Rõ ràng trong bối cảnh đất nước vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cơ sở pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trường mở cửa đã, đang hình thành và từng bước hoàn thiện thì các thành phần kinh tế tham gia thị trường ngày càng nhiều, các doanh nghiệp cũng đa dạng, phức tạp. Việc tăng cường quản lý điều hành nền kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đang là vấn đề nổi lên và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Sự ra đời và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước xuất phát từ yêu cầu khách quan này, là công cụ của Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công. Như một tất yếu lịch sử, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời đã phản ánh rõ sự chuyển biến mang tính cải cách sâu sắc nền hành chính quốc gia, khi Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam sử dụng một cách rộng rãi và có hiệu lực các công cụ quản lý và kiểm soát vĩ mô đối với những hoạt động kinh tế- tài chính thị trường. Đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, việc tăng cường hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra kiểm soát, đặc biệt là tăng cường vai trò và vị trí của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong thực hiện kiểm tra tài chính công sẽ hết sức quan trọng và cần thiết. Những quan đIúm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra nói chung và công tác kiểm tra tài chính công nói riêng thực sự bổ ích cả về lý luận và thực tiễn, nhất là với cơ quan không có tổ chức tiền thân như Kiểm toán Nhà nước, là cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tăng cường sức chiến đấu của Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đưa đất nước ta vững vàng bước vào Thiên niên kỷ mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, dân chủ”.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoạt động Kiểm toán Nhà nước với quản lý tài chính vĩ mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rung đại, Kiểm toán Nhà nước đã xuất hiện để đối soát tài sản của vua chúa. Qua quá trình phát triển cho đến nay Kiểm toán Nhà nước ở các nước phát triển đều thực hiện chức năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng.
Đặc trưng của kinh tế thị trường là nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh và cạnh tranh dưới sự quản lý can thiệp của Nhà nước theo định hướng phát triển quốc gia. Trong những năm gần đây, sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã bộc lộ mặt trái của nó, đòi hỏi chúng ta phải có những nguyên tắc, hình thức và phương pháp quản lý nền kinh tế phù hợp. Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, quản lý và hạn chế những mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường vốn phức tạp nhằm tăng cường sự kiểm soát của nhà nước trong việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước và tàI sản quốc gia, Nhà nước cần có những cơ quan chức năng đảm nhận những công việc xem xét, đánh giá, xác nhận số liệu kế toán, báo cáo quyết toán và việc chấp hành các chính sách, chế độ tàI chính kế toán ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế, đoàn thể, xã hội… từ đó có các biện pháp sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính kế toán cần thiết, do đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 tạo lập cơ sở pháp lý cho Kiểm toán Nhà nước ra đời, có tác dụng đặc biệt trong việc giữ gìn kỉ cương pháp luật, xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật về các vụ việc vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế tài chính. Việc ra đời Kiểm toán Nhà nước là tất yếu, là sản phẩm của quá trình đổi mới.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước.
1.2.1. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán Nhà nước có chức năng chủ yếu là thực hiện kiểm toán ngân sách nhà nước, kiểm toán các nghiệp vụ bảo vệ, quản lý sử dụng tài sản của nhà nước.
Với lịch sử phát triển hàng trăm năm trên thế giới, Kiểm toán Nhà nước được khẳng định như một bộ phặn không thể thiếu được của hệ thống quyền lực nhà nước hiện đại. Sự ra đời của Kiểm toán Nhà nước xuất phát từ yêu cầu của kiểm tra kiểm soát chi tiêu công quỹ quốc gia, đảm bảo sử dụng hợp lý, đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả của các nguồn lực tài chính của các cơ quan công quyền. Trên thực tế, Kiểm toán Nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của NSNN. Đồng thời, Kiểm toán Nhà nước còn thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá và góp phần nâng cao tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả trong các tổ chức công quyền, các đơn vị có sử dụng vốn và kinh phí của nhà nước. Như vậy, Kiểm toán Nhà nước còn được coi là công cụ kiểm tra tài chính công cao nhất, đảm bảo tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong quá trình quản lý, sử dụng NSNN và công quỹ quốc gia; giữ vững trật tự kỉ cương trong quản lý kinh tế- tài chính, góp phần đấu tranh chống gian lận và tham nhũng.
Kiểm toán Nhà nước ở nước ta giúp Thủ tướng chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tàI liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước, và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng NSNN. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước khi trình Hội đồng nhân dân và Tổng quyết toán NSNN hàng năm của Chính phủ trước khi trình Quốc hội.
1.2.2. Nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước
Trong một nhà nước pháp quyền hiện đại, hoạt động của cơ quan kiểm toán với tư cách là một cơ quan kiểm tra phảI thực hiện 4 nhiệm vụ quan trọng sau:
a. Kiểm toán Nhà nước cần phải báo cáo và tư vấn cho quốc hội trong các quyết định của Quốc hội, không những ở chừng mực Quốc hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà cả trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình với tư cách là cơ quan ban hành luật ngân sách và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
b. Kiểm toán Nhà nước cần phải báo cáo và tư vấn cho Chính phủ, cụ thể là không những cho cấp quản lý hành chính nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ của mình mà còn cả cho các cấp lãnh đạo trong công tác lãnh đạo cơ quan hành chính Nhà nước, cũng như về tác động hành chính của các biện pháp đề ra.
c. Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng phòng ngừa răn đe đối với bộ máy hành chính nhà nước chống lại việc sử dụng phung phí và lạm dụng các phương tiện tài chính nhà nước.
d. Kiểm toán Nhà nước thông báo cho công luận về việc sử dụng cac phương tiện tài chính nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
Hoàn thành những chức năng này là biểu thị cho sự hoạt động thành công của một cơ quan Kiểm toán Nhà nước với cương vị là cơ quan kiểm tra trong một nhà nước pháp quyền.
1.3. Đặc điểm hoạt động của Kiểm toán nhà nước
Lĩnh vực kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là thực hiện kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính. Việc thực hiện Kiểm toán Nhà nước được thực hiện với tất cả các doanh nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước và tiến hành kiểm toán không thu phí. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì việc thực hiện kiểm toán nay hoàn toàn bắt buộc và được tiến hành định kỳ .
Nhìn chung, cơ quan Kiểm toán Nhà nước của hầu hết các nước trên thế giới được đặt ở vị trí độc lập với cơ quan hành pháp. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm toán Nhà nước chỉ tuân thủ pháp luật và được pháp luật bảo vệ để tránh khỏi sự chi phối và tác động của các can thiệp từ bên ngoàI. Khi cơ quan Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ hoặc Tổng thống thì ít nhiều có sự hạn chế tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện chức năng của nó, vì người kiểm tra và người bị kiểm soát của một chủ thể .
