Cùng với hơn mười năm thực hiện đổi mới của cả nước, Tổng công ty rau quả Việt Nam đã không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn để tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, do biến động về kinh tế - chính trị ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu và đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, song Tổng công ty vẫn không chịu bó tay mà ngược lại, vẫn đang tìm ra những giải pháp mới, những hướng đi mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, coi đây là vấn đề trọng tâm của Tổng công ty trong mọi giai đoạn phát triển. Tuy vậy, muốn hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới, đồng thời thoả mãn nhu cầu về tiêu dùng trong nước, quan trong hơn là xuất khẩu, tăng trị giá nông sản hàng hoá thì Tổng công ty phải chấp nhận sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như một quy luật tất yếu của cơ chế thị trường. Nhưng chúng ta hy vọng và tin tưởng Tổng công ty rau quả Việt Nam sẽ trân trọng và phát triển các thành quả đx đạt được, đoàn kết thống nhất trong các đơn vị thành viên của Tổng công ty, huy động trí tuệ tập thể để tiếp tục phát triển vững mạnh trong thời gian sắp tới.
50 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 837 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoạt động xuất khẩu rau quả của tổng công ty rau quả Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cải tiến chất lượng hàng hoá và đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh xuất khẩu. Mặc dù với một cơ sở hạ tầng kém, trang thiết bị lạc hậu từ những năm 60 và hạn chế về vốn song tổng công ty luôn đặt chất lượng hàng xuất khẩu lên hàng đầu, như một biểu hiện của chữ tín với khách hàng. Do nguồn hàng phần lớn từ sản xuất nên chất lượng được kiểm soát rất chặt chẽ, tổng công ty chỉ xuất khẩu những hàng hoá đã qua kiểm tra chất lượng và có chứng nhận chuyên môn của bộ phận KCS trong tổng công ty. Một ưu điểm nữa trong hoạt động xuất khẩu của tổng công ty là nỗ lực trong việc đa dạng hoá chủng loại hàng hoá, cơ cấu hàng xuất khẩu. Tổng công ty đã căn cứ vào những nguồn thông tin thu được về nhu cầu, thói quen tiêu dùng của khách hàng trên mỗi thị trường để có những loại hàng hoá phù hợp. Ví dụ dưa chuột lọ khẩu vị Đức, khẩu vị Hà Lan, khẩu vị Ba Lan..).
Về mặt huy động vốn cho sản xuất kinh doanh xuất khẩu, để khắc phục tình trạng thiếu vốn cho việc tạo nguồn hàng xuất khẩu nên trong các thoả thuận về thanh toán, tổng công ty thường yêu cầu bên mua hàng đặt trước một lượng tiền hàng nhất định theo phần trăm của hợp đồng ký kết. Bằng cách này, tổng công ty chắc chắn giữ được khách hàng của mình và phần nào giúp cho khâu thu mua nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, để thu hút thêm nguồn vốn sản xuất kinh doanh xuất khẩu, tổng công ty thực hiện đẩy mạnh cổ phần hoá và năm 1998 tổng công ty đã hoàn thành việc chuyển nhà máy Mỹ Châu thành công ty in và bao bì Mỹ Châu, đẩy mạnh hợp tác liên doanh. Tổng công ty đã có hai liên doanh là công ty thực phẩm nước giải khát DONA NEWTOWER và nhà máy hộp sắt TOVECO. Hiện nay tổng công ty đang tập trung giúp cho LUVECO đi vào hoạt động. Đây là cơ sở liên doanh giữa nhà máy thực phẩm xuất khẩu Nam Hà với tập đoàn Lulu Trung Quốc.
Về mặt tổ chức, để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, công tác tổ chức từ tổng công ty cho đến các đơn vị thành viên phải được củng cố và hoàn thiện. Sắp xếp, tổ chức cơ quan tổng công ty, thành lập phòng tư vấn đầu tư phát triển, củng cố phòng kinh doanh rau quả tươi, bổ sung lãnh đạo trung tâm KCS.
Trên đây là một số ưu điểm trong hoạt động xuất khẩu tại tổng công ty rau quả Việt Nam, tuy còn khiêm tốn song tổng công ty luôn cố gắng nghiên cứu để tiếp tục phát huy những ưu điểm đó nhằm hoàn thiện công tác xuất khẩu ở doanh nghiệp mình.
2. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam.
Qua phân tích ở phần thực trạng ta nhận thấy rằng tình hình xuất khẩu của tổng công ty trong những năm gần đây có xu hướng giảm sút. Vậy những yếu tố nào đã trực tiếp gây nên thực trạng và những tồn tại trong xuất khẩu của tổng công ty là gì?
Trước hết, kim ngạch xuất khẩu hàng năm của tổng công ty mới chỉ đạt ở mức hơn 50% tổng doanh thu. Như vậy chứng tỏ lượng hàng hoá xuất khẩu ra thị trường thế giới vẫn còn thấp, chưa tương xứng với quy mô và tiềm năng của tổng công ty.
Ngoài ra, vấn đề thị trường cũng là một vấn đề cần giải quyết của tổng công ty. Nếu công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường thu được kết quả tốt sẽ làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên thực tế mặc dù tổng công ty đang tìm cách mở rộng thị trường song thị trường của tổng công ty vẫn còn rất manh mún, bị xé nhỏ bởi nhiều đối thủ cạnh tranh khác. Trong khi đó công tác nghiên cứu thị trường của tổng công ty gặp phải những khó khăn về tài chính, nhân lực hạn hẹp, chưa có điều kiện nghiên cứu chi tiết thị trường. Tổng công ty chưa đề cập đến vấn đề phân đoạn thị trường nên không nhận rõ đặc tính của từng đoạn, đặc biệt là đoạn thị trường trọng điểm, làm giảm hiệu quả các chính sách Marketing.
Chất lượng hàng xuất khẩu của tổng công ty tuy có lợi thế hơn những doanh nghiệp khác trong nước không tự sản xuất song Nếu so với hàng rau quả hộp của thế giới như hàng của những đối thủ cạnh tranh Thái Lan, Trung Quốc, Braxin thì chất lượng hàng hoá của tổng công ty vẫn ở mức thấp hơn. Bên cạnh đó, bao bì hàng hoá cũng là một vấn đề của tổng công ty. Chi phí cho bao bì của tổng công ty chiếm đến 41% đối với hàng hoá có bao bì nhập ngoại và 60% đối với hàng hoá có bao bì tự sản xuất. Phần lớn bao bì là hộp, lọ thuỷ tinh, hộp sắt nhưng kích cỡ, chủng loại còn chưa phù hợp với mọi đối tượng sử dụng cho mục đích khác nhau.
Hơn nữa, giá bán hàng hoá của tổng công ty lại ở mức cao hơn bình thường do chi phí sản xuất và chi phí xuất khẩu cao, làm giảm khả năng cạnh tranh với các loại hàng hoá cùng loại khác trên thị trường quốc tế. Cụ thể là giá hàng xuất khẩu của tổng công ty thường cao hơn các nước khác trong khu vực là 20-30% trong khi không có sự nổi trội hơn về chất lượng hàng hoá hay những yếu tố khác.
