và bắt đầu tiến hành giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên WTO. - Từ đầu năm 2002, chúng ta cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán với Trung Quốc về thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. Đầu tháng 11/2002 vừa qua, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế hai bên, trong đó quy định những nguyên tác cơ bản của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ hoàn thành vào năm 2010 đối với Trung quốc và ASEAN-6, năm 2015 đối với ASEAN-4. Bắt đầu từ năm 2003, hai bên sẽ đàm phán cụ thể hoá các nguyên tắc trên thành các quy định để thực hiện Khu vực mậu dịch tự do này. - Tháng 9/2002, tại Brunei, các nước ASEAN và CER (úc và Niudilân) đã ký Tuyên bố chung thiết lập Đối tác kinh tế gần gũi (CEP) giữa hai bên. Các nhà đàm phán của các nước ASEAN và CER sẽ tiếp tục đàm phán cụ thể hoá các cam kết của đối tác kinh tế gần gũi này trong thời gian tới. - Với Nhật, tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật ở Cămpuchia đầu tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN và Nhật đã nhất trí thiết lập Đối tác kinh tế toàn diện, trong đó bao gồm cả một Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật, dự kiến sẽ được thành lập sớm, có thể là trước cả Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. - Với Mỹ, vừa qua tại Hội nghị cấp cao APEC ở Mêhicô (tháng 10/2002), Tổng thống Mỹ đã đưa ra “Sáng kiến vì sự năng động ASEAN” nhằm thắt chặt quan hệ hợp tác giữa Mỹ và ASEAN thông qua việc từng bước ký các hiệp định thương mại tự do song phương với từng nước ASEAN. - Bên cạnh việc tham gia liên kết kinh tế song phương và đa phương như đã nêu trên, trong những năm qua, Việt Nam cũng đồng thời tham gia vào các liên kết kinh tế tiểu vùng như Lưu vực Mêkông mở rộng (GMS), Hành lang Đông Tây (WEC), Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Cămpuchia… Như vậy, HNKTQT của Việt Nam là một tiến trình từng bước từ thấp đến cao diễn ra trên cả phương diện đơn phương, song phương và đa phương, lồng gép các phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… 2.1.2 Quá trình quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam Kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO đầu năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số các văn bản pháp lý mới về dịch vụ phân phối để thực hiện các cam kết WTO, cụ thể là: Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/2/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định cũng đề ra các điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) được cấp giấy phép kinh doanh mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan tại Việt Nam. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định rõ thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh và các thủ tục xin cấp phép liên quan. Quyết định 10/2007/QĐ-BTM ngày 21/5/2007 công bố lộ trình thực hiện các cam kết WTO về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Quyết định này đơn giản chỉ khẳng định các cam kết của Việt Nam về quyền thương mại, dịch vụ phân phối và một số dịch vụ kinh doanh khác như quảng cáo, kiểm tra thương mại. Thông tư 09/2007/TT-BTM ngày 17/7/2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định 23/NĐ-CP. Thông tư khẳng định thương nhân nước ngoài có quyền đầu tư để thực hiện hoạt động liên quan đến mua bán hàng hoá và chỉ rõ mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này. Thông tư nêu rõ các nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đáp ứng các điều kiện quy định tại Nghị định 23/2007/NĐ-CP có quyền đầu tư để thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá theo các hình thức và lộ trình quy định tại Quyết định 10/QĐ-BTM. Thông tư 05/2008/TT-BCT ngày 14/4/2008 sửa đổi và bổ sung Thông tư 09/2007/TT-BTM của Bộ Thương mại. Thông tư này sửa đổi, bổ sung một số Khoản của Thông tư 09 như quyền nhập khẩu hàng hóa, sửa đổi và bổ sung giấy phép lập cơ sở bán lẻ và cơ chế báo cáo. 2.2 