ở Việt Nam, kiểm toán là một lĩnh vực mới, một công cụ quản lý mới được sử dụng và nó đã khẳng định tính hiệu quả trong thực tiễn, góp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh và ngăn ngừa tham nhũng, gian lận và lãng phí tiền bạc, tài sản nhà nước. Tuy nhiên, Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam được thành lập và hoạt động dựa trên Nghị định 70/CP có tính pháp lý chưa cao, chưa có tính ổn định và quyền hạn còn hạn chế chưa phù hợp với tính chất đặc biệt của hoạt động Kiểm toán Nhà nước .
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước được quy định tại Nghị định 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 : cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do chính phủ thành lập để giúp chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do NSNN cấp. Ngoài các chức năng trên, Luật NSNN năm 1996 có những quy định thuộc về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước tại các điều 69, 70, 73, 74. Đồng thời Luật Ngân hàng năm 1997 có quy định trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán Nhà nước: “ Hàng năm phải báo cáo quyết toán Ngân hàng Nhà nước”.
Xét về mặt lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy rằng, cơ quan Kiểm toán Nhà nước có đầy đủ tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất mà vị trí và tác dụng của nó không thể có một cơ quan chuyên môn nào thay thế được; đồng thời, nó đã được xã hội thừa nhận và tôn trọng. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước là một cơ quan công quyền, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng có hiệu lực, hiệu quả các nguồn tài sản và tài chính công, giúp Quốc hội thực hiện chức năng kiểm soát và giám sát quá trình điều hành và quản lý NSNN trên các nội dung cơ bản sau:
+ Thông qua hoạt động kiểm toán có tính chuyên môn cao và độc lập khách quan, cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm tra và xác nhận tính hợp pháp, hợp lệ trong các hoạt động kinh tế- tài chính, làm lành mạnh hóa các quan hệ đó ngay trong khi kiểm toán bắt buộc với các đơn vị thụ hưởng NSNN; việc thực hiện kiểm tra thu chi NSNN và thực hiện kế hoạch NSNN được xem là một nhiệm vụ chủ yếu, xuyên suốt toàn bộ hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước .
Về nguyên tắc ở đâu có sử dụng tài chính công thì ở đó có sự kiểm tra của Kiểm toán Nhà nước, do đó ngoài việc kiểm toán các cơ quan, đơn vị sự nghiệp thì Kiểm toán Nhà nước còn thực hiện kiểm toán với Báo cáo tài chính các doanh nghiệp, thực hiện việc kiểm toán báo cáo quyết toán các công trình đầu tư XDCB…Tính hiệu lực và hiệu quả hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước được xác định cho từng cuộc kiểm toán cụ thể: Kiểm toán báo cáo tài chính, Kiểm toán tuân thủ, và kiểm toán hoạt động. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh chức năng kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá toàn diện tính hiệu lực và hiệu quả, tính kinh tế và tiết kiệm các nguồn lực tài chính công. Đó cũng chính là những thông tin dữ liệu đảm bảo độ tin cậy cao mà quốc hội cần nắm bắt để kịp thời điều chỉnh hệ thống pháp luật chuyên ngành kinh tế- tài chính sao cho sát hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, thực trạng của nền kinh tế và xu hướng phát triển tất yếu của nó.
+ Thông qua hoạt động kiểm toán “ cơ quan Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
+ Thông qua hoạt động kiểm toán, cơ quan kiểm toán độc lập có quyền đưa ra các kiến nghị mang tính chất tư vấn; đồng thời, dựa trên những kiến nghị đó, các cơ quan quyền lực Nhà nước sẽ nghiên cứu, xem xét để đưa ra các quyết định nhằm đảm bảo tính hiệu lực cao.
Với vị trí pháp lý thuộc hệ thống hành pháp của Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng giúp Chính phủ kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn hợp pháp của các số liệu kế toán, báo cáo quyết toán…Đây là vị trí pháp lý tương đối độc lập của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam so với vị trí độc lập của Kiểm toán Nhà nước các nước trên thế giới ( được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật). Thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công của nhà nước, Kiểm toán Nhà nước thực sự có vai trò quan trọng, góp phần giúp Chính phủ và Quốc hội thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối vĩ mô nền kinh tế.
Như vậy chức năng và vai trò quan trọng của Kiểm toán Nhà nước xác định vị thế pháp lý của Kiểm toán Nhà nước, khẳng định tính hiệu lực và hiệu quả của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho Kiểm toán Nhà nước thực hiện đầy đủ chức năng và nhịêm vụ, địa vị pháp lý của mình, cần được xác định một văn bản pháp lý cao hơn giống như các nước hiện nay.
Kiểm toán Nhà nước được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo Pháp lệnh Kiểm toán Nhà nước. Ban soạn thảo đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo và xin ý kiến các Bộ, ngành cho dự thảo Pháp lệnh. Những vấn đề đặt ra gồm có:
- Xác định vị trí pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
- Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước
- Xác định tổ chức bộ máy hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, quy trình kiểm toán,
- Xác định phạm vi và đối tượng kiểm toán
- Xác định trách nhiệm của các đơn vị được kiểm toán.
1.4. Yêu cầu quản lý tài chính vĩ mô
1.4.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở các nguồn lực đã xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này gồm nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều pha (giai đoạn): ở giai đoạn định cần có những dự báo về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế hoạch…Sau khi các chương trình, kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để điều hòa các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động…
Trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì vấn đề quản lý tài chính vĩ mô là vô cùng quan trọng. Hoạt động tài chính bao gồm nhiều mối quan hệ về đầu tư, về kinh doanh, về phân phối, về thanh toán. Tính phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi mối quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tàI chính với lợi ích con người. Các cơ quan nhà nước cần có thông tin trung thực điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung của mình với mọi thành phần kinh tế, với mọi hoạt động xã hội. Đặc biệt, các khoản thu chi của NSNN, các khoản vốn liếng và kinh phí nhà nước đầu tư cho các đơn vị kinh doanh hoặc sự nghiệp và tài sản, tài nguyên quốc gia… càng cần được giám sát chặt chẽ theo hướng đúng pháp luật và có hiệu quả. Chính vì thế cần phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước phối hợp với các cơ quan chức năng khác.