Ngoài ra, vấn đề dự trữ hàng hoá cho xuất khẩu cũng là một vấn đề tồn tại cho tổng công ty. Mặt hàng rau quả có tính thời vụ nhưng nhu cầu tiêu dùng của con người lại thường xuyên, thậm chí còn thích rau quả trái mùa hơn nên để đảm bảo thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng cần phải có công tác bảo quản dự trữ tốt. Thế nhưng ở tổng công ty khâu bảo quản dự trữ hàng hoá xuất khẩu còn chưa đạt hiệu quả cao do công nghệ kỹ thuật bảo quản còn lạc hậu nên vẫn xảy ra tình trạng thiếu hàng xuất trong nhiều trường hợp khẩn cấp nhưng lại phải huỷ hàng hoá mất phẩm chất. Điều này làm giảm kết quả của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong tổng công ty.
Tạo nguồn hàng xuất khẩu ở tổng công ty cũng là một vần đề cần được xem xét đến. Hàng xuất của tổng công ty chủ yếu là do tự sản xuất, điều này có một số ưu điểm nhưng cũng có một số tồn tại. Đó là, do mặt hàng mùa vụ phải phụ thuộc nhiều vào chọn giống rau quả, chăm sóc vun trồng, điều kiện khí hậu đất đai, kỹ thuật thu hoạch, bảo quản nên tổng công ty không thể chỉ tập trung vào xuất khẩu hay nói cách khác độ chuyên môn hoá xuất khẩu không cao
Trên đây là một số nhận xét đánh giá sơ bộ về thành công và hạn chế của công tác xuất khẩu tại tổng công ty rau quả Việt Nam. Những kết quả mà tổng công ty đạt được còn rất khiêm tốn nhỏ bé so với tiềm năng và triển vọng phát triển đang mở ra của tổng công ty. Sự cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ và mở rộng quy mô xuất khẩu là đòi hỏi cấp bách có thể thực hiện được Nếu biết tháo gỡ những cản trở đang còn tồn tại, đồng thời có những biện pháp đặc biệt phù hợp nhằm không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của tổng công ty.
Chương III
Phương hướng biện pháp và một số kiến nghị thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng rau quả Việt Nam
I. Tính cấp thiết phải đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại Tổng công ty.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp đều phải tìm ra cho mình những mục tiêu, những hướng đích để đạt đến. Đặc biệt là trong xu thế tự do hoá thương mại nói chung và thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì mục tiêu của hoạt động kinh doanh xnk là thu được kết quả tốt qua các nghiệp vụ xnk, cụ thể là tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, bốung nguồn thu ngoại tệ để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hay hàng hoá nước ngoài ...). Nhưng với mỗi doanh nghiệp tuỳ theo đặc điểm, lĩnh vực kinh doanh, thực trạng kinh doanh và các yếu tố về môi trường khác nhau mà họ tự tìm ra cho mình những cách khác nhau để đạt được kết quả đó.
ở Tổng công ty ra quả Việt Nam, thực tế đề ra là phải tìm mới và áp dụng những biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty- đó cũng là một yêu cầu, một hướng đi nhằm kết quả là mang lại sự phát triển vững chắc cho Tổng công ty trong thời gian tới.
Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, một trong những khó khăn của Tổng công ty là do vấp phải sự cạnh trang của một số lượng khá lớn những đối thủ trong cũng lĩnh vực kinh doanh, nếu như Tổng công ty không khẳng định được vị thế của mình trên thị trường thì rất dễ bị nhấn chìm trong “biển” hàng hoá rau quả. Chính vì thế, để vượt lên các đối thủ cạnh tranh khác (cả trong nước và ngoài nước) Tổng công ty cần phải tìm các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Hơn nữa, rõ ràng xuất khẩu là hoạt động chính của Tổng công ty hiện nay nên trong mục tiêu dài hạn cũng như trung hạn và ngắn hạn, yêu cầu đầu tiên là tăng kim ngạch xuất khẩu qua từng năm trên mỗi thị trường. Đây là nguồn thu chủ yếu của Tổng công ty để chi trả cho các khoản mục chi phí cần thiết và thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước hàng năm. Tổng công ty sẽ không thể tồn tại và phát triển nếu như hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty trở nên ngày càng sa sút, giảm mạnh về doanh thu và không có hiệu quả. Các khoản doanh thu khác ngoài xuất khẩu mà Tổng công ty thu được là rất nhỏ so với nhu cầu doanh thu của Tổng công ty. Do đó hiển nhiên là Tổng công ty phải tìm giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Nhà nước ta thực hiện chính sách “hướng về xuất khẩu” nên mọi hoạt động xuất khẩu đều được khuyến khích, thế nên Tổng công ty cần phải tận dụng triệt để lợi thế về chính sách này để tăng cường công tác xuất khẩu của mình.
Nếu Tổng công ty “làm ăn” phát đạt thì nó không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân của Tổng công ty như hoàn thành ba mục tiêu coư bản của doanh nghiệp là lợi nhuận, an toàn, vị thế; giải quyết thu nhập cho người lao động trong Tổngct, mở rộng quy mô hoạt động ... mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội như tạo công ăn việc làm cho người lao động, thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với quốc gia và quốc tế, bổ sung quỹ tiền tệ cho quỹ tiền tệ quốc gia, cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Chính vì thế, mặc dù kinh doanh trong cơ chế thị trường, mà đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc, nhưng tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và Tổng công ty rau quả Việt Nam nói riêng đều tìm những biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở đơn vị mình, cố gắng nâng cao uy tín của Tổng công ty, của sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế, quyết tâm tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thị phần của Tổng công ty trên toàn thế giới. Vì thế, yêu cầu đưa ra các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty rau quả Việt Nam vừa là đòi hỏi chủ quan, vừa là đòi hỏi khách quan.
II. Phương hướng xuất khẩu trong thời gian tới.
1. Tổng kim ngạch và tiến độ xuất khẩu.
Định hướng kim ngạhc xuất khẩu được chia thành 3 giai đoạn:
Năm 2000 xuất khẩu 40 triệu USD.
Năm 2005 xuất khẩu 100 triệu USD.
Năm 2010 xuất khẩu 200 triệu USD.
Bảng 7. Tiến độ xuất khẩu dự kiến từ nay đến năm 2010
Đơn vị: triệu USD
Năm
Kim ngạch
Tăng trưởng (%)
1999
28
12
2000
40
12
2001
45
12
2002
52
15
2003
62
19
2004
74
19
2005
100
35
2006
112
12
2007
125
12
2008
140
12
2009
160
14
2010
200
25
(Nguồn: Định hướng phát triển của Tổng công ty Rau quả Việt Nam trong giai đoạn 1998 - 2010)
Cũng như tổng kim ngạch xuất khẩu tiến độ xuất khẩu được chia làm 3 giai đoạn: 2000, 2005, 2010.
Cơ sở để đề ra tổng kim ngạch và tiến độ xuất khẩu là dựa trên tình hình thực tế những năm qua và những dự báo của tình hình tiêu thụ rau quả của thế giới cũng như các mặt hàng khác của Tổng công ty trong thời gian tới. Ngoài ra nó cũng căn cứ vào mức phát triển ngành rau trong nước từ nay đến năm 2010.