Cơ chế chính sách quản lý nhà nước về thương mại của nước ta hiện nay. Sau hơn ba năm nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hơn một năm mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ nói riêng đã và đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Dịch vụ phân phối ở Việt Nam đã có đủ loại các loại hình: bán buôn, bán lẻ, đại lý và nhượng quyền với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, tư nhân và đầu tư nước ngoài (50 tập đoàn và công ty phân phối lớn đã có mặt tại Việt Nam). Hệ thống phân phối hiện đại chiếm 19,4%, tuy còn thấp hơn các nước trong khu vực nhưng chiếm tỷ trọng cao nhất và có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong số các mô hình phân phối ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường phân phối, chính phủ Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh ngành dịch vụ phân phối. Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại mới chỉ chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng. Theo số liệu thống kê, đến hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị so với năm 2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 31 siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu FDI bán lẻ chỉ chiếm 4-5% doanh thu bản lẻ toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... cũng đã có mặt ở nước ta. Nhờ sự phát triển này nên tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam liên tục tăng cao qua các thời kỳ, nếu giai đoạn 1996-2000 tăng 10,75%/năm thì đến giai đoạn 2006-2008 tỷ lệ tăng trưởng là 25%. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2010, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội đã đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Với việc mở cửa hội nhập, với sự phát triển nhanh chóng của thị trường phân phối, bán lẻ, đặc biệt với những chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, nên liên tục trong nhiều năm, Việt Nam được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ (GRDI). Cụ thể, theo A.T. Kearney - hãng tư vấn Mỹ - thì năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm 2008 vươn lên đứng đầu. Có thể nói chưa bao giờ hoạt động phân phối, đặc biệt là hoạt động bán lẻ trên thị trường Việt Nam lại sôi động và phát triển như hiện nay, mở ra nhiều cơ hội mới cho cả doanh nghiệp trong nước, nước ngoài và người tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, việc mở cửa thị trường phân phối cũng sẽ tạo áp lực rất lớn đến các nhà sản xuất (bao gồm cả những hộ nông dân) và nhất là các nhà phân phối trong nước. Đã có nhiều ý kiến cảnh bảo về nguy cơ khu vực phân phối bán lẻ bị lấn át bởi các nhà đầu tư nước ngoài có thể lan rộng sang cả lĩnh vực bán buôn, từ đó gây ảnh hưởng đến sự đảm bảo cân đối ổn định vĩ mô chung của toàn bộ mạng lưới sản xuất của nền kinh tế. Theo phân loại của WTO, ta đã cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối sau khi gia nhập WTO: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ bán buôn, dịch vụ nhượng quyền thương mại. Về hình thức hiện diện, ngay khi gia nhập WTO ta cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được lập liên doanh với đối tác Việt Nam để cung cấp dịch vụ phân phối nhưng tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49%, kể từ ngày 1/1/2008, hạn chế 49% vốn góp sẽ được bãi bỏ. Kể từ ngày 1/1/2009, ta cho phép lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại, từ ngày 11/01/2007, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam hạn chế khả năng mở thêm điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài muốn lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất sẽ được các cơ quan quản lý xem xét nhu cầu kinh tế. Tuy nhiên, theo Thông tư 09/2007/TT-BTM (hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/2/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam) các tiêu chí để xem xét cho phép lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất bao gồm: số lượng các cơ sở bán lẻ đã có tại khu vực địa lý liên quan; sự ổn định của thị trường; mật độ dân cư trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi xin phép đặt cơ sở bán lẻ; sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch của tỉnh, thành phố đó. Về diện mặt hàng, Việt Nam mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau đây: thuốc lá và xì gà; sách, báo, tạp chí, vật phẩm đã ghi hình; kim loại quý và đá quý; dược phẩm; thuốc nổ; dầu thô và dầu đã qua chế biến; gạo, đường mía và đường củ cải. Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được quyền phân phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của biểu thuế quan) của các mặt hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ-BTM của Bộ Thương mại Đối với các sản phẩm mà Việt Nam đã cam kết mở cửa kể từ ngày gia nhập (11 tháng 1 năm 2007), các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài được quyền phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, ngoại trừ xi măng và clinke; lốp (trừ lốp máy bay); giấy; máy kéo; phương tiện cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt thép; thiết bị nghe nhìn; rượu và phân bón. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy. Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam. Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào Việt Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1 (cung cấp qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, đối với phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán các loại hàng hoá sau: Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân; các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì mục đích thương mại; các sản phẩm khác thì việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. 2.3. Các cơ chế chính sách Thương Mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài đã phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế hay chưa? 2.3.1 Những cam kết của Việt Nam khi hội nhập nền kinh tế quốc tế ( chỉ xét trên thị trường có yếu tố nước ngoài). 2.3.1.1 Cam kết chung cho các ngành dịch vụ. - Công ty nước ngoài không được đại diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể ( những ngành như thế là không nhiều). Ngoài ra những công ty nước ngoài được phép đưa cán bộ quản lý vào Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý công ty phải là người Việt Nam . - Việt Nam cho phép các cá nhân tổ chức nước ngoài được mua cổ phần trong các doang nghiệp tại Việt Nam, nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường của ngành đó. Riêng ngành ngân hàng chỉ cho phép tối đa 30% cổ phần . 2.3.1.2 Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí - Việt Nam đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. - Việt Nam giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò và khai thác tài nguyên,. - Tất cả các công ty vào Viêt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2.3.1.3 Dịch vụ viễn thông - Cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng, phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt Nam nắm quyền kiểm soát và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép. 2.3.1.4 - Dịch vụ phân phối - Về thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA vào 1/1/2009 - Ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. - Quan trọng nhất, ta hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. 2.3.1.5 Dịch vụ bảo hiểm Đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập các chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày ra nhập. 2.3.1.6 Dịch vụ ngân hàng Việt Nam đồng ý cho việc thành lập ngân hàng con có 100% vốn đầu tư nước ngoài và chinh nhánh sau 5 năm kể từ ngày ra nhập WTO. 2.3.2 Thực trạng của các cơ chế chính sách của thương mại quản lý phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam . 2.3.2.1 Cơ chế chính sách đối với thị trường phân phối - Các dự án xây dựng các khu đôi thị cho thuên gian hàng không phải áp dụng các quy chế quy định tại cam kết dịch vụ phân phối. Chỉ khi nào chủ đầu tư xây dựng khu siêu thị, cũng đồng thời trực tiếp bán các sản phẩm, hàng hoá tại siêu thị lúc đó mới được coi là thực hiện dịch vụ phân phối và tuân thủ các quy định liên quan cam kết dịch vụ phân phối. - Những khống chế mức sở hữu 30% cổ phần đối với đầu tư nước ngoài được xoá bỏ, trừ các ngành nghề kinh doanh. Nội dung này được xem là những thay đổi lớn nhất trong dự án cải thiện môi trường đầu tư sẽ tạo ra một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam với nhiểu hình thức. Đầu tư gián tiếp sẽ đóng góp một phần đáng kể. Giám đốc công ty tư vấn Mỹ Hoài Anh Peter Nelson cho biết có rất nhiều nhà đầu tư Mỹ châu Âu mong muốn được góp vốn trong các ngành công nghiệp như điện, dầu khí, du lịch … song quy định khống chế hiện nay khiến các doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao công nghệ cho phía Việt Nam. “Không ai muốn bỏ tiền vào công ty mà mmình không được quản lý nó, ít ra cũng phải được tư vấn.” Ông Neslon nói . Như vậy : cho thấy trong cam kết của Việt Nam khi ra nhập kinh tế quốc tế với các ngành kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang có những thay đổi linh hoạt để thích ứng với môi trường đầu tư . 2.3.2.2 Đối với ngành dầu khí Cùng với sự phát triển trong nước những năm qua ngành dầu khí Việt Nam rất chú trọng tìm kiếm, mở rộng đầu tư nước ngoài. Cụ thể ngành dầu khí đã ký 49 thoả thuận hợp tác đầu tư với các nước trên thế giới, trên cơ sở đó đã có 22 hợp đồng tại 13 nước. Cho thấy ngành dầu khí Việt Nam không những thực hiện tốt các cam kết hội nhập mà còn phát huy lợi thế của mình để phát triển. 2.3.2.3 Đối với các ngành dịch vụ viễn thông Từ cơ sở vật chất hiện có của các đơn vị thành viên, ngành đã tích luỹ được lượng vốn nhà nước gần 46000 tỷ đồng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mở rộng hợp tác thương mại và đầu tư nước ngoài. Với chủ trương tăng cường cho hội nhập và phát triển bền vững, ngành bưu chính đã có những bước đột phá là mở cửa thị trường ,chuyển từ độc quyền sang hợp tác cạnh tranh trong nước để chuẩn bị hợp tác cạnh tranh quốc tế . 2.3.2.4 Đối với các ngành bảo hiểm và ngân hàng a. Ngành ngân hàng Đây được xem là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm của xã hội. Từ năm 2006 đã có nhiều biến động đối với các ngân hàng Việt Nam. Những biến động này bao gồm cả những chuyển biến tích cực trong giai đoạn hội nhập, sự tăng lên mạnh mẽ tronng thị trường chứng khoán trong giai đoạn đó. Sự bùng nổ của nhiều ngân hàng mới đầu năm 2008 nhưng sau đó giảm dần do chính sách xiết chặt tín dụng . Việc tăng trưởng tín dụng của một số ngân hàng đã nâng nợ xấu của các ngân hàng đó lên một các rõ rệt đặc biệt trong lĩnh vực cho vay đầu tư với bất động sản. Tuy vậy trong những năm sau đó nhà nước đã thực hiện một số biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát nên tăng trưởng tín dụng đã giảm đi. Như vậy về tín dụng ngân hàng nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết bình ổn, vừa phải thoả mãn các điều kiện trong cam kết thương mại quốc tế, vừa phải phát huy nguồn lực tài chính trong nước với các ngân hàng. b. Thị trường bảo hiểm Việt Nam với hội nhập Doanh nghiệp nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, ngoài ra họ còn được hưởng dịch vụ tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tư vấn đánh giá giải quyết rủi ro và giải quyết bồi thường cho bảo hiểm Việt Nam . Xét ví dụ về các doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam Doanh nghiệp Mỹ không hoạt động tại Việt Nam được cung cấp : Các dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm . Bảo hiểm trong vận tải quốc tế Các dịch vụ tư vấn giải quyết khiếu nại, đánh gía rủi ro. Doanh nghiệp Mỹ hoạt động tại Việt Nam Các công ty cổ phần có vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các loại hình bảo hiểm bắt buộc. Phải tái bảo hiểm bắt buộc 20% nếu có tái bảo hiểm và phải bỏ việc này