1.4.2. Quan điểm của Nhà nước về quản lý tài chính vĩ mô.
Quản lý nhà nước về tài chính là quản lý vĩ mô.Quản lý về tài chính được thể hiện như sau:
Nhà nước định hướng cho hoạt động và phát triển tài chính thông qua hoạch định chính sách tài chính quốc gia và chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhà nước sử dụng pháp luật và các chính sách tài chính đối với từng khâu của hệ thống tài chính như: luật ngân sách, luật ngân hàng, luật tổ chức tín dụng, các luật thuế, luật kế toán, luật kế toán, luật kiểm toán…và các chính sách về ngân sách, về đầu tư vốn, về chi tiêu dùng, về tích lũy, tiết kiệm, tiền lương, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm xã hội, trợ cấp, chuyển giao tài chính, chính sách vay nợ, trả nợ , hỗ trợ các nỗ lực đổi mới công nghệ, phát triển ngành nghề, phát triển các khu vực và các chương trình quốc gia…
Nhà nước tổ chức bộ máy tài chính, chỉ đạo, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan tài chính, ngân hàng, giữa các cơ quan tài chính các cấp, ngân hàng các cấp, giữa cơ quan tài chính ngân hàngvới các bộ , ngành, các địa phương.
Nhà nước thực hiện sự phân phối và điều tiết các nguồn lực tài chính của đất nước thông qua chính sách tích tụ, tập trung vốn, chính sách thuế, chính sách tiết kiệm, chính sách vay nợ, phân bổ các nguồn tài chínhvào đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, cấp tín dụng, phân phối lại dưới hình thức chuyển giao tài chính và hình thành các loại dự trữ thông qua các kế hoạch- Nhà nước thực hiện sự kiểm tra tài chính: nhà nước sử dụng các cơ quan quyền lực nhà nước ở các cấp, hệ thống cơ quan tài chính , ngân hàng, cơ quan thanh tra và cơ quan kiểm toán nhà nước, kiểm toán nội bộ các cơ quan, doanh nghiệp.
Qua đó thấy rõ kiểm tra tài chính là một bộ phận cấu thành của hoạt động quản lý nhà nước, hơn thế nữa, kiểm tra tài chính không phải là khâu cuối cùng mà là khâu gắn liền hữu cơ với tất cả các hoạt động quản lý quá trình hoạt động tài chính.
1.5. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính vĩ mô.
Kiểm toán là một bộ phận của hệ thống kiểm tra tài chính, nhưng là bộ phận quan trọng nhất trong kiểm tra tài chính, bởi vì nó là hoạt động kiểm tra tài chính độc lập và chuyên trách, từ bên ngoài không liên quan đến các hoạt động tài chính của bất cứ cơ quan doanh nghiệp nào; đồng thời với các hình thức khác nhau, nó là một sự kiểm tra toàn diện cả về mặt tuân thủ của các định hướng, chính sách, pháp luật quyết định của nhà nước và cả về mặt hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính.
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên trách về kiểm toán nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy của cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan Kiểm toán ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều được coi là cơ quan cao nhất, hoạt động thường xuyên trong hệ thống các cơ quan, tổ chức kiểm tra tài chính Nhà nước và trong luật kiểm toán của cá nước đó đều gọi cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan Kiểm toán tối cao hay cơ quan có thẩm quyền cao nhất về kiểm tra tài chính công.
Là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, là cơ quan Kiểm toán tối cao của một nước, hoạt động của cơ quan này có vai trò quan trọng trong quản lý tài chính vĩ mô của nhà nước, góp phần không nhỏ vào hoạt động quản lý tài chính công là minh bạch tài chính_ một yêu cầu bắt buộc đối với hoạt động của cơ quan điều hành, hoạt động lập pháp và công chúng. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời ngày 11/7/1994 giúp thủ tướng chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp; đánh gía sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được kiểm toán. Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu,báo cáo quyết toán ngân sách của các địa phương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân , tổng quyết toán NSNN trước khi trình ra Quốc hội, báo cáo quyết toán của các cơ quan, đơn vị tiêu thụ hưởng ngân sách, các chương trình , dự án , công trình đầu tư của nhà nước, các DNNN cần phải được Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán và xác nhận.
Trong quá trình hoạt động, vai trò của Kiểm toán Nhà nước không ngừng được củng cố và tăng cường, đáp ứng một phần yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn trong việc quản lý, điều hành đất nước, thể hịên trên một số mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, góp phần kiểm tra việc chấp hành về nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, thực hiện nộp đúng, nộp đủ theo quy định của pháp luật. Kiểm toán Nhà nước góp phần làm lành mạnh hóa tình hình ngân sách Nhà nước, tạo môi trường tài chính vĩ mô ổn định có lợi cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Trong những năm qua cùng với quá trình cải cách bước hai hệ thống thuế, công tác tổ chức và quản lý thu NSNN có nhiều chuyển biến rõ rệt ; Thông qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho NSNN nhiều tỷ đồng, số thu NSNN qua từng năm đều tăng, đáp ứng phần lớn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Tuy nhiên tình trạng thất thu thuế, ẩn lậu thuế ở nhiều đơn vị, địa phương khá phổ biến, việc chấp hành các quy định của Nhà nước về nộp NSNN không nghiêm. Điều này không chỉ làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước mà còn làm vẩn đục môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Qua kết quả kiểm toán ở các đơn vị, địa phương cho thấy, một số DNNN đã được kiểm toán thì số thuế phải nộp NSNN đều tăng so với số báo cáo nộp thuế của đơn vị; còn ở khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh thì tình trạng thất thu về hộ và doanh thu tính thuế khá lớn, cá biệt có nơi thất thu tới 30- 40%… Với sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và kiến nghị truy thu cho NSNN hàng ngàn tỷ đồng
Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng NSNN, chống thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
Quốc hội giám sát chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước trong việc thực hiện quyết toán NSNN. Điều này đã được Hiến pháp và luật NS nhà nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới quy định. Trong việc giám sát này, Quốc hội các nước sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước để cung cấp cho mình những thông tin xác thực, khách quan từ kết quả của các cuộc kiểm toán hoặc qua các công việc thẩm định mà cơ quan này đã tiến hành. Quốc hội sử dụng cơ quan Kiểm toán tối cao để cung cấp cho mình những thông tin cần thiết để phán quyết về dự toán NSNN và quyết toán NSNN do Chính phủ trình ra Quốc hội. Kiểm toán Nhà nước phục vụ Quốc hội giám sát NSNN từ khâu dự toán đến việc thực hiện NSNN và các quyết toán NSNN đồng thời tư vấn cho Quốc hội.
+ Đối với dự toán NSNN: Kiểm toán Nhà nước có thể và cần phải giúp Quốc hội trong việc quyết định dự toán NSNN trên hai phương diện:
Giúp quốc hội thẩm định dự toán NSNN và đưa ra các kiến nghị về dự toán NSNN để Quốc hội xem xét.