2. Định hướng về sản phẩm và chiến lược.
Bảng 8. Cơ cấu sản phẩm và tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu của 3 giai đoạn: 2000, 2005, 2010.
Đơn vị: Triệu USD
Năm
2000
2005
2010
Loại sản phẩm
Kim ngạch xuất khẩu
Tỷ trọng (%)
Khối lượng (nghìn tấn)
Kim ngạch xuất khẩu
Tỷ trọng (%)
Khối lượng (nghìn tấn)
Kim ngạch xuất khẩu
Tỷ trọng (%)
Khối lượng (nghìn tấn)
1 Rau quả tươi
4
10
13
15
15
50
40
20
130
2. Rau quả hộp, nước quả, cô đặc, đông lạnh
13
32,5
18
40
40
57
80
40
120
3. Rau quả sấy, muối
6
15
10
20
20
33
40
20
68
4. Gia vị
9
22,5
6
20
20
13
30
15
20
5. Nông sản thực phẩm
8
20
10
5
5
7
10
5
12
Tổng
40
100
57
100
100
160
200
100
350
(Nguồn: Đính hướng phát triển của Tổng công ty rau quả Việt Nam giai đoạn 1998 - 2010)
Định hướng về cơ cấu sản phẩm cho thấy các mặt hàng truyền thống của Tổng công ty như rau quả tươi, rau quả tươi, rau quả hộp, nước giải khát, cô đặc, rau quả đông lạnh, rau quả muối sấy ngày một khôi phục lại vị trí của nó.
Bảng 9. Định hướng cơ cấu sản phẩm và thị trường đến năm 2010
Sản phẩm chủ lực
Sản phẩm đa dạng khác
Thị trường chính
1. Rau quả tươi.
Bắp cải, khoai tây, hành tây, dưa hấu, tỏi, cà rốt, gừng, nghệ, chuối tiêu, vải.
Hoa layơn, hoa kèn, phong lan.
Su hào, súp lơ, tỏi tây, đậu quả, cà chua, dưa chuột, nấm hương...
Thanh long, nhãn, quýt, bưởi, chanh, xoài, dứa, chôm chôm, đu đủ, sầu riêng, măng cụt...
Hoa cây cảnh khác.
Liên bang Nga, một số nước Châu á như Nhật Bản.
Đông Bắc á, Trung Quốc, Trung Cận Đông và một số nước khác.
2. Đồ hộp, nước quả đông lạnh.
Dứa, dưa chuột, vải, thanh long, xoài, chôm chôm, đu đủ, mơ.
Nước giải khát hoa quả tự nhiên.
Đông lạnh: dứa.
Cô đặc và pure: dứa, xoài, cà chua
Chuối, ổi, na, đậu côve, đậu Hà Lan, măng tre, nấm, rau, gia vị khác.
Rau đông lạnh khác.
Pure quả khác.
- Liên bang Nga, Bắc Âu, Đông Âu, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, một số nước Châu á khác.
3. Rau quả sấy, muối.
- Chuối sấy, nhân hạt điều.
- Dưa chuột, nấm muối.
- Các loại rau quả muối khác.
- Liên bang Nga, Nhật Bản và một số nước Bắc Mỹ.
4. Gia vị.
- Hạt điều, ớt, tỏi, gừng.
- Nghệ, quế, hồi, gừng.
- Châu Phi, Liên bang Nga, Trung Đông và một số nước khác.
5. Giống rau.
- Hạt rau muống, cải các loại, tỏi củ.
- Các loại hạt giống rau, đậu, gia vị nhiệt đới khác
- Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi, Châu á
6. Nông sản khác.
- Cao su, càfe, gạo, lạc, vừng.
- Nông sản khác.
- Trung Quốc
- Về chất lượng sản phẩm: đây là vấn đề hiện tại đang có ảnh hưởng rất lớn đến công tác mở rộng thị trường . Mục tiêu trong giai đoạn đối với nhóm ngành rau quả tươi phải đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và sử dụng các phương thức bảo quản tốt nhất để đảm bảo độ tươi, sạch sẽ của sản phẩm. Đối với nhóm hàng còn lại sẽ sử dụng những công nghệ tiên tiến để sản xuất và bảo quản. Đặc biệt là sử dụng những giống mới cho năng suất cao và chất lượng tốt. Sử dụng những phương pháp đo lường, kiểm tra chất lượng tiên tiến.
Chính sách sản phẩm của Tổng công ty là xuất khẩu những mặt hàng mà khách hàng cần đồng thời kết hợp với việc mở rộng các loại sản phẩm sẵn có trongnước. Chính sách của Tổng công ty là gắn sản phẩm với thị trường, coi thị trường là tất yếu quan trọng, chất lượng và chủng loại sản phẩm là quyết định.
3. Định hướng về giá cả.
Trong những năm trước kim ngạch xuất khẩu được tính theo giá FOB. Mức giá chung cho các nhóm hàng là: rau tươi 300USD/tấn, rau hộp và đông lạnh là 700USD/tấn, rau sấy muối 600USD/tấn, gia vị 1500USD/tấn. Các loại nông sản phẩm khác 800USD/tấn.
Tuy nhiên, mức giá này không phải là cố định, nó phụ thuộc vào từng hàng trong nhóm hàng, dựa vào tình hình mặt bằng giá cả chung của thị trường thế giới. Mức giá chính thức được xác định sẽ là mức giá mà Tổn công ty đàm phán ký kết hợp đồng với khách hàng. Mức giá cũng có thể được dần dần giảm đi khi Tổng công ty sử dụng những biện pháp kỹ thuật để tăng năng suất.
4. Định hướng về nghiên cứu thị trường và thâm nhập.
Trong giai đoạn này mục tiêu chủ yếu là tăng cường các đoàn của Tổng công ty đi khảo sát tìm hiểu, tham gia các hội chợ về rau quả, cụ thể là ở các khu vực thị trường như: Châu á, Châu Âu, Nga, Trung Quốc, Mỹ. Đặc biệt là cử chuyên gia sang thị trường Mỹ nghiên cứu các vấn đề về thuế quan, hàng rào chất lượng, tình hình cạnh tranh cùng loại sản phẩm của Thái Lan. Ngoài ra còn cử các đoàn sang Thái Lan, Philipin để xem xem xét tình hình sản xuất rau quả của họ và học hỏi kinh nghiệm.
III. Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty rau quả Việt Nam.
1. Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng, cải tiến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
* Một là, mở rộng hình thức tạo nguồn. Muốn hoạt động xuất khẩu tiếnhành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Nên công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. ở Tổng công ty rau quả Việt Nam, hoạt động tạo nguồn hàng chủ yếu là do sự sản xuất nội bộ thông qua thu mua nguyên vật liệu, gia vị ... rồi đưa vào chế biến theo công nghệ sản xuất đồ hộp. Hình thức tạo nguồn hàng này có ưu điểm là Tổng công ty có thể chủ động về nguồn hàng như tự chủ trong việc lựa chọn mặt hàng phù hợp cho xuất khẩu. Nhưng nếu Tổng công ty chỉ duy trì một nguồn hàng này thì sẽ không đạt hiệu quả cao trong công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu, bởi vì nó sẽ biến Tổng công ty thành một đơn vị kinh tế mang tính chất tự cấp tự túc, khép kín. Do đó, ngoài việc sản xuất hàng xuất khẩu, Tổng công ty có thể tiến hành thu mua hàng hoá từ các đơn vị sản xuất khác trong vùng, trong nước. Tạo nguồn hàng xuất khẩu qua hình thức thu mua có thể làm giảm tổng chi phí xuất khẩu, góp phần làm tăng dt xuất khẩu.
Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu ở Tổng công ty bằng cách mở rộng các loại hình thu gom hàng hoá còn là biện pháp giúp Tổng công ty thực hiện chuyên môn hoá xuất khẩu hàng nông sản (chủ yếu là rau quả đóng hộp), Tổng công ty còn có chức năng tổ chức sản xuất những sản phẩm nông sản chế biến. Như vậy, muốn đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu trong Tổng công ty thì một đòi hỏi đặt ra là Tổng công ty cần phải chú trọn vào lĩnh vực xuất khẩu hơn nữa, cả về quy mô, vốn lao động ... nhằm tăng tỷ trọng doanh thu xuất khẩu trong tổng doanh thu của Tổng công ty.
* Hai là, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu. Bên cạnh lĩnhc vực tạo nguồn hàng xuất khẩu trong Tổng công ty nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Tổng công ty cần thực hiện cải tiến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặc dù hàng hoá trong Tổng công ty đưa ra thị trường quốc tế gồm nhiêu loại khác nhau nhưng để cạnh tranh được với các đối thủ khác, Tổng công ty không ngừng thay đổi bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi các mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu cua thị trường và phù hợp với tiềm năng sẵn có của Tổng công ty, của Quốc gia.
* Ba là, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Đề cập tới xuất khẩu người ta không thể không nói tới chất lượng hàng hoá. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mọi doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của mình. Muốn vậy, Tổng công ty cần kiểm tra kỹ luồng hàng hoá (nguyên vật liệu để sản xuất, chế biến) từ khâu đầu đến khâu cuối. Đặc biệt là đối với mặt hàng rau quả chế biến, ngoài việc kiểm tra chất lượng ở thời điểm hiện tại, Tổng công ty cần phải quan tâm đến thời hạn sử dụng an toàn. Đây là một trong những tiêu chuẩn về chất lượng của hàng hoá xuất khẩu được người tiêu dùng rất quan tâm khi sử dụng, khi mức sống người dân ngày càng cao thì nhu cầu hàng hoá ngày càng khắt khe hơn. Do đó với những mặt hàng tự sản xuất Tổng công ty phải kiểm tra nghiêm ngặt sự tôn trọng quy trình công nghệ sản xuất chế biến đồ hộp, gồm các khâu: phân loại, rửa, cắt gọt, chọn, chần, hấp, vào hộp,... Đồng thời Tồng công ty cần tăng cường kiểm tra chất lượng từ khâu thu mua nguyên vật liệu (chọn loại rau quả tươi, không bầm dập, đồng đều về chủng loại, kích cỡ...) đến khâu hoàn thiện sản phẩm. Muốn vậy, trong Tổng công ty cần thiết phải có những cán bộ chuyên viên nắm vững nghiệp vụ về kiểm tra chất lượng hàng hoá.
* Bốn là, tổ chức tốt khâu dự trữ. Một trong những biện pháp tạo nguồn hàng có chất lượng tốt là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hoá. Do đó, Tổng công ty cần chỉ đạo cho các công ty trực thuộc tổ chức tu sửa lại hệ thống kho tàng và nâng cấp nhằm bảo quản hàng tốt hơn, đúng về yêu cầu chất lượng. Hơn nữa, do đặc tính của mặt hàng rau quả là theo mùa vụ nên nếu Tổng công ty muốn xuất khẩu được các loại hàng hoá quanh năm (kể cả hàngatrais vụ) thì rõ ràng khâu dự trữ phải tốt. Vì vậy, để đẩy mạnh hoạt động k trong Tổng công ty cũng đồng nghiã với việc tổ chức, thực hiện có hiệu quả việc dự trữ hàng hoá xuất khẩu, tránh tình trạng “lúc thừa này, lúc thiếu khác” hay “thừa hàng này, thiếu hàng kia’. Muốn thế, Tổng công ty phải xây dựng được một kế hoạch dự trữ thường xuyên, dự trữ mùa vụ cụ thể trong từng giai đoạn nhất định, căn cứ vào lượng hàng xuất khẩu và xu hướng, khả năng xuất khẩu ở giai đoạn tiếp theo. Đây là nhiệm vụ của phòng kế hoạch trong Tổng công ty.
* Năm là, giảm giá hàng hoá xuất khẩu. Để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế, Tổng công ty phải đưa ra một giá bán thấp hơn giá trung bình của thế giới. Trong thực tế thì giá hàng xuất khẩu một số sản phẩm rau quả của Tổng công ty lại thường cao hơn các loại hàng hoá cùng loại khác của các nước xuất khẩu trong khu vực, chẳng hạn như, dưa miếng nhỏ của Thái Lan giá là 510 - 530 USD/tấn, của Việt Nam (Tổng công ty) là 570 - 580 USD/tấn. Giá hàng hoá xuất khẩu của Tổng công ty thường cao hơn các nước trong khu vực từ 20 đến 30% trog khi không có sự noỉo trội về chất lượng hàng hoá. Vì thế Tổng công ty phải tìm cách hạ giá thành xuất khẩu bằng cách sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên vật liệu, nhiên liệu ... tại Tổng công ty hay các công ty trực thuộ hoặc tìm những nguồn hàng xuất khẩu có giá cả phải chăng. Với cả hai loại hình thức trên, Tổng công ty sẽ giảm tối đa các chi phí thu mua (hàng hoá hoặc nguyên vật liệu), chi phí vận chuyển, các loại chi phí trung gian khác. cắt giảm tối đa các khâu trung gian, các quan hệ trung gian trước, sau và trong khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp làm giảm chi phí, hạ giá bán trên thị trường quốc tế.
Nói tóm lại, hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng, cải tiến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và nâng cao chất lượng mặt hàng rau quả xuất khẩu nhằm cung cấp cho thị trường nước ngoài những hàng hoá phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng là một biện pháp cơ bản, trực tiếp tác động đến hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty.
2. Đa dạng hoá loại hình kinh doanh xuất khẩu và đa phương hoá trong quan hệ với các khách hàng trên thị trường quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, nghiệp vụ xuất khẩu có rất nhiều các loại hình xuất khẩu hàng hoá khác nhau. Với vị thế là Tổng công ty rau quả Việt Nam đòi hỏi phải có những phương hướng, giải pháp mới phù hợp với tực tế nhằm phát huy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty.
