Đề án Một số cơ sở khoa học về hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cho phát triển kinh tế hộ nông dân

Để khuyến khích nông dân mua máy phục vụ sản xuất nông nghiệp, tháng 6-2004,Thủ tướng Chính phủ có ý kiến, tùy khả năng ngân sách và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng cho nông dân mua máy sản xuất trong nước. Ðến nay, nhiều địa phương đã chỉ đạo thực hiện cơ chế trợ giúp nông dân mua máy mà Quảng Ngãi là địa phương tiêu biểu. UBND tỉnh Quảng Ngãi quan tâm chỉ đạo các ngành, đoàn thể: Kế hoạch và đầu tư, tài chính, công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng No&PTNT , hội nông dân, xây dựng quy trình cụ thể, rõ ràng, thuận lợi, thực hiện trợ giúp nông dân vay vốn ngân hàng mua máy phục vụ chương trình cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Các ngành tài chính, ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết nhanh các thủ tục, chế độ hỗ trợ, tạo động lực khuyến khích nông dân mua máy. Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Quảng Ngãi, gắn bó sâu sát, ủng hộ các hộ nông dân có nhu cầu mua máy, kịp thời giải quyết thủ tục, chế độ để nông dân có vốn mua máy, làm đất đúng mùa vụ. Trên cơ sở khế ước vay ngân hàng, thực hiện cơ chế tín dụng "tay ba" gồm: ngân hàng, hội nông dân và đơn vị cung cấp máy cho hộ nông dân. Ngân hàng chuyển tiền nông dân vay cho đơn vị cấp máy. Tài chính trả lãi suất cấp bù hỗ trợ cho ngân hàng. Hội nông dân có trách nhiệm nắm danh sách hộ nông dân vay vốn mua máy, giám sát, xác nhận để thực hiện thủ tục thanh, quyết toán lãi suất hỗ trợ đúng chế độ. Cách làm này, trên thực tế, đáp ứng nguyện vọng, yêu cầu của nông dân, đồng thời thủ tục vay, thanh toán cũng nhanh, gọn. Các đơn vị của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp giữ vai trò chủ lực, phối hợp với các địa phương, cung cấp máy cho nông dân theo cơ chế hỗ trợ lãi suất vay vốn, mua máy. Chính sách này chẳng những giúp nông dân có máy sản xuất, mà còn tạo thị trường, sức mua, tiêu thụ sản phẩm cơ khí. Nhờ đó, 10 tháng đầu năm nay, tổng công ty tiêu thụ 23.670 động cơ các loại (tăng 35%), 2.065 máy kéo (tăng 11%), 510 máy cắt lúa (tăng 78%) so với cùng kỳ năm trước. Từ chính sách này, một yêu cầu lớn đối với các doanh nghiệp chế tạo các sản phẩm cơ khí là cần quan tâm cải tiến, nâng cao chất lượng máy, giảm chi phí, có giá bán hợp lý, chủ động cùng các địa phương hỗ trợ nông dân, đẩy mạnh hơn nữa việc đưa máy vào sản xuất nông nghiệp.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số cơ sở khoa học về hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cho phát triển kinh tế hộ nông dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô hình này, người nông dân đang từng bước tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến để hội nhập và phát triển. Người dân đã có đất đai, nguồn lao động dồi dào nhưng họ lại đang thiếu vốn. Vốn được huy động bổ sung từ rất nhiều nguồn nhưng trong điều kiện kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn, khả năng tích lũy vốn thấp thì vốn tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn bổ sung quan trọng nhất giúp người nông dân có lượng vốn cần thiết để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề nâng cao thu nhập và từng bước cải thiện mức sống. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (No&PTNT) là một ngân hàng thương mại lớn. Hiện nay, ngân hàng đã thực hiện cho vay vốn đến hộ nông dân bằng nhiều biện pháp đa dạng và ngày càng phù hợp hơn với người dân.. Với một mong muốn mang lại hiệu quả thực sự cho đồng vốn vay của người dân. Em đã lựa chọn đề tài : “Một số cơ sở khoa học về hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cho phát triển kinh tế hộ nông dân”. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Vũ Đình Thắng cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa đã giúp em hoàn thành bài viết này. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tín dụng ngân hàng cho phát triển kinh tế hộ nông dân. I. Tổng quan về kinh tế hộ nông dân. 1.Khái niệm kinh tế hộ nông dân. Hộ nông dân là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, bao gồm một nhóm người xó xùng huyết tộc hoặc quan hệ huyết tộc sống chung trong một mái nhà, có chung một nguồn thu nhập, tiến hành các hoạt động sản xuất nông nghiệp với mục đích chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của các thành viên trong hộ. Kinh tế hộ là một tổ chức kinh tế cơ sở, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là pháp nhân kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và là chủ thể của nền kinh tế thị trường. Các gia đình xã đã trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ, đã huy động mọi khả năng về lao động, vật tư, tiền vốn để đẩy mạnh phát triển sản xuất, nên đời sống người dân nói chung đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, cao hơn hẳn so với những năm trước đó và đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, đang có một chỗ đứng vững chắc trong bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, góp phần to lớn vào sự phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam. 2. Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân. 2.1. Đông về số lượng, nhưng đa số vẫn còn duy trì kinh tế tiểu nông, sản xuất hàng hóa mới trong giai đoạn phát triển ban đầu, sản xuất của hộ nông dân dựa trên công cụ sản xuất thủ công, trình độ canh tác lạc hậu, trình độ khai thác tự nhiên thấp, mức sống còn thấp. 2.2. Hộ nông dân có sự gắn bó của các thành viên về huyết thống, quan hệ hôn nhân, có lịch sử và truyền thống lâu đời,… nên các thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Do thống nhất về lợi ích nên sự gắn kết, tính tự nguyện, tự giác cao trong lao động. Trong mỗi nông hộ bố mẹ vừa là chủ hộ, vừa là người tổ chức hoạt động sản xuất. Vì vậy, tổ chức sản xuất trong hộ nông dân có nhiều ưu việt và có tính đặc thù. 2.3. Đối với hộ nông dân với tư cách là người đi vay của ngân hàng, có những đặc điểm sau: Thứ nhất, chủ thể đi vay là hộ nông dân thì tính pháp lý được xem xét trên cơ sở sở hữu chung, do đó mà mọi thành viên trong hộ gia đình đều liên đới trách nhiệm trong quan hệ giao dịch tín dụng. Về mặt giao dịch với ngân hàng, chỉ cần người đại diện hộ nông dân đứng tên giao dịch với ngân hàng trên cơ sở ủy quyền của các thành viên trong hộ. Thứ hai, là khả năng tài chính của hộ nông dân. Tài sản của hộ nông dân bao gồm cả tài sản chung của các thành viên trong hộ và cả tài sản riêng của các thành viên góp vào sử dụng chung. Khó khăn thường gặp ở hộ có số người tham gia lao động ít, tài sản không đáng kể (như những hộ nghèo, đông