Đề án Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Để thị trường chứng khoán có thể phát triển nhanh chóng, yếu tố quan trọng không thể thiếu là hình thành các tổ chức tham gia kinh doanh trên thị trường. Đối tượng này sẽ góp phần nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán, bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động có trật tự, công bằng và hiệu quả. Vì vậy, việc thành lập và phát triển các tổ chức kinh tế hoạt động trên thị trường chứng khoán, trong đó có các công ty chứng khoán, là phù hợp với nhu cầu khách quan về phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán Việt Nam. Đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt nam giai đoạn hiện nay" được thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển thị trường chứng khoán Việt nam trong việc hoàn thiện hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặc thù của Việt nam (như hệ thống pháp lý hiện hành, tiềm lực tài chính và nhân lực của các chủ thể Việt nam, xu hướng phát triển kinh tế Việt nam.). Đề tài đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống các công ty chứng khoán ở Việt nam hiện nay, đồng thời tìm ra các biện pháp nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán trong thời gian tới.

doc46 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 685 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sơ đồ sau: Bước 1: Mở tài khoản (1). Bước 2: Nhận lệnh (2). Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện lệnh (3). Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng (4). Bước 5: Thanh toán và giao hàng. Khách hàng Công ty chứng khoán (4) (1) (2) (3) (5) 1.3.2.2 Nghiệp vụ bảo lãnh. Bản chất bảo lãnh. Bảo lãnh phát hành là việc hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng cách bán chứng khoán trên thị trường. Có ba hình thức bảo lãnh phát hành mà thế giới thường áp dụng: Một là, bảo lãnh chắc chắn: công ty bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của công ty phát hành và sau đó sẽ bán ra công chúng. Hai là, bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức mà công ty bảo lãnh phát hành hứa sẽ cố gắng tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho công ty phát hành. Ba là, bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không: trường hợp này được áp dụng khi công ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định. Một số khâu quan trọng trong quy trình bảo lãnh . + Lập nghiệp đoàn bảo lãnh. Khi số số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng bảo lãnh của một công ty chứng khoán thì một nghiệp đoàn bao gồm một số công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập. Nhóm bán: Để việc bán nhanh hơn, nghiệp đoàn bảo lãnh có thể tổ chức thêm một "nhóm bán". Nhóm này bao gồm một số công ty không nằm trong nghiệp đoàn bảo lãnh, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không phải chịu trách nhiệm về số chứng khoán không bán được. Do vậy, thù lao cho họ ít hơn các thành viên trong nghiệp đoàn bảo lãnh. + Phân tích, định giá chứng khoán. + Ký hợp đồng bảo lãnh. + Đăng kí phát hành chứng khoán. + Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng kí. + Thanh toán Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho công ty phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù lao cho công ty bảo lãnh. Hoa hồng: là tỉ lệ (%) cố định đối với từng loại chứng khoán nhất định. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng do các thành viên trong nghiệp đoàn thương lượng với nhau. Phí bảo lãnh: là chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường và số tiền công ty phát hành nhận được. 1.3.2.3 Nghiệp vụ tự doanh. Đây là nghiệp vụ kinh doanh trong đó công ty chứng khoán dùng kinh phí của mình để mua và bán chứng khoán, họ tự chịu mọi rủi ro và có thể làm thêm nhiệm vụ tạo thị trường cho một loại chứng khoán nào đó. Nhà giao dịch chịu lãi hay lỗ tuỳ thuộc vào chênh lệch giá mua và bán chứng khoán. Hoạt động buôn bán chứng khoán có thể là: Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt lệnh mua và bán của mình trên Sở giao dịch, lệnh của họ được xác định đối với bất kì khách hàng nào không xác định trước. Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa hai công ty chứng khoán hay giữa công ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của giao dịch trực tiếp thường là các trái phiếu và cổ phiếu giao dịch ở thị trường OTC. 1.3.2.4. Các nghiệp vụ phụ trợ. * Nghiệp vụ tín dụng. ở các thị trường phát triển thì đây là một hoạt động thông dụng. Còn ở những thị trường chưa phát triển thì hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp vốn vay. Một số nước còn qui định không được phép cho vay kí quỹ. * Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty. Đây là việc cung cấp các thông tin về đối tượng chứng khoán, thời hạn, các vấn đề mang tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán...Nó đòi hỏi nhiều kiến thức, chuyên môn kỹ năng và yêu cầu vốn không cao. Tính trung thực của cá nhân hay công ty tư vấn có ý nghĩa quan trọng. * Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư. Đây là một dạng tư vấn đầu tư nhưng ở mức độ cao hơn vì khách hàng uỷ thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo những nguyên tắc mà khách hàng yêu cầu. Thông thường nghiệp vụ này tuân thủ theo bốn bước cơ bản: Bước 1: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng của nhau. Bước 2: Công ty và khách hàng tiến hành kí hợp đồng quản lí. Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lí. Khi có phát sinh ngoài hợp đồng, công ty chứng khoán phải xin ý kiến của khách hàng rồi mới được phép quyết định. Bước 4: Khi đến hạn kết thúc hợp đồng công ty phải cùng khách hàng bàn bạc, quyết định xem gia hạn hay thanh lí hợp đồng. * Nghiệp vụ quản lí thu nhập chứng khoán (quản lí cổ tức). Nghiệp vụ này xuất phát từ nghiệp vụ lưu kí chứng khoán. Công ty phải thực hiện hoạt động theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. 1.3.3. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán. 1.3.3.1. Nguyên tắc đạo đức. Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ảnh hưởng nhiều tới lợi ích công chúng và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các nước qui định rất chặt chẽ đối với hoạt động của công ty chứng khoán. Nhìn chung có một số nguyên tắc cơ bản sau: + Công ty chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết lộ thông tin khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. + Công ty chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được tiến hành bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào. + Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh. + Công ty chứng khoán phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của khách hàng và tài sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của khách hàng làm vật thế chấp, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản. + Công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy. + Công ty chứng khoán không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình. + ở nhiều nước, công ty chứng khoán phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp công ty chứng khoán bị mất khả năng thanh toán. + Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị trường; cấm mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích cực bề ngoài"; cấm đưa ra lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch chứng khoán; cấm giao dịch nội gián sử dụng thông tin nội bộ mua bán chứng khoán cho chính mình làm thiệt hại tới khách hàng. 1.3.3.2. Nguyên tắc tài chính. * Vốn. Vốn của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng việc cân đối giữa vốn pháp định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty. * Cơ cấu vốn: Nợ và Có. Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các thành viên mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc huy động vốn được tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông, thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường vốn. * Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh. * Quản lí vốn khả dụng: các công ty chứng khoán thường phải duy trì một mức vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán. * Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn các công ty môi giới duy trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích bù đắp các khoản lỗ kinh doanh trong năm đó. * Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: công ty chứng khoán phải trích tỉ lệ phần trăm lãi ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt một tỉ lệ phần trăm nào đó của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm hụt trong tương lai. * Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác nhau tuỳ từng quốc gia. * Chế độ báo cáo. Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này, theo qui định một số nước, phải nộp cho Uỷ ban chứng khoán (hoặc cơ quan quản lý tương đương) và một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo cáo tài chính thường niên đã được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm toán bao gồm: - Bảng cân đối kế toán. - Báo cáo lỗ lãi. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 1.3.4. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán. Hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhiều tới lợi ích của công chúng nên nó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nhìn chung, qui định về điều kiện thành lập, cấp phép hoạt động cho công ty chứng khoán được thể hiện ở hai khía cạnh sau: Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định được qui định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ. Một công ty càng tham gia vào nhiều loại hoạt động nghiệp vụ thì yêu cầu về vốn càng nhiều. Mức vốn qui định cho hoạt động môi giới, tư vấn thường không nhiều. Trong khi đó, nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành đòi hỏi mức vốn pháp định tương đối cao. Điều kiện nhân sự: Những người quản lí hay nhân viên của công ty chứng khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường, các nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề. Muốn có giấy phép hành nghề, ngoài việc đáp ứng một số qui định như tuổi tác, trình độ học vấn, lí lịch tốt phải trải qua những kì thi kiến thức chuyên môn chứng khoán. Những người nắm giữ các chức năng quản lí trong công ty chứng khoán phải có giấy phép đại diện. Yêu cầu để được cấp giấy phép đại diện cao hơn so với giấy phép hành nghề về các mặt học vấn kinh nghiệm công tác. Trong điều kiện thành lập công ty chứng khoán cần chú ý tới tính điều kiện và tính đương nhiên. Như vậy, điều kiện thành lập công ty chứng khoán có sự khác nhau ở các nước trên thế giới. Tùy theo đặc thù mỗi quốc gia, các công ty chứng khoán cũng được tổ chức theo nhiều mô hình khác nhau. 1.4. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới. Trên thế giới có ba mô hình công ty chứng khoán cơ bản: Thứ nhất: là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này không có sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng thương mại cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Đây là phương thức hoạt động ngân hàng đa năng cổ truyền mà điển hình được áp dụng ở CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, các nước Bắc Âu. Thứ hai: là mô hình đa năng một phần (đa năng kiểu Anh), được áp dụng ở Anh và một số nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, australia. Ngân hàng khi tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con, có tư cách pháp nhân độc lập. Các công ty con ít khi nắm giữ cổ phần của ngân hàng và thường không có sự kết hợp giữa các công ty bảo hiểm và ngân hàng. Thứ ba: là mô hình chuyên doanh. Nó được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật.v.v. Theo mô hình này các công ty chứng khoán là các công ty chuyên doanh độc lập. Các ngân hàng không được phép tham gia vào kinh doanh chứng khoán. Chương 2 Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt nam hiện nay. Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên Thế giới có thể thấy sự thành lập, phát triển của các công ty chứng khoán gắn liền với sự hình thành, phát triển của thị trường chứng khoán. Nó là một quá trình lâu dài. ở Việt Nam, thị trường chứng khoán có nét đặc thù riêng, nó được hình thành và phát triển theo định hướng của Nhà nước. Do vậy, quá trình thành lập, hoạt động của các công ty chứng khoán cũng mang những đặc điểm riêng. 