2.1. Tổng công ty cần phải đa dạng hoá các loại hình kinh doanh xuất khẩu.
Với loại xuất khẩu trực tiếp Tổng công ty sẽ tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng, người mua hàng từ Tổng công ty. Cũng có nghĩa là Tổng công ty phải năng động hơn, chủ động hơn, sáng tạo hơn trong các hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Đây sẽ là loại hình kinh doanh xuất khẩu chủ yếu của Tổng công ty, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thương mại, của kinh tế thị trường. Muốn có bạn hàng thường xuyên, ổn định thì Tổng công ty cần phải có kế hoạch cụ thể trong các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, đàm phán giao dịch thu hút sự quan tâm của khách hàng và củng cố uy tín của Tổng công ty. Với loại hình xuất khẩu trực tiếp, Tổng công ty có thêm cơ hội tiếp xúc với khách hàng, qua đó hiểu biết thêm về nhu cầu của thị trường quốc tế, đồng thời khẳng định vị trí của Tổng công ty trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu trực tiếp sẽ làm giảm tối đa các mối quan hệ trung gian, các thủ tục trung gian mà nhiều khi chúng gây phiền hà cho kinh doanh xuất khẩu.
* Bên cạnh hình thức xuất khẩu trực tiếp, Tổng công ty còn có thể tiến hành loại hình xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình kinh doanh xuất khẩu này, các khâu nghiệp vụ được rút ngán lại, lợi nhuận mặc dù không cao song tương đối an toàn, ít rủi ro, góp phần tăng doanh thu của toàn bộ hoạt động xuất khẩu.
* Hai loại hình xuất khẩu là buôn bán đối lưu và theo nghị định thư trong tương lai sẽ chỉ được coi là hình thức phụ trợ, bổ sung trong hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Tuy nhiên, buôn bán đối lưu giúp cho Tổng công ty thực hiện việc trao đổi hàng hoá của mình (các mặt hàng nông sản, rau quả,...) để nhập khẩu về các yếu tố cần thiết như máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh hay nguyên vật liệu cao cấp khác. Như vậy, trong một vài trường hợp thuận tiện, có lợi và cần thiết Tổng công ty vẫn có thể sử dụng loại hình buôn bán đối lưu song đây không phải là loại hình kinh doanh xuất khẩu chủ yếu.
Loại hình xuất khẩu theo nghị định thư thực ra đã tồn tại ở Tổng công ty trong thời gian trước đây, khi Tổng công ty xuất khẩu hàng hoá (chủ yếu sang Liên Xô cũ và các nước Đông Âu) theo hiệp định thương mại giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ các nước đó. Nhưng cùng với nền kinh tế thị trường, loại hình xuất khẩu này dần trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với bản chất kinh doanh thương mại nên nó sẽ không được áp dụng lâu dài trong tương lai.
* Loại hình xuất khẩu gia công uỷ thác là một trong nhưng loại hình kinh doanh xuất khẩu phổ biến. Tuy nhiên với mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của Tổng công ty chủ yếu gồm rau quả đông lạnh, rau qủa hộp, rau quả sấy muối ... thì loại hình kinh doanh này sẽ không phù hợp vì bản thân nguồn nguyên liệu là những rau quả tươi đã rất có sẵn ở nước ta, hơn nữa, công nghệ chế biến đồ hộp của nước ta so với thế giới còn ở mức cũ kỹ lạc hậu.
* Tuỳ thuộc vào điều kiện, tình hình biến đổi kinh tế nước ta mà Tổng công ty có thể áp dụng các loại hình thức kinh doanh xuất khẩu khác như giao dịch qua trung gian, đó là việc thành lập các đại lý, hãng kinh doanh ngay trên thị trường tiêu thụ sản phẩm rau quả bởi là trung gian thường biết rất rõ về tình hình thị trường, pháp luật, tập quán địa phương, do đó họ có khả năng đẩy mạnh buôn bán và tránh rủi ro cho Tổng công ty. Bên cạnh đó thì các hình thức gia công quốc tế, xuất khẩu tại chỗ và tái xuất khẩu là các hình thức rất quan trọng trong tương lai đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cuả Tổng công ty.
2.2. Đa phương hoá trong quan hệ với các khách hàng quốc tế là một trong những biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty.
Trong giai đoạn trước đây, khách hàng chủ yếu của Tổng công ty là Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, thị trường xuất khẩu mặc dù ổn định về số lượng và doanh thu song lại rất đơn phương và hạn hẹp. Trong thời gian tới nhiệm vụ của Tổng công ty là phải tiếp tục duy trì, củng cố mối quan hệ với khách hàng cũ là CHLB Nga, một vài nước Đông Âuu lhác và quan trọng hơn là phải tìn kiếm những khách hàng trên thị trường mới. Tổng công ty phải “mở rộng cửa”, đón nhận và đáp ứng mọi yêu cầu khắt khe nhất của mọi đối tượng khó tính nhất, không phân biệt mới cũ, thân quen. Đa phương hoá trong quan hệ với khách hàng cũng là một biện pháp cơ bản để mở rộng thị trường xuất khẩu của Tổng công ty. Cụ thể là, Tổng công ty cần xác định rằng: những nước như CHLB Ngan, Đông Âu, Bắc Âu, Tây Âu có mùa đông tuyết phủ, không có mùa quả và các nước tuy về khí hậu cho phép sản xuất rau qủa nhưng thiếu đất, thiếu lao động do lao động bị hút vào sản xuất công nghiệp, dịch vụ như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapor... đều có thể trở thành khách hàng lớn với nhu cầu rau quả không phải nhỏ của Tổng công ty.
Cùng với các biện pháp cải biến cơ cấu mặt hàng kinh doanh xuất khẩu và chủ trương mở rộng thị trường, Tổng công ty nên khai thác vào những định hướng cụ thể sau: xuất khẩu chuối, thanh long (quả tươi) cho các nước Đông Bắc á, CHLB Nga, các nước EU, Trung Cận Đông. Đây là loại quả chủ lực của nước ta, Tổng công ty cần tập trung khai thác mặt hàng này. Xuất khẩu dứa hộp cho CHLB Nga, Bỉ, Đức, Mỹ, Anh, hà Lan ...; nước dứa cô đặc cho các nưcớ trong khu vực châu á. Ngoài ra, với một số mặt hàng khác như vải, nhãn hoặc các loại rau như giá đỗ, cà muối... Tổng công ty chắc chắn sẽ chiếm được cảm tình của các đối tượng tiêu dùng khác nhau trên thế giới.
Tóm lại, da dạng hoá các loại hình kinh doanh xuất khẩu gắn liền với đa dạng hoá các mối quan hệ với khách hàng là biện pháp hoạt động xuất khẩu phù hợp với thực trạng của Tổng công ty và là yêu cầu tất yếu khách quan của cơ chế thị trường.
3. Huy động sử dụng vốn có hiệu quả.
Vốn là vấn đề quan trọng hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng đối với các doanh nghiệp. Vốn - điều kiện tiền đề của mọi doanh nghiệp - cơ thể được huy động, bổ sung bằng nhiều hình thức khác nhau.
* Một là, Tổng công ty có thể bổ sung vào nguồn vốn lưu động và vốn cóo định của mình từ trích lợi nhuận hàng năm. Đây là vốn có của Tổng công ty và tuỳ thuộc vào kq sản xuất kinh doanh mỗi năm mà nguồn vốn này có sự thay đổi. Vốn tự có thẻ hiện quy mô của doanh nghiệp và nó chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí cho các hoạt động. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu nhiều trường hợp yêu cầu phải có vốn lớn nên ngoài vốn tự có, Tổng công ty phải sử dụng các hình thức khác nhau để huy động vốn.