trẻ nhỏ) thì nguồn trả nợ duy nhất chỉ trông vào thu nhập mà ngân hàng cho vay. Vốn tự có lúc này chủ yếu là khả năng lao động của hộ, tức kinh nghiệm cùng khả năng tổ chức và trực tiếp tham gia lao động của những thành viên trong hộ nông dân. 3. Vai trò của kinh tế hộ nông dân. 3.1. Kinh tế hộ nông dân phát triển đã tận dụng và sử dụng hợp lý nguồn lao động dư thừa trong nông thôn. Ngành nghề nông thôn với nhiều hoạt động, không đòi hỏi nhiều vốn, yêu cầu kỹ thuật không cao, chủ yếu là tận dụng lao động gia đình, phân tán trong từng hộ gia đình. Do vậy, nếu ngành nghề nông thôn phát triển mạnh sẽ thu hút được nhiều lao động nông thôn. Việc phát triển đa dạng các loại hình kinh tế hộ trong nông thôn sẽ tận dụng tốt thời gian lao động, khắc phục được tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Nhiều hộ kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp với phát triển ngành nghề nông thôn, thậm chí một số hộ chuyển hẳn sang làm nghề phi nông nghiệp đó là những hộ chuyên ngành nghề. Những hộ này sẽ là những trung tâm thu hút lao động của địa phương và lao động những vùng xung quanh để hình thành trung tâm kinh tế phát triển ở nông thôn đó là các thị trấn, thị tứ, các làng nghề tiểu thủ công nghiệp. 3.2. Từng bước tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ, hộ nông dân từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, tự mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để từng bước giảm bớt lao động ở những khâu nặng nhọc hoặc những khâu độc hại, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Từ đó công cụ sản xuất được tăng cường, đổi mới và từng bước được hoàn thiện góp phần làm tăng năng suất lao động. Tạo điều kiện chô công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn phát triển nhanh chóng và vững chắc. Từng bước xóa bỏ sự phát triển chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. 3.3. Làm tăng thêm giá trị hàng hóa, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Các hộ sử dụng các công cụ truyền thống hoặc hiện đại để chế biến nông sản phẩm, tận dụng các nguồn tài nguyên, các phế liệu phẩm để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, làm tăng giá trị hàng hóa, tăng giá trị hàng xuất khẩu. Từ đó cơ cấu kinh tế được chuyển dịch từ nông nghiệp thuần và thô sang một cơ cấu có công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Một bộ phận lớn lao động nông nghiệp đựơc chuyển sang làm việc ở lĩnh vực phi nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều. 3.4. Thúc đẩy đa dạng hóa sản xuất và tăng thu nhập cho người dân. Ngoài sản xuất nông nghiệp, các hộ còn sản xuất thêm nhiều nghề phụ để tận dụng nguồn lực dư thừa, góp phần làm tăng thu nhập bình quân cho một lao động, mang lại thu nhập cao hơn rất nhiều so với thu nhập bình quân của một lao động nông nghiệp thuần và đang từng bước xóa hộ đói giảm hộ nghèo, đồng thời góp phần nâng cao trình độ dân trí, văn minh hóa sản xuất nông nghiệp nông thôn. Việc đa dạng hóa sản xuất của hộ nông dân không chỉ đơn thuần là tăng thêm nguồn thu, mà còn đặt ra yêu cầu đối với các hộ phải tính toán để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. 4. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân. Nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn đã làm cho kinh tế hộ nông dân phát triển mạnh mẽ với cơ cấu đa dạng đang chuyển dịch theo một xu hướng tích cực. Có một số xu hướng phát triển sau: 4.1. Xu hướng phát triển kinh tế trang trại. Đây là một xu hương đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới và đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Ở nước ta xu hướng này đang diễn ra mạnh mẽ với các hộ sản xuất hàng hóa có tỷ xuất hàng hóa cao, có diện tích canh tác lớn và ngày càng tăng, những hộ có diện tích mặt nước lớn, do sự ưu ái của điều kiện tự nhiên từng vùng đã hình thành nên những vùng sản xuất chuyên canh cây công nghiệp, cây ă quả, cây lương thực, tạo ta vùng nuôi trồng và đánh bắt thủy sản lớn…những hộ nông dân này có xu hướng phát triển thành những hộ trang trại gia đình có trình độ canh tác, lao động năng suất, kết quả sản xuất, giá trị sản phẩm hàng hóa cao hơn so với kinh tế hộ nông dân thường. Các hộ trang trại thường có lượng vốn cao hơn rất nhiều so với hộ nông dân do họ biết tích lũy và phát triển nguồn vốn của mình. 4.2. Xu hướng phát triển hộ ngành nghề. Xu hướng này diễn ra với những hộ có tỷ xuất hàng hóa cao, nhưng chưa phải là các trang trại, số hộ này tập trung chủ yếu ở đồng bằng, đất chật, người đông, diện tích đất sản cuất nông nghiệp bình quân trên đầu người thấp, dân số gia tăng nhanh… Dân cư ở đây thường sống chung theo làng, xã từ lâu đời và họ thường có những ngành nghề phụ phi nông nghiệp để tạo thêm việc làm lúc nhàn rỗi, tăng thu nhập. Những hộ nông dân này có nhiều kỹ năng lao động, họ có máy móc, công cụ sản xuất, nhà xưởng và phương tiện vận chuyển cơ giới ngày càng nhiều so với các hộ nông dân ở vùng khác. Xu hướng phát triển của họ là vừa làm nông nghiệp và kiêm các ngành nghề phụ khác, phát triển ngành nghề truyền thống, xây dựng các ngành nghề mới, phát triển ngành nghề truyền thống, xây dựng các ngành nghề mới, phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống cho nhân dân trong vùng. Hiện nay cả nước số hộ ngành nghề chưa nhiều, hộ chủ yếu vừa làm nông nghiệp vừa làm ngành nghề. Cả hai họat động ngành nghề và sản xuất nông nghiệp đều có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho hộ nông dân, hộ ngành nghề đang có xu hướng phát triển nhanh về số lượng cũng như chất lượng, từng bước nâng dần số hộ chuyên làm ngành nghề có quy mô lớn, thu hút nhiều lao động trong và ngoài địa phương tham gia sản xuất, tăng thu nhập và tạo ra những sản phẩm có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế. 4.3. Xu hướng phát triển hộ dịch vụ thương mại. Ngày nay dưới tác động của quá trình đô thị hóa một phần lớn diện tích đất nông nghiệp ở các vùng nông thôn đã chuyển sang mục đích khác đó là các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vui chơi giải trí, các khu đô thị, các thị tứ, thị trấn mọc lên rất nhiều, người dân không còn đất để sản xuất nông nghiệp. Do đó họ có xu hướng chuyển sang tham gia vào các ngành thương mại, dich vụ, làm xuất hiện nhiều loại hộ nông dân làm nghề mới như các hộ làm dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp, công nghiệp xây dựng … Một xu hướng nữa đã mang lại hiệu quả thiết thực cho công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nông thôn là đi xuất khẩu lao động. Xu hướng này đang phát triển rất tốt và nhiều hộ đã vay vốn ngân hàng cho con em mình đi xuất khẩu lao đông. Tuy nhiên cần chú ý đào tạo lao động để hạn chế rủi ro lao động bị trả về nước trước thời hạn và bị các công ty giới thiệu việc làm lừa để chiếm tiền. 5. Các nhóm nhân tố ảnh hưởng tới kinh tế hộ nông dân. 5.1. Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên. Nhóm nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của kinh tế nông hộ, bao gồm: vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, khoáng sản,… ở nước ta hộ nông dân sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, do đó những yếu tố về tự nhiên đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là đất đai –là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất, đất đai tham gia với tư cách yếu tố tích cực của sản xuất , là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động vì đất đai chịu sự tác động trực tiếp của con người thông qua các biện pháp canh tác và con người thông qua ruộng đất tác động lên cây trồng, cung cấp các yếu tố dinh dưỡng để cây trồng sinh trưởng và phát triển. Đất đai là tư liệu sản xuất không đồng nhất do cấu tạo thổ nhưỡng, địa hình, vị trí, độ màu mỡ…khác nhau. Thực tế cho thấy ở những nơi có điều kiện thuận lợi, đất đai màu mỡ thì ở đó cuộc sống của người nông dân tốt hơn rất nhiều so với những vùng khác. Những vùng vùng có điều kiện thuận lợi thì năng suất sản phẩm trên một đơn vị diện tích cao hơn, chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm thấp và ngày một giảm. Điều này làm cho sản phẩm ở những vùng này có tính cạnh tranh hơn hẳn những vùng khác. Ở nước ta, mỗi vùng có vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, nguồn nước,… khác nhau nên có vùng thuận lợi phát triển ngành nghề này mà vùng khác không có và ngược lại, từ đó tạo ra lợi thế so sánh giữa các vùng. Từ đó có thể trao đổi hàng hóa giữa các vùng lãnh thổ. Đây là cơ sở tự nhiên hình thành nên các vùng kinh tế lãnh thổ thông qua việc bố trí các ngành sản xuất thích hợp với tiềm năng và lợi thế của mỗi vùng, tạo thuận lợi đi sâu vào chuyên môn hóa, tập trung hóa sản xuất, hình thành vùng trọng điểm sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với sản phẩm hàng hóa cao. Bên cạnh những mặt tích cực thì điều kiện tự nhiên còn gây khó khăn cho sản xuất của hộ nông dân. Điều kiện thời tiết, khí hậu luôn có diễn biến phức tạp, bất ngờ đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất. Vì vậy, chúng ta phải luôn linh hoạt trong tổ chức sản xuất và có phương án nhằm giảm thiệt hại khi có sự biến đổi bất lợi của các điều kiện tự nhiên. 5.2. Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội. Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của kinh tế hộ nông dân gồm: dân số và lao động, thị trường, hệ thống chính sách vĩ mô của Nhà nước, vốn, cơ sở hạ tầng trong nông thôn,… * Dân số và lao động: là yếu tố quyết định đối với tất cả các lĩnh vực sản xuất. Nó được thể hiện ở số lượng và chất lượng lao động. Một quốc gia có nhiều lao động là điều kiện thuận lợi cho phát triển nhiều ngành nghề với chi phí nhân công thấp nhưng nếu chất lượng lao động thấp thì ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động và hiệu quả lao động sống. Nước ta có kết cấu dân số trẻ với đa số lao động sống bằng nghề nông, trình độ lao động còn thấp, thói quen canh tác và thâm canh lạc hậu là rào cản lớn trong quá trình đưa nông nghiệp nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hóa. * Thị trường nông nghiệp nông thôn không chỉ thực hiện chức năng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp mà còn góp phần quan trọng trong thu hút vốn, sức lao động, vật tư, công nghệ kỹ thuật mới… Do sự phát triển của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi về chất lượng ngày càng cao, bắt buộc người dân phải linh hoạt trong bố trí cơ cấu sản phẩm, cơ cấu đầu tư hợp lý để tạo ra sản phẩm có giá trị cao với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, thị trường luôn chứa những khả năng tự phát và dẫn đến rủi ro cho người nông dân cũng như gây lãng phí cho các nguồn lực của xã hội. Vì vậy, Nhà nước phải có sự tác động hợp lý để định hướng sự vận động và biến đổi của thị trường. * Hiện nay, Việt Nam đã ra nhập WTO, các quốc gia ngày càng có điều kiện tham gia sâu vào thị trường Việt Nam. Thông qua các quan hệ quốc tế, các quốc gia dễ dàng tham gia vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ. Việc xây dựng các khu vực kinh tế sản xuất tập trung ngoài việc phát huy lợi thế so sánh còn phải chú ý đến tình hình thị trường thế giới. Thông qua hợp tác và tham gia thị trường quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho tiếp thu công nghệ mới cũng như các nguồn vốn đầu tư, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước là công cụ hết sức quan trọng. Chính sách kinh tế là một hệ thống các biện pháp kinh tế được thể hiện bằng các văn bản pháp quy tác động cùng chiều vào nền kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu đã định. Chức năng quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô là tạo ra động lực kinh tế, đảm bảo lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng. Các chính sách còn tạo ra hành lang pháp lý, nghĩa vụ và quyền bình đẳng cho mọi ngành, mọi thành phần kinh tế khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo các nhu cầu của thị trường để cac quy luật kinh tế phát huy những tác dụng tích cực, hạn chế tiêu cực, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế vững chắc. Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ thì các chính sách kinh tế cũng phải điều chỉnh cho phù hợp vì các chính sách Nhà Nước ban hành luôn có tính hai mặt, một mặt là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững, đem lại hiệu quả cho người nông dân nếu chính sách đó phù hợp, mặt khác nó kìm hãm sự phát triển khi nó không còn phù hợp. Vì vậy, Nhà Nước cần ban hành một hệ thống chính sách bổ trợ và hoàn thiện cho chính sách. * Cơ sở hạ tầng : yếu tố này có phát triển thì mới đảm bảo cho kinh tế hàng hóa phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thuộc sở hữu của nhiều thành phần kinh tế, phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, thương mại, dịch vụ và sinh hoạt của cộng đồng dân cư trong nông nghiệp, nông thôn như hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống điên, trường, trạm,… Đây là những công trình rất cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Sản xuất kinh doanh càng lớn thì nhu cầu xây dựng các công trình này càng nhiều và càng hiện đại. Ngoài những nhân tố kinh tế - xã hội thì kinh nghiệm, tập quán sản xuất, truyền thống văn hóa xã hội của dân cư nông thôn cũng ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của các ngành nghề sản xuất trong mỗi vùng, qua đó ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ. 