Làm phản biện theo yêu cầu của Quốc hội về các dự án, chương trình quốc gia, các dự án đầu tư các công trình quy mô lớn. Phải nói rằng, lâu nay việc chuẩn bị các dự án, chương trình quốc gia có nhiều tiến bộ hơn trước, tuy nhiên trên thực tế vẫn chỉ ra là còn nhiều tính toán trong các dự án, chương trình do chưa có căn cứ vững chắc. Do vậy, kinh phí ngân sách bỏ ra lớn, nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao. Từ lâu nay vẫn thiếu đi một người phản biện có khả năng đưa ra những ý kiến và thông tin xác thực hơn, khách quan hơn, từ thực tiễn kiểm toán mang lại để bổ sung và hoàn thiện các dự án, chương trình quốc gia mà quốc hội quyết định.
+ Đối với tình hình thực hiện NSNN: Quốc hội và các đại biểu Quốc hội có chức năng giám sát việc chấp hành NSNN của Chính phủ, các Bộ, UBND các cấp. Việc giám sát chấp hành NSNN là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. Nhưng vấn đề là làm sao khi phát hiện vấn đề có thể giúp chính phủ, các Bộ, UBND khắc phục sớm mà không chờ đến lúc thảo luận, phê chuẩn quyết toán hoặc đến kỳ họp Quốc hội mới nêu ra. Về mặt này, Quốc hội có thể và cần thiết sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước để tiến hành kiểm tra ngay và báo cáo kịp thời cho Quốc hội để Quốc hội ra các quyết định cần thiết: Chấp hành NSNN là quá trình thực hiện các đường lối, chính sách, pháp luật trên tất cả các lĩnh vực và là quá trình huy động và sử dụng vốn nhà nước. Do đó, việc giám sát phải có các thông tin đưa ra và thông tin phản hồi về kết quả giám sát. Có thể có rất nhiều những cơ quan khác nhau đưa ra thông tin nhưng không thể thiếu được thông tin vô tư, khách quan của cơ quan Kiểm toán Nhà nước .
+ Đối với quyết toán NSNN: Quốc hội là cơ quan cao nhất của Nhà nước có quyền phê chuẩn quyết toán NSNN hoặc bác bỏ quyết toán NSNN do Chính phủ trình. Nhưng phê chuẩn, sửa đổi hay bác bỏ đều phải có thông tin xác thực, khách quan làm căn cứ. Một trong những lí do chủ yếu để thiết lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan này phải kiểm toán quyết toán NSNN, cung cấp cho Quốc hội và Chính phủ những thông tin chính xác, khách quan về thu, chi NSNN để Quốc hội phán quyết quyết toán và Chính phủ phải có căn cứ để đưa ra các quyết định về quản lý NSNN.Do đó, Quốc hội hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan Kiểm toán Nhà nước phục vụ mình trong kiểm toán nội dung quyết toán NSNN, báo cáo lên Quốc hội kết quả kiểm toán và đưa ra các kiến nghị về quyết toán NSNN để Quốc hội xem xét.
Trong điều kiện nhu cầu chi ngân sách quá lớn, khả năng đáp ứng những nhu cầu này còn hết sức hạn hẹp thì việc tăng cường quản lý NSNN, hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã được hoạch định. Mặt khác, việc sử dụng NSNN phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục, trình tự ; thực hiện chi đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng định mức theo dự toán được duyệt.
Qua hoạt động của Kiểm toán Nhà nước ngoài việc phát hiện và xuất toán, bồi hoàn NSNN hàng ngàn tỷ đồng do chi sai chế độ, lập quỹ trái phép…đã phát hiện và xử lý những sai phạm về quản lý kinh tế – tài chính góp phần tăng cường kỉ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn và tài sản của nhà nước. Cụ thể như việc bố trí vốn đầu tư xây dựng cơ bản dàn trải, dẫn đến tình trạng thi công kéo dài, phát sinh nhiều khoản chi phí gây lãng phí, thất thoát lớn ; tình trạng làm vượt kế hoạch vốn hàng năm, vượt dự toán, triển khai thực hiện không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đầu tư làm gia tăng tình trạng nợ thanh toán trong xây dựng cơ bản ngày càng lớn ; việc sử dụng NSNN trong xây dựng trụ sở làm việc, mua ô tô con, chi quản lý có nơi vượt tử 3- 4 lần so với dự toán đã được duyệt. Nhiều sai phạm trong việc quản lý chi, điều hành, quyết toán NSNN ; Các vi phạm về chế độ hạch toán vốn, tài sản, kết quả sản xuất kinh doanh và các sai phạm trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản…làm thất thoát tiền của nhà nước cũng khá phổ biến. Nếu tính về hiệu quả kinh tế thì chỉ riêng số phát hiện kiến nghị truy thu về thuế các loại cho NSNN cũng đã gấp vài chục lần chi phí mà nhà nước chi cho hoạt động kiểm toán. Nhưng quan trọng hơn cả là những phát hiện và kiến nghị của đoàn Kiểm toán Nhà nước đã giúp các đơn vị được kiểm toán thấy được những yếu kém, sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, chỉ ra việc quản lý sử dụng các nguồn lực NSNN trong từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực và các yếu tố tiêu cực cản trở tính kinh tế, tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế, đặc biệt là đã uốn nắn giúp đỡ sửa chữa và kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục chúng.
Thứ ba, Kiểm toán Nhà nước còn cung cấp những thông tin, cơ sở dữ liệu để thực hiện việc quyết định và quản lý NSNN sát thực và có hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng NSNN và công quỹ quốc gia trong việc quản lý, điều tiết nền kinh tế là dự toán NSNN phải dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn; phải cụ thể, chi tiết, mang tính chất pháp lý và tính khả thi cao. Trong những năm qua, nhiều chi tiêu thu chi NSNN đối với một số ngành, lĩnh vực, địa phương chưa thật phù hợp, gây khó khăn cho việc thực hiện dự toán NSNN và ảnh hưởng đến tính chủ động, tích cực trong việc quản lý và điều hành NSNN.
Thông qua việc kiểm tra tài chính, Kiểm toán Nhà nước đã chỉ ra những điểm bất hợp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, nhiệm vụ chi NSNN, góp phần tạo lập cơ sở, căn cứ để xây dựng dự toán NSNN cho những năm sau nhằm thu đúng, thu đủ, chống thất thu cho NSNN ; đồng thời tiến hành việc phân bổ NSNN cho các ngành, các lĩnh vực, địa phương một cách hợp lý, thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực tài chính.
Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước đã góp phần đánh giá một cách sát thực tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước, làm căn cứ cho việc cải tiến quản lý doanh nghiệp, điều chỉnh các chính sách kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cùng với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong quá trình kinh doanh, các nhà quản lý doanh nghiệp phần thì bận rộn trong công việc phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường ; phần thì thiếu thông tin về các tác nghiệp tài chính, kế toán nên họ không thể kiểm soát chặt chẽ hàng nghìn, hàng vạn các nghiệp vụ tài chính kế toán phát sinh hàng ngày, hàng giờ tại đơn vị. Song các nhà quản lý doanh nghiệp buộc phải có quyết định hợp lý, kịp thời cho những công việc phát sinh sao cho đạt kết quả mong muốn theo ý chủ quan. Điều đó chỉ có thể thực hiện được thông qua và dựa trên những thông tin do những người có chuyên môn trong lĩnh vực kế toán tài chính cung cấp. Cơ quan kiểm toán , kiểm tra xác nhận tính trung thực, chính xác và hợp pháp của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính là hết sức cần thiết và đáp ứng đúng đòi hỏi nhu cầu của doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán DNNN, xét từng doanh nghiệp là vấn đề tàI chính vĩ mô, nhưng bằng kết quả kiểm toán của nhiều doanh nghiệp dể đánh giá chính xác tình hình tài chính các doanh nghiệp, rút ra những chỗ mạnh, chỗ yếu và những ách trong quản lý tài chính và vận động tài chính để có những căn cứ đưa ra các chính sách, các giải pháp nhằm thúc ép và hỗ trợ, giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn lại là những vấn đề tài chính vĩ mô.
Thứ tư, thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã đề xuất, kiến nghị nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế – tài chính. Những tồn tại trong quản lý kinh tế – tài chính và NSNN ở các cơ quan đơn vị trung ương và địa phương vừa do nguyên nhân chủ quan, vừa do cơ chế, chính sách chưa thật phù hợp với tình hình thực tiễn. Qua hoạt động của mình, nhiều đề xuất, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước như trong việc thiết lập cơ chế quản lý, cấp phát và thanh quyết toán đối với ngân sách địa phương, đối với các khoản hỗ trợ từ ngân sách địa phương cho các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn; trong việc cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các định mức kinh tế – tài chính và định mức chi tiêu NSNN; trong công tác hạch toán kế toán, tăng cường kỉ luật trong quản lý NSNN, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm… Những đề xuất và kiến nghị đó chẳng những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn góp phần đóng góp tích cực trong việc tổ chức thực hiện NSNN và quản lý tài sản của Nhà nước.
Trong các báo cáo của mình , Kiểm toán Nhà nước đều có những kiến nghị của mình đối với đơn vị được kiểm toán và đối với các cơ quan chức năng của nhà nước về những sai phạm trong quản lý kinh tế, vi phạm chính sách chế độ nhà nước và các biện pháp khắc phục, sửa chữa cần thiết. Những vi phạm nghiêm trọng có dấu hiệu tham nhũng được chuyển hồ sơ cho cơ quan điểu tra tiếp tục làm rõ. Kiểm toán Nhà nước còn phát hiện những bất cập, kẽ hở trong chính sách, chế độ của nhà nước để đề nghị sửa đổi cho phù hợp và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách, chế độ tài chính, lập và giao kế hoạch NSNN. Mục đích mà các kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước hướng tới là cải thiện công tác quản lý ngân sách, công quỹ và tài sản quốc gia; đưa ra những giải pháp khắc phục sửa chữa cần thiết mà theo quan điểm của Kiểm toán Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan áp dụng.
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước mang lại tính độc lập, chỉ tuân thủ theo pháp luật. Các hoạt động đó do một đội ngũ các chuyên gia lành nghề thực hiện, các vấn đề được đánh giá, xem xét theo một hệ thống chuẩn mực và tuân thủ một quy trình nghiêm ngặt. Do vậy, các kiến nghị do Kiểm toán Nhà nước đưa ra mang tính xác thực và xây dựng, các biện pháp đưa ra đều mang tính khả thi, có thể áp dụng và tiết kiệm chi phí khi thực hiện.
Qua kiểm tra, hơn 80% các kiến nghị về kinh tế, gần 80% kiến nghị về các giải pháp quản lý kinh tế và các kiến nghị khác của Kiểm toán Nhà nước đã được các đơn vị thực hiện và được đánh giá là có hiệu quả thiết thực. Một số ý kiến, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước với nhà nước về quản lý kinh tế, ngân sách ở tầm vĩ mô dần dần đã được áp dụng.
Từ những vấn đề trên cho thấy vị trí và vai trò của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong kiểm tra tài chính để góp phần quản lý vĩ mô nền tài chính quốc gia.
Phần 2: Thực trạng của hoạt động
Kiểm toán Nhà nước
2.1. Thành tựu đạt được của Kiểm toán Nhà nước
Thực tế và kết quả hoạt động của Kiểm toán Nhà nước từ khi thành lập cho đến nay, thời gian tuy chưa dài, kết quả còn khiêm tốn nhưng đã thể hiện sự nỗ lực và những đóng góp thiết thực của ngành Kiểm toán Nhà nước. Thông qua kết quả của kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước giúp các đơn vị được kiểm toán đánh giá đúng đắn thực trạng tình hình tài chính và những yếu kém sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh; cung cấp cho cơ quan quản lý Nhà nước tình hình quản lý và sử dụng các nguồn lực trong từng lĩnh vực, địa phương và đơn vị và đề xuất các biện pháp cải thiện tình hình. Kiểm toán Nhà nước bước đầu đã cung cấp được một số thông tin dữ liệu tin cậy cho Chính phủ, Quốc hội, phục vụ cho việc phân bổ, điều hành NSNN. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đã góp phần đấu tranh chống nạn tham nhũng, tệ lãng phí, thất thoát công quỹ và tài sản quốc gia, xác lập trật tự kỉ cương trong quản lý kinh tế- tài chính, củng cố lòng tin của nhân dân đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền và cơ quan quản lý Nhà nước.