* Hai là, Tổng công ty có thể tiến hành nghiên cứu các dự án liên doanh, liên kết với các bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào Tổng công ty. Trong tình hình hiện nay, với chủ trương của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Tổng công ty tiến hành liên doanh, liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây truyền, công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là nên làm. Tuy nhiên, để tiến hành liên doanh, liên kết có lợi cho Tổng công ty mà không ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của Tổng công ty cũng như lợi ích của toàn xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, các đối tác mà Tổng công ty sẽ lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng rau quả. Sau nữa bên đối tác phải có bề dày kinh nghiệm, tức là hoạt động trong lĩnh vực này lâu dài và có uy tín mạnh trên thị trường thế giới. Ngoài ra, cần thiết phải có thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh, phạm vi hoạt động... trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng, xu hướng phát triển của Tổng công ty, của bên đối tác, của thị trường rau quả và chính sách, luật pháp của nhà nước. Có thể nói, liên doanh, liên kết là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song bên cạnh đó thì công tác cổ phần hoá cũng là biện pháp huy động vốn phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian này.
* Ba là, để huy động vốn trong nhiều trường hợp, Tổng công ty phải tiến hành hợp tác với các bên khách hàng hay bạn hàng trong kinh doanh của mình. Củ thể là, với một số hợp đồng xuất khẩu, Tổng công ty yêu cầu người mua (bên nhập khẩu) ứng trước một tỷ lệ phần trăm nhất định của toàn bộ giá trị hợp đồng. Tổng công ty có thể sử dụng phần giá trị ứng trước đó như một phần giá tị của mình. Thực ra hình thức này đã được áp dụng ở Tổng công ty trong thời gian trước đây, song Tổng công ty vẫn nên tiếp tục sử dụng biện pháp này nhằm giải quyết nhu cầu về vốn. Một yêu cầu quan trọng của việc hợp tác trên đây là cần có sự am hiểu, tin cậy giữa các bên, nghĩa là hai bên đã quen biết nhau lâu dài và có thể tin tưởng nhau trong kinh doanh. Muốn vậy, Tổng công ty phải không ngừng củng cố uy tín của mình đối với các bạn hàng, khách hàng trên thị trường.
* Bốn là, huy động vốn thông qua ngân hàng: vay ngắn hạn, dài hạn và tín dụng xuất khẩu. Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện hệ thống ngân hàng và các hoạt động của nó ở nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Như vậy, vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị sản xuất kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc, bởi có rất nhiều các huy động vốn. Song điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một các hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn là do việc sử dụng vốn lãnh phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Tổng công ty cần có những biẹn pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh tình trạng ứ đọng vốn ở khâu này trong khi lại thiếu vốn ở khâu kia - đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý, kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của đồgn vốn và mức sinh lời của mỗi đồng vốn bỏ ra. Sử dụng vốn có hiệu quả là phải sử dụng tiết kiệm, đúng việc và đúng lúc.
Tóm lại, xuất khẩu nhất thiết phải có vốn để kinh doanh hàng hoá và thực hiện các nghiệp vụ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty thì cần phải coi trọng việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn như một giải pháp cho vấn đề này.
4. Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu.
Marketing xuất khẩu rất cần thiết cho mọi quốc gia cũng như với các doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những hiểu biết khác với trong nước, mặc dù sự khác nhau nhiều lúc về trình độ hơn là về tính chất. Hơn nữa, những hiểu biết đó cùng với khả năng riêng biệt và kinh nghiệm trở nên là những nhân tố quan trọng đối với sự thành công của Tổng công ty. Vì vậy, Tổng công ty phải thực sự quan tâm hơn đến vấn đề quản lý Marketing xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình.
5. Đào tạo sử dụng lực lượng lao động có hiệu quả.
Lao động là một trong những nguồn lực cơ bản của một doanh nghiệp. Muốn dưa doanh nghiệp đi lên thì nhất định cán bộ, nhân viên trong Tổng công ty phải thực sự tinh thông về nghiệp vụ và lao động nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình. Do đó, Tổng công ty nên có biện pháp sử dụng lao động hợp lý, đúng ngàng, nghề chuyên môn, điều động một số cán bộ không có khả năng ở bộ phận này sang công tác ở bộ phận với khả năng trình độ của họ.
Bên cạnh đó, Tổng công ty cần phải đào tạo một đội ngũ kinh doanh giỏi để có thể kinh doanh có hiệu quả với nước ngoài. Thông qua hệ thống tuyển dụng và kiểm tra bổ nhiệm những cán bộ đúng công việc nhằm giúp họ phát huy năng lực. Yêu cầu cần thiết phải có bằng cấp, trình độ kiến thức am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt, tự tổng kết và đưa ra những quyết định đúng đắn. Tổng công ty phải cung cấp cho cán bộ kinh doanh những thông tin về thị trường, những quyết định của Bộ thương mại về mặt hàng tạm ngừng xuất khẩu, hay cấm xuất khẩu. Cán bộ kinh doanh phải am hiểu về tất cả các điều kiện trong buôn bán quốc tế, quốc gia. Chỉ có đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi thì Tổng công ty hoạt động mới có hiệu quả, mới phát triển vững mạnh. Đồng thời, Tổng công ty phải tiến hành việc quản lý nhân sự theo cơ chế thoáng, tức là giảm tới mức thấp nhấp số cán bộ trong biên chế, tăng lương cho nhân viên làm hợp đồng theo thời vụ. Để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh xuất khẩu, Tổng công ty cần tăng số phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm cho khối phòng này. mặt khác, Tổng công ty phải xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo trẻ, có năng lực quản lý giỏi, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, linh hoạt và có quyết đoán cao mới đáp ứng được yêu cầu trong cơ chế thị trường.
Như vậy, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt ở cả trong nước và ngoài Nhà nước như hiện nay, để đứng vững và phát triển mỗi doanh nghiệp phải tìm cho mình một hướng đi phù hợp trên cơ sở điều kiện thực tế của đơn vị, của đất nước. Với định hướng chiến lược đúng đắn, bản thân các doanh nghiệp lại phải xây dựng cho mình những biện pháp cụ thể mang tính khả thi và đảm bảo mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh xuất nhập khẩu là một hoạt động cực kỳ phức tạp và lại càng phức tạp hơn khi mà sự cạnh tranh đã lên tới đỉnh điểm. Do vậy, để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, ngoài sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, còn có sự phối hợp với Nhà nước, trong đó Nhà nước giữ vai trò định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động thông qua các chính sách và công cụ điều tiết vĩ mô.
IV. Một số kiến nghị với Nhà nước về quản lý vĩ mô.
Việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố trong đó cực kỳ quan trọng là quản lý vĩ mô. Quản lý mô đối với hoạt động xuất khẩu có thể thấy trong các mặt: hệ thống thuế, tỷ giá hối đoái, các biện pháp quản lý phi thuế quan, các chính sách tài chính và chính sách xuất khẩu.
