Bước sang thời kỳ đổi mới, các DNNN phải đối mặt trực tiếp với sự biến động của thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, do đó đòi hỏi các DNNN phải sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng thêm sức cạnh tranh của mình. Có thể nói, vốn là chìa khóa quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh không còn là một vấn đề mới mẻ nhưng luôn được đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Các nhà lãnh đạo có thể đã nắm vững lý luận khoa học về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các bộ phận tham mưu có thể đã rất nhạy cảm với kết quả cũng như khả năng phân tích tình hình vốn để có thể có được các giải pháp nhằm đạt được các chỉ số tài chính hấp dẫn. Tuy nhiên, thực tế lại luôn chứng minh sự đa dạng vốn có của nó, do vậy, việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, ở bất kỳ một DNNN nào suy cho cùng cũng là một công việc rất khó khăn và phức tạp, đặc biệt trong tình hình kinh tế hiện nay.
33 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoàn thiện việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động.
Ta cũng cần phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì phải có tiền, nhưng có tiền thì chưa hằn được gọi là vốn. Vốn được hiểu theo nghĩa rộng và khái quát hơn. Tiền được coi là vốn phải thoả mãn những điều kiện sau:
- Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, nghĩa là phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hóa có thực.
- Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung của tiền phải đạt một mức độ tối thiểu nào đó để có thể đầu tư cho một dự án kinh doanh nào đó dù là nhỏ nhất.
- Khi đã đủ về lượng, tiền phải được vận động với mục đích tạo ra lợi nhuận. Cách vận động và phương thức vận động của tiền tuỳ thuộc vào từng phương thức đầu tư sinh lợi.
1.2. Phân loại vốn.
Vốn trong doanh nghiệp được phân chia thành nhiều loại riêng biệt, tuỳ theo từng căn cứ phân loại.
1.2.1. Căn cứ vào nguồn hình thành.
1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, DNNN thì có chủ sở hữu là Nhà nuớc. Doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối, định đoạt. Khi doanh nghiệp mới được thành lập, vốn chủ sở hữu do các thành viên đóng góp và hình thành nên vốn điều lệ. Khi doanh nghiệp đang hoạt động, ngoài vốn điều lệ còn có một số nguồn vốn khác cùng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính...
1.2.1.2. Các khoản nợ phải trả.
Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế. Đó là số tiền vốn mà doanh nghiệp đi vay ( ngắn hạn và dài hạn), vốn liên doanh, tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua, các khoản phải thanh toán cho cán bộ công nhân viên, phải nộp ngân sách...
1.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn.
1.2.2.1. Nguồn vốn thường xuyên
Đây là nguồn vốn từ một năm trở lên, bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Nguồn vốn này có tính chất ổn định, doanh nghiệp thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Nguồn vốn tạm thời.
Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp thường sử dụng để đáp ứng tạm thời, bồi thường những phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn, vốn liên doanh, tín dụng thương mại.
Với cách phân loại này, doanh nghiệp có thể lập các kế hoạch tài chính, xây dựng một cơ cấu nguồn vốn hợp lý.
1.2.3. Căn cứ vào hình thức chu chuyển.
1.2.3.1. Vốn cố định.
1.2.3.1.1. Khái niệm.
Trong nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình hay vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của mình.
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định nên quy mô của VCĐ nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại, những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ.
Ta có định nghĩa về VCĐ như sau: Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
1.2.3.1.2. Đặc điểm của VCĐ.
Một là: VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh sản phẩm, điều này do đặc điểm của tài sản cố định là sử dụng lâu dài.
Hai là: VCĐ luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
1.2.3.1.3. Cơ cấu vốn cố định.
Việc nghiên cứu cơ cấu VCĐ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý và sử dụng VCĐ. Khi nghiên cứu cơ cấu VCĐ phải nghiên cứu trên hai góc độ là nội dung kế hoạch và tỷ trọng từng loại. Quan trọng nhất là phải xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Cơ cấu VCĐ của doanh nghiệp là một yếu tố động và thay đổi theo không gian và thời gian.
Hiện nay, VCĐ trong doanh nghiệp được biểu hiện bằng hình thái giá trị của các loại tài sản cố định huy động trong sản xuất.
- Nhà xưởng, vật kiến trúc
- Máy móc, thiết bị.
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn.
- Thiết bị, dụng cụ quản lý.
- Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm.
- Các loại tài sản cố định khác.
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của tài sản cố định trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng tài sản cố định và tính toán khấu hao tài sản cố định chính xác.
1.2.3.2. Vốn lưu động.
1.2.3.2.1. Khái niệm.
Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có đối tượng lao động. Lượng tiền ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của VLĐ là tài sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. VLĐ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, qua mỗi chu kỳ, VLĐ chuyển qua nhiều hình thái khác nhau như tiền tệ, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và trở lại hình thái tiền tệ sau khi sản phẩm được tiêu thụ.