Kết quả lớn nhất mà Kiểm toán Nhà nước thu được không phảit là hàng ngàn tỉ đồng tiết kiệm được cho NSNN mà đã giúp cho các cơ quan nhà nước biết đến một công cụ kiểm soát tài chính mới rất quan trọng và hình thành ý thức mới trong quản lý, sử dụng NSNN. Thực trạng hoạt động của Kiểm toán Nhà nước cùng với các công cụ tài chính khác, tự các cơ quan, tổ chức nhà nước đã phải chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, củng cố và tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ và công tác kiểm toán nội bộ. Kết quả hoạt động Kiểm toán Nhà nước đã khẳng định vị thế của Kiểm toán Nhà nước trong bộ máy nhà nước, khẳng định sự cần thiết phải củng cố và phát triển cơ quan Kiểm toán Nhà nước như một công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính công không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã ghi rõ: “ Toàn bộ tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHVN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã chỉ rõ: “ Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân …”. Xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN không chỉ là mục tiêu lâu dài mà còn là phương thức và phương pháp rất cơ bản và cấp thiết làm trong sạch bộ máy nhà nước, lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Dân chủ XHCN là dân chủ của đa số, thực hiện quyền lực của nhân dân, trong đó vấn đề mấu chốt là kiểm kê, kiểm soát. Rõ ràng, ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền lực của nhân dân phải được thực hiện bằng kiểm kê, kiểm soát. Do đó Kiểm toán Nhà nước phải thực sự là một cơ quan công quyền sử dụng triệt để tính độc lập, tính khách quan để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng kiểm soát và giám sát quá trình quản lý NSNN.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam lần đầu tiên được thành lập để kiểm tra tài chính công ở Việt Nam nên không khỏi có những hoài nghi cho rằng Kiểm toán Nhà nước liệu có hoạt động hiệu quả không? Rằng hoạt động kiểm toán có trùng lắp, chồng chéo với kiểm tra, thanh tra tàIichính và thanh tra nhà nước hay không? Rằng tổ chức như thế nào để thực hiện được nhiệm vụ… Nhưng được Chính phủ quan tâm, đặc biệt được sự chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ, chỉ sau 2 năm sau khi được thành lập thì những hoài nghi đã dần được giải quyết. Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra với đội ngũ kiểm toán viên còn ít về số lượng và mới mẻ về nghề nghiệp, mà đã tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà nước hàng trăm tỉ đồng. Quan trọng hơn là phát hiện được những sai lầm, vi phạm để chỉnh đốn, uốn nắn, răn đe… Kết quả bước đầu trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đã được các ngành, các cấp, dư luận xã hội chấp nhận và đánh giá khả quan.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đến nay tuy còn non trẻ nhưng thông qua hoạt động của mình đã tự khẳng định mình trong kiểm tra tài chính công và đã chứng minh được tính tất yếu khách quan của Kiểm toán Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới về kinh tế và tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Kiểm toán quốc tế tối cao(INTOSAI) và Hiệp hội Kiểm toán Châu á tối cao(ASOSAI), và đã có mối quan hệ với Kiểm toán Nhà nước của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các bạn bè đều thiện cảm giúp đỡ, trao đồi kinh nghiệm tạo đIũu kiện để Kiểm toán Nhà nước Việt Nam phát triển nhanh.
Do được thành lập cho đến nay chưa được một thời gian dài nên còn nhiều vấn đề nặng nề đang đặt ra đối với Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Khối lượng công việc phải kiểm toán là rất lớn, với trên 20.000 đơn vị dự toán, 61 ngân sách tỉnh và trực thuộc TW, gần 600 ngân sách huyện, quận, gần 10.000 ngân sách xã, 26 ngân sách các Bộ, và 21 các ngân sách cơ quan trực thuộc Chính phủ, các Văn phòng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức xã hội, phải xác định tính đúng đắn của các quyết toán ngân sách nhà nước. Trên 6.100 doanh nghiệp nhà nước, hàng trăm công trình xây dựng cơ bản trọng điểm …phải xem xét báo cáo tài chính. Vấn đề không chỉ số lượng mà quan trọng hơn là từ hoạt động kiểm toán mà thúc đẩy được lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. Sau mỗi lần thực hiện kiểm toán phải góp phần nâng cao chất lượng kế toán trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính công.
Để làm được như thế, cần phải có một bộ máy thống nhất từ TW đến các khu vực trong nước đủ mạnh. Đội ngũ kiểm toán viên không những đủ về số lượng mà còn phải có phẩm chất và trình độ chuyên môn cao. Công tác nghiên cứu khoa học phải được chú trọng. Sự cần thiết phải có một trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ.
ở Việt Nam, nghành kiểm toán nói chung , Kiểm toán Nhà nước nói riêng còn rất mới mẻ mặc dù đã thành lập được 10 năm cho đến nay, do đó nhận thức về kiểm toán còn không ít người lầm lẫn cho rằng kế toán và kiểm toán làm một. Do đó cần phải tăng cường hoạt động của Kiểm toán Nhà nước để mọi người thấy rõ được sự cần thiết của hoạt động kiểm toán.
Có thể đưa ra một ví dụ điển hình về vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính ngành công nghiệp như sau:
Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp và đơn vị HCSN( trường học, viện nghiên cứu) thuộc Bộ công nghiệp đã được Kiểm toán Nhà nước đến kiểm tra việc thực hiện chế độ thu nộp Ngân sách và sử dụng NSNN. Qua đó, Kiểm toán nhà nước đã chỉ rõ những sai sót, khuyết điểm cho các đơn vị được kiểm toán khắc phục. Đồng thời Kiểm toán Nhà nước cũng thấy được những vướng mắc thực tế khi thực hiện các chế độ chính sách tàI chính hiện hành, đã kiến nghị với các cơ quan chức năng có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung kịp thời tạo môi trường thông thoáng cho sản xuất kinh doanh nhằm khơI dậy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp, giúp các đơn vị hành chính sự nghiệp sử dụng ngân sách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả.
Tâm lý chung của các nhà quản lý ở các đơn vị, sau mỗi lần được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán, có kết luận rõ ràng thì họ thấy yên tâm hơn với việc đã làm và sẽ làm, vì họ biết được cái gì sai để sửa, cáo gì đúng để tiếp tục phát huy.
Đảng và nhà nước ta đang yêu cầu mọi người dân, mọi cơ quan, mọi doanh nghiệp đều phải làm và tuân theo pháp luật, và trong những năm gần đây nhiều bộ luật, pháp lệnh và các văn bản pháp quy quan trọng được ban hành nhằm từng bước đồng bộ hoá hệ thống pháp luật trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội. Từ chỗ có luật đến hiểu luật và thực hiện đúng luật là cả một công nghệ cần vận hành đồng bộ, trong đó cơ quan Kiểm toán Nhà nước là một trong những công cụ quan trọng góp phần thực hịên nhiệm vụ này.
Để tăng cường công tác kiểm toán, trước hết phải tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho mọi công dânm cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội, phải thường xuyên đào tạo năng cao nghiệp vụ và giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ kiểm toán, có kế hoạch phối hợp với các ngành hữu quan để công tác kiểm toán được tiến hành thường xuyên, tránh tình trạng trùng lắp, chồng chéo. Nghiên cứu cải tiến phương pháp kiểm toán để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm toán.