2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán. 2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán. Trong 2-3 năm đầu, các công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng chưa đặt vấn đề nguồn thu lớn từ TTCK. Thị trường mới thành lập, quy mô nhỏ. Vì vậy, mục tiêu trước mắt là tìm hiểu, thăm dò thị trường, tạo lập quan hệ khách hàng, bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ và tích luỹ kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Trên cơ sở đó, xúc tiến, triển khai các phương án kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Để thực hiện điều này các công ty đã tiến hành một số biện pháp như: * Nắm bắt mọi động thái xu hướng phát triển, vận động của thị trường để đánh giá và đúc rút những kinh nghiệm cần thiết ban đầu. * Triển khai một số nghiệp vụ thí điểm có chọn lọc để tập dượt và đúc rút những kinh nghiệm kinh doanh. * Bảo toàn vốn tích cực. * Xúc tiến các hoạt động quảng cáo, tiếp thị tạo lập quan hệ với khách hàng tiền năng. Trong thời gian đầu các công ty chứng khoán chuyên doanh vẫn chưa đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Trước mắt các công ty này tham gia thị trường một cách thận trọng, lần lượt triển khai các nghiệp vụ với mục đích làm quen với các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Từ đó rút ra những kinh nghiệm kinh doanh cần thiết ban đầu. Họ đặt mục tiêu bảo toàn vốn, cắt giảm các chi phí không cần thiết, duy trì hoạt động động kinh doanh thật vững sau đó mới mở rộng và phát triển thị trường. 2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán. ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, vì quy mô thị trường còn nhỏ nên số lượng các công ty chứng khoán hiện nay còn ít. Điều này là phù hợp nhằm giảm sự cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh chi phí ban đầu của các công ty khi mới thành lập là rất lớn mà thu nhập còn nhỏ, chưa đủ khả năng bù đắp chi phí. Ngoài ra, để đảm bảo nguyên tắc xây dựng thị trường chứng khoán hiệu quả và an toàn ngay từ giai đoạn đầu, hiện nay chúng ta đã chọn ra các công ty có quy mô lớn và chất lượng cao tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán để giảm thiểu rủi ro. Khi thị trường đã phát triển hiệu quả, quy mô và dung lượng thị trường đã lớn, số lượng công ty chứng khoán có thể sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu thị trường.Tính đến tháng 7 năm 2001 chứng khoán nhà nước cấp giấy phép cho 6 công ty chứng khoán hoạt động cho đến 2003 UBCKNN cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho 12 công ty chứng khoán tỏng đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH một phần viên. Bảng 1: Danh sách các công ty chứng khoán. Số thứ tự Tên công ty trụ sở chính Vốn ĐL (tỷ VNĐ) Các HĐ nghiệp vụ Số GP HĐKDCK Số NV hành nghề 01 CTCPCK Bảo Việt Hà Nội 43 - Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK 01/GPHĐKD 26/11/1999 12 02 CTTNHHCK-NHĐT và PT Việt Nam Hà Nội 50 - Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK 02/GPHĐKD26/11/1999 08 03 CTCPCK- Sài Gòn TPHCM 20 - Môi giới - Tư vấn đầu tư C K 03/GPHĐKD05/04/2000 08 04 CTCPCK-Đệ Nhất Bình dương 43 - Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK 04/GPHĐKD08/04/2000 09 05 CTTNHHCK-Thăng Long Hà Nội 09 - Môi giới - Quản lý DMĐT - Tư vấn đầu tư CK 05/GPHĐKD11/05/2000 07 06 CTTNHHCK-ACB TPHCM 43 - Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK 06/GPHĐKD29/06/2000 03 07 CTTNHHCK- NHCTVN Hà Nội 55 - Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK - Lưu ký chứng khoán 07/GPHĐKD06/10/2000 20 08 Cty TNHHCKNN và phát triển nông thôn Việt Nam Hà Nội 60 Mô giới Tự doanh Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành Tư vấn đầu tư CK 08/GPHĐKD 12/2001 09 Cty TNHHCK NH Ngoại thương Việt Nam Hà Nội 60 Mô giới Tự doanh Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành Tư vấn đầu tư CK 09/GPHĐKD /2002 10 Cty cổ phần chứng khoán Mê Kông Hà Nội 6 Mô giới Quản lý danh mục đầu tư 10/GPHĐKDN/2/2003 11 Cty cổ phần chứng khoán TPHCM TPHCM 43 Hoạt động mô giới Tự doanh Quản lý danh mục đầu tư Bảo lãnh phát hành Tư vấn đầu tư chứng khoán 12 Cty TNHHCNNH Đông á TPHCM 9 Mô giới Quản lý danh mục đầu tư 12/GPHĐ KD/5/2003 2.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam. Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán của các nước ta có thể nhận thấy hầu như các thị trường từ các thị trường phát triển đến các thị trường mới nổi đều cho phép các ngân hàng tham gia vào kinh doanh chứng khoán ở mức độ và phạm vi khác nhau. Ngay cả những thị trường phát triển như Mỹ, Nhật trước đây không cho phép các ngân hàng tham gia vào hoạt động chứng khoán hiện đều có các quy định nới lỏng và có xu hướng chuyển dần từ mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh thuần tuý sang mô hình đa năng kiểu Anh, tức là các ngân hàng được phép tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua các công ty con độc lập. ở Việt Nam hiện nay, ngành chứng khoán cũng như hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoàn toàn mới mẻ không những đối với dân chúng mà ngay cả đối với các tổ chức kinh doanh ở nước ta. Việc tham gia của các tổ chức tín dụng cụ thể là các ngân hàng thương mại vào kinh doanh chứng khoán trong giai đoạn đầu của thị trường như hiện nay là hết sức cần thiết. Với đội ngũ cán bộ đã được đào tạo và đã thông thạo việc kinh doanh các công cụ của thị trường tiền tệ, có kinh nghiệm trong việc đánh giá các dự án đầu tư và với mạng lưới hoạt động rộng rãi trên khắp cả nưóc, việc tham gia của các ngân hàng sẽ góp phần phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Có thể nhận thấy mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay chính là sự kết hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Chúng ta đã học tập và rút kinh nghiệm từ mô hình các nước và hạn chế tiêu cực có thể phát sinh từ đó không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp là người trung gian môi giới, mua bán, bão lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành trên thị trường chứng khoán. Hoạt động của các công ty chứng khoán có ảnh hưởng lớn tới lợi ích của đông đảo công chúng. Do đó, yêu cầu pháp lý đối với các công ty chứng khoán là rất chặt chẽ. 2.3. Những quy định pháp lý đối với các công ty chứng khoán. 2.3.1. Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán. Nghị định 48-1998-NĐ-CP ban hành ngày 11/07/1998 về chứng khoán và TTCK quy định: Công ty chứng khoán phải là các công ty cổ phần hoặc là công ty TNHH có đủ các điều kiện: * Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. * Có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán. * Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh: + Môi giới: 3 tỷ VNĐ. + Tự doanh: 12 tỷ VNĐ. + Quản lý danh mục đầu tư: 3 tỷ VNĐ. + Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ VNĐ. + Tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ VNĐ. Công ty chứng khoán kinh doanh trên nhiều loại hình thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của từng loại hình kinh doanh đó. * Giám đốc (Tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh (không kể nhân viên kế toán, hành chính, thủ quỹ) của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCKNN cấp. Việc bắt buộc công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH nhằm bảo vệ lợi ích khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm, thao túng doanh nghiệp phục vụ lợi ích của một số người. Ngoài ra, công ty cổ phần hay công ty TNHH sẽ phải tuân thủ chế độ thông tin, báo cáo chặt chẽ hơn, cũng như yêu cầu về quản lý phải cao hơn. 2.3.2. Sự tham gia kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm và tổng công ty. Các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, Tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. Đây chính là sự kết hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình tự doanh mà hiện nay đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ngân hàng đa năng với phạm vị kinh doanh rộng rãi do đa dạng hoá hoạt động kinh doanh có lợi thế hơn hẳn so với các công ty chứng khoán đơn thuần trong việc san bằng chi phí và phân tán rủi ro. Thu nhập của nó ổn định hơn và do đó các nguồn vốn của nó cũng ổn định hơn. Vì vậy, các ngân hàng đa năng có khả năng chống đỡ cao đối với những tiến triển không thuận lợi trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, mô hình đa năng cũng có những nhược điểm nhất định. Khi tham gia vào hoạt động bão lãnh phát hành chứng khoán, các ngân hàng thương mại phải đương đầu với mâu thuẫn lợi ích tiềm năng do sự lạm dụng trong kinh doanh chứng khoán của họ. 2.3.3. Chế độ quản lý. Hiện nay, ở Việt nam quy định chế độ cấp giấy phép hoạt động đối với các công ty chứng khoán. UBCKNN là cơ quan quản lý nhà nước cấp giấy phép hoạt động đối với các công ty này. Việc duy trì chế độ cấp giấy phép đối với các công ty xin hoạt động kinh doanh chứng khoán là điều đặc biệt cần thiết. Thực tế cho thấy, chỉ ở một số thị trường phát triển mới áp dụng chế độ đăng ký hoạt động và không đưa ra bất kỳ quy định nào về mức vốn pháp định tối thiểu yêu cầu đối với một công ty xin kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, các công ty này phải đảm bảo duy trì mức vốn khả dụng nhất định và chịu sự giám sát chặt chẽ trong 06 tháng hoặc 1 năm đầu hoạt động. Nhưng hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả Nhật Bản là nước có thị trường chứng khoán phát triển ở mức độ cao, cũng áp dụng chế độ cấp giấy phép hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư. Những nước áp dụng chế độ này thường quy định rõ các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh chứng khoán, mức vốn pháp định tối thiểu yêu cầu đối với từng loại hình kinh doanh chứng khoán. 2.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán. Tuỳ theo quy mô kinh doanh và các nghiệp vụ mà công ty được cấp phép hoạt động, cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán sẽ được tổ chức cho phù hợp. Nghiệp vụ trọng tâm của các công ty chứng khoán hiện nay là môi giới, tự doanh chứng khoán vì việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu là hoạt động trung tâm của các công ty chứng khoán . Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị bổ nhiệm ban giám đốc và giám đốc điều hành công ty. Giúp việc cho hội đồng quản trị có ban kiểm soát với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát mọi giao dịch do phòng giao dịch thực hiện, bảo đảm thực hiện đúng các định mức giới hạn do UBCKNN và do hội đồng quản trị đặt ra về số lượng quy mô giao dịch cho mỗi khách hàng ...Chế độ báo cáo nội bộ công ty, cơ chế kiểm soát nội bộ cũng như thẩm quyền về kinh doanh chứng khoán của các nhân viên được quy định rõ ràng và tuân thủ chặt chẽ. Cơ cấu phòng ban của các công ty kinh doanh chứng khoán hiện nay nhìn chung gọn nhẹ, bao gồm các phòng chủ yếu sau: - Phòng giao dịch (Phòng kinh doanh): - Phòng Tài chính- Kế toán: - Phòng Marketing: - Phòng quản trị hành chính-tổng hợp: Có nhiệm vụ: - Phòng đăng ký, lưu ký và lưu trữ thông tin: 2.5. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Một nét đặc trưng của công ty chứng khoán là thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh hưởng lớn tới sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của công ty chứng khoán. Việc triển khai các hoạt động của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng lớn của thị trường chứng khoán. Nên hoạt động của các công ty chứng khoán không thể tách rời hoạt động của thị trường chứng khoán. Do vậy, để nghiên cứu thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam trước hết phải nghiên cứu hoạt động trên thị trường chứng khoán. Sau một năm chính thức đi vào hoạt động kể từ 28/7/2000 đến 7/2001 thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. đóng góp tích cực vào sự thành công này phải kể đến các tổ chức trung gian hoạt động trên thị trường trong đó không thể thiếu được sự tham gia của các công ty chứng khoán. - Kể từ ngày cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 2 công ty đầu tiên ở Việt Nam là công ty cổ phần chứng khoán bảo việt và công ty TNHH chứng khoán ngân hàng đầu tư giấy phép thêm cho 6 công ty chứng khoán đó là: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất, công ty TNHH chứng khoán Thăng Long, công ty TNHHCN. ACBS, công ty TNHH chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam và công ty TNHH chứng khoán ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Hơn một năm hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán đã qua có thể đánh gái chung là hiệu quả kinh doanh của các công ty chứng khoán chưa cao, vốn đều lệ hầu như chưa được sử dụng hết vào kinh doanh chứng khoán, từ đó dẫn đến tỷ suất lợi nhuận không cao. Đội ngũ nhân viên kinh doanh của các công ty chứng khoán còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng đặc biệt thiếu các chuyên gia phân tích để có thể triển khahi có hiệu quả nghiệp vụ tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán hoạt động của các công ty chứng khoán. Tính đến cuối tháng 7 năm 2003 thị trường chứng khoán Việt Nam đã vượt qua mốc 3 năm kể từ khi phiếu giao dịch chứng khoán đầu tiênn được thực hiện. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều vấn đề cần được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, chuẩn mực về hoạt động các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường. Cho đến nay, uỷ ban chứng khoán nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho 12 công ty chứng khoán trong đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH một thành viên. Tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán (trong số 12 công ty chứng khoán hiện nay có 2 công ty mới bắt đầu hoạt động, đó là công ty chứng khoán Mê Công - MSC triển khai hoạt động từ tháng 2/2003. Công ty chứng khoán TPHCM - HSC triển khai hoạt động từ tháng 4/2003 và công ty chứng khoán Ngân hàng Đông á - FABCS mới được cấp phép 5/2003). Qua 12 tháng công ty hoạt động, nhìn chung các công ty chứng khoán tuân thủ Nghị định 48/1998/NĐCP của Chính phủ, các quy định của UBCKNN và luật doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng. * Hoạt động mô giới. Đa số tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại các công ty chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2002 tăng đáng kể so với cuối năm 2001, tăng khoảng 55%. Trừ công ty chứng khoán Thăng Long, số tài khoản giao dịch của người đầu tư tại từng công ty chứng khoán cũng tăng trung bình từ 30 đ 60% so với năm 2001. Một số công ty có số lượng tài khoản người đầu tư tăng đáng kể (trên 100%) so với năm 2001 tuy sóo lượng tài khoản tính theo số tuyệt đối mở tại các công ty này không lớn. Đó là các công ty chứng khoán như FSC, IBS và ARSC. So với năm 2001, số lượng tài khoản cfác nhà đầu tư vẫn tập trung chủ yếu tại 4 công ty chứng khoán. Đó là các công ty chứng khoán ARSC, SSI, ACBS và BSC. Nói chung trong thời gian qua, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng khoán tăng lên nhưng trên thực tế con số này không phản ánh được thực trạng tình hình trên thị trường. Đến tháng 4 /2003 tổng số tài khoản mở tại các công ty chứng khoán là gần 15.000 tài khoản tăng 7% so với số lượng gần 14.000 tài khoản vào cuối năm 2002 và tăng hơn 65% so với số lượng 9000 tài khoản vào cuối năm 2001. + Giao dịch chứng khoán. So với năm 2001, tổng khối lượng giao dịch chứng khoán tại từng công ty chứng khoán đều tăng, mức độ tăng trung bình là trên 150%, tuy giá trị giao dịch giao dịch của năm 2001 vì 80 với năm trước, số lượng công ty niêm yết (Cty y') và số phiếu giao dịch tăng lên, nhưng mức giá chung của các cổ phiếu trên thị trường đều giảm. Trong năm 2002 , các công ty chứng khoán như ACBS, BVSC và SSI vẫn tiếp tục giữ thị phần chủ yếu trong giao dịch mô giới chứng khoán. Đến 31/3/2003 một số công ty chứng khoán như BVSC, SSI, BSC, và ACBS vẫn chiếm phần lớn thị phần giao dịch. Tuy nhiên tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán nói chung đã giảm sát mạnh so với các năm trước. Đến 31/3/2003 tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán đạt gần 237 tỷ đồng giảm hơn 47%, so với năm gần 450 tỷ đồng cùng kỳ năm trước. + Phí mô giới của các công ty chứng khoán vẫn tiếp tục giảm mạnh so với năm trước. Cụ thể tổng phí mô giới của các công ty chứng khoán. Thu được trong quý I/2003 đạt gần 730 triệu đồng giảm hơn 65% so với cùng kỳ năm trước quý I/2002 đạt gần 2 tỷ đồng phí mô giới. * Hoạt động tự doanh. Năm 2002 rất nhiều công ty chứng khoán đã khai thác gần như tối đa vốn đều lệ của mình cho hoạt động tự doanh chứng khoán và đầu tư tài chính ngắn hạn nhằm nâng cao hiệu quả kd trong năm 2002, trị giá giao dịch mua của các công ty chứng khoán lớn nhiều hơn trị giá giao dịch bán. Đến 31/3/2003 trong kết cấu doanh thu từ hoạt động kd, chỉ có 5 công ty chứng khoán có doanh thu từ hoạt động tự doanh đó là công ty chứng khoán như BVSC, FSC, SSI, BSC và VCBS. So với năm 2001 doanh thu từ hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán xu hướng giảm rõ rệt. * Hoạt động quản lý danh mục đầu tư Cũng như các năm trước, nhiệm vụ quản lý danh mục đầu tư đều chưa triển khai tại hầu hết các công ty được cấp phép nghiệp vụ này. Công ty BVSC đã triển khai nghiệp vụ này từ mấy năm trước nhưng chủ yếu với cổ đông sáng lập là tổng công ty bảo việt. Tuy nhiên đến năm nay, giá trị uỷ thác đầu tư của công ty này đã giảm nhiều so với năm trước. Công ty chứng khoán Thăng Long (TSC) cũng ký hợp đồng quản lý danh mục đầu tư với NHTM cổ phần quân đội. Tuy nhiên việc triển khai không được tốt và vẫn mang tính tập dượt. Trong qúy I/2003 không có công ty chứng khoán nào có doanh thu từ hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Các công ty vẫn tiếp tục thực hiện các hợp đồng đã ký kết nhưng gặp khó khăn do tình hình thị trường diễn biến không thuận lợi. * Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành. Trong năm 2001, chỉ có 2 công ty chứng khoán là BVSC và IBC có doanh thu từ hoạt động nhiệm vụ này. Trong năm 2002 chưa có công ty nào thực hiện được bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Công ty VCBS thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh 6 độ phát hành trái phiếu chính phủ. Một số công ty chứng khoán khác như BVSC, ARSC, ACBS và VCBS đã làm đại lý phát hành kỳ phiếu của một 1 số tổ chức tín dụng như ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoặc đại lý phát hành cổ phiếu bảo hiểm nhà rồng. Đến 31/3/2003 có một số công ty chứng khoán có doanh thu từ hoạt động bảo lãnh phát hành, hoạt động này tập trung ở một số công ty như BVSC, VCBS, ARSC. Ngoài ra các công ty còn ký tiếp các hợp đồng bảo lãnh trái phiếu cho quỹ hỗ trợ phát triển Việt Nam. Một trong những công ty trên trong thời gian ba năm qua cũng đạt một số thành tựu đáng kể như công ty cổ phần chứng khoán Bảo việt(BVSC) là công ty chưng khoán đầu tiên đuợc UBCKNN cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán .Với số vốn đièu lệ 43 tỷ đồng,có trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh nà đăng ký 6 nghiệp vụ như: mô giới quản lý danh mục đầu tư , tư vấn đầu tư lưu ký,bảo lãnh phát hành và tự doanh.BVSC là người tiên phong trong lĩnh vực chứng khoán đầy thử thách -Hoạt động mô giới: Đến hết tháng 12/2001 toàn công ty đã thực hiện2547 tài khoản cho khách hàng tăng 547 tài khoản so với kế hoạch trong đó có 2522 tài khoản cá nhân và 27 tài khoản cho khách hàng là tổ chức,số lưọng khách hàng có giao dịch thường xuyên khoảng 600 nguời phí giao dịch cả năm trên 2,285 tỷ đồng đạt 170% kế hoạch cả năm. Thị phần giao dịch của công ty năm 2001 chiếm 26% toàn thị trường tăng 1% so với kế hoạch. - Hoạt động tự doạnh: về giá mua doanh thu hoạt động tự doanh năm 2001 là 1,236 triệu đồng đạt 93,5% kế hoạch cả năm đã điều chỉnh. - Hoạt động tư vấn: Công ty đã đạt được doanh thu tư vấn 345 triệu đồng đạt 99% kế hoạch năm. - Hoạt động quản lý doanh mục. Tổng giá trị đầu tư của danh mục tháng 11/2001 là 72 tỷ. Thực hiện đầu tư đạt tỷ suất lợi nhuận là 216%. Tổng giá trị đầu tư của danh mục tháng 2/2001 là 45,4 tỷ đồng ở đó giá trị đầu tư vào trái phiếu cổ phiếu là 40,7 tỷ đồng. Tổng doanh thu năm 2001 đạt 310,2 triệu đồng, bằng 103% so với kế hoạch. - hoạt động bảo lãnh và đại lý phát hành trong năm 2001, công ty đã phối hợp với bảo việt thực hiện một đợt bảo lãnh phát hành trái phiếu cổ phần với khói lượng bảo lãnh là 200 tỷ đồng, phí bảo lãnh là 300 tỷ doanh thu bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành chứng khoán năm 2001 là 558,3 tỷ đạt 157% kế hoạch. Ngoài còn có các hoạt động khác như hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn và thu nhập từ cổ tức đạt 2,699 triệu đạt 118% kế hoạch cả năm. - Hoạt động lưu ký chứng khoán: Lượng chứng khoán lưu ký tại công ty ở mức tương đối cao nhưng đến nay hoạt động lưu ký chứng khoán chưa được thu phí. Tuy nhiên phí thu được từ nghiệp vụ quản lý trái phiếu ITS đạt 10 triệu. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001 Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện Tỷ lệ hoàn thành Doanh thu 6.600.000.000 7.690.225.461 117% Chi phí 4.864.400.000 5.366.389.407 110% Lợi nhuận 1.735.000.000 2.323.836.034 134% Trong năm qua bên cạnh các hoạt động triển khai nghiệp vụ BVSC cũng luôn chú trọng phát triển hệ thống thông tin liên lạc, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên trong công ty. Với phương châm "BVSC luôn là người bạn đồng hành tin cậy của quý khác hàng. Sau 3 năm công ty chứng khoán đạt nhiều hiệu quả nhưng vẫn còn một số hạn chế và cần đưa ra một số biện pháp về mô hình đội ngũ công nhân viên. Sau 3 năm kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, các công ty chứng khoán đã thể hiện phần nào vai trò của mình trên thị trường. - Tuy nhiên vẫn còn một số mặt tồn tại hạn chế về tuân thủ các quy định pháp luật của một số công ty chứng khoán chưa nghiêm túc. Vẫn còn một số tình trạng như một số nhân viên kinh doanh không có giấy phép hành nghề, thc hiện chế độ báo cáo chưa đầy đủ, chưa đúng thời hạn đầu tiên. do vậy cần đưa ra mọt số giải pháp nhằm cải thiện tình hình trên Hiện nay, có 07 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động. Qua 06 tháng hoạt động, nhìn chung các công ty chứng khoán tuân thủ Nghị định 48/19998/ NĐCP của Chính phủ, các quy định của UBCKNN và luật doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng. * Môi giới: Hầu hết các công ty chứng khoán hiện nay mới tập trung trung triển khai hoạt động môi giới. Tính đến 01/2003, tổng số tài khoản của các nhà đầu tư mở để giao dịch tại các công ty chứng khoán là 3249, tăng 2 lần so với khối lượng tài khoản mở trong tháng 08/2001 (là tháng bắt đầu hoạt động của các công ty). Tổng số chứng khoán lưu ký qua các công ty chứng khoán là 19.254.000 chứng khoán chiếm 60% trong tổng số 32 triệu chứng khoán đăng ký niêm yết. Một số công ty do điều kiện thuận lợi đã thu hút được khách hàng đến mở tài khoản và có tổng giá trị môi giới mua bán chứng khoán cho khách hàng khá cao. Từ đó doanh thu của các công ty này từ nguồn phí môi giới cũng cao hơn các công ty khác (trung bình trên 50 triệu VNĐ/ tháng), các công ty này bao gồm: Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, công ty TNHH chứng khoán ACB. Các công ty khác như công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất, Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long do mở chi nhánh hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu nhận lệnh của khách hàng ở Bình Dương và Hà Nội nên giá trị mua bán chứng khoán và doanh thu từ phí môi giới mua bán chứng khoán là thấp (doanh thu từ phí môi giới chỉ đạt 10-15 triệu VNĐ/ tháng). * Tự doanh. Ngoài nghiệp vụ môi giới, hầu hết các công ty chứng khoán (trừ 2 công ty chứng khoán Sài Gòn và Thăng Long không đăng kí hoạt động tự doanh) đều đã triển khai hoạt động tự doanh nhưng tỷ trọng vẫn còn thấp hơn nhiều so với hoạt động môi giới. Tuy nhiên, phần lớn các chứng khoán mà các công ty đầu tư đều mang lại lợi nhuận do giá cả cổ phiếu liên tục tăng. * Các hoạt động khác. Các hoạt động khác như bảo lãnh phát hành, quản lí danh mục đầu tư đều chưa được triển khai. Riêng các hoạt động tư vấn đầu tư hiện nay mới chỉ mang tính chất hướng dẫn người đầu tư thực hiện đúng các thủ tục mua, bán chứng khoán chứ chưa thực sự tư vấn cho người đầu tư biết cách đầu tư vốn của họ một cách có hiệu quả. Do đó, các công ty chưa thu phí đối với hoạt động này. Các công ty chứng khoán đang có kế hoạch mở thêm chi nhánh và tuyển nhân viên cho các bộ phận nghiệp vụ để mở rộng phạm vi phục vụ nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong thời gian qua quy mô của TTGDCK còn nhỏ bé, do đó doanh thu hoạt động của các công ty chứng khoán chưa bù đắp được chi phí cho các hoạt động giao dịch thường xuyên cũng như cho các chi phí ban đầu. Đến hết năm 2000 theo báo cáo sơ bộ, hầu hết các công ty chứng khoán đều bị lỗ. Chương 3 Các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. 3.1. Mục tiêu và phương hướng trong thời gian tới. Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán các nước và thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam thời gian qua chúng ta có thể rút ra một số bài học nhằm hoàn thiện các công ty chứng khoán ở các mặt: mô hình công ty; đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong các công ty chứng khoán và hệ thống tin học phục vụ giao dịch và triển khai các nghiệp vụ. Đồng thời, rút ra một số bài học nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán trong thời gian tới. Thứ nhất, về mô hình công ty. Qua mô hình của các nước ta có thể nhận thấy hầu như các thị trường từ phát triển đến các thị trường mới nổi đều kết hợp giữa hai mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ phát huy được các lợi thế về mạng lưới kinh doanh tiền tệ sẵn có, kinh nghiệm trong việc đánh giá các dự án đầu tư vv..nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xẩy ra. Tuy nhiên nếu chỉ có duy nhất ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường chứng khoán thì sẽ vấp phải hạn chế là khi thị trường chứng khoán xẩy ra biến động thì sẽ tác động tới hệ thống ngân hàng gây ra khủng hoảng trên thị trường tiền tệ. Do đó phải có sự tham gia của các công ty chuyên doanh chứng khoán nhằm khắc phục hạn chế trên. Như vậy, trong thời gian trước mắt chúng ta cần phải duy trì mô hình ngân hàng đa năng một phần và công ty chuyên doanh chứng khoán. Thứ hai, về chế độ quản lí. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai chế độ quản lí việc thành lập các công ty chứng khoán: đó là chế độ cấp phép thành lập và đăng kí thành lập. Chỉ một số nước có thị trường chứng khoán phát triển mới áp dụng chế độ đăng ký hoạt động và không đưa ra bất kỳ quy định nào về mức vốn pháp định tối thiểu. Tuy nhiên hầu hết các nước khác, ngay cả Nhật Bản là nước có thị trường chứng khoán phát triển ở mức độ cao, cũng áp dụng chế độ cấp phép hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư. Vì vậy, việc duy trì chế độ cấp phép đồi với các công ty xin hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam là điều tất yếu và đặc biệt cần thiết. Thứ ba, về hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán. Điều bắt buộc chung là các tổ chức muốn kinh doanh chứng khoán phải là một công ty cổ phần hay một công ty TNHH nhằm bảo vệ lợi ích của khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm, thao túng doanh nghiệp phục vụ lợi ích của một số người. Bên cạnh đó công ty cổ phần hay công ty TNHH tuân thủ chế độ thông tin báo cáo chặt chẽ hơn cũng như yêu cầu về quản lý cao hơn. Thứ tư, về sự tham gia của nước ngoài. Trong thời gian trước mắt chúng ta cần hạn chế sự tham gia của các bên nước ngoài vào thành lập các tổ chức kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam do một số nguyên nhân: - Các công ty chứng khoán nước ngoài có bề dày kiến thức và kinh nghiệm trong kinh doanh chứng khoán nên sẽ tạo thành một chênh lệch rất xa, đặc biệt trong giai đoạn đầu của thị trường, với các công ty chứng khoán trong nước. - Môi trường pháp lý ban đầu của ta chưa hoàn thiện; kiến thức, kinh nghiệm cũng như trình độ quản lý của ta chưa cao sẽ tạo ra những khó khăn nhất định trong việc hạn chế và giám sát sự thao túng thị trường của các công ty nước ngoài. Nhưng sự hạn chế cũng không ở mức chặt chẽ quá như một số nước khi thiết lập thị trường vào những năm 60-70 vì môi trường kinh doanh quốc tế hiện nay đã có những thay đổi đáng kể, nhu cầu về vốn đầu tư cũng như tình hình quốc tế hoá đã có sự phát triển khá mạnh trong những năm gần đây. Việc hạn chế qua chặt chẽ sẽ làm giảm sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ năm, trong hoạt động kinh doanh chứng khoán của các công ty chứng khoán sẽ cần phải có sự tách bạch giữa nghiệp vụ chứng khoán và các nghiệp vụ tài chính khác, giữa hoạt động môi giới chứng khoán và hoạt động tự doanh. Hầu hết các nước, kể cả các nước có thị trường chứng khoán phát triển đều đưa ra quy định tách biệt giữa môi giới và tự doanh chứng khoán như công ty chứng khoán phải quản lý tài sản chứng khoán của khách hàng tách biệt với tài sản chứng khoán của công ty; phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty.... những quy định này nhằm tránh các xung đột về lợi ích của khách hàng với các công ty chứng khoán ở Việt Nam. Thứ sáu, trong thời gian tới số lượng các công ty chứng khoán cần được mở rộng nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động của thị trường chứng khoán, nâng cao tính thanh khoản cho thị trường, cung cấp các dịch vụ nhanh chóng, kịp thời, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư và các nhà phát hành vào thị trường chứng khoán. Để thực hiện được các mục tiêu trên cần có những giải pháp hoàn thiện các công ty chứng khoán ở các mặt như mô hình công ty, nguồn nhân lực.... trong các công ty chứng khoán, đồng thời có các điều kiện tiền đề để mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán. Sau đây là một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Các giải pháp hoàn thiện công ty chứng khoán. 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện mô hình công ty chứng khoán. Hiện nay, chúng ta đang kết hợp mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Theo đó, các ngân hàng muốn tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con là một pháp nhân riêng biệt, hạch toán độc lập. Các công ty chuyên doanh là những công ty chuyên môn hóa trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, không tham gia kinh doanh các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm. Tuy nhiên, việc duy trì mô hình này đang gặp khó khăn về khung pháp lý. Trong quá trình thành lập và hoạt động, các công ty chứng khoán chịu sự điều chỉnh của nhiều Luật khác nhau dẫn tới sự chồng chéo, không nhất quán. Chẳng hạn, các công ty chứng khoán ngân hàng ngoài việc phải chịu sự điều chỉnh của Luật công ty, Luật doanh nghiệp còn phải chịu sự điều chỉnh của Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Trong khi đó, các công ty chuyên doanh không phải chịu sự điều chỉnh của Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Mặt khác, Luật các tổ chức tín dụng không qui định các ngân hàng được phép thành lập công ty chứng khoán, trong khi đó Nghị định 48/1998/NĐ-CP lại có qui định về việc ngân hàng được phép thành lập công ty chứng khoán. Điều này cho thấy, việc áp dụng mô hình các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay còn thiếu cơ sở pháp lí hoàn thiện. Để mô hình ngân hàng đa năng một phần kết hợp với công ty chuyên doanh chứng khoán hoàn thiện và phát huy hiệu quả thì vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta phải sớm ban hành Luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán làm cơ sở pháp lí chung điều chỉnh hoạt động của hệ thống các công ty chứng khoán chuyên doanh và ngân hàng, không gây nên sự điều chỉnh chồng chéo của các văn bản pháp qui lên hoạt động của các công ty này. 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nguồn nhân lực trong các công ty chứng khoán. Đây là một trong những vấn đề được xem là khó khăn và phức tạp nhất trong việc xây dựng và hình thành hệ thống các công ty kinh doanh chứng khoán.Trước hết, vì ở Việt Nam mới có hoạt động kinh doanh chứng khoán và do đó về cơ bản nhân lực được trang bị kiến thức về hoạt động này còn ít. Mặt khác, do nền kinh tế Việt Nam hiện đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với cơ chế quản lí kinh tế được thực hiện bằng biện pháp hành chính là chủ yếu sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, nên những nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường đang trong thời kỳ thiết lập và khẳng định. Điều này, đương nhiên cũng ảnh hưởng đến sự vận hành và cơ chế quản lí kinh tế của nền kinh tế, tập quán kinh doanh, đội ngũ nhân lực cho hoạt động kinh doanh của Việt Nam. Tuy nhiên, sau gần 15 năm thực hiện đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến hết sức quan trọng. Trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, bảo hiểm, các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản đã được xác lập