1.2.3.2.2. Đặc điểm của vốn lưu động.
Một là: VLĐ chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Hai là: Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Ba là: Trong quá trình vận động, VLĐ biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác và sau đó trở về hình thái ban đầu. Một vòng khép kín là một chu kỳ vận động của VLĐ do đó để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn, cần phải xem xét đến độ dài vận động của VLĐ. Nếu độ dài vận động của VLĐ ngắn thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ cao hơn.
1.2.3.2.3. Cơ cấu vốn của vốn lưu động.
Cơ cấu vốn lưu động phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số VLĐ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khác nhau thì có cơ cấu VLĐ khác nhau. Việc phân tích cơ cấu VLĐ theo các cách thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về những đặc điểm riêng của VLĐ, từ đó tìm ra các biện pháp quản lý thích hợp.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu VLĐ, có thể chia làm ba nhóm chính:
- Các nhân tố về mặt dự trữ vật tư như khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp, khả năng cung cấp của thị trường, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư...
- Các nhân tố về mặt sản xuất như đặc điểm kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý...
- Các nhân tố về mặt thanh toán như phương thức thanh toán, thủ tục thanh toán, việc chấp nhận kỷ luật thanh toán...
* Căn cứ vào quá trình tuần hoàn lưu chuyển, VLĐ chia làm ba loại:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: bao gồm giá trị của vật tư, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động.
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất: bao gồm giá trị của sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, chi phí chờ kết chuyển.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông: bao gồm giá trị của thành phẩm, vốn bằng tiền (kể cả vàng, bạc, đá, quý..), các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản ký cược, ký quỹ ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán.
1.3. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp.
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dù ở quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là tiền đề có sự ra đời, tồn tại và phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong các yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc trang thiết bị, dây truyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ... để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mình. Muốn như vậy, doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn còn là yếu tố quyết định đến viêc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn đầu tư mở rộng sản xuất, tham gia vào thị trường mới, mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường thì trước hết phải có một lượng vốn dồi dào.
Do vốn có vai trò quan trọng của vốn như vậy, các doanh nghiệp cần phải có những biện pháp hữu hiệu sao cho có thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất.
2. Hiệu quả sử dụng vốn.
2.1. Quan điểm về hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Các tài nguyên như khoáng sản, đất đai, rừng, biển... lại là một phạm trù hữu hạn và ngày càng suy giảm về số lượng cũng như chất lượng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng tài nguyên một cách hợp lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp, những nhà đầu tư.
Trong hoạt động của mình, chủ doanh nghiệp thường đặt ra rất nhiều mục tiêu, nhưng mục tiêu cơ bản quyết định hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận và sự ổn định. Muốn đạt được mục tiêu của mình, các doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của mình.
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp của quá trình sử dụng các loại vốn. Đó là sự tối thiểu hoá số vốn cần sử dụng và tối đa hoá số lợi nhuận thu được trong một giới hạn các nguồn lực khác: nhân lực, vật lực, công nghệ...Hiệu quả sử dụng vốn phải được lượng hóa thông qua các hệ thống chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển. Nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất thông qua mối quan hệ tiền tệ
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm.
- Khai thác nguồn lực một cách triệt để.
- Quản lý vốn một cách chặt chẽ, không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn bi thất thoát.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Để có cái nhìn tổng quát ta xem xét lần lượt các yếu tố của môi trường bên ngoài và môi trường bên trong doanh nghiệp.
2.2.1.Các nhân tố chủ quan.
2.2.1.1.Các nhân tố về quản lý.
Một là : Trình độ quản lý của doanh nghiệp. Đây là yếu tố tác động mạnh nhất đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong một môi trường ổn định thì có lẽ đây là yếu tố quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Một bộ máy quản lý tốt với trình độ cao sẽ giúp cho hoạt động doanh nghiệp đạt kết quả cao và ngược lại. Do đó doanh nghiệp cần nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý tài chính.
Hai là : Lựa chọn chiến lược kinh doanh thích hợp. Trong nền kinh tế thị trường, quy mô và tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là do thị trường quyết định. Khả năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ là những nhân tố quyết định đến thành công hay thất bại trong kinh doanh. Vì vậy, việc lựa chọn một chiến lược kinh doanh hợp lý, đúng đắn có ảnh hưởng lớn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các chiến lược kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường, có như vậy, sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra mới có khả năng tiêu thụ được, vốn sẽ được luân chuyển một cách đều đặn, tài sản cố định mới có khả năng phát huy được hết công suất, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao.
