Đề án Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội

Qua nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội chúng ta có thể thấy bên cạnh những thuận lợi như những lợi thế sẵn có của Hà Nội về con người, cơ sở vật chất.và cả những cơ chế, chính sách ưu đãi của thành phố dành cho các khu công nghiệp thì các khu công nghiệp Hà Nội cũng còn có những khó khăn trong môi trường đầu tư như những vấn đề về pháp lý, đất đai, các vấn đề liên quan đến cung cấp dịch vụ.chính những điều này làm hạn chế dòng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội, làm cho khả năng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp Hà Nội còn thua kém một số tỉnh và thành phố khác. Nhưng với mục tiêu đưa Hà Nội trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước, chúng ta phải tháo gỡ những khó khăn trên, phải không ngừng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để xây dựng, phát triển các khu công nghiệp Hà Nội trở thành hạt nhân phát triển kinh tế của thủ đô. Chúng ta phải biết tận dụng lợi thế của Hà nội - trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật. của cả nước để xây dựng các khu công nghiệp Hà Nội đúng theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, cơ chế quản lý thống nhất và hệ thống các chính sách ưu đãi về tài chính và thuế đủ hấp dẫn. Có như thế khu công nghiệp Hà Nội mới trở thành một mô hình kinh tế năng động, bền vững, xứng đáng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của thủ đô.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1688 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uận đối với doanh nghiệp dịch vụ. + Đối với doanh nghiệp KCN: 15% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu dưới 50% sản phẩm của mình và được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận. Trường hợp xuất khẩu từ 50-80% sản phẩm của mình thì được miễn giảm thêm 50% thuế lợi tức trong vòng 2 năm tiếp theo, 10% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm và được miễn thuế lợi tức 2 năm và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận. + Đối với doanh nghiệp dịch vụ: 20% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp dịch vụ và được miễn thuế lợi tức trong 4 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận và giảm 50% trong những năm tiếp theo. Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, doanh nghiệp trong KCN nộp khoản thuế là 5% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. 2.2. Ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất Đối với công ty phát triển cơ sở hạ tầng: Nếu là doanh nghiệp Việt Nam đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN thì có thể được xem xét để chậm nộp tiền thuê đất trong một khoảng thời gian nhất định dưới hình thức cho doanh nghiệp được nhận nợ thuê đất thuộc vốn ngân sách nhà nước, được ưu đãi cho vay vốn tín dụng nhà nước, được huy động nguồn vốn theo quy định của luật pháp để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Các ưu đãi đối với doanh nghiệp thuê đất trong các KCN là được trực tiếp thuê đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời gian thuê. Doanh nghiệp đầu tư vào các KCN được ưu tiên vay vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước để thực hiện di chuyển nhà xưởng, máy móc, thiết bị. Nếu là mặt bằng nhà xưởng cũ là thuê của nhà nước thì được thuê lại để sử dụng. 2.3. Các hỗ trợ khác từ phía Thành phố Hà Nội: · Ngân sách thành phố hỗ trợ 100% kinh phí cho công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị thực hiện dự án. · Đối với các công trình ngoài hàng rào KCN: Ngân sách thành phố đầu tư toàn bộ hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào; đường vào, hệ thống cấp nước sạch, điện… · Còn các công trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào: - Ngành điện đầu tư đưa điện bán đến chân công trình của doanh nghiệp. - Ngân sách hỗ trợ một phần để giải phóng mặt bằng (30%), hỗ trợ một phần kinh phí xây lắp các công trình trong hàng rào. - Cải cách thủ tục hành chính “một cửa, tại chỗ” triệt để theo chỉ đạo của Chính phủ và UBND thành phố Hà Nội. Các nhà đầu tư khi đến Ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội được giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính (giấy phép đầu tư, đăng ký nhân sự, thiết kế kỹ thuật…) theo mô hình cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ”. Các thủ tục của các nhà đầu tư được giải quyết công khai, minh bạch, rõ ràng, hiệu quả nên tiết kiệm được cho nhà đầu tư nhiều thời gian không cần thiết và đáp ứng được đòi hỏi rất lớn của các nhà đầu tư. * Đối với các công trình xây dựng nhà ở cho công nhân: các dự án đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân KCN – KCX được hưởng các ưu đãi sau: được tiếp cận với nguồn tín dụng nhà nước và được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Mặt khác, Thành phố Hà Nội sử dụng ngân sách để hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của khu vực có dự án xây dựng nhà ở cho công nhân. Miễn tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất được Nhà nước giao để thực hiện dự án nhà ở cao tầng. Trường hợp xây dựng nhà ở cho công nhân không phải là nhà cao tầng trong phạm vi dự án thì được giảm 50% tiền sử dụng đất. Nếu gặp khó khăn có thể cho phép chủ dự án được chậm nộp tiền sử dụng tối đa không quá 3 năm kể từ ngày ký quyết định giao đất. * Miễn tiền thuê đất đối với phần diện tích được Nhà nước cho thuê để thực hiện dự án xây dựng nhà cao tầng trong suốt thời gian thực hiện dự án. Miễn thuế sử dụng đất trong trong thời hạn 3 năm kể từ khi được giao đất đối với phần diện tích được Nhà nước giao để thực hiện dự án xây dựng nhà cao tầng cho công nhân. Ngoài ra, hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân thuộc diện chịu thuế Giá trị gia tăng, chủ dự án được kê khai khấu trừ thuế Giá trị gia tăng đầu vào của công trình xây dựng nhà ở cho công nhân khi tính thuế Giá trị gia tăng phải nộp theo quy định hiện hành. Dịch vụ cho thuê nhà ở cho công nhân được miễn thuế Giá trị gia tăng . Ưu đãi thuế thu nhập Doanh nghiệp có phân biệt giữa xây dựng nhà ở để kinh doanh và không kinh doanh, cụ thể. Đối với dự án đầu tư xây dựng nhà cho công nhân ở không thu tiền thì chủ đầu tư được tính các chi phí về nhà ở của công nhân vào chi phí sản xuất kinh doanh dưới hình thức khấu hao tài sản cố định và chi phí khác. II. Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào KCN tập trung ở Hà nội giai đoạn 2002 – 2007 1. Thực trạng thu hút vốn đầu vào KCN tập trung ở Hà nội giai đoạn 2002 – 2007 Việc hình thành và phát triển các KCN tập trung ở Hà nội có thể nói là sự ra đời tự nhiên của các tổ hợp một số nhà máy, xí nghiệp và đó là sự đòi hỏi cần thiết trong phát triển kinh tế công nghiệp của thành phố. Cho đến cuối năm 2002 đã có 4/5 KCN tập trung tiếp nhận các dự án đầu tư vào sản xuất công nghiệp, đó là KCN Sài Đồng B, Nội Bài, Hà Nội – Đại Tư. Cuối năm 2002, đã có 56 dự án được cấp giấy phép đầu tư vào trong các KCN với tổng số vốn đăng kí đầu tư là 587,5 triệu USD, trong đó Sài Đồng B có 23 dự án với tổng số vốn đăng kí đầu tư là 587,5 triệu USD, trong đó Sài Đồng B có 23 dự án với tổng số vốn đăng kí là 330.008.000 USD và 105.937 tỷ VNĐ, Nội Bài có 8 dự án với tổng số vốn đăng kí là 52.454.000 USD, Hà Nội – Đài Tư có 4 dự án với tổng vốn đăng kí là 6.210.000 USD, Thăng Long có 21 dự án với tổng số vốn đăng kí là 198.812.667 USD. Ta có bảng cụ thể tính đến cuối năm 2002 như sau: Bảng 2: Bảng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp tính đến cuối năm 2002 STT Tên KCN Số DA Vốn đăng kí (USD) Diện tích thuê đất (m2) 1 Sài Đồng B 23 330.008.000 390.206 2 Nội Bài 8 52.454.000 110.183 3 Thăng Long 21 198.812.667 527.333 4 Hà Nội – Đài Tư 4 6.210.000 50.584 Tổng cộng 56 587.484.667 1.078.306 Nguồn: Ban quản lý KCN, KCX Hà Nội Trong quý I năm 2004 có thêm 3 doanh nghiệp Nhật Bản xin thuê đất tại 2 KCN Thăng Long và Nội Bài, với số vốn đầu tư trên 7 triệu USD. Như vậy, 6 KCN trên địa bàn TP.Hà Nội đã thu hút được 69 doanh nghiệp thuê đất, với tổng vốn đầu tư trên 700 triệu USD, trong đó có 64 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 5 doanh nghiệp trong nước. Tính đến thời điểm năm 2005, các KCN tập trung này đã thu hút được 74 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 873 triệu USD và hơn 120 tỷ đồng, diện tích thuê đất gần 1,4 triệu m2. KCN Sài Đồng A có khu thương mại, khu vui chơi giải trí. KCN Sài Đồng B giai đoạn I (48,5ha) đã cho thuê, có 24 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 392 triệu USD và hơn 120 tỷ đồng, giai đoạn II (48,61 ha) đang triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật. KCN Nội Bài - hiện giai đoạn I (50ha) đã cho thuê 50 %, có 12 dự án đầu tư với số vốn đăng ký hơn 68 triệu USD-giai đoạn II (50ha) đang triển khai xây dựng hạ tầng. KCN Hà Nội-Đài Tư, được phát triển bởi 100% vốn của Đài Loan, diện tích đất chiếm 40ha, tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng là 12 triệu USD, hiện nay hạ tầng kỹ thuật đã cơ bản hoàn thiện. KCN Nam Thăng Long, với diện tích 212ha, giai đoạn I (30,38 ha) đang triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật. KCN Thăng Long với tổng vốn đầu tư hạ tầng hơn 76 triệu USD, giai đoạn I có 121,23 ha đã cho thuê, giai đoạn II với 78 ha đang hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật. Đặc biệt KCN Thăng Long đã được nhận chứng chỉ quản lý môi trường ISO-14001. Năm 2005 cũng là năm đánh dấu những bước tiến thành công của các KCN Hà Nội trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. KCN Sài Đồng B đã lấp đầy 100% diện tích. KCN Thăng Long, mặc dù mới đi vào hoạt động đã thu hút được 22 doanh nghiệp, được đánh giá là một trong những KCN quản lý tốt và thành công nhất không chỉ trong nước mà cả khu vực Đông Nam á với các tiêu chí: Tốc độ lấp đầy nhanh, chất lượng doanh nghiệp cao, hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại... Các KCN hình thành và phát triển theo đúng quy hoạch của Thành phố đã thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư những dây chuyền công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh. Các nhà đầu tư nước ngoài trong KCN là những Công ty có tên tuổi của nước ngoài như Canon, Sumitomo Bakellite, ToTo, Daewoo-Hanel,... với tỷ lệ xuất khẩu cao, góp phần làm tăng tỷ lệ xuất khẩu của Thành phố, thu hút và đào tạo nhiều lao động có tay nghề, góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế-xã hội của Hà Nội. Trong những tháng đầu năm 2006, đầu tư nước ngoài vào các KCN Hà Nội có sự tăng trưởng đột biến đạt trên 97,36 triệu USD. Trong đó số vốn đầu tư những dự án được cấp mới bằng 2/3 tổng vốn dự án đầu tư mới cả năm 2005, vượt chỉ tiêu vốn đầu tư của giấy phép cấp mới năm 2006. Đầu tư nước ngoài vào các KCN Hà Nội đang ngày càng khởi sắc nhờ chính sách cởi mở về thu hút đầu tư, cải cách hành chính, hỗ trợ về hạ tầng và các dịch vụ đi kèm... của thành phố. Hai dự án được cấp mới gồm: Dự án Công ty Nissei Electric Hà Nội (Nhật Bản) có vốn đầu tư 21 triệu USD sản xuất gia công và lắp ráp các loại trục và phụ kiện dùng cho máy móc và thiết bị văn phòng; các sản phẩm cáp nối dùng cho công nghệ thông tin... Dự án Công ty Panasonic Communications Việt Nam (Nhật Bản) có vốn đầu tư trên 76,36 triệu USD phát triển, sản xuất lắp ráp và gia công các sản phẩm điện, điện tử công nghệ cao Ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội cũng đang tích cực gặp gỡ, trao đổi với các nhà đầu tư nước ngoài để thu hút họ vào thuê đất tại các KCN. Năm 2006, Hà Nội đã thực hiện được mục tiêu lấp đầy 100% các KCN tập trung hiện có, cấp 15 giấy phép đầu tư mới với tổng vốn đăng ký 80 triệu USD, cấp 15 giấy phép điều chỉnh với vốn đầu tư tăng thêm 70 triệu USD. Trong 9 tháng đầu năm 2007 ban quản lý đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 31 dự án đầu tư vào các KCN tập trung (tăng 19 dự án so với cùng kỳ năm 2006) với tổng vốn đầu tư đăng ký 87,230 triệu USD; điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư cho 11 dự án với tổng vốn điều chỉnh tăng thêm là 50,604 triệu USD (bằng 94,3% so với cùng kỳ năm 2006); tháng đầu năm 2007, hoạt động SXKD của các doanh nghiệp trong KCN tập trung đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ: doanh thu đạt 1.335 triệu USD, tăng 24% so với cùng kỳ 2006; nộp ngân sách nhà nước 29 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ 2006. Cũng trong 9 tháng đầu năm 2007, các Khu (Cụm) công nghiệp vừa và nhỏ đạt doanh thu: 1.330 tỷ đồng, nộp thuế: 76.880 triệu đồng.    Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong KCN Hà Nội 9 tháng đầu năm 2007 đạt tỷ lệ tăng trưởng cao: Tổng trị giá xuất khẩu: 940.328.956 USD, tăng 30% so với cùng kỳ 2006, bằng 62,68% kế hoạch năm; Tổng trị giá nhập khẩu: 867.925.746 USD, tăng 29% so với cùng kỳ 2006, bằng 72,3% kế hoạch năm. Thành công đạt được trong công tác xuất khẩu chủ yếu là do các công ty chế xuất đã hoạt động ổn định, một số doanh nghiệp phát triển giai đoạn II và có giá trị xuất khẩu đạt trên 421 triệu USD kéo theo nhiều doanh nghiệp vệ tinh đi vào hoạt động ổn định, có giá trị xuất khẩu hàng hoá lớn. Đến hết năm 2007 các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội đã thu hút được trên 300 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó 245 triệu USD là vốn đầu tư mới và 61,5 triệu USD là vốn bổ sung Do môi trường đầu tư và hạ tầng cơ sở không ngừng được cải thiện, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn của nước ngoài đã chọn các KCN Hà Nội để triển khai dự án như Công ty Machino đầu tư 16,7 triệu USD, Yamaha đầu tư 14,7 triệu USD, Nippo 9,4 triệu USD. Năm qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN đều đạt mức tăng trưởng khá. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đạt trên 2,1 tỷ USD, tăng 24% so với năm trước. Một số công ty có doanh thu cao như Canon Việt Nam, Hoya Gladic, y Denso, Zuellig Pharma. Trong 6 tháng đầu năm 2008, các KCN và chế xuất tập trung ở Hà Nội đã thu hút được khoảng 152 triệu USD vốn FDI tăng 27% so với cùng kỳ năm2007. Trong tổng số 152 triệu USD, có 8 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 42,4 triệu USD. Còn lại 108 triệu USD là của 25 dự án đầu tư tăng vốn.Tuy nhiên, tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án cấp mới lại giảm 40% so với năm 2007. 2. Tình hình thu hút đầu tư vào các KCN phân theo đối tác Bảng 3: Tình hình thu hút vốn đầu tư vào các KCN theo đối tác không kể các dự án liên doanh. Nước Số dự án Vốn đăng kí (USD) 1. Nhật 30 299,969 2. Mỹ 8 127,92 3. Arapxeut 3 60,000 4. Trung Quốc 7 48,515 5. Singapo 9 34,524 6. Hàn Quốc 10 25,667 7. Đài Loan 12 18,63 8. Thái Lan 3 15,000 9. Malaixia 4 5,200 10. Bỉ 2 1,32 Nguồn: Ban quản lý KCN, KCX Hà Nội Như vậy chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng các nhà đầu tư vào KCN Hà Nội chủ yếu là đến từ Châu Á. Trong khi đó các nhà đầu tư ở các nước phát triển và có nền công nghiệp hiện đại hầu như vẫn chưa có mặt nhiều tại các KCN Hà Nội. III. Những mặt còn tồn tại và hạn chế khi đầu tư vào các KCN tập trung ở Hà Nội Trong thời gian qua, các KCN của Hà Nội đã thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn của các doanh nghiệp nước ngoài đồng thời phát huy nội lực của các doanh nghiệp trong nước. Các nhà đầu tư nước ngoài trong KCN tập trung của Hà Nội phần lớn có công nghệ tiên tiến, trình độ sản xuất cao tạo ra sản phẩm có chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Nhiều công ty có tên tuổi của nước ngoài đang hoạt động sản xuất trong các KCN của Hà Nội đáng kể đến là Pentax, Orion-Hanel, Canon, Sumitomo Bakelite, Toto... Các doanh nghiệp này có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm rất cao qua đó làm tăng tỷ lệ xuất khẩu của thành phố đồng thời cũng thu hút và đào tạo nhiều lao động có tay nghề góp phần không nhỏ vào việc phát triển Kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội. Mặc dù vậy, qua thời gian dài hình thành và hoạt động, các KCN – KCX của Hà Nội đang tồn tại và bộc lộ nhiều hạn chế. 1. Nhóm các vấn đề liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng 1.1. Về giá đất. Khung giá đất còn cao, khó thu hút các dự án đầu tư trong nước. Giá thuê đất tại các KCN ở Hà Nội là cao nhất. Tại KCN Đài Tư - Hà Nội đã lên mức 150 USD/m2, thời hạn thuê đất tối đa 38 năm; tại KCN Sài Đồng B và Nam Thăng Long ở Hà Nội lần lượt là 125 USD/m2/41 năm và 100 USD/m2/44 năm. Chính vì thế vấn đề đất đai luôn là vấn đề khó khăn nhất đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước trong suốt thời gian qua. Đối với KCN, vấn đề đất đai còn có nhiều yếu tố phức tạp hơn, nổi bật là cơ chế định giá: giá đất không thể hiện cung cầu thị trường mà theo một cơ chế hành chính cứng nhắc. Khung giá đất ở Trung ương quản lý nên các địa phương không có điều kiện điều chỉnh kịp thời khi thị trường biến động hoặc do môi trường đầu tư thay đổi. Giá đất tại các KCN Hà Nội hiện nay là cao nhất so với tất cả các KCN trên cả nước, bên cạnh đó chi phí quản lý tại các KCN cũng cao so với các KCN khác. Bảng 4: Bảng giá đất và phí quản lý tại các KCN Hà Nội. KCN Giá đất (USD/m2/năm) Phí quản lý (USD/m2/năm) Sài Đồng B 50 – 60 0,55 – 0,8 Nội Bài 45 - 55 0,8 - 1 Thăng Long 70 - 85 1 – 1,2 Hà Nội – Đài Tư 60 - 65 0,5 – 0,8 Nam Thăng Long 50 Nguồn: Ban quản lý KCN, KCX Hà Nội Với giá đất và chi phí quan lý như vậy đã làm giảm đáng kể sức hấp dẫn của các KCN ở Hà Nội. Tận dụng lợi thế cơ sở hạ tầng của Hà Nội, các tỉnh giáp ranh đã xây dựng những KCN ở gần ngay ranh giới và vì thế, nhiều nhà đầu tư đã chuyển những dự án đến KCN này thay vì đầu tư vào các KCN Hà Nội. Với giá đất thuê cao như thế, các doanh nghiệp trong nước cũng không có đủ điều kiện để thuê, đối với doanh nghiệp trong nước (đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh) vì việc thuê lại đất trong KCN còn là điều xa vời đối với họ vì quy mô sản xuất của doanh nghiệp còn nhỏ, khả năng tài chính còn hạn chế. Thành phố Hà Nội cũng có những ưu đãi về giá thuê đất nhưng hiện nay việc ưu đãi này chưa đến được với các doanh nghiệp. Theo quy chế hiện hành, giá thuê đất trong các KCN là do chủ đầu tư cơ sở hạ tầng và doanh nghiệp xin thuê đất tự thỏa thuận trong hợp đồng. Điều đó có nghĩa là khi Nhà nước và thành phố Hà Nội giảm giá cho thuê đất trong KCN thì người được hưởng đầu tiên là chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN. Còn sau đó, việc giảm hay không giảm giá thuê lại đất cho các các doanh nghiệp trong KCN là quyền của các chủ đầu tư. 1.2. Về vấn đề quyền sử dụng đất: Hiện nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới chỉ trao cho doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng. Tiếp theo đó, khi doanh nghiệp đầu tư vào KCN, phải trả tiền thuê đất một lần cho thời gian nhiều năm không được không được giấy chứng nhận. Đây là một thiệt thói cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có vai trò đặc biệt quan trong đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện nay. Vì theo quy định hiện hành, doanh nghiệp được phép dung giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn, thế chấp ngân hàng để vay vốn… Song cho đến nay hầu hết các doanh nghiệp vào thuê đất lại trong các KCN sau khi đã bỏ ra nhiều vốn để thuê lại đất, để tạo cơ sở vật chất cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn đang “dài hơi” chờ đợi được cấp sổ đỏ để thế chấp vay vốn từ ngân hàng. Như vậy sẽ rất khó khăn để tiến hành sản xuất kinh doanh nếu doanh nghiệp thiếu vốn mà lại không thể vay vốn từ ngân hàng. Từ đó gây tâm lý chán nản, ngại đầu tư của các nhà đầu tư, làm giảm việc thu hút đầu tư vào các KCN. 1.3. Vấn đề giải phóng mặt bằng(GPMB)và giá đền bù · Về giải phóng mặt bằng: Một trở ngại nữa, khiến cho KCN tập trung của Hà Nội chưa thực sự hấp dẫn, trở thành "địa chỉ đặt chân" của các nhà đầu tư, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước là do công tác đền bù, giải phóng mặt bằng (GPMB) để thực hiện dự án đầu tư quá chậm chạp, làm chậm tiến độ triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật cũng như quá trình phát triển KCN . Công tác GPMB