5.3. Nhóm nhân tố về tổ chức kỹ thuật. Nhóm nhân tố này ảnh hưởng tới quá trình tổ chức sản xuất, phát triển và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào quá trình sản xuất của nông hộ. Tổ chức sản xuất là đưa ra những kế hoạch mục tiêu và quản lý điều hành như thế nào để đạt được những mục tiêu đó với hiệu quả kinh tế cao. Gắn liền với quá trình tổ chức sản xuất là viêc áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật nhằm giảm bớt các chi phí, giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để tối đa hóa lợi nhuận. Trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nước ta vấn đề quan trọng là phải nhanh chóng và không ngừng thay đổi kỹ thuật, công nghệ cũ, lạc hậu bằng kỹ thuật và công nghệ mới hiên đại, ở các vùng, các thành phần kinh tế cần có sự ưu tiên đầu tư khoa học kỹ thuật đối với các ngành mũi nhọn và vùng kinh tế trọng điểm. Tuy nhiên, đầu tư khoa học, kỹ thuật mới không có nghĩa là quên đi các kinh nghiệm quý báu của làng nghề truyền thống những công cụ cơ khí cải tiến. Chúng ta phải vừa vận dụng công nghệ sẵn có, từng bước cải tiến, nâng cao, vừa tranh thủ tiếp cận với công nghệ hiện đại. Biết lựa chọn từng khâu, từng mặt trong mỗi ngành, mỗi vùng và mỗi thành phần kinh tế để có thể tiến thẳng lên công nghệ hiện đại. Đồng thời phải biết hiện đại hóa công nghệ truyền thống đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng bởi những sản phẩm truyền thống cũng mang lại hiệu quả rất tốt với chất lượng cao. Tóm lại, kinh tế nông hộ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Mỗi nhân tố đều có vai trò, vị trí tác động nhất định tới sự phát triển của kinh tế hộ. Có những nhân tố tác động tích cực vào thời điểm này, vùng này, ngành này nhưng lại là nhân tố tác động tiêu cực ở vùng khác, ngành khác. Do đó chúng ta cần nắm vững được sự ảnh hưởng của các nhân tố trên, từ đó lựa chọn cách thức bố trí sản xuất linh hoạt, hợp lý để hạn chế những tác động tiêu cực đồng thời phát huy những tác động tích cực. II. Vai trò của tín dụng ngân hàng cho phát triển kinh tế hộ nông dân. 1. Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng. 1.1. Khái niệm tín dụng, đặc điểm tín dụng ngân hàng. 1.1.1. Khái niệm tín dụng. Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay(ngân hàng và các chế định tài chính khác) và một bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức định chế khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo tỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả cả vốn và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán. Tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả. Nó gồm hai hình thức là cho vay và cho thuê, xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả thì người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đó là nguyên tắc hết sức cơ bản trong hoạt động tín dụng. Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc cho người đi vay. Muốn thực hiện được điều này phải xác định được lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của tín dụng. Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi giữa ngân hàng và các chủ thể khác như doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế - xã hội… 1.1.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng. - Về khối lượng vốn cho vay: tín dụng ngân hàng có thể thỏa mãn tối đa nhu cầu về vốn của các chủ thể trong nền kinh tế, nếu chủ thể này chấp hành đầy đủ các điều kiện tín dụng của ngân hàng. Vì ngân hàng có thể huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới nhiều hình thức và với khối lượng lớn hơn nhiều lần vốn tự có của ngân hàng. - Về thời hạn cho vay: tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vay theo nhiều thời hạn vay của khách hàng vì ngân hàng huy động vốn theo nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, ngân hàng còn có thể điều chỉnh các nguồn vốn, sử dụng một phần vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn. - Về phạm vi cho vay: tín dụng ngân hàng không những đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, mà còn đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác trong đời sống kinh tế - xã hội. 1.2. Phân loại tín dụng. Dưới đây là một số tiêu thức phân loại chính: 1.2.1. Phân loại theo mục đích cho vay: theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng được chia thành các loại sau: - Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng nhà cửa, đất đai bất động sản thường xảy ra trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay nông nghiệp: là hình thức cho vay mà người vay vốn sử dụng vốn vào trang trải các chi phí sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, máy móc, nhiên, nguyên vật liệu… phục vụ sản xuất nông nghiệp. - Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng công ty tài chínhm công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm quỹ tín dụng và các định chế khác. - Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, các chi phí thông thường của đời sống, thông qua phát hành thẻ tín dụng, cho thuê tài sản, cho thuê bất động sản trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị. 1.2.2. Phân loại theo tính chất bảo đảm an toàn. Tín dụng có thể chia thành tín dụng có thế chấp và tín dụng không cần thế chấp. - Tín dụng có thế chấp: là tín dụng được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của người đi vay (hoặc của người bảo lãnh). Loại tín dụng này phát sinh trong những trường hợp người vay không có sự tín nhiệm, tin tưởng đối với người cho vay. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đây là loại hình tín dụng phổ biến. Với loại hình tín dụng này, người cho vay được đảm bảo chắc chắn hơn về khả năng thu hồi nợ, ngay cả trong trường hợp người vay mất khả năng thanh toán. - Tín dụng không cần tài sản đảm bảo: là loại tín dụng thực hiện trên uy tín của người vay, thường là những khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, không xảy ra tình trạng nợ nần, hoặc khoản vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. 