Ba là : Lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Một doanh nghiệp khi thành lập phải xác định trước cho mình một loại ngành nghề kinh doanh nhất định. Những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Để lựa chọn được loại hình kinh doanh thích hợp đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu phân tích môi trường, phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mình, đánh giá các đối thủ cạnh tranh cùng ngành... Với những lĩnh vực kinh doanh rủi ro thấp, lợi nhuận cao, ít có doanh nghiệp có khả năng tham gia hoặc lĩnh vực đó được sự bảo hộ của nhà nước, thì hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đó có khả năng cao hơn.Trong quá trình hoạt động, sự năng động sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc lựa chọn sản phẩm, chuyển hướng sản xuất, đổi mới cải tiến sản phẩm cũng có thể làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Nếu doanh nghiệp biết đầu tư vốn vào việc nghiên cứu thiết kế sản phảm mới phù hợp với thị hiếu hoặc là đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh béo bở thì sẽ có khả năng thu lãi lớn.
Bốn là: Bố trí cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp thưòng biến động trong các chu kỳ kinh doanh. Việc bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng được nâng cao bấy nhiêu. Bố trí vốn không phù hợp làm mất cân đối giữa tài sản lưu động và tài sản cố định dẫn đến việc thừa hoặc thiếu một tài sản nào đó và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
2.2.1.2.. Trình độ khoa học công nghệ và đội ngũ lao động trong doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ và đội ngũ lao động là những yếu tố quyết định đến sản phẩm của doanh nghiệp nó tạo ra sản phẩm và những tính năng, đặc điểm của sản phẩm. Có thể nói những yếu tố này quyết định kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Công nghệ hiện đại đội ngũ lao động có tay nghề cao thì sẽ làm việc với năng suất cao chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ và doanh nghiệp có khả năng thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên để có được dây chuyền thết bị hiện đại thì doanh nghiệp phải đầu tư vốn lớn. Do đó doanh nghiệp phải tính toán lựa chọn công nghệ phù hợp với chi phí hợp lý để làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Trong điều kiện cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ để tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình.
2.2.2.Các nhân tố khách quan.
2.2.2.1.Cơ chế quản lý và các chính sách của Nhà nước.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và khả năng của mình. Nhà nước tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh theo những ngành nghề mà doanh nghiệp đã lựa chọn và hướng các hoạt động đó theo chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chỉ một thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý và chính sách của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, ví dụ như: việc quy định trích khấu hao, tỷ lệ trích lập các quỹ, các văn bản chính sách về thuế suất...Nói chung, việc thay đổi cơ chế và chính sách của Nhà nước có thể gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Song, nếu doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi và thích nghi thì sẽ đứng vững trên thị trường.
2.2.2.2.Các yếu tố của thị trường.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng những cơ hội thách thức trên thị trường sẽ tác động lớn đến sự thành bại của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ít có đối thủ cạnh tranh hoặc có ưu thế vượt trội so với đối thủ cạnh tranh thì khả năng thu lợi nhuận lớn của doanh nghiệp đó là lớn. Điều này thể hiện rất rõ trong các doanh nghiệp hoạt động trong ngành độc quyền của Nhà nước. Ngược lại với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ít có cơ hội phát triển và gặp sự cạnh tranh gay gắt của đối thủ cạnh tranh thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó sẽ thấp. Môi trường cạnh tranh không chỉ tác động đến hiệu quả của doanh nghiệp trong hiện tại mà còn trong tương lai. Bởi vì nếu doanh nghiệp có được thắng lợi ban đầu trong cuộc cạnh tranh thì sẽ tạo được ưu thế về vốn, về uy tín, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh trong tương lai.
2.3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
2.3.1. Nhóm các chỉ tiêu phán ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
2.3.1.1.Hệ số sinh lời tài sản (ROA).
Hệ số sinh lời tài sản.
(ROA)
=
Lợi nhuận sau thuế.
Tổng tài sản.
Hệ số này cho biết một đồng tài sản doanh nghiệp sử dụng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số này càng cao thì việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp càng hiệu quả. hợp lý.
2.3.1.2.Hệ số sinh lời vồn cổ phần (ROE).
Hệ số sinh lợi vốn cổ phần.
(ROE)
=
Lợi nhuận sau thuế.
Vốn chủ sở hữu.
ROE là thước đo tốt nhất về năng lực của một công ty trong việc tối đa hóa lợi nhuận từ mỗi đồng vốn đầu tư. Công ty đạt được ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh càng mạnh, do đó, ROE sẽ giúp nhà đầu tư đánh giá các công ty trong cùng ngành nghề để ra quyết định lựa chọn đầu tư.
Có thể nói, bên cạnh các chỉ số tài chính khác thì ROE là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Đây cũng là chỉ số đáng tin cậy về khả năng sinh lời của công ty trong tương lai.
2.3.2. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
2.3.2.1.Vòng quay hàng tồn kho.
Vòng quay hàng
tồn kho.
=
Giá vốn hàng bán.
Hàng tồn kho bình quân.
Số vòng quay hàng tồn kho càng lớn thì tốc độ luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh. Sự luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể giảm bớt vốn dự trữ nhưng vẫn đảm bảo vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn và ngược lại sự luân chuyển vốn chậm thì doanh nghiệp sẽ mất nhiều vốn dự trữ hơn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
2.3.2.2.Số vòng quay của vốn lưu động.