và đi kèm với nó là đội ngũ nhân lực có chuyên môn tốt, đã được đào tạo và đang từng bước khẳng định vị thế trong công việc. Đây là điều kiện thuận lợi trong việc phát triển nhân lực ngành chứng khoán nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng. Đối với công ty chứng khoán, là lĩnh vực hoạt động kinh doanh trên thị trường vốn. Cá nhân tham gia tốt các khoá đào tạo tốt của UBCKNN sẽ được cấp chứng chỉ và là cơ sở để cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán. Để được cấp giấy phép hành nghề, cá nhân phải qua 4 khoá đào tạo: - Khóa đào tạo cơ bản. - Khoá đào tạo nâng cao. - Khoá đào tạo về luật pháp. - Khoá đào tạo về nghiệp vụ. Sau khi đã đạt được các yêu cầu về nghiệp vụ chuyên môn, các cá nhân phải qua kỳ thi sát hạch do cơ quan quản lí Nhà nước về chứng khoán tổ chức. Điều còn gây ít nhiều tranh luận là nên chăng quy định thời hạn có hiệu lực của giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, để nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên trong các công ty chứng khoán đồng thời bổ sung thêm đội ngũ nhân lực cho các công ty này thì vấn đề đặt ra trước mắt là UBCKNN cần thường xuyên mở các lớp đào tạo về nghiệp vụ chứng khoán, phổ biến các kinh nghiệm quản lí cho đội ngũ nhân sự trong các công ty này. Bên cạnh đó cần có biện pháp thích hợp nhằm đưa việc đào tạo nhân lực cho ngành chứng khoán trở lên phổ biến trong các trường đại học khối kinh tế. Có như vậy vấn đề nguồn nhân lực cho các công ty chứng khoán mới được giải quyết triệt để trong thời gian tới. kết luận. Để thị trường chứng khoán có thể phát triển nhanh chóng, yếu tố quan trọng không thể thiếu là hình thành các tổ chức tham gia kinh doanh trên thị trường. Đối tượng này sẽ góp phần nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán, bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động có trật tự, công bằng và hiệu quả. Vì vậy, việc thành lập và phát triển các tổ chức kinh tế hoạt động trên thị trường chứng khoán, trong đó có các công ty chứng khoán, là phù hợp với nhu cầu khách quan về phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán Việt Nam. Đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt nam giai đoạn hiện nay" được thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển thị trường chứng khoán Việt nam trong việc hoàn thiện hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặc thù của Việt nam (như hệ thống pháp lý hiện hành, tiềm lực tài chính và nhân lực của các chủ thể Việt nam, xu hướng phát triển kinh tế Việt nam...). Đề tài đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống các công ty chứng khoán ở Việt nam hiện nay, đồng thời tìm ra các biện pháp nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán trong thời gian tới. Là lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới đối với Việt nam, việc hoàn thiện và phát triển hệ thống công ty kinh doanh chứng khoán là một công việc rất quan trọng và hết sức khó khăn. Nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động và quản lý của công ty kinh doanh chứng khoán cần phải có nghiên cứu sâu hơn, như nội dung các hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán, cơ chế kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro của công ty chứng khoán; mối quan hệ của công ty chứng khoán với các tổ chức tài chính tiền tệ (Ngân hàng, Bảo hiểm, Công ty tài chính...) trong hoạt động ở thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường vốn nói chung; hệ thống các giải pháp (mang tính chất hành chính và kinh tế) thực hiện quản lý việc thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán trong điều kiện đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với các công ty chứng khoán... Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài này các kết quả nghiên cứu chỉ là những định hướng hết sức cơ bản ban đầu về mô hình công ty, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Những nội dung quan trọng về hoạt động và quản lý các công ty chứng khoán sẽ được nghiên cứu sâu hơn ở những đề tài sau. Tài liệu tham khảo 1. Thị trường chứng khoán. GS, T S Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân NXB Thống kê. 2. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. 3. Luật ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp. Miskin NXB Thống kê. 4. Tạp chí NH, tạp chí Tài chính, tạp chí Chứng khoán các số năm 2000, 2001, 7 tháng đầu năm 2003, và một số sách báo, tạp chí khác. mục lục Phần I. Phần mở đầu 1 Phần II. Nội dung chính Chương 1. Lý luận chung về thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán 3 1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán 3 1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán 3 1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán 4 1.1.3. Chức năng của thị trường chứng kháon 4 1.1.4. Cơ cấu thị trường chứng khoán 5 1.1.5. Cac chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 7 1.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam 9 1.3. Công ty chứng khoán 10 1.3.1 Khái niệm 10 1.3.2. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán 10 1.3.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán 12 1.3.4. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán 16 1.3.5. Điều kiện thành lập công ty 19 1.4. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới 19 Chương 2. Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 21 2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán 21 2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán 21 2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán 22 2.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam 24 2.3. Những quy định pháp lý đối với các công ty chứng khoán 25 2.3.1. Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán 25 2.3.2. Sự tham gia kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm và tổng công ty 26 2.3.3. Chế độ quản lý 27 2.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán 27 2.5. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh 28 Chương 3. Các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nayq 34 3.1. Mục tiêu và phương hướng trong thời gian tới 34 3.2. Các giải pháp hoàn thiện công ty chứng khoán 36 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện mô ình công ty chứng khoán 36 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nguồn nhân lực trong các công ty chứng khoán 37 Kết luận 39 Danh mục tài liệu tham khảo 41

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV019.doc
Tài liệu liên quan