gặp khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: việc quy hoạch, hướng dẫn, chỉ dẫn, tuyên truyền thông tin làm chưa tốt, do vậy người dân không hiểu rõ chế độ chính sách của Nhà nước hoặc nhiều trường hợp do tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng tại địa phương, nên đẩy giá đất lên cao gấp nhiều lần so với giá đền bù, từ đó gây ra tâm lý chây ỳ, đòi đền bù với giá cao, không chịu giao đất. Nhiều KCN từ khi có quyết định thành lập Hội đồng đền bù GPBM cho đến khi hoàn thành thủ tục, lấy được đất phải kéo dài nhiều năm, gây tâm lý ức chế, làm nản lòng các nhà đầu tư. · Về giá đền bù: nguyên tắc đền bù hiện nay vẫn theo quy định của nhà nước. Vì giá thường được quy định tương đối cứng nhắc nên bao giờ cũng bị người dân phàn nàn quá thấp, trong khi các cơ quan nhà nước lại cho rằng là quá cao. Điều đó thường kéo dài thời gian thỏa thuận và thậm chí quá trình này còn bị dây dưa trong nhiều năm. Điều này ảnh hưởng đến tiến độ thu hút đầu tư vào các KCN. Các KCN như Nam Thăng Long, Daewoo – Hanel đã được thành lập từ lâu nhưng vì nhiều lý do đã rất chậm trễ trong xây dựng cơ bản dẫn tới chưa thể thu hút thêm nhiều dự án đầu tư vào các KCN này. Vấn đề giải phóng mặt bằng ở Hà Nội còn do nhiều nguyên nhân khác nữa, đó là xây dựng KCN ở Hà Nội chủ yếu là đất nông nghiệp. Nhiều nơi những thỏa thuận ban đầu chưa chặt chẽ, người dân lợi dụng những điều kiện đền bù hoa màu, trồng bổ sung thêm hoặc dựng thêm nhà để hưởng giá đền bù cao hơn. 1.4. Về vấn đề quy hoạch: Quy hoạch không chỉ là vấn đề nổi cộm của các nước mà còn là của Hà Nội. Quy hoạch rồi lại sửa đổi quy hoạch đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp cơ sở hạ tầng trong việc tạo mặt bằng sản xuất. 1.5. Về cơ sở hạ tầng: Về nguyên tắc nhà nước đảm bảo cho các công trình hạ tầng đến chân hàng rào KCN. Tuy vậy trong quá trình hình thành và phát triển các KCN vừa qua , việc phối hợp xây dựng các công trình trong và ngoài hàng rào chưa đồng bộ., làm cản trở tiến độ triển khai các KCN. Về hạ tầng kỹ thuật của các KCN trên địa bàn Hà Nội hiện tại chỉ có KCN Thăng Long có hạ tầng kỹ thuật cả trong và ngoài hàng rào là tương đối hoàn chỉnh, các KCN còn lại hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ. Có KCN – KCX đến nay việc xây dựng cơ sở hạ tầng còn sơ sài, vẫn chưa có khu xử lý nước thải, chưa cung cấp đầy đủ nước sạch cho doanh nghiệp sản xuất, hệ thống giao thông ngoài hàng rào không thuận tiện, điện không ổn định... vấn đề đặt ra đối với sự không đồng bộ này do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào luôn chậm hơn so với việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào, có trường hợp Chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo cách "cuốn chiếu". Đối với các KCN tập trung ở Hà Nội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như xây dựng đường giao thông, hệ thống thoát nước... luôn phụ thuộc vào quy hoạch phát triển của thành phố, nên thường chậm hơn so với tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong KCN. Bên cạnh đó, vấn đề xử lý nước thải trong KCN- KCX Hà Nội còn chưa được chú trọng và xây dựng đúng mức, nhiều khu chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải chung hoặc nếu có thì việc xâydựng nhà máy xử lý nước thải luôn bị xếp vào hạng mục cuối cùng trong kế hoạch đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của các KCN- KCX. Việc cung cấp điện, nước cho các KCN cũng không được ổn định. Đơn cử về việc cung cấp điện cho Sài Đồng N, theo phản ánh của công ty Orion – Hanel, việc cúp điện thường xuyên không báo trước là tình trạng phổ biến mà các doanh nghiệp phải gánh chịu, trong khi mỗi lần cúp điện sẽ làm cho doanh nghiệp bị thiệt hại khoảng 20.000USD. Điều này làm giảm phần nào lòng nhiệt tình của các nhà đầu tư vào các KCN Hà Nội. 1.6. Các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính: Thời gian giải quyết các thủ tục hành chính ở các KCN Hà Nội còn kéo dài so với các địa phương khác. Sự kéo dài này làm tăng chi phí giao dịch của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Có nhiều khi, để tiến hành các hoạt động kinh doanh trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp phải rất nhiều những thủ tục hành chính rườm rà, gặp khó khăn trong khi thi hành cũng giống như các doanh nghiệp ngoài KCN. Chính sách đối xử đối với các doanh nghiệp KCN chưa công bằng, đã hạn chế khả năng thu hút đầu tư vào các KCN, nhất là các doanh nghiệp trong nước. Về tổ chức bộ máy của ban quản lý: Hiện nay trụ sở của ban quan lý KCN- KCX của Hà Nội quá chật hẹp, chưa thuận lợi, không những không đủ điều kiện để tiếp khách, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, mà còn thiếu cả chỗ làm việc cho các chuyên viên trong ban. Tổ chức bộ máy chưa hoàn chỉnh, trình độ của cán bộ quản lý còn chưa cao chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc nên đã làm giảm hiệu quả thu hút vốn đầu tư. 1.7. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ: Một trong những yếu tố quan trọng làm thiếu hấp dẫn môi trường đầu tư vào khu công nghiệp là điều kiện cung cấp dịch vụ cho KCN còn thiếu. Vị trí các KCN Hà Nội hầu như ở ngoại ô thành phố nên lao động, đặc biệt là lao động có tay nghề cao đều ở trong nội đô. Trong điều kiện chưa có cơ sở hạ tầng xã hội như nhà ở trường học, chợ, ngân hàng…ở gần KCN thì việc thu hút các nhà đầu tư cũng như lao động có trình độ tay nghề chuyên môn cao là vấn đề hết sức khó khăn. Đến nay, hầu hết các KCN Hà Nội đều chưa có khu tập thể cho công nhân, trừ những lao động tai địa phương, còn lại đều phải đi thuê nhà ở. Các doanh nghiệp hoạt động trong KCN nói riêng, và tại Việt Nam noi chung phải chịu cước dịch vụ rất cao so với các quốc gia khác. Đặc biệt tại Hà Nội loại cước này thậm chí còn gấp 2-3 lần so với nơi khác. Đây cũng là một thiệt thòi cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào các KCN Hà Nôi. Những yếu tố này phần nào đã làm giảm tình hấp dẫn của các KCN thủ đô. Vấn đề tuyển dụng lao động còn rất nhiều bất cập: Viêc tạo nguồn lao động cho các doanh nghiệp KCN thường bị động do chưa đảm bảo chất lượng. Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng có dồi dào sức lao động nhưng chỉ là lao động tay nghề thấp, khả năng đáp ứng nhu cầu về lao động có tay nghề cao cho một số lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao còn yếu, hầu hết các doanh nghiệp phải tự đào tạo lao động cho mình. Trong các KCN ở Hà Nội, chỉ có KCN Sài Đồng B là đã hình thành hẳn một trung tâm đào tạo lao động còn hầu hết các KCN khác chưa có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để cung cấp cho các doanh nghiệp. 