1.2.3. Phân loại theo thời hạn tín dụng: theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia thành 3 loại: - Tín dụng ngắn hạn: bao gồm các quan hệ tín dụng có thời hạn cho vay đến 12 tháng. Đây là khoản cho vay nhằm bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính để thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa và dịch vụ. - Tín dụng trung hạn: bao gồm các quan hệ tín dụng có thời gian vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Đây là khoản cho vay chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, trong nông nghiệp đối tượng đầu tư chủ yếu là máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều,… - Tín dụng dài hạn: bao gồm các quan hệ tín dụng có thời gian lớn hơn 60 tháng. Trong nông nghiệp, tín dụng dài hạn thường đầu tư cho những dự án trồng rừng, trồng cây lâu năm. Ngân hàng No & PTNT chủ yếu cho vay ngắn hạn và trung hạn. 1.3. Đặc điểm của tín dụng ngân hàn cho phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân. 1.3.1. Tính chất thời vụ gắn liền với chu kỳ sinh trưởng và phát triển của động, thực vật. Tính chất thời vụ trong cho vay nông nghiệp có liên quan đến chu kỳ sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi trông ngành nông nghiệp mà ngân hàng tham gia cho vay. Thường tính thời vụ được biểu hiện ở những mặt sau: - Mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp quyết định thời điểm cho vay và thu nợ, đầu vụ cho vay và đến kỳ thu hoạch người dân tiêu thụ hết sản phẩm tiến hành thu nợ. - Chu kỳ sống tự nhiên của cây, con là yếu tố quyết định để tính toán thời hạn cho vay. Chu kỳ ngắn hay dài tùy thuộc vào loại giống cây, con và quy trình sản xuất của từng loại cây trồng, vật nuôi. - Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng. Đối với khách hàng vay vốn đẻ sản xuất nông nghiệp, nguồn trả nợ chủ yếu cho ngân hàng là tiền thu bán nông sản và các chế phẩm từ nông sản. Như vậy, sản lượng nông sản thu về sẽ là yếu tố quyết định trong việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng, mà sản lượng nông sản chịu ảnh hưởng rất lớn của thiên nhiên, đặc biệt là những yếu tố khí hậu, đất đai, nước. - Bên cạnh đó yếu tố tự nhiên cũng tác động đến giá cả của nông sản như thời tiết thuận lợi sẽ cho năng suất cao nhưng sẽ làm giá nông sản hạ,… sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng đi vay vốn. 1.3.2. Chi phí tổ chức cho vay cao. Chi phí tổ chức cho vay có liên quan đến nhiều yếu tố như: chi phí tổ chức mạng lưới, chi phí cho việc thẩm định, theo dõi khách hàng, theo dõi món vay và chi phí phòng ngừa rủi ro. Cụ thể: - Cho vay đối với hộ nông dân chi phí cho một đồng vốn vay thường cao do quy mô từng món vay nhỏ và mục đích sử dụng vốn đa dạng. - Số lượng khách hàng đông, phân bố khắp nơi nên việc mở rộng cho vay thường liên quan tới việc mở rộng mạng lưới cho vay và thu nợ cũng làm tăng chi phí. Do sản xuất nông nghiệp có độ rủi ro tương đối cao nên chi phí dự phòng rủi ro là tương đối lớn so với các ngành khác 2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân. 2.1. Hỗ trợ vốn cho phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới công nghệ. Trong nền kinh tế thị trường, các hộ nông dân với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ họ phải thay đổi cách thức làm ăn, xóa bỏ độc canh cây lúa, năng động để thích ứng với cơ chế mới, người nông dân phải tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa vì vậy họ không thể sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn. Nhờ nguồn vốn tín dụng, các hộ nông dân không những bảo đảm quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường, liên tục mà còn mua sắm trang thiết bị, máy móc, giống mới, kỹ thuật mới để mở rộng sản xuất hoặc thay đổi cơ cấu nông sản phẩm. 2.2. Hỗ trợ nguồn vốn cho chế biến và lưu thông hàng hóa nông sản. Nước ta là một nước nông nghiệp, nông thôn là khu vực sản xuất chủ yếu đáp ứng nhu cầu cơ bản tối cần thiết về lương thưc, thực phẩm cho xã hội. Đơn vị sản xuất chủ yếu là các hộ kinh tế tự chủ. Hiện nay, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi nhưng giá trị hàng hóa còn chưa cao, chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, hàng thủy sản nước ta đã bị Nga và Nhật trả về do dư lượng kháng sinh vượt quá mức cho phép. Nguyên nhân chủ yếu là do sự yếu kém trong công nghệ sau thu hoạch. Để nâng cao năng suất , chất lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người dân thì việc đầu tư và phát triển công nghệ sau thu hoạch có vai trò rất to lớn. Vấn đề xây dựng các khu chế biến nông sản được đặt ra, lượng vốn đầu tư cho xây dựng những nhà máy chế biến nông sản là rất lớn. Hơn nữa, việc sản xuất hàng hóa của bà con chưa nhiều thì quy mô bảo quản, chế biến nhỏ, hộ gia đình có vai trò quan trọng nhưng cũng đòi hỏi một lượng vốn tương đối lớn và ngân hàng đã hỗ trợ cho bà con nhu cầu này. 2.3. Xóa đói giảm nghèo và làm lành mạnh thị trường tài chính nông thôn. Nhiều cơ chế chính sách thông thoáng của Nhà nước ra đời đã tạo điều kiện cho hộ nghèo được tiếp xúc với vốn.Theo quy định hiện hành của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước, hộ nông dân được vay tới 10 triệu đồng, hộ làm kinh tế trang trại vay tới 20 triệu đồng, hộ nuôi trồng giống thuỷ sản vay dưới 50 triệu đồng và hộ khắc phục nạn cúm gia cầm cũng được vay dưới 50 triệu đồng không phải thế chấp nhưng phải có xác nhận quyền sử dụng đất đai không có tranh chấp làm cơ sở để vay vốn ngân hàng. Đây là một thuận lợi lớn cho hộ nông dân, tạo điều kiện cho hàng nghìn tỷ đồng vốn nhanh chóng đến được với sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, khắc phục nhanh những thiệt hại do thiên tai, góp phần xóa đói giảm nghèo trong nông thôn. Nhờ có chính sách thông thoáng, lãi suất ưu đãi mà hầu hết bà con có nhu cầu vay vốn đều rất tin tưởng ở ngân hàng, họ không phải đi vay ở các thị trường vốn bên ngoài (thường là vay nặng lãi). Chính sự tin tưởng của bà con vào ngân hàng đã làm lành mạnh thị trường tài chính nông thôn và làm cho hiệu quả của đồng vốn vay ngày càng được khẳng định. 3. Các phương thức tín dụng của ngân hàng đối với hộ nông dân. 3.1. Cho vay trực tiếp. Cho vay trực tiếp là quan hệ tín dụng trong đó khách hàng có nhu cầu về vốn giao dịch trực tiếp với ngân hàng để vay vốn và trả nợ trực tiếp với ngân hàng. Trong cho vay trực tiếp việc cấp tín dụng có thể diễn ra dưới dạng song phương hoặc đa phương. Gồm hai hình thức phổ biến là: phương thức cho vay trực tiếp có sự tham gia của bên cung ứng và phương thức cho vay trực tiếp có sự tham gia của bên bao tiêu. Phương thức cho vay này tạo điều kiện cho ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay. Cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất chủ yếu là cho vay ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu chi phí sản xuất theo thời vụ và khi có điều kiện sẽ từng bước mở rộng việc cho vay trung hạn và dài hạn để phát triển cây dài ngày, mua sắm thiết bị máy móc cần thiết, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, ngành nghề ở nông thôn. 3.2. Cho vay bán trực tiếp. Cho vay bán trực tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức hội nông dân, hội phụ nữ,… Tính trực tiếp trong phương thức này thể hiện ở chỗ: khách hàng thực chất vẫn là những hộ nông dân của tổ hợp tác vay vốn. Ngân hàng thẩm định vay theo từng nhu cầu và điều kiện của mỗi hộ và từng hộ phải chịu trách nhiệm trực tiếp về hoàn trả số tiền được vay. Tính gián tiếp thể hiện ở chỗ ngân hàng không trực tiếp làm việc với từng khách hàng (hộ), mà thông qua người tổ trưởng tổ hợp tác, các thành viên trong tổ gián tiếp chịu trách nhiệm về tính pháp lý của khoản vay và khả năng thanh toán nợ của những thành viên khác. Lợi ích của cho vay bán trực tiếp: - Đối với ngân hàng: giảm bớt được thời gian nhận và thẩm định hồ sơ vay; Đặc biệt là giảm áp lực mang tính thời vụ; Thực hiện kiểm soát có trọng tâm; Giảm chi phí nghiệp vụ. - Đối với khách hàng: nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong giao dịch vay vốn ngân hàng; Tạo không khí đoàn kết tương trợ trong sản xuất nông nghiệp; Quan tâm hơn nữa tới việc sử dụng vốn có hiệu quả; Cải thiện dần phong cách kinh doanh theo hướng hàng hóa mở rộng. 3.3. Cho vay gián tiếp. Trong phương thức cho vay gián tiếp, ngân hàng cấp tín dụng cho tổ chức sản xuất nông nghiệp (hộ gia đình, trang trai,…) thông qua một tổ trung gian. Những tổ chức trung gian này thường là các doanh nghiệp chuyên chế biến, kinh doanh những mặt hàng nông sản hoặc chuyên cung cấp vật tư. - Cho các tổ chức trung gian vay để đáp ứng vốn cho các hộ sản xuất nông nghiệp. Các tổ chức trung gian trong trường hợp này là các công ty chế biến nông sản như các công ty chế biến đồ hộp, nhà máy đường, thuốc lá hoặc các công ty thương mại như công ty xuất nhập khẩu nông, thủy hải sản, công ty lương thực. Phương thức cho vay: Ngân hàng cho các công ty trung gian vay, các công ty này ứng vốn cho các hộ nông dân sản xuất, đến vụ thu hoạch các công ty trung gian mua các sản phẩm của hộ nông dân đồng thời thu các khoản nợ đã cho nông hộ vay từ đầu vụ sản xuất. - Mua các hợp đồng trả chậm về vật tư máy móc nông nghiệp. Các công ty thương mại kinh doanh về vật tư nông nghiệp có thể bán trả chậm, kể cả trả góp cho hộ nông dân hoặc các trang trại. Sau đó ngân hàng sẽ mua lại các hợp đồng đó. 4. Điều kiện, nguyên tắc, hạn mức lãi suất cho vay và hồ sơ vay vốn đối với hộ nông dân. 4.1. Điều kiện vay. Ngân hàng No&PTNT xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau: - Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. - Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. - Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết: + Có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống theo quy định. +Kinh doanh có hiệu quả: có lãi; trường hợp lỗ thì phải có phương án khả thi khắc phục lỗ đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. + Không có nợ khó đòi hoặc nợ quá hạn trên 6 tháng tại ngân hàng No&PTNT, - Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi. - Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ, NHNN Việt Nam và hướng dẫn của AGRIBANK. 4.2. Nguyên tắc cho vay. - Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Với nguyên tắc này khi vay vốn, người vay phải trình bày phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, đồng thời phải xác định rõ mục đích, đối tượng sử dụng vốn và cam kết sẽ sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng đó, nếu được ngân hàng chấp thuận. Trong quá trình sử dụng vốn, nếu sau cam kết người vay phải chịu trách nhiệm trước ngân hàng theo luật định và theo hợp đồng. - Phải hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây là một nguyên tắc quan trọng bắt nguồn từ nguyên tắc tự chủ về tài chính trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và là đặc trưng của tín dụng là “có vay, có trả”. 4.3. Hạn mức và lãi suất tín dụng. - Hạn mức tín dụng: là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng (đối với phương pháp cho vay theo hạn mức). Đối với hộ, hạn mức cho vay tùy thuộc vào nhu cầu vốn vay, vốn tự có của hộ và tính khả thi của hộ, do sự thỏa thuận giữa ngân hàng và người đi vay. - Lãi suất cho vay: Đối vối những vùng, những loại cây con có điều kiện sản xuất thuận lợi, tỷ suất lợi nhuận cao, thì áp dụng mức lãi suất cho vay cao hơn những vùng, những cây con mà điều kiện sản xuất khó khăn, tỷ suất lợi nhuận thấp. Bình quân lãi suất cho vay giữa các vùng, giữa các loại cây - con phải cao hơn lãi suất bình quân huy động vốn. Mức lãi suất cụ thể của từng vùng, từng loại cây con, trong từng thời gian do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định trên cơ sở hiệu quả của sản xuất kinh doanh, được các hộ sản xuất chấp nhận, bảo đảm có chi phí cho hoạt động Ngân hàng và bù đắp rủi ro. 4.4. Hồ sơ vay vốn. 4.4.1. Hồ sơ pháp lý. - Hợp đồng hợp tác (đối với tổ hợp tác). - Giấy ủy quyền cho người đại diện (nếu có). 4.4.2. Hồ sơ vay vốn. - Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp vay vốn không phải thực hiện bảo đảm bằng tài sản:     + Giấy đề nghị kiêm phương án vay vốn. - Hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác (trừ hộ gia đình được quy định tại điểm trên):     + Giấy đề nghị vay vốn;     + Dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;     + Hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định. Ngoài các hồ sơ đã quy định như trên, đối với: - Hộ gia đình, cá nhân vay qua tổ vay vốn phải có thêm:     + Biên bản thành lập tổ vay vốn.     + Hợp đồng làm dịch vụ. - Hộ gia đình, cá nhân vay thông qua doanh nghiệp, phải có thêm: Hợp đồng làm dịch vụ. - Doanh nghiệp vay để chuyển tải vốn cho hộ gia đình, cá nhân phải có thêm:     + Hợp đồng cung ứng vật tư, tiền vốn cho hộ gia đình, cá nhân      nhận khoán;     + Danh sách hộ gia đình, cá nhân đề nghị ngân hàng cho vay. 5. Rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là rủi ro do 1 hoặc 1 nhóm khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng. Nói cách khác rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn. Rủi ro tín dụng biểu hiện ở việc khách hàng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, vốn cho vay của ngân hàng bị chiếm dụng, khó có khả năng thu hồi vốn, nợ quá hạn ngày càng lớn. Đối với ngân hàng đây là loại rủi ro lớn nhất có thể xảy ra và thường gây hậu quả nặng nề nhất, bởi hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Thông thường ở các nước, nghiệp vụ này mang lại 2/3 thu nhập cho ngân hàng, còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thu nhập từ tín dụng mang lại thường chiếm trên 90% tổng thu nhập của mỗi ngân hàng. Rủi ro tín dụng được đo bằng nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ khoanh. + Nợ quá hạn: là khoản nợ mà đến thời hạn trả bên vay không trả được theo đúng cam kết với ngân hàng, thực chất có nhiều lý do làm biến dạng nợ quá hạn như: đảo nợ, dãn nợ, thời gian cho vay không hợp lý. + Nợ khó đòi: cũng là một bộ phận của nợ quá hạn. + Nợ khoanh: là khoản nợ của khách hàng không trả được do thiên tai, lũ lụt bất khả kháng và một số nguyên nhân khách quan khác được Chính phủ và ngân hàng Nhà nước quyết định khoanh. Thực tế đây là nợ rủi ro, khoản nợ này vẫn nằm trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng nhưng lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút. 6. Các hoạt động về tư vấn, kiểm tra, kiểm soát vốn vay. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các hộ nông dân thì việc tư vấn, kiểm tra, kiểm soát vốn vay có vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo hiệu quả và khả năng thu hồi vốn vay, đôn đốc khách hàng vay thực hiện đúng và đầy đủ những cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà nó còn có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với người nông dân trong việc xóa đói giảm nghèo và chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ nông dân. Ngân hàng và các tổ chức trung gian tiếp nhân vốn cho dân đã phối hợp với nhau thành lập tổ tư vấn sử dụng vốn vay. Thông qua các chương trình khuyến nông hướng dẫn bà con làm giàu, nhân rộng các mô hình làm ăn có hiệu quả kinh tế cao nhờ vay vốn ngân hàng. Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể xây dựng các chương trình phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương như: xây dựng và nhân rộng các mô hình cánh đồng 50 triệu/ha trồng rau sạch, trồng dưa, cánh đồng dược liệu, mô hình nuôi tôm, cá kết hợp với cấy lúa, mô hình chăn nuôi gà, lợn hướng nạc, chăn nuôi trâu bò… III. Một số kinh nghiệm thực tiễn cho vay kinh tế hộ nông dân của ngân hàng No&PTNT. Là một nước nông nghiệp, chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới là hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Phục vụ đắc lực cho các hoạt động của chiến lược này là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NH No&PTNT) Việt Nam với vai trò chủ đạo là cho doanh nghiệp và nông dân vay vốn phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, bước đầu đã chiếm được lòng tin của khách hàng khi đến đây. Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ 2005-2010, vấn đề quan trọng đầu tiên là phải có vốn. Trong điều kiện vốn ngân sách rất khó khăn, vốn tự có của doanh nghiệp và hộ nông dân rất nhỏ bé thì vốn tín dụng ngân hàng là chủ yếu. NH No&PTNT Việt Nam đã không ngừng nỗ lực vươn lên, đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đến năm 2005, tổng dư nợ cho vay (mà chủ yếu là cho vay để phát triển nông nghiệp – nông thôn trên phạm vi cả nước) của Ngân hàng đứng đầu toàn ngành, đạt tới 156.000 tỷ đồng, tăng trên 5% so với cuối năm 2004. Đến hết năm 2005, tổng dư nợ của Ngân hàng đạt khoảng 175.000 tỷ - 180.000 tỷ đồng, tăng khoảng 17% - 20% so với cuối năm 2004. Theo chu kỳ, nhu cầu vay vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn cuối năm thường tăng cao, đòi hỏi những tháng cuối năm ngân hàng No&PTNT Việt Nam tiếp tục phải là ngân hàng thương mại (NHTM) hàng đầu đầu tư và cho vay vốn đối với nền kinh tế, nhất là đối với hàng triệu hộ nông dân. Mặc dù lãi suất cho vay của NH No&PTNT Việt Nam đối với hộ nông dân có cao hơn so với các NHTM khác, nhưng thời gian qua, do giữ được chữ tín, nhu cầu vay vốn ở Ngân hàng của người sản xuất kinh doanh vẫn rất cao, cầu vốn lớn hơn cung, nên một số nơi đã xẩy ra tình trạng tiêu cực về “cò tín dụng” làm thiệt hại cho người vay và uy tín của hệ thống NH No&PTNT Việt Nam. Với các chiến dịch huy động vốn trong toàn quốc như huy động tiết kiệm dự thưởng vàng “3 chữ A”, phát hành chứng chỉ tiền gửi dài hạn dự thưởng..., 9 tháng đầu năm, ngân hàng No&PTNT Việt Nam đã có tổng nguồn vốn huy động đạt trên 170.000 tỷ đồng, tăng trên 5% so với đầu năm. Để có chiến lược lâu dài về vốn nhằm mở rộng cho vay có hiệu quả, Ngân hàng đã và đang tìm kiếm các nguồn vay vốn của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế với thời hạn dài để đầu tư cho nông nghiệp – nông thôn trong nước. Ngân hàng hiện nay có mạng lưới rộng với khoảng 2.200 chi nhánh ở tất cả các vùng miền trong cả nước; có số lượng khách hàng đông nhất, gồm 9 triệu hộ nông dân và hơn 20.000 doanh nghiệp với cơ chế, chính sách cho vay cụ thể khác nhau. Do phải thực hiện những chính sách vay vốn ưu đãi của Đảng và nhà nước đối với những đối tượng đặc biệt, Ngân hàng đang gặp những khó khăn không nhỏ trong phòng ngừa rủi ro, cũng như việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Trong tình hình hiện nay, việc đầu tư vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn nói riêng và cho nền kinh tế nói chung ở nước ta là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, cần phải có một hành lang pháp lý để Ngân hàng No&PTNT Việt Nam - người bạn đồng hành tin cậy của nhà nông - không phải chịu những rủi ro do khách quan mang lại. Việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế cũng cần có bước chuyển đổi linh hoạt cho phù hợp với thực tế của Việt Nam, vừa thuận tiện cho người vay vốn, vừa đảm bảo an toàn cho nhà cung cấp vốn, để Ngân hàng No&PTNT Việt Nam thực sự là nhà cung cấp vốn hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp, cùng các ngành, các cấp thực hiện thắng lợi Chỉ thị số 24/2005/CT-TTg ngày 28/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Một loạt các biện pháp được triển khai nhằm duy trì và nâng cao chất lượng tín dụng, cụ thể: - Thực hiện phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro theo Quyết định 493/2005-QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo hướng bám sát thông lệ quốc tế Tăng cường công tác giáo dục cho cán bộ nâng cao tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng. Coi trọng phân tích khách hàng, kiên quyết chỉ đầu tư các dự án khả thi, có hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ với Hội Nông dân, Hội Phụ nữ trong cho vay hộ gia đình. Nâng cao chất lượng thông tin, báo cáo và dự báo rủi ro trong hoạt động tín dụng.Kết quả đạt được: đến cuối năm 2005, tỷ lệ nợ xấu chỉ chiếm 2,3% tổng dư nợ. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh An Giang liên kết với AFA cung cấp vốn tín dụng cho ngư dân nuôi cá tra xuất khẩu. Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn (No&PTNT) chi nhánh tỉnh An Giang liên kết với AFA (Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang) cung cấp vốn tín dụng cho hội viên và ngư dân chăn nuôi cá tra xuất khẩu mỗi năm từ 500 đến 700 tỷ đồng, góp phần cho ngành chăn nuôi cá tra của tỉnh ngày càng phát triển mạnh, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ VII khẳng định thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, tạo bước đột phá để nền kinh tế An Giang tăng trưởng nhanh và mạnh. UBND tỉnh triển khai chương trình phát triển thủy sản của tỉnh với các chính sách hỗ trợ đồng bộ, trong đó chính sách ưu tiên hỗ trợ vốn tín dụng cho trang trại, hộ nôi cá tra xuất khẩu là hàng đầu. Ngân hàng No&PTNT An Giang đã phối hợp với AFA đưa ra các chính sách đầu tư vốn tạo điều kiện cho các hộ nuôi cá tra xuất khẩu tiếp cận vốn tín dụng, đảm bảo đủ nguồn vốn để phát triển và mở rộng chăn nuôi, thông qua các câu lạc bộ, các chi hội nghề cá, các hợp tác xã thủy sản. Số vốn ngân hàng giải ngân cho hộ nuôi cá tra năm sau cao hơn năm trước theo nhu cầu về phát triển sản lượng cá tra nuôi xuất khẩu. Tính chung từ năm 2004 đến nay ngân hàng No&PTNT An Giang đã cho 27.730 hộ nuôi cá tra xuất khẩu trong tỉnh vay 1.384 tỷ đồng. Những vấn đề có liên quan đến chính sách đầu tư tín dụng, trong quá trình cho vay cũng như thu hồi nợ của ngân hàng đều được AFA tích cực hỗ trợ, từ đó ngân hàng giảm thấp tỷ lệ rủi ro trong công tác đầu tư tín dụng. Qua một vụ nuôi Ban giám đốc ngân hàng No& PTNT cùng với Lãnh đạo AFA ngồi lại sơ kết hiệu quả cho vay vốn tín dụng hộ nuôi cá và kiểm điểm rút kinh nghiệm việc tổ chức quản lý nguồn vốn, những hạn chế quá trình kiểm tra giám sát sử dụng vốn vay dẫn đến nợ động, kịp thời tháo gỡ những khó khăn và có giải pháp thu hồi nợ quá hạn. Thời gian tới trước mắt là năm 2007 ngân hàng No&PTNT An Giang tiếp tục gắn kết chặt chẽ với AFA đẩy mạnh đầu tư vốn tín dụng nhiều hơn năm 2006 trên 25%, góp phần cho tỉnh phát triển mạnh ngề chăn nuôi cá tra xuất khẩu, nhằm đạt kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cá tra 300 triệu USD, tăng 54 USD so năm 2006. Tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn đến 31/12/2005 đạt 180.037 tỷ đồng, tốc độ tăng 15,1% so với đầu năm. Trong đó dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 161.106 tỷ đồng, tăng 13,2% so với năm 2004. Dư nợ ngoại tệ đến cuối 2005 đạt xấp xỉ 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 9,6% dư nợ cho vay. Ngân hàng Nông nghiệp tiếp tục khẳng định nông nghiệp và nông thôn là thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng cho vay khu vực kinh tế tư nhân. Đến cuối năm 2005, Ngân hàng Nông nghiệp đã đầu tư cho hơn 9 triệu hộ với số vốn xấp xỉ 93 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58% tổng dư nợ. Tỷ trọng cho vay Doanh nghiệp Nhà nước giảm từ 14,6% (2004) xuống còn 12% năm 2005. Trong khi đó cho vay Doanh nghiệp tư nhân và HTX tăng từ 19,6% năm 2004 lên 30% năm 2005. Giúp nông dân mua máy nông nghiệp Để khuyến khích nông dân mua máy phục vụ sản xuất nông nghiệp, tháng 6-2004,Thủ tướng Chính phủ có ý kiến, tùy khả năng ngân sách và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng cho nông dân mua máy sản xuất trong nước. Ðến nay, nhiều địa phương đã chỉ đạo thực hiện cơ chế trợ giúp nông dân mua máy mà Quảng Ngãi là địa phương tiêu biểu. UBND tỉnh Quảng Ngãi quan tâm chỉ đạo các ngành, đoàn thể: Kế hoạch và đầu tư, tài chính, công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng No&PTNT , hội nông dân, xây dựng quy trình cụ thể, rõ ràng, thuận lợi, thực hiện trợ giúp nông dân vay vốn ngân hàng mua máy phục vụ chương trình cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Các ngành tài chính, ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết nhanh các thủ tục, chế độ hỗ trợ, tạo động lực khuyến khích nông dân mua máy. Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Quảng Ngãi, gắn bó sâu sát, ủng hộ các hộ nông dân có nhu cầu mua máy, kịp thời giải quyết thủ tục, chế độ để nông dân có vốn mua máy, làm đất đúng mùa vụ. Trên cơ sở khế ước vay ngân hàng, thực hiện cơ chế tín dụng "tay ba" gồm: ngân hàng, hội nông dân và đơn vị cung cấp máy cho hộ nông dân. Ngân hàng chuyển tiền nông dân vay cho đơn vị cấp máy. Tài chính trả lãi suất cấp bù hỗ trợ cho ngân hàng. Hội nông dân có trách nhiệm nắm danh sách hộ nông dân vay vốn mua máy, giám sát, xác nhận để thực hiện thủ tục thanh, quyết toán lãi suất hỗ trợ đúng chế độ. Cách làm này, trên thực tế, đáp ứng nguyện vọng, yêu cầu của nông dân, đồng thời thủ tục vay, thanh toán cũng nhanh, gọn. Các đơn vị của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp giữ vai trò chủ lực, phối hợp với các địa phương, cung cấp máy cho nông dân theo cơ chế hỗ trợ lãi suất vay vốn, mua máy. Chính sách này chẳng những giúp nông dân có máy sản xuất, mà còn tạo thị trường, sức mua, tiêu thụ sản phẩm cơ khí. Nhờ đó, 10 tháng đầu năm nay, tổng công ty tiêu thụ 23.670 động cơ các loại (tăng 35%), 2.065 máy kéo (tăng 11%), 510 máy cắt lúa (tăng 78%) so với cùng kỳ năm trước. Từ chính sách này, một yêu cầu lớn đối với các doanh nghiệp chế tạo các sản phẩm cơ khí là cần quan tâm cải tiến, nâng cao chất lượng máy, giảm chi phí, có giá bán hợp lý, chủ động cùng các địa phương hỗ trợ nông dân, đẩy mạnh hơn nữa việc đưa máy vào sản xuất nông nghiệp. Kết Luận Kinh tế nông hộ trong những năm gần đây được sự quan tâm của tất cả các ngành, các cấp đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, mô hình phát triển kinh tế hộ đã trở thành mô hình hoạt động có hiệu quả nhất trong việc xóa đói giảm nghèo cho người nông dân. Nắm bắt được nhu cầu vốn rất lớn, chính đáng của bà con, ngân hàng No&PTNT đã thực hiện cho vay tới hộ, bước đầu đạt được những thành công rất lớn và dược người dân ngày càng tín nhiệm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình cho vay vốn tới hộ thì ngân hàng cũng bộc lộ nhiều tồn tại như: vấn đề về điều kiện vay, thủ tục vay, công tác thẩm định dự án của cán bộ tín dụng… Vì vậy, trong những năm tới cần có nhiều giải pháp đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ngân hàng cho người nông dân, để tạo ra quan hệ tốt đẹp cùng phát triển và đạt hiệu quả tối ưu cho ngân hàng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình tín dụng ngân hàng, Học viện ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 2001. Chủ biên: Hồ Diệu. Giáo trình Phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn. Chủ biên: PGS.TS Phạm Văn Khôi. Giáo trình Quản trị kinh doanh nông nghiệp.Chủ biên: PGS.TS Trần Quốc Khánh. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Giáo trình kinh tế nông nghiệp. Chủ biên: PGS.TS Vũ Đình Thắng. www.nongthon.net www.vietlinh.com.vn www.fistenet.gov.vn www.agribank.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36040.doc
Tài liệu liên quan