Số vòng quay của VLĐ
=
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ số này cho biết số vòng quay của VLĐ trong một kỳ sản xuất kinh doanh. Số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại.
2.3.3. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.3.3.1.Hệ số thanh toán ngắn hạn.
Hệ số thanh toán
ngắn hạn.
=
Tài sản lưu động.
Nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán ngắn hạn cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động để đảm bảo cho một đồng nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán ngắn hạn càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng được tin tưởng và ngược lại tỷ lệ thanh toán càng thấp thì khả năng thanh toán khó mà tin tưởng được. Hệ số này thông thường được chấp nhận ở mức xấp xỉ là 2.0
2.3.3.2.Hệ số thanh toán nhanh.
Hệ số thanh toán
nhanh.
=
Tiền mặt + khoản phải thu.
Nợ ngắn hạn.
Hệ số này cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng vốn bằng tiền và các khoản phải thu để thanh toán ngay cho một đồng nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán nhanh càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thông thường, hệ số thanh toán nhanh được chấp nhận ở mức xấp xỉ là 1.0
2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vào giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có mục tiêu ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh doanh thấp.
Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác ngày càng trở nên gay gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp .
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu qủa giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo …
Nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm … doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn là cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, nâng cao đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu qủa thì doanh nghiệp có thể mở rộng qui mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
II. THỰC TRẠNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DNNN Ở NƯỚC TA.
1.Thực trạng về vốn trong các DNNN ở nước ta hiện nay.
Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó các DNNN là lực lượng kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế quốc dân. DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Trong những năm gần đây, quy mô vốn ở các DNNN đang ngày càng được mở rộng.
Bảng 1: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các DNNN.
Đơn vị: tỷ đồng.
2002
2003
2004
2005
2006
DNNN
858.560
932.942
1.128.831
1.333.935
1.575.959
TW
734.004
798.163
968.795
1.161.581
1.388.768
ĐP
124.556
134.779
160.036
172.354
187.190
( trích biểu 69: vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp. trang 146, niên giám thống kê 2007)
Có thể thấy rằng, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các DNNN tăng lên qua từng năm. Năm 2002, vốn bình quân là 858.560 tỷ đồng, đến năm 2006, số vốn bình quân đã đạt tới 1.575.959 tỷ đồng. Trong đó, vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các DNNN ở cấp Trung ương chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với cấp địa phương. Xét trong năm 2006, vốn ở các DNNN ở cấp Trung ương là 1.388.768 tỷ đồng, chiếm tới 45,75% tổng số vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả nước.
DNNN có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, chính vì vậy, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các DNNN cũng giữ một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh bình quân của cả nước. Năm 2000, số vốn này chiếm 67,13%, nhưng đến năm 2006, số vốn này chỉ chiếm 51,92%. Tỷ trọng này tuy có xu hướng giảm qua từng năm, nhưng vẫn có thể thấy rằng, lượng vốn bình quân trong các DNNN vẫn giữ một vai trò quan trọng.
Bảng 2: Số DNNN đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2006 phân theo quy mô vốn.
( trích biểu 81: số doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2006 phân theo quy mô vốn và loại hình doanh nghiệp, trang 185, niên giám thống kê 2007)
Lượng vốn phân bổ cho các DNNN tương đối nhỏ bé và không đồng đều, có 31 doanh nghiệp mà quy mô vốn chưa đạt tới 0,5 tỷ đồng. Các DNNN ở Việt Nam hiện nay chủ yếu có quy mô vốn ở mức vừa, từ 10 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng, chiếm khoảng 60,95% tổng số DNNN. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại khá nhiều doanh nghiệp có quy mô vốn tương đối nhỏ, số doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng là 375 doanh nghiệp, chiếm khoảng 10% tổng số DNNN tại thời điểm cuối năm 2006. Tại thời điểm năm 1999, số lượng DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,45%. Như vậy, chỉ trong vòng 7 năm, quy mô vốn của các DNNN đã tăng lên nhanh chóng, số lượng doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ ngày càng giảm. Trong khi đó, số lượng DNNN có quy mô vốn lớn đang có xu hướng gia tăng. Tại thời điểm năm 1999, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm tới 20,89%, nhưng đến năm 2006, con số này đã lên tới xấp xỉ 80%. Có thể đi đến kết luận rằng, quy mô vốn của các DNNN ở nước ta hiện nay có xu hướng gia tăng, nâng cao rõ rệt trình độ tích tụ và tập trung điều này là hoàn phù hợp với vai trò của DNNN trong quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hoá đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
2.Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN ở nước ta hiện nay.