1.8. Về hoạt động xúc tiến đầu tư Đây là một hoạt động cực kỳ quan trọng đối với việc thu hút đầu tư vào KCN. Nếu không có hoạt động này thì các nhà đầu tư sẽ không biết đến tiềm năng và cơ hội của KCN. Trong thời gian qua, hoạt động này ở các KCN Hà Nội làm chưa tốt dẫn đến hiệu quả thu hút đầu tư chưa thực sự cao. 2. Nhóm các vấn đề liên quan đến pháp lý. Khuôn khổ pháp lý nói chung và các văn bản pháp lý liên quan đến các KCN nói riêng vẫn ở tình trạng thiếu đồng bộ, không thống nhất, không cụ thể. Mặt khác cơ chế phân cấp và ủy quyền thiếu đồng bộ, chưa đủ điều kiện để thực hiện cơ chế một cửa, tại chỗ. Cũng như nhiều lĩnh vực khác, nguyên tắc phân cấp trong quản lý đầu tư chủ yếu dựa vào quy mô chứ không phải dựa vào tính chất của dự án, nên dễ dẫn đến hiện tượng tranh giành quyền cấp phép giữa TW và địa phương. Nhiều dự án nước ngoài chủ yếu chỉ sản xuất hàng dân dụng, không tác động đến tổng thể nền kinh tế nhưng vẫn phải có đầy đủ các thủ tục, tiến hành đầy đủ các bước tốn kém về chi phí và thời gian cho các nhà đầu tư. Điều đó là một trở ngại rất lớn, gây hạn chế dòng đầu tư vào Việt Nam. Việc triển khai các dự án đầu tư của các KCN- KCX trên địa bàn thành phố vẫn gặp nhiều trở ngại, mà nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý, quy hoạch KCN-KCX còn lúng túng. Cơ chế "một cửa, tại chỗ" chưa đi vào thực chất do Ban quản lý các KCN-KCX chưa thể hiện được vai trò, vị trí tập trung, là đầu mối giải quyết các hoạt động diễn ra trong KCN-KCX. Hiện tại, trong các KCN khi xảy ra các vi phạm trong quản lý xây dựng và quy hoạch thì Ban quản lý chỉ là cơ quan phát hiện và kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý. Do đó việc xử lý vi phạm trong quy hoạch, xây dựng thiếu kịp thời, tính thực quyền chịu trách nhiệm của các Ban quan lý rất mờ nhạt. Cho đến nay Ban quản lý vẫn chưa được Bộ Tài nguyên và Môi trường uỷ quyền trong công tác quản lý môi trường đối với các KCN. Đây là một vấn đề hết sức cấp bách rất cần được sự chỉ đạo, giải quyết kịp thời của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trực tiếp là thành phố Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các KCN tập trung ở Hà Nội I. Định hướng thu hút vốn đầu tư vào các KCN tập trung ở Hà Nội Nhiệm vụ cấp bách của Hà Nội trong thời gian tới là phải nhanh chóng khắc phục những yếu kém tồn tại, tận dụng được các lợi thế tự nhiên, kinh tế và chính trị sẵn có để đưa các KCN phát triển đúng tầm của một thành phố trực thuộc trung ương, thủ đô của các nước. Dưới đây là một số mục tiêu cụ thể: - Tiếp tục đầu tư đồng bộ, thành lập mới một cách có chọn lọc khoảng 5.000 ha đất khu công nghiệp, phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân ở các KCN khoảng trên 60%. - Tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN, phấn đấu thu hút thêm khoảng 500 dự án (bao gồm cả dự án trong nước và nước ngoài) đăng ký đầu tư và triển khai thực hiện sản xuất kinh doanh trong các khu công nghiệp; phấn đấu đẩy nhanh tốc độ giải ngân, thực hiện đầu tư khoảng 300 tỷ USD/năm (cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài). - Sau thời kỳ 2010, quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý dự trữ diện tích đất công nghiệp; hoàn thiện về cơ bản mạng lưới KCN trên toàn Hà Nội; quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN đã được thành lập trước đây theo hướng đồng bộ hoá, hình thành những “công viên công nghiệp” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả của các KCN. - Xây dựng khu vực xử lý chất thải rắn công nghiệp tập trung quy mô lớn ở những khu vực bố trí tập trung các KCN tại các vùng kinh tế trọng điểm, hoàn chỉnh các công trình kết cấu hạ tầng trong các KCN hiện đang hoạt động, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải. II. Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các KCN tập trung ở Hà Nội 1. Giải pháp từ phía các KCN và thành phố Hà Nội 1.1. Nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và điều hành thực hiện quy hoạch Điều hành trực tiếp quy hoạch với quan điểm “triển khai thông thoáng nhưng đảm bảo chặt chẽ”. Đối với các KCN gặp khó khăn trong triển khai (như KCN Nam Thăng Long, Daewoo - Hanel) cần tập trung giải quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai. Trường hợp những KCN không còn triển vọng phát triển, cần kiên quyết xem xét rút Giấy phép đầu tư hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong quá trình triển khai xây dựng KCN, cần tuân thủ chặt chẽ quy hoạch gắn kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào các KCN trên địa bàn thành phố một cách đồng bộ) đồng thời tăng cường sự hợp tác, liên kết và thiết lập mạng lưới và quy hoạch phát triển các KCN giữa các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hoàn thiện cơ chế và phương thức quản lý KCN theo hướng tăng cường cơ chế “một cửa, tại chỗ” nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn với cơ quan nhà nước ở Trung ương nhằm tăng cường thống nhất giữa quản lý KCN theo quy hoạch, cơ chế, chính sách chung cho KCN. Tiếp tục đổi mới các mặt công tác quản lý Nhà nước về KCN, KCX đặc biệt là công tác quản lý và hỗ trợ triển khai dự án sau cấp phép kết hợp với việc hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan đến KCN, KCX để tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho các doanh nghiệp đầu tư vào trong KCN. 1.2. Nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN: Thực hiện đầu tư xây dựng có trọng điểm, sớm hoàn thành đồng bộ và huy động các công trình kết cấu hạ tầng bên trong và ngoài KCN, nâng cao hơn nữa tỷ trọng sử dụng đất công nghiệp trong KCN, đồng thời tập trung vào các vấn đề khẩn trương giải quyết nhà ở cho công nhân. Hỗ trợ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN và phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ hoạt động của các KCN. Việc đầu tư phát triển các khu dân cư, khu đô thị và các dịch vụ đi kèm như: hỗ trợ việc giảm giá cung ứng điện, nước, giao thông viễn thông, đặc biệt là các cơ sở hạ tầng xã hội như các trung tâm thương mại, trường học bệnh viện… là nhiệm vụ của thành phố. 1.3. Các giải pháp hỗ trợ các KCN về đất Sở Công nghiệp Hà Nội CN các cơ chế, chính sách hỗ trợ các khu cụm công nghiệp. - Tiền thuê đất: (đầu tư cho FDI) + Giá thuê đất áp dụng đối với đất đô thị( loại 1) Tối thiểu: 1 USD/ m2/ năm Tối đa : 12 USD/ m2/ năm + Giá thuê đất áp dụng đối với đất không thuộc đất đô thị Tối thiểu: 0,6 USD/ m2/ năm Tối đa: 7,2 USD/ m2/ năm + Đối với các khu vực sau: Gia Lâm, Đức Giang, Văn Điển, Cầu Diễn Tối thiểu: 0,35 USD/ m2/ năm Tối đa: 4,2 USD/ m2/ năm + Đối với các khu vực sau: Đông Anh, Yên Viên, Sóc Sơn Tối thiểu: 0,18 USD/ m2/ năm Tối đa: 1,08 USD/ m2/ năm + Đối với các khu vực bên trong liền kề khu đô thị Tối thiểu: 0,06 USD/m2/ năm Tối đa: 0,6 USD/ m2/ năm + Đối với đất ở các khu vực khác không thuộc các điều kiện trên có thẩm quyền để quyết định giá thuê đất là UBND thành phố Hà Nội. * Việc giảm và miễn tiền thuê đất( đối với đầu tư FDI) a. Miễn thuế đất Trong thời gian góp vốn xây dựng các dự án đầu tư được miễn tiền thuê đất. Đối với các dự án khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư sẽ được miễn tiền thuê đất trong thời gian 7 năm( thời gian miễn có thể kéo dài tùy theo quyết định của cấp có thẩm quyền và tình hình hiện tại của doanh nghiệp). Các dự án có sự ngừng việc tạm thời hoặc kéo dài thời gian thực hiện dự án được phép miễn trả tiền thuê đất. b. Giảm tiền thuê đất - Khi thuê đất trong giai đoạn 5 mà trả tiền thuê đất 1 lần, được giảm 5% tiền thuê đất phải trả cho cả giai đoạn 5 năm. - Nếu thời gian thuê trên 5 năm mà trả tiền thuê đất 1 lần thì được giảm thêm 1% cho mỗi năm sau thời gian 5 năm, song tổng số giảm không vượt quá 25% của tổng số tiền phải trả trong cả giai đoạn thuê. - Nếu trả tiền thuê đất 1 lần trong thời gian trên 30 năm được giảm 30% tiền thuê đất phải trả. Việc giảm được áp dụng từ ngày kết thúc việc miễn tiền thuê đất. 1.4. Giải pháp về cung ứng lao động - Thành phố cần phải đầu tư phát triển số lượng các trường dạy nghề, song song đó là việc đổi mới nội dung, phương pháp, ngành nghề đào tạo trong đó cần quan tâm khảo sát đến nhu cầu lao động cần cung ứng của các KCN. Tại thành phố hiện này, lao động Đại học và trên đại học khoảng 4,3%; kỹ thuật viên chiếm 4,4%; công nhân kỹ thuật chiếm 31,2%; lao động giản đơn chiếm 60,1%; việc đào tạo lực lượng có chuyên môn kĩ thuật thời gian qua chưa đáp ứng được nhu cầu lao động ngày càng cao. Tổng cục dạy nghề cần phối hợp với các địa phương và ban quản lý các khu công nghiệp xây dựng các danh mục ngành nghề đào tạo hiện nay trong tương lai nhỏ sản xuất phần mềm, cơ điện tử. Cần cải tiến nội dung và phương pháp đào tạo theo hướng đi sâu, nâng cao khả năng thực hành đối với đối tượng công nhân kĩ thuật, kinh tế hiện hành nghề. Nội dung đào tạo kĩ thuật viên phải khác với đào tạo kĩ sư, chỉ nên đào tạo nâng cao trình độ kĩ thuật viên để đáp ứng với công việc được giao thay vì đào tạo thành kĩ sư nhưng không đủ khả năng, tránh tình trạng “nửa thầy, nửa thợ”. Đẩy mạnh đào tạo lực lượng kĩ sư công nghệ nhằm thích nghi với tình hình sản xuất của các KCN. Bên cạnh việc đào tạo nghề, cần đào tạo về trình độ ngoại ngữ cho lao động nhằm đảm bảo khả năng giao tiếp tối thiểu cho công nhân. Các trường dạy nghề cần nắm thông tin về chất lượng tay nghề công nhân sau khi đào tạo ra trường để có kể hoạch điều chỉnh, bổ sung nội dung đào tạo cho phù hợp. - Đa dạng hóa hình thức huy động vốn để xây dựng và hoạt động khu công nghiệp, phải kết hợp giữa nguồn vốn để xây dựng và hợp đồng KCN, phải kết hợp giữa nguồn vốn trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN, không nên có quan niệm sai lầm là nhất thiết phải có nguồn vốn của nước ngoài thì dự án mới hiệu quả và khả thi cao hơn. Ví dụ như KCN Sài Đồng B hoàn toàn sử dụng vốn trong nước, do công ty Hanel đầu tư nhưng lại đạt hiệu quả rất cao. Trong khi đó KCN Hà Nội được đầu tư theo hình thức 100% vốn đầu tư của Đài Loan được cấp giấy phép từ năm 1995 nhưng đến năm 1999 chỉ có 4 dự án xin thuê đất hoạt động. - Tăng cường sự phân cấp, quản lý Nhà nước cho Ban quản lý các khu công nghiệp. Sự phân cấp ở đây nên tiến hành đồng bộ và toàn diện hơn, cụ thể có thể giao toàn bộ. Các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN như hệ thống điện nước, đường giao thông, cây xanh, xử lý chất thải bảo vệ môi trường, các khu thương mại, trường học, bệnh viện… cũng chưa được xử lý đồng bộ, nhưng lại thiếu sự hỗ trợ của thành phố. - Do giá thuê đất tại các KCN này còn cao hơn các địa phương khác nên chưa nhận được sự hưởng ứng của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư trong nước. Giá thuê đất bình quân của các KCN tại Hà Nội là 1,6 USD/m2/năm cộng với chi phí quản lý khoảng 0,5- 0,5 USD. Trong khi đó, KCN Tân Tạo có giá thuê đất chỉ khoảng 1 USD/m2/năm; còn giá thuê đất bình quân của các KCN khác dao động khoảng 0,1- 0,5 USD/ m2/ năm. Ngoài ra, nhiều địa phương còn miễn giảm tiền thuê đất, hoặc cho phép thanh toán tiền thuê đất chậm, hoặc miễn phí quản lý… còn đối với các KCN tại Hà Nội, tiền thuê đất chỉ có thể thanh toán làm 1 hoặc 2 lần. - Việc tạo nguồn lao động cho các doanh nghiệp KCN thường bị động do chưa đảm bảo chất lượng. Trừ KCN Sài Đồng B hình thành hẳn một trung tâm đào tạo lao động thì hầu hết các KCN trong cả nước chưa có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để cung cấp cho các doanh nghiệp. - Ngoài ra còn phải kể đến một số hạn chế về mặt quản lý Nhà nước như vấn đề chưa thống nhất giữa các văn bản pháp lý, cơ chế phân cấp, ủy quyền thiếu đồng bộ và chưa nhất quán, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính và giải quyết các vấn đề phát sinh còn chậm. - Sự thiếu kinh nghiệm trong quản lý các KCN làm giảm hiệu quả hoạt động của nó. - Chính sách đối xử với doanh nghiệp KCN chưa công bằng đã hạn chế khả năng thu hút đầu tư vào KCN, nhất là các doanh nghiệp trong nước. Ví dụ như các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào KCN đều phải đáp ứng những điều kiện như nhau, nhưng các doanh nghiệp nước ngoài lại được ưu tiên hơn về thuế lợi tức so với các doanh nghiệp trong nước. 1.5. Đa dạng hóa hình thức huy động vốn để xây dựng và hoạt động KCN Phải kết hợp giữa nguồn vốn trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN. Không nên có quan niệm sai lầm là nhất thiết phải có nguồn vốn nước ngoài thì dự án mới có hiệu quả và khả thi cao. Ví dụ như KCN Sài Đồng B hoàn toàn sử dụng vốn trong nước, do công ty Hanel đầu tư nhưng lại đạt hiệu quả rất cao. Trong khi đó KCN Hà Nội được đầu tư theo hình thức 100% vốn đầu tư của Đài Loan được cấp giấy phép từ năm 1995 nhưng đến năm 1999 chỉ có 4 dự án xin thuê đất hoạt động. Hay KCN NOMURA ở Hải Phòng có vị trí rất thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại nhưng hiệu quả khai thác cũng không cao. Nếu ở khu công nghiệp nào hoạt động không có hiệu quả thì cho phép chuyển đổi cơ cấu sở hữu. 1.6. Tăng cường sự phân cấp, quản lý Nhà nước cho Ban quản lý các KCN Sự phân cấp ở đây nên tiến hành đồng bộ và toàn diện hơn, cụ thể có thể giao toàn bộ chức năng quản lý Nhà nước về FDI cho Ban quản lý và KCN, đồng thời đây là đầu mối giải quyết mọi vấn đề liên quan đến đầu tư trong và ngoài nước vào KCN. Mô hình đã được một số địa phương áp dụng thành công như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa. 1.7. Đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp trong và ngoài nước khu đầu tư vào KCN Cho phép hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Đặc biệt, thành phố nên khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nội thành di dời vào các KCN để hoạt động như là cấp tín dụng, hoặc miễn giảm thuế… 1.8. Các biện pháp hỗ trợ khác Để khắc phục một phần khó khăn ban đầu cho các dự án khi đầu tư vào KCN tại Hà Nội, thành phố có thể học hỏi kinh nghiệm ở một số địa phương khác như chính sách hỗ trợ tài chính bằng việc miễn, giảm phần thuế mà thành phố được hưởng cho các doanh nghiệp, hoặc cho phép thanh toán chi phí sử dụng đất làm nhiều lần, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất lâu dài cho mỗi doanh nghiệp đầu tư vào KCN và đồng thời cho phép hoặc có quyền thế chấp để huy động vốn trong điều kiện cần thiết, cần chỉ thị cho các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với ban quản lý KCN để giải quyết kịp thời những khó khăn về mặt hành chính, đặc biệt là thủ tục hải quan có thể tiến hành kiểm hóa ngay tại doanh nghiệp. 