sau sau 5 năm hiệp định có hiệu lực. Việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng luật kinh doanh bảo hiểm. Thành lập công ty phía Mỹ không quá 50% vốn . Trên đây là những rào cản chính sách của chính phủ đối với các doanh nghiệp Mỹ nói riêng và các doanh nghiệp nước ngoài nói chung, như vậy cho thấy các chính sách của nước ta đối với ngành bảo hiểm có yếu tố nước ngoài đã thực hiện cơ bản các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế . Từ các đánh giá ở các góc độ khác nhau, các lĩnh vực khác nhau đã cho thấy cơ chế chính sách thương mại quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài đã phù hợp một cách linh động với các cam kết khi ra nhập nền kinh tế quốc tế. CHƯƠNG III: Giải pháp Bối cảnh, định hướng hội nhập kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. 3.1.1Bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay: Kinh tế gặp những khó khăn vào quý 1/2010 do một số vấn đề: Tiếp tục chính sách thận trọng để kiểm soát lạm phát, đặc biệt là vấn đề tín dụng khi gặp phải 2 mốc quan trọng là tết dương lịch và nguyên đán. Tăng trưởng trong quý 1 thông thường là quý thấp nhất của năm, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp cũng hoàn toàn tương tự. Thời điểm đầu năm, xuất khẩu kém hơn trong khi nhập khẩu gia tăng để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước, cộng thêm cần phải phân tích cụ thể hơn để thay đổi chính sách phù hợp khác sẽ có dư địa để thực thi. Những dấu hiệu kinh tế Việt Nam: Xuất nhập khẩu và thâm hụt thương mại: Cuối quý 1 , đầu quý 2/2010 có những thay đổi lớn về những chính sáchkinh tế. Lạm phát đã không còn đáng sợ như cuối năm 2009 là nhờ sự phục hồi của đồng USD. Khi đó, các chính sách thúc đẩy tăng trưởng, nới lỏng tín dụng cũng như các biện pháp kích thíchkinh tế vĩ mô. Trong tháng 1/2010 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 4,9 tỷ USD; kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đạt 6,2 tỷ USD. Như vậy, nhập siêu tháng 1/2010 đạt 1,3 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 26,5% kim ngạch xuất khẩu) đã làm gia tăng mối quan ngại cho rằng Việt Nam khó có thể đạt được mục tiêu nhập siêu thấp hơn 20% kim ngạch xuất khẩu và mức tuyệt đối là 12 tỷ USD. Tuy nhiên, với một cách nhìn lạc quan về triển vọng phục hồi của nền kinh tế thế giới thì những tháng tiếp theo chúng ta vẫn kỳ vọng vào sự tăng trưởng mạnh của xuất khẩu. Tập đoàn than và khoáng sản lên kế hoạch xuất khẩu 18 triệu tấn than trong năm 2010. Xuất khẩu gạo năm 2010 cũng được đánh giá là "năm vàng" cho ngành này. Tập đoàn cao su Việt Nam cũng ước tính kim ngạch xuất khẩu cao su đạt 1,5 tỷ USD trong năm 2010, tăng 25% so với năm 2009 (năm 2009 đạt 1,2 tỷ USD). Dệt may cũng đặt kế hoạch xuất khẩu 10,5 tỷ USD trong năm 2010 so với 9,1 tỷ USD của năm 2009; ngành thuỷ sản cũng dự kiến tăng trưởng 10% kim ngạch xuất khẩu trong năm nay... Trong khi đó, những nhu cầu nhập khẩu những hàng hoá thiết yếu như ô tô giảm sút do những ưu đãi về thuế đã kết thúc cùng gói kích cầu tiêu dùng của Chính phủ vào 31/12/2009. Tỷ giá hối đoái Tháng 11/2009, NHNN chính thức áp dụng tỷ giá niêm yết và biên độ tỷ giá mới, với biên độ thu hẹp từ +5% xuống +3%, trong khi đó lại tăng tỷ giá niêm yết USD. Việc thay đổi tỷ giá được đánh giá là bước đi quan trọng nhằm giảm bớt những khó khăn cho hệ thống ngân hàng trong việc huy động USD tài trợ cho nhu cầu xuất khẩu, cũng như thay đổi sự mất cân đối nguồn ngoại tệ giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen. Đồng thời điều này cũng làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng nhập khẩu, từ đó chuyển dịch cán cân thương mại có lợi cho ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Mặt khác, những thay đổi chính sách mang tính chất tức thời đã làm cho các doanh nghiệp có khoản vay bằng đồng ngoại tệ chịu một sức ép rất lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh khi không có đủ thời gian để thực hiện các