1. Nhà nước nên có chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng chịu ảnh hưởng của cả tỷ giá hối đoái chính thức (TGHĐCT) và tỷ giá hối đoái thực tế (TGHĐTT).
Tỷ giá hối thoái chính thức là tỷ giá do Nhà nước công bố tại một thời điểm nhất định. Nhưng tỷ giá hối đoái thực tế thì không phải như vậy mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong nước và lạm phát ở các nước có quan hệ thương mại. TGHĐTT và TGHĐCT có mối liên hệ như sau:
TGHĐTT =
TGHĐCT x Chỉ số giá cả trong nước
Chỉ số giá cả nước ngoài
Việc đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính giá thực tế cần phải được thực hiện cẩn thận và cân nhắc kỹ bởi vì một nước có thể qua hệ buôn bán với nhiều nước khác. Để sử dụng có hiệu quả chính sách tỷ giá hối đoái có thể phải tính toán tỷ giá hối đoái song phương đối với từng bạn hàng thương mại quan trọng. Nếu tỷ giá hối đoái chính thức là cố định và chỉ số giá cả trong nước tăng lên hơn so với chỉ số giá cả nước ngoài thỉ tỷ gía hối đoái thực tế tăng lên và ngược lại.
TGHĐTT thay đổi ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các công ty, các doanh nghiệp. Do đó, nó có thể gây tác động kìm hãm hay khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Điều này thể hiện: nếu TGHĐTT quá cao thì hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng ta chịu chi phs cao hơn do lạm phát nhưng các nhà xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán với tỷ giá chính thức cố định thấp. Nếu các nhà xuất khẩu tăng giá xuất khẩu để bù đắp chi phí thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề chiếm lĩnh thị trường. Như vậy, khi tỷ giá thực tế tăng so với tỷ giá chính thức sẽ khuyến khích nhập khẩu nhưng lại kìm hãm xuất khẩu.
Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước cần có các giảipháp giảm lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền nội địa và có TGCT hợp lý, phù hợp với mục tiêu chung trong chiến lược phát triển.
2. Nhà nước nên thực hiện các biện pháp tài chính, tín dụng nhằm khuyến khích xuất khẩu.
Việc Nhà nước áp dụng các biện pháp tài chính, tín dụng nhằm mở rộng xuất khẩu là rất quan trọng, nhất là đối với các nhà xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ. Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, thị trường mà ở đó cạnh tranh cực kỳ khốc liệt, nhà xuất khẩu cần phải thực hiện trả chậm hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi cho người mua (nhà nhập khẩu). Trong trường hợp này, sự hỗ trợ của Nhà nước là rất cần thiết đối với các công ty, doanh nghiệp. Sự hỗ trợ trong việc đảm bảo tài chính, tín dụng thể hiện qua các hình thức:
2.1. Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu.
2.1.1. Cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
Vốn bỏ cho việc thực hiện sản xuất và thực hiện hợp đồng xuất khẩu thường rất lớn. Người xuất khẩu phải có vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cần phải có vốn để kéo dài khoản tín dụng ngắn hạn dành cho khách hàng. Đặc biệt với các công ty hay tổng công ty, vấn đề vốn đang là vấn đề rất khó khăn nên cần sự cung cấp tín dụng của Nhà nước với lãi suất ưu đãi. Cấp tín dụng trực tiếp cho Tổng công ty không chỉ đơn thuần là sự hỗ trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp cho Tổng công ty giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu và giảm giá thành xuất khẩu. Việc đảm bảo tín dụng ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn nâng cao hiệu quả xuất khẩu vì: có vốn Tổng công ty có thể thực hiện việc mà giá bán chịu thường bao gồm cả giá bán trả ngay cộng với phí tổn đảm bảo lợi tức. Các ngân hàng nên hõo trợ cho Tổng công ty để mạnh xuất khẩu cả trước và sau khi giao hàng.
* Một là, tín dụng trước khi giao hàng. Trước khi giao hàng Tổng công ty cần một khối lượng vốn nhất định để mua vật liệu phục vụ sản xuất, thu gom hàng xuất khẩu, trang trải các khoản chi phí vận chuyển hàng tới cảng quy định, trả tiền cước, bảo hiểm, thuế... lãi suất tín dụng xuất khẩu là yếu tố ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của Tổng công ty. Lãi suất thấp cho phép Tổng công ty bán được giá thấp để cạnh tranh với hàng hoá khác, đặc biệt là các nhà xuất khẩu nước ngoài như Thái lan, Trung Quốc...
* Hai là, tín dụng sau khi giao hàng. Đây là hình thức mua hối phiếu xuất khẩu hoặc tạm ứng theo chứng từ hàng hoá của ngân hàng đối với Tổng công ty. Loại tín dụng này thường để trả các khoản tín dụng trước khi giao hàng.
2.1.2. Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để họ sử dụng số tiền đó mua hàng của nước ta.
Nhà nước ta chưa có vốn để cho nước ngoài vay với số lượng lớn. Trong điều kiện có thể, Chính phủ không nên bỏ qua hình thức tín dụng này gắn với việc đẩy mạnh xuất khẩu ở nước ta.
2.2. Nhà nước bảo đảm tín dụng.
Như nhiều doanh nghiệp xuất khẩu khác, trong điều kiện cho phép, để chiếm lĩnh thị trường, Tổng công ty đã phải thực hiện bán chịu, trả chậm cho người nước ngoài. Việc bán chịu như vậy thường có rủi ro dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp này, để khuyến khích xuất khẩu Nhà nước cần phát huy hơn hiệu quả của dịch vụ bảo hiểm xuất khẩu, đền bù mất vốn để Tổng công ty cũng như các nhà xuất khẩu khác yên tâm hoạt động và tránh được rủi ro. Tuy nhiên, bản thân Tổng công ty cũng sẽ rất quan tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu và thu tiền bán hàng khi hết thời hạn sử dụng tín dụng.
3. Nhà nước nên thực hiện trợ cấp xuất khẩu
Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp cho Tổng công ty tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp trực tiếp và trợ cấp gián tiếp.
3.1. Trợ cấp trực tiếp.
Trợ cấp trực tiếp là việc áp dụng thuế ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, cho nhà xuất khẩu được hưởng giá ưu đãi đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất (điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu...). Đối với Tổng công ty, do được khuyến khích xuất khẩu nên thuế xuất khẩu được miễn, mặc dù vậy hình thức trợ cấp xuất khẩu trực tiếp cần được phát huy tác dụng hơn nữa, nhất là việc hoàn lại thuế nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất và giá ưu đãi đối với các giá đầu vào khác.
3.2. Trợ cấp gián tiếp.
Trợ cấp gián tiếp là hình thức trợ cấp của Nhà nước thông qua việc Nhà nước dùng ngân sách của mình để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo... tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước trợ giúp về kỹ thuật, đào tạo chuyên gia. Trong điều kiện cạnh tranh cả trong nước và ngoài nước như hiện nay, Tổng công ty rất cần có sự giúp đỡ của Chính phủ trong việc nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin về thị trường, giới thiệu, triển lãm và quảng cáo hàng. Những vấn đề này bản thân Tổng công ty làm không có hiệu quả cao.