2. Giải pháp từ phía nhà nước 2.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch các KCN trên cả nước - Quy hoạch KCN đặt trong quy hoạch tổng thể của cả nước, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, nhằm mục tiêu kinh tế xã hội, nhằm mục tiêu CNH, HĐH. Dựa trên cơ sở phân vùng kinh tế, quy hoạch phát triển KCN là sự cụ thể hóa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, là cách thức, biện pháp thực hiện CNH, HĐH ở mỗi địa phương. - Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với KCN. Cần tiếp tục cải cách hệ thống ban quản lý các KCN cấp tỉnh và thực hiện đầu mối trong quản lý KCN ở cấp trung ương. - Đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong ban quản lý KCN có đủ trình độ, năng lực, phong cách đạo đức để quản lý và điều hành các công việc trong KCN tốt nhất. - Hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước đối với các KCN theo hướng: Tiếp tục tăng cường và hoàn thiện cơ chế quản lý một cửa, tại chỗ trong quản lý các KCN cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Cần phải nhanh chóng sửa đổi Nghị Định 36/CP cho phù hợp với đặc thù của ban quản lý các KCN. - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư vào các KCN. Nhà nước đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiến đầu tư, chú trọng xúc tiến đầu tư theo tiến độ, theo địa bàn và đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Xây dựng quỹ xúc tiến đầu tư trên cơ sở ngân sách nhà nước cấp, hỗ trợ kết hợp huy động với đóng góp của các tổ chức và doanh nghiệp. - Nhà nước giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng, hoặc đang sản xuất kinh doanh. - Thực hiện thống nhất, chủ động công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào các KCN với sự tham gia tích cực của các bộ ngành địa phương. Cần thành lập cơ quan chuyên môn làm công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào các KCN và các khu vực khác. - Nhà nước cần dành kinh phí thỏa đáng từ ngân sách nhà nước cho công tác vận động và xúc tiến đầu tư, tổ chức công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết, danh mục các dự án ưu tiên đầu tư và chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN để các nhà đầu tư và người dân được biết, cung cấp miễn phí thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân có công thu hút các nhà đầu tư vào trong các KCN. - Tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại các cơ quan đại diện của nhà nước ta ở một số nước và địa bàn trọng điểm để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư đối với từng dự án, từng tập đoàn, từng cá nhân, từng nhà đầu tư có tiềm năng nhất là tập đoàn xuyên quốc gia. 2.2. Hoàn thiện môi trường đầu tư trong các KCN - Để thu hút đầu tư trong nước vào KCN,Nhà nước cần: đẩy mạnh việc thi hành luật doanh nghiệp, tiếp tục thực hiện Nghị định 90 về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; thực hiện đầy đủ và đúng các quy định của luật doanh nghiệp về đăng kí kinh doanh. Chấm dứt các hiện tượng làm trái quy định của luật, đặt ra những yêu cầu về hồ sơ, thủ tục và điều kiện kinh doanh mà luật không quy định, nghiên cứu hợp nhất mã số đăng kí kinh doanh, mã số thuế và mã số hải quan, áp dụng đăng kí kinh doanh qua mạng điện tử, công bố công khai các dự án kêu gọi đầu tư vào KCN. Xây dựng quy trình và điều kiện cho thuê đất rõ ràng, cụ thể về nội dung, trách nhiệm, thời gian và chi phí. - Nhà nước tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế với những biện pháp: đơn giản hóa thủ tục cấp phép đầu tư, xây dựng lộ trình thực hiện hài hòa thủ tục cấp phép cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trước hết ở các ngành thuộc danh mục ưu đãi, mở rộng chế độ đăng kí cấp phép đầu tư cho các dự án không thuộc danh mục cấm hoặc hạn chế đầu tư, tiếp tục kí kết các hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần với những đối tác chính trên cơ sở đàm phán, căn cứ vào các hiệp định đã kí kết( như hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN; hiệp định VIỆT- MỸ); mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài như đầu tư gián tiếp, mua lại, sát nhập. Đa dạng hóa các hình thức pháp lý, cho phép thành lập công ty quản lý, quỹ đầu tư, ưu tiên xóa bỏ hạn chế về hình thức đầu tư với dự án trong ngành sản xuất chế tạo hoặc có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm cao; xóa bỏ những hạn chế về vốn góp và vốn huy động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: mở rộng quyền góp vốn bằng tiền Việt nam của các nhà đầu tư nước ngoài từ nguồn thu nhập hợp pháp bằng tiền Việt Nam để đầu tư tại Việt Nam; tăng cường tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư và cung cấp dịch vụ đầu tư, xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư theo những ngành có ưu thế của nước đầu tư và các công ty xuyên quốc gia. - Phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng, thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó: phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng, tăng cường cạnh tranh trên thị trường tài chính, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn dài hạn; tăng cường khả năng sử dụng lợi nhuận sau thuế tái đầu tư; tự huy động vốn của doanh nghiệp bằng cách phát hành trái phiếu và chứng khoán; nới lỏng quy định hạn chế hoạt động đối với ngân hàng nước ngoài đang hoạt động và cấp giấy phép them cho các ngân hàng khác. - Tăng cường thâm nhập thị trường quốc tế, với việc thực hiện các biện pháp sau: nghiên cứu chiến lược tiếp thị, xúc tiến thương mại và kết quả hoạt động của các nước là đối thủ cạnh tranh; xóa bỏ các hạn chế về tổ chức và tham dự triển lãm; hội chợ trong nước và quốc tê. Ký kết các hiệp định thương mại