Trong giai đoạn hiện nay các doanh nghiệp công nghiệp trong cả nước đang thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả SXKD, triệt để tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, phát huy nội lực góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ to lớn đó, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Kiểm toán Nhà nước với các cơ quan quản lý nhà nước, từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý để hướng dẫn và thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh phát triển lành mạnh góp phần thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
2.2. Những điểm hạn chế của Kiểm toán Nhà nước.
Với địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm toán Nhà nước như hiện nay, đồng thời là cơ quan còn rất non trẻ, nhưng đã đạt được những thành tựu như trên là rất đáng trân trọng, Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trong hoạt động kiểm toán như đã nêu trên, công tác kiểm toán của cơ quan Kiểm toán Nhà nước cũng bộc lộ một số mặt hạn chế, biểu hiện cụ thể ở những mặt cơ bản sau:
a. Địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm toán Nhà nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao:
Hiện nay, so với đòi hỏi công tác kiểm toán, đối chiếu với vị trí pháp lý của các cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới, chúng ta thấy rằng; Kiểm toán Nhà nước của chúng ta mặc dù được coi là công cụ quản lý tàI chính quan trọng của cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng đến nay, Kiểm toán Nhà nước vẫn chưa có vai trò và địa vị pháp lý tương xứng và cần thiết để đảm bảo tính độc lập khách quan trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc thu chi NSNN. Chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp luật ở tầm cỡ Luật hoặc Pháp lệnh để làm căn cứ thực thi nhiệm vụ có hiệu lực cao. Tại kỳ họp khoá 9, Quốc hội khoá IX, nhiều đại biểu đã đề cập tới vấn đề này và đề nghị: “…nên đặt cơ quan Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Quốc hội như một số nước trên thế giới…”.
Với chức năng, nhiệm vụ đã được giao và hướng bổ sung thêm là rất nặng song quyền quyết định, tổ chức bộ máy và biên chế của Kiểm toán Nhà nước vẫn còn chưa phù hợp. Hiện nay, mặc dù Kiểm toán Nhà nước mới chỉ thực hiện được một phần thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, nhưng kết quả đạt được vẫn còn hạn chế, số lượng công việc được kiểm toán còn ít, chất lượng kiểm toán còn hạn chế, chưa có tính thuyết phục cao với các cơ quan, tổ chức được kiểm toán và quần chúng nhân dân : ví dụ năm 1998, Kiểm toán Nhà nước đã hoàn thành kế hoạch và thông báo chính thức kết quả kiểm toán của các đơn vị ghi trong kế hoạch kiểm toán, bảo đảm đúng tiến độ, quy trình và chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, mặc dù hoàn thành kế hoạch, trên thực tế mới kiểm toán được quyết toán thu, chi NSNN trên địa bàn 19/61 tỉnh, thành phố; những nội dung chi tiêu lớn của 2 Bộ, nghành ( Bộ văn hoá và Tổng cục địa chính ); báo cáo quyết toán 2 dự án xây dựng cơ bản và chương trình quốc gia ( dự án cải tạo đường 5 và chương trình giáo dục đào tạo của Bộ GD và ĐT ); báo cáo quyết toán tài chính của 17 DNNN; báo cáo quyết toán tài chính của 9 đơn vị thuộc khối quốc phòng, an ninh và khối Đảng.
Về kiểm toán thu chi, và quyết toán NSNN năm 1999 đến tháng 9 năm 2000, Kiểm toán Nhà nước mới hoàn thành 28 cuộc kiểm toán, đạt 50% kế hoạch. Kết quả mới kiểm toán được Báo cáo quyết toán NSNN năm 1999 của 2 Bộ, ngành; 3/61 tỉnh, thành phố và 6/500 quận, huyện; 8 DNNN, và 7 đơn vị thuộc bộ quốc phòng, bộ công an và các doanh nghiệp kinh tế Đảng; báo cáo quyết toán của 2 công trình đầu tư xây dựng cơ bản và thẩm định báo cao quyết toán NSNN của 3 bộ, ngành và 9 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Như vậy, khối lượng công việc làm được so với yêu cầu phảI làm thì còn quá thấp.
Những hạn chế trên một phần do công tác kiểm toán mới đưa vào hoạt động ở nước ta, kinh nghiệm còn chưa nhiều, trình độ cán bộ còn chưa tương xứng với đòi hỏi của công việc, phần lớn vừa làm, vừa học tập, tích luỹ kinh nghiệm…Nhưng còn nguyên nhân khác nữa là do tính pháp lý liên quan đến lĩnh vực kiểm toán nói chung, và địa vị pháp lý của cơ quan kiểm toán nói riêng còn nhiều bất cập; việc bố trí NSNN cho hoạt động của Kiểm toán Nhà nước chưa thoả đáng, chưa đảm bảo đủ đIều kiện cần thiết cho cơ quan này hoạt động.
b. Về cơ cấu tổ chức:
Điều 4 của Nghị định 70/CP có quy định các đối tượng kiểm toán: Kiểm toán NSNN, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản, và các chương trình, dự án vay nợ, viện trợ của Chính phủ, Kiểm toán doanh nghiệp, Kiểm toán chương trình đặc biệt… Hệ thống Kiểm toán Nhà nước được chia thành: Kiểm toán chung và kiểm toán khu vực ( phía Bắc, miền Trung, phía Nam, và Tây Nam Bộ ). Việc này đã làm nảy sinh tình trạng chồng chéo và không rõ ràng về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ giữa kiểm toán trung ương và kiểm toán khu vực, giữaVụ kiểm toán Ngân sách nhà nước và các đơn vị khác trong cơ quan Kiểm toán Nhà nước .
c. Về quy mô, trình độ của đội ngũ kiểm toán viên cũng còn nhiều bất cập.
Như trên đã trình bày, cơ quan Kiểm toán Nhà nước chưa đủ khả năng thực hiện tốt các chức năng , nhịêm vụ kiểm toán được giao trong những năm qua và trong thời gian tới, vì đội ngũ kiểm toán viên còn thiếu về số lượng và hạn chế và chuyên môn, nghiệp vụ; một số kiểm toán viêncòn biểu hiện yếu kém về phẩm chất đạo đức; quyền hạn của kiểm toán viên được quy định trong pháp luật chưa phù hợp với yêu cầu đặt ra… Bên cạnh đó, chúng ta còn chưa có chính sách thoả đáng đối với kiểm toán viên, chưa đầu tư đúng mức cho công tác đào tạo, mua sắm trang thiết bị và phương tiện làm việc nhằm phục vụ tốt cho hoạt động của Kiểm toán Nhà nước.
d. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm chức vụ tổng kiểm toán không bảo đảm được tính độc lập, đồng thời chưa ngang tầm với tầm quan trọng của cơ quan có tính chất đặc biệt này.