Trước thời kỳ đổi mới, DNNN tồn tại dưới hình thức các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng lưới thống nhất trên khắp địa bàn cả nước. từ trung ương đến cơ sở. Trong thời kỳ này, vốn của các xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát, giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của các xí nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh. Từ năm 1986 đến nay, nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sụ điều tiết của Nhà nước, các DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây, vốn trở thành vấn đề sống còn của các doanh nghiệp và việc sử dụng vốn có hiệu quả tất yếu sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Nhìn chung, từ sau khi đổi mới đến nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đã tăng lên.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN có xu hướng tăng lên, điều này còn có thể nhận thấy qua một số chỉ tiêu về doanh thu thuần, đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước, đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của các DNNN.
Đơn vị: tỷ đồng.
2003
2004
2005
2006
2007
(sơ bộ).
Tổng số
613.443
715.307
839.211
974.266
1.144.015
DNNN
239.736
279.704
322.241
364.250
416.794
(trích biểu 29: tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế, trang 74, niên giám thống kê 2007)
Từ bảng số liệu có thể kết luận rằng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đang ngày càng tăng lên. Tổng sản phẩm trong nước mà DNNN đóng góp tăng lên gần gấp đôi trong vòng năm năm, từ 239.736 tỷ đồng (2003) lên đến 416.794 tỷ (2007). Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế này lại giảm, từ 39,08% (2003) xuống còn 36,43% (2007). Điều này cho thấy các thành phần kinh tế khác đang hoạt động có hiệu quả và có xu hướng lấn át khu vực kinh tế Nhà nước.
Xét về chỉ tiêu doanh thu thuần, do các doanh nghiệp ngày càng hoạt động có hiệu quả nên doanh thu thuần cũng tăng lên nhanh chóng qua các năm.
Bảng 4: Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của DNNN.
Đơn vị: tỷ đồng.
2003
2004
2005
2006
DNNN
666.022
708.898
838.380
961.461
Trung ương
504.577
533.072
663.378
771.765
Địa phương
161.445
175.826
175.002
189.693
( trích biểu 75, doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp, trang 160, niên giám thống kê 2007)
Doanh thu thuần của các doanh nghiệp chỉ trong vòng bốn năm đã tăng gần gấp rưỡi, từ 666.022 tỷ (2003) lên đến 961.461 tỷ (2006). Cũng từ bảng số liệu ta có thể thấy rằng, các DNNN ở trung ương hoạt động có hiệu quả hơn các doanh nghiệp ở địa phương. Điều này có thể lý giải là do quy mô vốn, trình độ khoa hoc, trình độ quản lý, trình độ lao động... ở trung ương cao hơn ở địa phương. Từ đây có thể nhận thấy sự phát triển chưa thực sự đồng đều giữa các DNNN.
Ngân sách nhà nước cũng được gia tăng nhờ khoản thu từ các DNNN do các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn trước.Năm 2003, Nhà nước chỉ thu được từ các DNNN là 78.687 tỷ đồng thì đến năm 2006, con số này đã lên tới 145.504 tỷ, tăng gần gấp đôi chỉ trong vòng bốn năm. Tuy nhiên, cũng do các thành phần kinh tế khác đang hoạt động rất hiệu quả nên mặc dù mức nộp ngân sách có tăng nhưng trong cơ cấu thu ngân sách, tỷ trọng đóng góp của các DNNN lại có xu hướng giảm. Tỷ trọng này giảm từ 18,88% (2003) xuống còn 16,58% (2006), mặc dù cũng có một số biến động trong các năm.
Nhìn chung, trong những năm gần đây, các DNNN sử dụng vốn tương đối có hiệu quả, điều này kéo theo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng theo xu hướng tăng dần lên. Bên cạnh đó, dù đạt được một số kết quả nhất định, song các DNNN vẫn gặp phải những khó khăn cần phải khắc phục.
3.Những hạn chế trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Một là: Quy mô DNNN vẫn chưa lớn, còn nhiều doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi phối. Không ít tỉnh, thành phố chưa kiên quyết trong cổ phần hoá, còn để nhiều DNNN hoạt động kinh doanh; một số nơi chưa sắp xếp thu gọn đầu mối các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thủy nông. Số lượng doanh nghiệp tham gia nhiệm vụ cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích còn nhiều, đặc biệt là khối an ninh, quốc phòng. Nhiều đơn vị tỷ trọng cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thấp, tỷ trọng hoạt động sản xuất, kinh doanh lớn nhưng vẫn tiếp tục duy trì DNNN. Việc sắp xếp các nông, lâm trường còn chậm và lúng túng.
Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều DNNN năng suất lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Hai là: Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN còn quá cao, một số công ty có số nợ phải trả gấp năm lần vốn nhà nước tại công ty, có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn, dẫn đến độ rủi ro cao, khả năng thanh toán nợ thấp.
Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.