nghiệp vụ phái sinh cho khoản vay này Năm 2010 thì nguồn thu USD của Việt Nam khá tốt, nguồn vốn FDI giải ngân đạt 10 tỷ USD, nguồn ODA cho năm nay lên mức kỷ lục là 8 tỷ USD, cộng thêm 1 tỷ USD vừa phát hành thành công trái phiếu chính phủ, chưa tính đến nguồn kiều hối, đầu tư gián tiếp, khách du lịch,... Như vậy, tính tổng thể thì cung cầu về ngoại tệ năm 2010 không quá khó khi chưa hết năm với nhưng ước tính nguồn cung xấp xỉ 20 tỷ USD vói mục tiêu là 12 tỷ USD. Tuy nhiên, do dòng vốn vào - ra có tính lệch kỳ nên cũng có khả năng xuất hiện tình trạng thừa/thiếu tạm thời, điều này sẽ làm cho tỷ giá có những dao động nhất định. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam tăng trưởng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cũng có những chính sách để ổn định lạm phát để tránh ảnh hưởng đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội, với mục tiêu của Chính phủ là ổn định để tăng trưởng. Đối với nguồn trong nước, trong tháng 1/2010 thì tăng trưởng tín dụng là 1%, nhưng điều đáng nói là tốc độ tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng chỉ tăng có 0,3%, cho thấy nguồn vốn của dân cư vẫn chưa tìm đến các ngân hàng do chênh lệch suất sinh lợi giữa các cơ hội đầu tư. Tăng giá bán than, điện, việc tăng lương cũng đã ảnh hưởng đến giá cả hàng tiêu dùng trong nước. Làm cho giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng theo. Đối với nguồn bên ngoài thì hoàn toàn phụ thuộc vào mặt bằng giá của nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng, chủ yếu các hàng hoá này được định giá bằng đồng USD, do đó tác động lên CPI. Nâng tỷ giá, về mặt lý thuyết sẽ làm cho hàng nội địa cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu, tuy nhiên thực tế thì có thể sẽ tăng sức ép lên lạm phát do chính hàng trong nước nâng giá lên để tương ứng với hàng nhập khẩu. Những diễn biến tích cực của sức mạnh đồng USD trong thời gian qua cũng sẽ là nhân tố tốt ủng hộ cho những chính sách của Chính phủ trong vấn đề kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng. Từ những phân tích thực tế trên cho ta thấy nền kinh tế Việt Nam hiện nay khá ổn định và đang trên đà phát triển tốt Và có thể thấy, Việt Nam đạt được mức tăng trưởng 6,7% trong năm 2010 tạo bước đệm tốt cho kinh tế năm 2011. 3.1.2 Định hướng hội nhập kinh tế trong giai đoạn sắp tới. Nền kinh tế thế giới hiện nay đang vận động trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa và diễn ra rất sâu sắc và nhanh chóng, ranh giới giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước đã bị thu hẹp. VN đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đang mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế kể từ ngày gia nhập và các loại rào cản thương mại được loại bỏ dần và mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2011 là 7,5%. Đối với công nghiệp: trong chiến lược phát triển của ngành công nghiệpVN, định hướng đến 2020 thì công nghiệp hỗ trợ cho các ngành sản xuất ô tô, xe máy sẽ là 1 trong 5 lĩnh vực chính được ưu tiên phát triển trong ngành công nghiệp hỗ trợ, nhằm nội địa hóa sản phẩm. Đây là một chủ trương quan trọng được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển, nhưng muốn đạt được mục tiêu này thì đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của các DN và sự chỉ đạo, hỗ trợ, tạo điều kiện của các bộ ngành và chính phủ, bởi năng lực các DN sản xuất ô tô, đặc biệt là các DN sản xuất, lắp ráp xe máy trong nước là rất khiêm tốn và kém hiệu quả. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, thỏa mãn được nhu cầu của thị trường trong nước trước khi các loại rào cản thương mại được loại bỏ. Và thiết nghĩ, Nhà nước cũng cần tạo điều kiện hơn nữa để các DN sản xuất, lắp ráp xe máy trong nước phát triển thông qua các cơ chế chính sách, sử dụng hợp lý các loại rào cản thương mại để bảo vệ thị trường trong nước, nhất là trong giai đoạn thị trường nhạy cảm như hiện nay Nhà nước nên nghiên cứu xem xét nâng thuế nhập khẩu đối với các loại xe máy nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN sản xuất, lắp ráp xe máy VN có điều kiện chuyển giao công nghệ, củng cố và phát triển thương hiệu... Đồng thời hạn chế được nhập siêu, tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước. Dẫu biết rằng, việc giảm thiểu bảo hộ của chính phủ phải gắn liền với việc tăng khả năng tự bảo vệ của DN trong nước. Đối với nông nghiệp: thì tăng cường quan hệ mật thiết với các nước trên thế giới và ngaỳ càng mở rộng các mối quan hệ. Tăng cường xuất khẩu các loại hàng hoá, các sản phẩm nông nghiệp ra các nước. Ngoài ra chúng ta cũng cần phát triển nông nghiệp trong nước. Khó khăn lớn nhất của nông nghiệp Việt Nam chính là sản xuất vẫn theo thói quen tiểu nông, chưa đồng đều về phẩm cấp, yếu kém về công nghệ sau thu hoạch. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá chậm chạp, nên tiến độ đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp cũng chậm. Vì thế, năng suất thấp, giá thành cao, làm cho sức cạnh tranh của nông sản kém, không gắn sản xuất với tiêu dùng, cho nên vẫn có tình trạng cung thừa hoặc bế tắc đầu ra. Chính vì thế đầu tư cao vào công nghệ sinh học để ứng dụng vào khâu giống, khâu kỹ thụât canh tác, các khâu sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu. Giao lưu và trao đổi khoa học kỹ thuật, thành tựu công nghệ của thế giới với các nước trên thế giới. Ví dụ như tăng cường hợp tác song phương Việt Nam –Indonesia về hải sản để hai bên tiến hành trao đổi hợp tác cụ thể và tạo thuận lợi cho hoạt động đánh bắt trên biển của ngư dân hai nước, cũng như việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt động khai thác trên biển. Tăng cường hợp tác khu vực ASEAN và ASEAN+3 trong lĩnh vực nông, lâm thuỷ sản đưa ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến các lĩnh vực: an ninh lương thực, ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản, xây dựng các tiêu chuẩn khu vực, áp dụng công nghệ mới phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm tăng vị thế và khả năng cạnh tranh của nông sản ASEAN trên thị trường khu vực và quốc tế, và hướng tới một cộng đồng ASEAN phát triển năng động và bền vững. Đối với dịch vụ: Mặc dù khác nhau về cơ cấu sản xuất và việc làm, các nền kinh tế hiện đại, dù là phát triển hay đang phát triển, đều có một đặc điểm chung là tỷ trọng của dịch vụ ngày càng tăng, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nên chúng ta ngày càng đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cả trong nước và cả ngoài nước. Không những hội nhập với các nước trong khu vực ASEAN mà còn mở rộng ra các nứơc trên toàn thế giới. Các dịch vụ về du lịch: mở rộng thông tin quảng bá để thu hút khách du lịch nước ngoài đến thăm Việt Nam để thu hút sự đầu tư vào kinh tế cũng như phát triển về du lịch. Các dịch vụ về giao thông vận tải: phát triển về giao thông đường biển, đường không và đường bộ để vận chuyển một cách nhanh chóng và thuận tiện giảm bớt chi phí. Các dịch vụ về tài chính-ngân hàng: mở các dịch vụ thanh toán ra nước ngoài hoặc ngược lại, phát triển rộng rãi hệ thống các ngân hàng trên thế giới. Các ngành dịch vụ về bưu chính, viễn thông, truyền hình: như dịch vụ truyền hình, internet…. Vậy nhà nước ta đang có chủ trương hội nhập phát triển kinh tế. Giải pháp hoàn thiện để hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở VN phù hợp vói cam kết hội nhập kinh tế quốc tế 3.2.1 Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật về việc quản lý các hoạt động thương mại quản lý dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành luật liên quan tới lĩnh vực thương mại dịch vụ, các khía cạnh về dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài phù hợp với luật lệ quốc tế và các cam kết đã ký. Có các chính sách mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại phải có lộ trình phù hợp với cam kết gia nhập WTO. Xoá bỏ những quy định chồng chéo, bất hợp lý trong hệ thống