Cho đến nay, ở nước ta chính thức có hai công ty kiểm toán vốn đầu tư của nhà nước đó là Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là VACO ( quyết định số 165-TC/QĐ/TCCB ) và công ry dịch vụ kế toán và kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là AASC ( quyết định số 164-TC/QĐ/TCCB ngày 14/8/1993 ). Với cương vị là các công ty đầu ngành, VACO và AASC đã đóng góp nhiều công sức không chỉ trong việc phát triển công ty, mở rộng địa bàn kiểm toán mà cả trong việc cộng tác với các công ty và tổ chức nước ngoài phát triển sự nghiệp kiểm toán Việt Nam. Cho tới nay, ngoài các công ty kiểm toán vốn đầu tư của nhà nước như trên thì số lượng các công ty tăng lên đáng kể và các loại hình công ty cũng đa dạng hơn: các công ty kiểm toán của Việt Nam và các công ry liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Với sự quan tâm và tài trợ của Nhà nước Việt Nam cùng tài trợ của các tổ chức quốc tế, các công ty kiểm toán Việt Nam đang từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của mình phấn đấu nganh trình độ kiểm toán quốc tế. Tất cả tình hình đó hứa hẹn những bước phát triển toàn diện cho kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
2.3. Hướng hoàn thiện hệ thống Kiểm toán Nhà nước .
Kiểm toán Nhà nước là một trong các công cụ của Nhà nước, của nhân dân thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công, có vị trí, vai trò quan trọng đảm bảo sự trong sạch và lành mạnh các hoạt động kinh tế xã hội, tăng cường năng lực quản lý của Nhà nước và sức chiến đấu của Đảng trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Nâng cao năng lực và tăng cường hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam hiện nay là một việc cấp bách có ý nghĩa quan trọng trong cải cách nền hành chính quốc gia, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước.
Để vươn lên ngang tầm nhiệm vụ chính trị, xứng đáng với niềm tin và trông đợi của Đảng, Chính phủ và nhân dân, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam phải nỗ lực phấn đấu về mọi mặt với phương hướng chủ yếu :
Một là, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, tạo môi trường pháp lý đầy đủ và có hiệu lực cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Tiếp thu kinh nghiệm của các nước và sự giúp đỡ của INTOSAI, cần xây dựng luật Kiểm toán Nhà nước, trước mắt là pháp lệnh Kiểm toán Nhà nước, trong đó xác định rõ vị trí, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước là cơ quan có chức năng cao nhất trong việc kiểm tra tài chính công của nhà nước. Để nâng cao địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước, tính độc lập, khách quan và nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán Nhà nước phảI được chế định bằng Hiến pháp. Đồng thời, Kiểm toán Nhà nước cần khẩn trương xây dựng, hoàn chỉnh và hoàn thiện chuẩn mực, phương pháp kĩ thuật và quy trình kiểm toán và kiểm soát chất lượng kiểm toán.
Hai là, xây dựng cơ cấu tổ chức phù hợp, đủ mạnh để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Phát triển mạng lưới các Kiểm toán Nhà nước khu vực thích hợp theo từng giai đoạn đủ để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán NSNN trên địa bàn các địa phương. Củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước TW theo hướng chuyên môn hoá kiểm toán theo ngành hẹp; tăng cường năng lực cho các bộ phận có chức năng tham mưu chuyên môn nghiệp vụ của khối quốc phòng.
Ba là, xây dựng đội ngũ kiểm toán viên (KTV) Nhà nước đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt là phải có đạo đức nghề nghiệp trong sáng, công minh, chính trực, khách quan, độc lập, công bằng, cẩn thận, và siêng năng về nghề nghiệp. Hoàn thiện hệ thống chức danh KTV Nhà nước. Có kế hoạch thường xuyên kiểm tra sát hạch, đánh giá phân loại KTV để sắp xếp bố trí công việc phù hợp với năng lực thực tế. Cần có kế hoạch và chiến lược đào tạo, bồi dưỡng KTV để trong thời gian ngắn nhất có những KTV tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế.
Bốn là, xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của KTV. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy chế hoạt động, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật để công tác kiểm toán đi vào nền nếp, gây dựng và củng cố lòng tin của Đảng, Nhà nước, công chúng và xã hội nói chung với Kiểm toán Nhà nước.
Năm là, tăng cường đổi mới công tác tổ chức hoạt động kiểm toán và nâng cao hiệu lực hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Nhanh chóng áp dụng các thiết bị và kĩ thuật kiểm toán tiên tiến, hiện đại vào công tác kiểm toán nhằm nâng cao hiệu lực kiểm toán và tiết kiệm chi phí kiểm toán. Đảm bảo cơ sở vật chất kĩ thuật đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ và định hướng chiến lược phát triển hệ thống Kiểm toán Nhà nước trong tương lai.
Kết luận
Rõ ràng trong bối cảnh đất nước vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cơ sở pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trường mở cửa đã, đang hình thành và từng bước hoàn thiện thì các thành phần kinh tế tham gia thị trường ngày càng nhiều, các doanh nghiệp cũng đa dạng, phức tạp. Việc tăng cường quản lý điều hành nền kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đang là vấn đề nổi lên và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Sự ra đời và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước xuất phát từ yêu cầu khách quan này, là công cụ của Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công. Như một tất yếu lịch sử, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời đã phản ánh rõ sự chuyển biến mang tính cải cách sâu sắc nền hành chính quốc gia, khi Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam sử dụng một cách rộng rãi và có hiệu lực các công cụ quản lý và kiểm soát vĩ mô đối với những hoạt động kinh tế- tài chính thị trường. Đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, việc tăng cường hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra kiểm soát, đặc biệt là tăng cường vai trò và vị trí của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong thực hiện kiểm tra tài chính công sẽ hết sức quan trọng và cần thiết. Những quan đIúm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra nói chung và công tác kiểm tra tài chính công nói riêng thực sự bổ ích cả về lý luận và thực tiễn, nhất là với cơ quan không có tổ chức tiền thân như Kiểm toán Nhà nước, là cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tăng cường sức chiến đấu của Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đưa đất nước ta vững vàng bước vào Thiên niên kỷ mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, dân chủ”.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình lý thuyết Kiểm Toán ( GS-TS Nguyễn Quang Quynh )
Tạp chí Kiểm Toán
Tạp chí Kế Toán
Tạp chí Công Nghiệp
Tạp chí Tài Chính
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35622.doc