Ba là: Cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập từ quyền tự chủ tuyển chọn nhân sự, điều hành doanh nghiệp, đến tài chính, giá cả, tiền lương... Tổ chức quản lý trong DNNN chuyển biến còn chậm. Nhiều DNNN và doanh nghiệp cổ phần hóa chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị công ty một phần do Nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong các doanh nghiệp cổ phần hoá. Một số tổng công ty nhà nước chưa phát huy được vai trò chi phối trong ngành, lĩnh vực hoạt động. Một số công ty hoạt động còn kém hiệu quả. Ở nhiều tổng công ty giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc chưa có sự thống nhất trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Bốn là: Hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng có xu hướng tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Các DNNN được sự hỗ trợ rất nhiều từ phía Nhà nước. Trong khi ngân sách luôn thiếu hụt thì Nhà nước vẫn phải giành một tỷ lệ đáng kể để hỗ trợ cho một số DNNN. Từ năm 1996 đến nay, Nhà nước miễn giảm 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088,5 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Thực tế, số nộp vào ngân sách của các DNNN này còn ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ trợ. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN tuy tăng nhưng chưa thực sự cao, các DNNN vẫn tạo một gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
4. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN.
Thứ nhất: hầu hết các DNNN khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới, vẫn còn giữ những cơ chế quản lý cũ, lạc hậu, chậm thay đổi so với sự biến động của thị trường. Các DNNN chưa thực sự năng động và thích ứng nhanh với thời cuộc, một số còn dựa dẫm, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Cơ chế quản lý tài chính còn quá cứng nhắc, sửa đổi, chắp vá một cách bị động, thiếu quan điểm hệ thống. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc các doanh nghiệp có trình độ quản lý yếu, kém hay lạc hậu như thụ động trong việc lựa chọn chiến lược kinh doanh, lĩnh vực đầu tư làm cho hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
Thứ hai: Trình độ khoa học công nghệ của các DNNN rất lạc hậu, năng lực cạnh tranh kém. Hầu hết các DNNN được trang bị máy móc,thiết bị từ nhiều nước khác nhau và thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Theo kết quả khảo sát của bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tại nhiều DNNN thuộc 7 ngành thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 – 50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Thiết bị cũ kỹ, lạc hậu đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng, giá cả và hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm được tạo ra. Điều này cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN hiện nay chưa cao.
Thứ ba: Cơ chế quản lý của Nhà nước hiện nay chưa đồng bộ, còn có sự chồng chéo giữa các ban, ngành. Mặc dù, Nhà nước đã thay đổi cơ chế quản lý các DNNN theo hướng tích cực như: xóa bỏ bao cấp; khuyến khích tự hạch toán lỗ lãi; sát nhập, giải thể các DNNN làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả nhưng các DNNN hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn về mặt pháp lý. Nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp và đôi lúc là không cần thiết đã làm cản trở hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG CÁC DNNN.
1. Một số giải pháp tổng quát.
Một là: Trong xu thế toàn cầu hoá, doanh nghiệp có nhu cầu rất lớn về công nghệ mới, hiện đại và về vốn đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh. DNNN thường không đủ khả năng để giải quyết những nhu cầu này, từ đó phải thực hiện liên doanh, liên kết, tham gia góp vốn với các doanh nghiệp khác, tiến hành hợp nhất, sát nhập dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhờ đó có thể thu hút được các nguồn lực như: tài lực, vật lực, nhân lực..., tận dụng được công nghệ, học hỏi được trình độ quản lý, sản xuất...
Hai là: Tiếp tục sắp xếp lại DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Cần tiếp tục đẩy nhanh việc chuyển đổi một số DNNN không thiết yếu hay hoạt động không hiệu quả sang hình thức kinh tế khác như: doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp liên doanh, mô hình công ty mẹ - công ty con... Đặc biệt là cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, nhất là các tổng công ty nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có cổ phần hoá thì vồn mới được quản lý chặt chẽ hơn.
Ba là: Đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hoá, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với các chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung, dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế.
Bốn là: Nhà nước cần kiên quyết xoá bỏ những bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ, cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư cấp vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Từ thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm,còn chồng chéo, hiệu quả hoạt động của các DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí vẫn chưa được khắc phục.
Năm là: Trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn, phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội khác nên việc viện trợ cho các DNNN cũng rất hạn hẹp. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là doanh nghiệp nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn quay vòng và ngược lại. Vì vậy, các doanh nghiệp phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, không nên quá ỷ lại vào Nhà nước, tận dung mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiểu nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn chung.
2. Các giải pháp cụ thể nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thường là các công cụ quản lý, các phương pháp, biện pháp tập trung vào các lĩnh vực như nguồn vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ thuật , công nghệ, lao động và các lợi thế khác của doanh nghiệp nhằm sử dụng một cách tiết kiệm nhất các nguồn tiềm năng đó mà đem lại được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
2.1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm.