song phương. - Từng bước mở cửa thị trường trong nước, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cả doanh nghiệp trong KCN. Thay đổi chế độ giá tính thuế tối thiểu bằng giá ghi trên hợp đồng phù hợp với hiệp định về giá trị hải quan của tổ chức thương mại thế giới. Cải cách thủ tục hải quan theo hướng đơn giản hóa và hài hòa thủ tục với chuẩn mực quốc tế. 2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việc đào tạo và cung cấp lao động, trước hết căn cứ vào định hướng phát triển các ngành trên các vùng và trong các KCN để có phương án bố trí hợp lí và đáp ứng được yêu cầu. Trong thời gian tới, cần tập trung vào những vấn đề sau: - Đối với các địa phương, ngay từ giai đoạn đầu khi thành lập dự án xây dựng KCN cần có sự phối hợp giữa các ban, ngành liên quan với chủ đầu tư hạ tầng để nắm cơ cấu ngành nghề trong KCN, từ đó dự báo nhu cầu lao động của các doanh nghiệp trong KCN để chủ động tổ chức các khóa đào tạo lao động cho các doanh nghiệp. Hình thành quỹ đào tạo nghề chung cho công tác đào tạo lao động cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp trong KCN nhằm giảm bớt chi phí đào tạo cho doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề ở địa phương. Quỹ đào tạo nghề có thể được huy động từ nhiều nguồn, trong đó chú trọng sự đóng góp của những đơn vị được hưởng lợi từ chương trình này. - Thành lập các cơ sở đào tạo nghề tại những nơi dự kiến phát triển KCN để trực tiếp đào tạo nghề cho những lao động nông nghiệp và con em những người dân có đất chuyển đổi sang làm KCN, góp phần đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong KCN về nâng cao chất lượng lao động. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động địa phương và đào tạo tay nghề kỹ thuật cho những lao động này, ưu tiên tuyển dụng đối với những lao động nằm trong diện thu hồi đất xây dựng KCN, đảm bảo thu nhập ổn định và cao hơn so với trước đây để người dân tin tưởng hơn vào sự phát triển KCN tại địa phương. 2.4. Phát triển đồng bộ các thể loại tập trung công nghiệp Xây dựng cả ba thể loại: KCN tập trung; cụm công nghiệp vừa và nhỏ; làng nghề công nghiệp. Không nên xây dựng quá nhiều KCN trong một thời gian, cần chú trọng phát triển làng nghề và cụm CN vừa và nhỏ. 2.5. Nâng cao tính chất bền vững trong phát triển KCN Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Mục tiêu phát triển bền vững của đất nước chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở thực hiện phát triển bền vững trong từng ngành, nghề; từng địa phương trong đó có phát triển bền vững KCN. Đó là đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định, có hiệu quả ngày càng nâng cao trong bản thân KCN, gắn với bảo vệ và nâng cao chất lượng cuộc sống, cũng như những yêu cầu về ổn định xã hội, an ninh quốc phòng trong khu vực có KCN cũng như toàn thể quốc gia. 2.6. Phát triển KCN gắn với bảo vệ môi trường Hoàn chỉnh, nâng cấp, cải tạo các cơ sở hạ tầng KCN hiện có, giải quyết triệt để những vấn đề thu gom và xử lý nước thải từ các KCN. Mỗi KCN phải có trạm xử lý nước thải, tiến tới xây dựng hệ thống xử lý nước thải theo tiêu chuẩn tiên tiến, tuân thủ luật pháp bảo vệ môi trường. Thực hiện có hệ thống công tác thu gom, vận chuyển và lưu giữ tạm thời chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại. Thường xuyên tiến hành phân tích, giám sát chất lượng môi trường tại các KCN nhằm đảm bảo xử lý kịp thời các sự cố về môi trường. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong KCN trước và sau khi đầu tư vào KCN về vấn đề môi trường. Các dự án đầu tư và phải đăng kí đảm bảo về môi trường khi đi vào hoạt động. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các KCN; có biện pháp thưởng, phạt thích đáng những doanh nghiệp vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với các doanh nghiệp và địa phương về bảo vệ môi trường. Kết luận *********** Qua nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội chúng ta có thể thấy bên cạnh những thuận lợi như những lợi thế sẵn có của Hà Nội về con người, cơ sở vật chất...và cả những cơ chế, chính sách ưu đãi của thành phố dành cho các khu công nghiệp thì các khu công nghiệp Hà Nội cũng còn có những khó khăn trong môi trường đầu tư như những vấn đề về pháp lý, đất đai, các vấn đề liên quan đến cung cấp dịch vụ...chính những điều này làm hạn chế dòng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội, làm cho khả năng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp Hà Nội còn thua kém một số tỉnh và thành phố khác. Nhưng với mục tiêu đưa Hà Nội trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước, chúng ta phải tháo gỡ những khó khăn trên, phải không ngừng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để xây dựng, phát triển các khu công nghiệp Hà Nội trở thành hạt nhân phát triển kinh tế của thủ đô. Chúng ta phải biết tận dụng lợi thế của Hà nội - trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật... của cả nước để xây dựng các khu công nghiệp Hà Nội đúng theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, cơ chế quản lý thống nhất và hệ thống các chính sách ưu đãi về tài chính và thuế đủ hấp dẫn. Có như thế khu công nghiệp Hà Nội mới trở thành một mô hình kinh tế năng động, bền vững, xứng đáng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của thủ đô. Tài liệu tham khảo 1. PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt & TS. Từ Quang Phương – Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005 2. TS. Từ Quang Phương & TS Phạm Văn Hùng - Bài giảng Kinh tế đầu tư 3. TS. Đinh Đào Ánh Thủy & TS Nguyễn Hồng Minh – Bài giảng Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ 4. Giáo trình Khu chế xuất, Châu Á Thái Bình Dương – NXB Thống kê 5. Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam – số 16/2000. số 3, 13. 29 .22 năm 2001, số 4,6 năm 2002 6. Tạp chí thông tin Khu công nghiệp – số 1/2001, số 1.2002, số 24 năm 2003 7. Thời báo kinh tế Việt Nam – số 25/ 2002, số 2/ 2002 , 2004, 2006 8. Tạp chí nghiên cứu kinh tế - T2, 10/2007 9. Ths. Nguyễn Thanh Bình - Viện NCPT KT-XH Hà Nội - Giải quyết nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội 10. Các báo cáo chuyên đề hàng tháng của HĐND, UBND, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công Nghiệp. 11. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội – Sở kế hoạch đầu tư 12. Trang web của khu công nghiệp: 13. Trang web bộ kế hoạch đầu tư : www.mpi.gov.vn 14. Trang web bộ tài chính: www.mof.gov.vn 15. Trang web tổng cục thống kê : www.gso.gov.vn 16. Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.vn 17. Trang đầu tư: www.vir.com.vn 18. Trang thị trường: www.thitruong.vnn.vn Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24953.doc