4. Biện pháp về thể chế tổ chức.
Nhà nước tạo điều kiện cho xuất khẩu bằng biện pháp thâm nhập thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoaì thông qua việc:
- Công nhận hoặc thừa nhận, tham gia ký kết công ước chung quốc tế về thương mại...
- Lập các viện nghiên cứu cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác cho các doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty nói riêng.
- Đào tạo cán bộ chuyên gia giúp Tổng công ty.
- Nhà nước đứng ra ký kết các hiệp định thương mại, hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ, viện trợ... trên cơ sở đó thúc đẩy xuất khẩu.
5. Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất nhập khẩu.
Trong quá trình đổi mới cơ chế, chính sách xuất khẩu Nhà nước luôn chú trọng đề ra các biện pháp khuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế... Tuy cơ chế mới làm cho thủ tục xuất khẩu đã thuận tiện, đơn giản hơn nhưng vẫn còn thủ tục phiền hà, cần sớm hoàn thiện để thực sự khuyến khích xuất khẩu.
Về hệ thống thuế xuất nhập khẩu, cần hoàn thiện một số điểm để thực sự trở thành công cụ quản lý có hiệu quả. Như nhận xét của các chuyên gia kinh tế thì biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp và thuế suất đối với một số mặt hàng tiêu dùng quá cao làm tăng buôn lậu và giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
IV. Những kiến nghị của bản thân về hoạt động thúc đẩy xuất khẩu.
1. Kiến nghị về cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu ở nước ta.
Trong những năm gần đây, chính sách thúc đẩy xuất khẩu nói riêng, cơ chế xuất nhập khẩu nói chung ở nước ta đã có nhiều tiến bộ như mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ hệ thống giấy phép kinh doanh xuất khẩu... Tuy nhiên, nó còn một số hạn chế như thường xuyên làm thay đổi mức thuế suất, danh mục mặt hàng làm các doanh nghiệp luôn bị động trong kinh doanh xuất khẩu. Từ thực tế này, có một số kiến nghị như sau: Duy trì và phát triển thị trường ASEAN, khai thông hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (WTO - TRIMS) và cuối cùng là các biện pháp khuyến khích xuất khẩu cần thực hiện.
2. Kiến nghị về mặt hàng rau quả xuất khẩu.
* Một là, Phải nắm vững đặc tính tiêu dùng của người tiêu dùng nước ngoài, họ rất chú trọng đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và rất nhạy cảm đối với các đồ ăn đặc biệt là đồ ăn tươi như hoa quả tươi.
* Hai là, Phải chú ý đến độ an toàn. Hàng nhập khẩu vào thị trường nước ngoài như Mỹ, Nhật Bản... đều qua hệ thống kiểm duyệt một cách khắt khe, chặt chẽ theo luật an toàn thực phẩm và luật vệ sinh thành phẩm. Do đó, sản phẩm rau quả xuất khẩu của ta để xâm nhập được vào thị trường nước ngoài cần hạn chế chất hoá học và chất phụ gia để đảm bảo đúng tinh chất của hàng rau quả.
* Ba là, Phải đặc biệt coi trọng yếu tố chất lượng. Đối với rau, độ tươi được đánh giá cao, tiếp theo là hương vị, hình dáng và màu sắc. Đối với trái cây, thì yêu cầu về chất lượng cao hơn rau vì trái cây dùng để ăn ngay. Trái cây cần được quan tâm đến hương vị, màu sắc, kích thước đồng đều, bao bì sao cho hấp dẫn. Đối với rau quả hộp thì trong công tác chế biến yêu cầu phải giữ được tinh chất của rau quả.
* Bốn là, Tiếp cận thị trường một các toàn diện, tạo mối quan hệ gắn bó với các công ty nhập khẩu, các nhà phân phối, các siêu thị và các cửa hàng bán lẻ ở ngoài nước.
Tóm lại, trên đây là các biện pháp cơ bản để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và của Tổng công ty rau quả Việt Nam nói riêng trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên còn rất nhiều những biện pháp khác liên quan đến hoạt động thúc đẩy xuất khẩu ở Tổng công ty nhưng tôi xin dừng ở những biện pháp cơ bản chủ yếu trên.
Kết luận
Cùng với hơn mười năm thực hiện đổi mới của cả nước, Tổng công ty rau quả Việt Nam đã không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn để tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, do biến động về kinh tế - chính trị ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu và đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, song Tổng công ty vẫn không chịu bó tay mà ngược lại, vẫn đang tìm ra những giải pháp mới, những hướng đi mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, coi đây là vấn đề trọng tâm của Tổng công ty trong mọi giai đoạn phát triển. Tuy vậy, muốn hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới, đồng thời thoả mãn nhu cầu về tiêu dùng trong nước, quan trong hơn là xuất khẩu, tăng trị giá nông sản hàng hoá thì Tổng công ty phải chấp nhận sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như một quy luật tất yếu của cơ chế thị trường. Nhưng chúng ta hy vọng và tin tưởng Tổng công ty rau quả Việt Nam sẽ trân trọng và phát triển các thành quả đx đạt được, đoàn kết thống nhất trong các đơn vị thành viên của Tổng công ty, huy động trí tuệ tập thể để tiếp tục phát triển vững mạnh trong thời gian sắp tới.
Nhằm gắn liền với những đòi hỏi và yêu cầu thực tế, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam, thực trạng và giải pháp”. Nội dung chính của đề tài đề cập đến ba vấn đề chính, đó là: Trên cơ sở lý luận chung và hoạt động xuất khẩu; Phân tích thực trạng xuất khẩu của công ty. Qua đó, rut ra được mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu để đưa ra một vài giải pháp nhằm giải quyết những tồn taih đó và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty.
Vì phạm vi đề tài nghiên cứu tương đối rộng cùng với thời gian có hạn và trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đánh giá, bổ sung góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn đồng học để đề tài thực sự hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, cho phép em được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới tập thể thầy, cô giáo trong Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh quốc tế, đặc biệt là cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Ngô Thị Tuyết mai cùng các bạn sinh viên trong lớp KTQT - K39.
Tài liệu tham khảo
GS. PTS Tô Xuân Dân - Giáo trình Kinh tế học Quốc tế - NXB Giáo dục 1995
GS. PTS Tô Xuân Dân - PTS. Nguyễn Thị Hường - PTS Nguyễn Thường Lạng - Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - NXB Thống kê 1998.
PGS. Vũ Hữu Tửu - Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Trường đại học Ngoại Thương - NXB Giáo Dục 1998.
Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - Trường đại học Ngoại Thương.
GS. PTS Tô Xuân Dân - Giáo trình Đàm phán ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế - NXB Thống kê 1998.
Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tổng công ty rau quả Việt Nam năm 1997, 1998, 1999.
Định hướng phát triển của Tổng công ty rau quả Việt Nam giai đoạn 1998 -2010.
Báo cáo thực hiện xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam năm 1997,1998, 1999.
Báo “Nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm” - 1999.
Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu năm 1998, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp. TTGC 4-1998.
Một số kiến nghị về xuất nhập khẩu hiện nay - KTVTDB 18/1997.
Tạp chí Ngoại thương tháng 6, 7, 8, 9 năm 2000.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV435.doc