Nền tảng căn bản cho sự tồn tại của doanh nghiệp, sự cạnh tranh với doanh nghiệp khác, cho sử dụng vốn có hiệu quả là doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm và được người tiêu thụ chấp nhận sản phẩm đó. Do vậy hoàn toàn bình thường khi thấy rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất cái gì, bao nhiêu, tiêu thụ ở đâu, với giá nào để huy động được mọi nguồn lực vào hoạt động, có được nhiều thu nhập. Khẳng định như thế có nghĩa là việc lựa chọn phương án kinh doanh như thế nào, phương án sản phẩm ra sao sẽ có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như việc quản lý và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.
Biết được vai trò quan trọng như vậy thì phương án kinh doanh, phương án sản phẩm phải được xây dựng như thế nào? Đáp số của bài toán đã chỉ rõ sản phẩm làm ra phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường, được thị trường chấp nhận. Do vậy các phương án kinh doanh, phương án sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn, suy cho cùng, phải thể hiện được ý chí đó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá bán sản phẩm . Làm tốt được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng tốt phương pháp Marketing.
Sự phân tích trên chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa rằng không chỉ lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm tốt (với tư cách là biểu hiện của marketing) đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn mà sự tác động ngược trở lại cũng trở lên có ý nghĩa.
2.2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần huy động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô hay đầu tư chiều sâu. Như đã biết, các nguồn huy động thì có rất nhiều, việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nếu nhu cầu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, phần còn lại có thể vay tín dụng, vay ngân hàng thu hút vốn liên doanh, liên kết... Nếu nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo quy định nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lại có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác. Việc đi vay đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự cân nhắc, lựa chọn và đặc biệt là có một quan điểm rõ ràng trong chính sách nguồn tài trợ của doanh nghiệp, bởi vì việc phải chịu lãi từ các khoản vay có thể gây trở ngại cho phát huy hiệu quả đồng vốn. Ngược lại, đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho vay thì cần phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm bảo liên doanh có hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn chưa trả hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán.
2.3.Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh.
Nhu cầu thị trường tồn tại khách quan, luôn luôn biến động và phát triển Xét một cách toàn diện, quy mô, trình độ của quá trình sản xuất là do thị trường quy định. Để đáp ứng được những yêu cầu khách quan của thị trường, một mặt đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho quá trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp; mặt khác cũng đòi hỏi doanh nghiệp đảm bảo các yếu tố mang tính tĩnh đó vận động phù hợp với sự biến động, phát triển liên tục của thị trường. Kết quả tốt của việc điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh là hạn chế tối đa tình trạng ngừng làm việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được do chất lượng không đảm bảo, gây lãng phí, làm giảm tốc độ chu chuyển của vốn. Để đạt được các mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất.
Đối với quản lý tài sản cố định, vốn cố định: đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống các biện pháp.
Một là: Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định: các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, giảm thời gian tác nghiệp, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ, đảm bảo nghiêm ngặt chế độ bảo dưỡng máy móc thiết bị, áp dụng chế độ khuyến khích và trách nhiệm đối với quản trị và sử dụng tài sản cố định. Đồng thời, doanh nghiệp cần tổ chức tốt quá trình sản xuất theo nguyên tắc cân đối nhịp nhàng, liên tục; chú trọng đổi mới trang thiết bị, phương pháp công nghệ sản xuất.
Hai là: Doanh nghiệp phải chủ động sử dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh để hạn chế tổn thất VCĐ do các nguyên nhân khách quan như: mua bảo hiểm tài sản, lập quỹ dự phòng tài chínhk trích trước chi phí dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính..
Ba là: Bảo toàn VCĐ về mặt hiện vật. Bảo toàn VCĐ về mặt hiện vật không phải chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính ban đầu của tài sản cố định mà quan trọng hơn là duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, không làm mất mát tài sản cố định, thực hiện đúng cơ chế sử dụng, bảo dưỡng nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của tài sản cố định, không để tài sản cố định hư hỏng trước thời gian quy định.
Ngoài ra, các DNNN cần thực hiện tốt quy chế giao vốn và trách nhiêm bảo toàn VCĐ đối với các doanh nghiệp. Đây là một biện pháp cần thiết để tạo căn cứ pháp lý ràng buộc trách nhiệm quản lý vốn giữa các cơ quan nhà nước đại diện cho quyền sở hữu và trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Đối với quản lý vốn lưu động thì nguyên tắc chung là phải sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Để quán triệt nguyên lý đó doanh nghiệp nên tăng cường các biện pháp quản lý.
Một là: Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng VLĐ. Thông qua một số chỉ tiêu phân tích tài chính cơ bản như: vòng quay VLĐ, số ngày của một vòng quay vốn, sức sinh lợi của VLĐ...Trên cơ sở đó biết được tình hình sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp, phát hiện được những vướng mắc, những bất cập từ đó đề ra những biện pháp sửa đổi kịp thời, những biên pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ thích hợp.
Hai là: Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động.
Ba là: Quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm.