chính sách và pháp luật gây cản trở thương mại. Hoàn thiện các chính sách về thương mại theo hướng minh bạch hóa, rõ ràng và có thể dự đoán, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam một cách thuận lợi và hiệu quả. 3.2.2 Đẩy mạnh cải cách hành chính và đơn giản hoá các loại thủ tục trong thương mại. - Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại vừa tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, cần tiếp tục cải cách hơn nữa thủ tục hành chính trong thương mại nói chung và trong các dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài nói riêng theo hướng công khai, minh bạch, xoá bỏ mọi phiền phức cho cả về phía các doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng, phù hợp với quy định chính sách và pháp luật. Điều này cũng giúp cho các cơ quan quản lý của nhà nước dễ dàng hơn trong việc quản lý, kiểm soát các hoạt động của dịch vụ phân phối. Ngoài ra các cơ quan quản lý cần tăng cường áp dụng các phương tiện kỹ thuật tiên tiến và điện tử trong các hoạt động quản lý của ngành thương mại và ngành dịch vụ phân phối cũng như nâng cao trình độ nghiệp vụ và quản lý của cán bộ công chức, thay đổi các quy định theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, không chồng chéo bất hợp lý. 3.2.3. Đảm bảo về mặt cơ chế quản lý để thị trường các dịch vụ phân phối vận hành thường xuyên, thông suốt và ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Sắp xếp lại bộ máy quản lý và tăng cường sức mạnh của hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về thương mại ở các cấp. Phối hợp các chính sách trong nước và nước ngoài trong quản lý nhà nước về thương mại. Cần tăng cường hơn nữa việc phân cấp quản lý nhà nước về thương mại cho chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm giảm bớt sự điều hành trực tiếp và tập trung nhưng thiếu hiệu quả của cấp trên, đồng thời tăng quyền chủ động, tích cực sáng tạo của cấp dưới trong việc đưa ra các quyết định chiến lược về định hướng mục tiêu và giải pháp phát triển dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài ở địa phương. Đặc biệt là cho phép các địa phương được thiết lập các quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại dich vụ lâu dài với các địa phương của nước bạn. 3.2.4 Sắp xếp lại, bồi dưỡng và đào tạo kịp thời nhân sự bộ máy tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước Các ngành từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế. Chú trọng hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực dịch vụ phân phối có vốn đầu tư nước ngoài. Quan tâm đổi mới cả về tổ chức, nhân sự và phương pháp quản lý nhằm đảm bảo khả năng thích nghi với môi trường luôn thay đổi, tăng cường sức mạnh và hiệu lực quản lý của nhà nước đối với thương mại. Khắc phục tình trạng chia cắt, thiếu phối hợp trong công tác hoạch định, triển khai thực hiện các quyết định của nhà nước cũng như kiểm tra kiểm soát hoạt động thương mại của các bộ phận trong hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về thương mại. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế mở, các hoạt động thương mại dịch vụ không còn bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã được mở rộng dựa trên cơ sở các hiệp định, các cam kết song phương và đa phương. Do vậy hợp tác trong kinh tế và quản lý phải được thể hiện ngay trong sự phối hợp công tác hoạch định, thực thi và kiểm tra thực hiện chính sách thương mại giữa các nước nhằm đảm bảo sự an toàn an ninh kinh tế quốc gia, sự ổn định chính trị và xã hội, là điều kiện cho sự phát triển bền vững. 3.2.5 Sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý thương mại Đồng thời nhà nước kết hợp hài hoà, đúng đắn các phương pháp kinh tế , hành chính và giáo dục, tuyên truyền động viên để nâng cao hiệu quả công tác quản lý dịch vụ phân phối có vốn đầu tư nước ngoài. KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHon thi7879n c417 ch7871 chnh sch th432417ng m7841i quamp784.doc
Tài liệu liên quan