Bốn là: Tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất và các quy trình về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế đến mức tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách bằng các hình thức kích thích vật chất thông qua tiền lương, thưởng , kích thích tinh thần.
Năm là: Tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm nhằm tiêu thụ nhanh, số lượng nhiều.
Sáu là: Xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với các khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường, chú ý đến thanh toán, tránh giảm các khoản nợ đến hạn.
Bảy là: Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận.
2.4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh.
Mặc dù tính ưu việt của sản phẩm phần nào bị xoá nhoà bởi sự bùng nổ của khoa học, công nghệ. Nhưng ở một nơi nào đấy, với tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một giai đoạn nào đó, doanh nghiệp vẫn có thể phát huy được những lợi thế về sản phẩm đưa lại. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại nói chung là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, đồng thời có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm vật tư , hạ giá thành sản phẩm. Chính vì vậy, trong điều kiện công nghệ ở đa số các doanh nghiệp của nước ta hiện nay rất lạc hậu, các doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư đổi mới TSCĐ cũ, lạc hậu bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cả về chất lượng, kiểu dáng và giá bán. Đạt được quá trình này có thể làm cho tỉ trọng vốn cố định trên tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, tổng chi phí khấu hao cũng như chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành đơn vị sản phẩm tăng lên, nhưng đồng thời các chi phí khác về vật liệu, lương công nhân sản xuất... giảm đáng kể. Kết quả cuối cùng là sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm chất lượng cao, tăng lợi nhuận thu được và tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh .
2.5. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế.
Qua số liệu kế toán như các báo tài chính, bảng tổng kết tài sản, kết quả kinh doanh , chi phí sản xuất theo yếu tố, bản giải trình về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh... doanh nghiệp có thể thường xuyên nắm được số vốn hiện có cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm trong kỳ, mức độ bảo đảm vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán,... nhờ đó doanh nghiệp nắm chắc tình hình tài chính. Tuy nhiên số liệu kế toán, tự nó chưa thể chỉ ra những biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mà đòi hỏi phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế , trong đó chú ý đến phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân yếu kém để có biện pháp khắc phục, thành tích để có biện pháp phát huy.
Tóm lại, các giải pháp tập trung đi sâu vào một số yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Hơn thế nữa, hệ thống kinh doanh là một hệ thống biến đổi, do vậy để các giải pháp phát huy ưu thế của mình cần phải có kế hoạch cụ thể, tiến hành thường xuyên và có hệ thống.
KẾT LUẬN
Bước sang thời kỳ đổi mới, các DNNN phải đối mặt trực tiếp với sự biến động của thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, do đó đòi hỏi các DNNN phải sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng thêm sức cạnh tranh của mình. Có thể nói, vốn là chìa khóa quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh không còn là một vấn đề mới mẻ nhưng luôn được đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Các nhà lãnh đạo có thể đã nắm vững lý luận khoa học về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các bộ phận tham mưu có thể đã rất nhạy cảm với kết quả cũng như khả năng phân tích tình hình vốn để có thể có được các giải pháp nhằm đạt được các chỉ số tài chính hấp dẫn. Tuy nhiên, thực tế lại luôn chứng minh sự đa dạng vốn có của nó, do vậy, việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, ở bất kỳ một DNNN nào suy cho cùng cũng là một công việc rất khó khăn và phức tạp, đặc biệt trong tình hình kinh tế hiện nay.
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT.
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
DN
Doanh nghiệp
TW
Trung Ương
ĐP
Địa phương
VLĐ
Vốn lưu động
VCĐ
Vốn cố định
TSCĐ
Tài sản cố định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS. TS Đoàn Thị Thu Hà – PGS. TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền: Khoa học quản lý II – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, 2002.
PGS. TS Mai Văn Bưu (CB): Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, 2001.
Ngưyễn Thị Thanh Hà: Vai trò của khu vực DNNN trong nền kinh tế nhiểu thành phần - Nhà xuất bản khoa học xã hội 1997.
Th.s Vũ Quang Kết – TS Nguyễn Văn Tấn: Quản trị tài chính – Nhà xuất bản Thống kê, 2007.
PGS. TS Lưu Thị Hương – PGS. TS Vũ Duy Hảo: Quản trị tài chính doanh nghiệp – Nhà xuất bản Tài chính, 2007.
PGS. TS Lê Văn Tâm – PGS. TS Ngô Kim Thanh: Quản trị doanh nghiệp – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, 2008.
TS. Vũ Thị Bích Quỳnh: Lý thuyết quản trị tài chính – Nhà xuất bản Thống kê, 2008.
Tổng cục Thống kê: Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2005, 2006, 2007 – Nhà xuất bản Thống kê, 2008.
Tổng cục Thống kê: Niên giám thông kê năm 2007 – Nhà xuất bản Thống kê, 2007.
Tạp chí kinh tế và phát triển số 38/2000.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21306.doc