Đề án Nghiên cứu phạm trù sở hữu, mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế

Chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là bước ngoặt làm thay đổi đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Sự thành công hay không của quá trình chuyển đổi quyết định sự thành công hay không của sự nghiệp đổi mới. Quá trình đổi mới kinh tế trong những năm qua cho thấy rằng việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kinh tế kế hoạch bao cấp, sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước là hợp với xu hướng phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu phạm trù sở hữu, mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế là có ý nghĩa hết sức to lớn và thiết thực.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nghiên cứu phạm trù sở hữu, mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- lời mở đầu Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Song đây là vấn đề hết sức phức tạp, và cho đến nay vẫn co nhiều ý kiến khác nhau. Sau nhiều năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhièu thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đòi hỏi cần phải có quan niệm mới về các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế; giải quyết mối quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Trừ khi giải pháp được mối quan hệ này một cách phù hợp thì mới có thể đưa nền kinh tế nước ta từng bước phát triển, đủ sức hội nhập và cạnh tranh với kinh tế các nước khác. Nói tóm lại nhận thức được vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế có ý nghĩa rất lớn và thiết thực và nhất là đối với sinh viên kinh tế chúng ta. Vì vậy đề tài này được thực hiện cũng không ngoài mục đích ấy B- nội dung I- sở hữu và cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ lên XHCN 1- Sở hữu và tầm quan trọng của sở hữu về tư liệu sản xuất 1.1. Sở hữu Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con người trong quá trình sản xuất. Đó là sự chiếm hữu của một người hay một cộng đồng người đối với những thực tế của thế giới vật chất. Với đặc trưng thuộc về chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu do chủ thể sở hữu chiếm hữu thường xuyên hay tạm thời. Đối tượng sở hữu: Là thực thể vật chất biểu hiện dưới dạng tự nhiên như đất đai, năng lượng, thông tin, của cải trí tuệ… hoàn toàn hay một phần thuộc về chủ thể sở hữu Chủ thể sở hữu: là người có quyền chiếm hữu đối tượng sở hữu. Chủ thể sở hữu bao giờ cũng là một người cụ thể hay một cộng đồng người cụ thể Quan hệ sở hữu: Bao gồm quan hệ giữa các chủ thể sở hữu với nhau. Những quan hệ nàt mang tính chất kinh tế - xã hội, quyết định các hình thức phân phối sản phẩm, tài sản, thu nhập, giá trị giữa các chủ thể sở hữu. Trước đây, quan hệ giữa chủ thể sở hữu và đối tượng sở hữu được quy về quan hệ giữa chủ thể sở hữu và tư liệu sản xuất, có nghĩa là tư liệu sản xuất được coi là yếu tố cơ bản, thậm chí là duy nhất trong các đối tượng sở hữu. Ngày nay trong điều kiện sản xuất hiện đại vai trò của yếu tố vật chất có phần giảm đi, còn vai trò của các yếu tố phi vật chất ( tổ chức sản xuất, phương thức kinh doanh, thông tin, quản lý ) có phần tăng lên. Điều đó không có nghĩa là trong các đối tượng sở hữu , tư liệu sản xuất đã rơi xuống hàng thứ yếu, mà chỉ là nó không còn là đối tượng sở hữu duy nhất. Vì vậy đối tượng sở hữu bao gồm nhiều thứ: Tư liệu sản xuất, tài sản, nhân lực, thông tin, trí tuệ… Quyền chiếm hữu: Là yếu tố đầu tiên, bao trùm của sở hữu. Nó tương đối ổn định tĩnh tại, nhưng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trường hợp chủ thể sở hữu không thực hiện nó, không sử dụng nó, mà lại trao nó cho người khác và chỉ giữ quyền thu nhập về sở hữu. Quyền sử dụng: Là quyền sử dụng đối tượng sở hữu theo mục đích và nguyện vọng cảu người sử dụng. Sở hữu với tư cách là người sở hữu hoặc sử dụng đối tượng sở hữu. Có thể thống nhất ở một người hoặc có thể được phân chia giữa nhiều người. Điều này có nghĩa là người sử dụng đối tượng sở hữu có thể không phải là người chủ sở hữu, hoặc ngược lại người chủ sở hữu có thể không phải là người sử dụng đối tượng sở hữu 1.2. Tầm quan trọng của sở hữu về liệu sản xuất trong đời sống kinh tế- xã hội Xét về mặt quy luật trong mỗi chế độ xã hội, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có một chế độ sở hữu tương ứng về tư liệu sản xuất và do đó có một cơ cấu thành phần kinh tế thích hợp. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là phạm trù kinh tế phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu với tư cách là điều kiện của sản xuất với sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất- kinh tế chính trị rất coi trọng khía cạnh thứ ba của phạm trù kinh tế này. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất là cả một hệ thống nhận thức theo thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Như đã biết, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, một nội dung chủ yếu trong hệ thống sản xuất. Hình thức, mức độ quy mô, phạm vi tính đa dạng của sở hữu không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định, mà là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện tồn tại, phát triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và trình độ phát triển của một lực lượng sản xuất tương ứng quyết định. Nói cách khác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính vì thế mà C.Mác đã dùng quy luật này để lý giải sự ra đời và phát triển của 5 phương thức sản xuất trong lịch sử, và coi phương thức sản xuất xã hội có ý nghĩa quyết định. Muốn nhận biết và phân biệt sự giống nhau và khác nhau của các giai đọan lịch sử xã hội thì không thể bỏ qua tiêu thức sở hữu . Nếu như trong nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hoá giản đơn, người ta chỉ quan tâm mặt hiện vật của sở hữu (tư liệu sản xuất ), thì trái lại trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta không chỉ quan tâm về mặt hiện vật, mà quan trọng hơn họ quan tâm đến hình thái giá trị- hình thái tiền của nó. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, phạm trù sở hữu không chỉ giới hạn trong phạm vi tư liệu sản xuất mặc dù đó là cơ bản, mà còn có sự phát triển cao hơn, mới hơn và ngày càng có vai trò quan trọng. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất bao gồm các hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với một hình thức sở hữu là một thành phần kinh tế thích ứng, với tính chất và trình độ sản xuất nhất định. Từ chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, có thể hiểu cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trương hợp tác và cạnh tranh. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế, có loại hình sản xuất và quy mô nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lý và cơ chế phân phối thích hợp. Do đó sự lựa chọn các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, và sự tương quan giữa chúng trong tổng thể nền kinh tế là một vấn đề cốt lõi trong các chặng đương phát triển kinh tế của các nước nói chung, và của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH nói riêng. 2. Cơ cấu sở hữu nước ta hiện nay Từ ba loại hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, và sở hữu tư nhân. Đại hộ IX của Đảng đã khuyến khích mở rộng đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Bởi vì từ thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội nhất là từ khi thực hiện nghị quyết Đai hội Đảng lần VIII đến nay ta càng nhận thức được rõ mối quan hệ giữa các loại hình sở hữu với các hình thức sở hữu. Mỗi loại hình thức sở hữu trong hoạt động thực tiễn có thể này sinh nhiều hình thức sở hữu, mà ở đó có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện ra ở sự tăng trưởng kinh tế và hiệu quả kinh doanh. 2.1. Sở hữu Nhà nước. Trong thời kỳ bao cấp trước đây, không chỉ ở nước ta, mà còn ở một số nước trong hệ thống XHCN, thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do lầm lẫn như vậy nên có một thời khá gian dài, người thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt đến hình thức dh toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân, và sở hữu tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân được gắn kết với sự phát triển khu vực kinh tế quốc doanh, vì vật mà chúng ta ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng có như vậy mới có CNXH nhiều hơn, thực ra, với quan điểm đó, sở hữu toàn dân trở thành sở hữu không của một chủ thể sở hữu nào cả. Hình thức sở hữu Nhà nước, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nước. 2.2. Sở hữu tập thể ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ), với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là các chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán, hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất trong thực tế nước ta diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thương rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng với sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất, kinh doanh. Chỉ có như vậy sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả. Hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho CNXH, nhưng nó hình thức sở hữu tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Vì vậy chúng ta phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng CNXH. Hợp tác xã là nhu cầu của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu về vốn , cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm… đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy ở nước ta hiẹn nay, đã có những hình thức thx kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triẻn trong cơ chế thị trường. “Hợp tác xã đã tổ chức trên cơ sở đống góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”. Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta. 2.3. Sở hữu tư bản tư nhân. Hiện nay ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và được phép phát triển. Đây la thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân bao gồm cả các doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế, mà phần lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại thêu lao động sản xuất kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư doanh hoặc công ty cổ phần tư nhân. Trong thời kỳ quá độ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn nguyên vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân nước ta chỉ hoạt động với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, được “bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp:. 3.4. Sở hữu cá thể tiểu chủ. Đa dạng hoá các lực lượng sản xuất là một trong những cơ sở để đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, vì sở hữu biểu hiện quan hệ của con người không chỉ đối với tư liệu sản xuất nói riêng, mà còn đối với toàn bộ lực lượng sản xuất nói chung. Nước ta, hình thức sở hữu cá thể tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trước đây kinh tế cá thể, tiểu chủ có tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện nay nó đang được khuyến khích phát triển, và đang có xu hướng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng liên quan mật thiết với hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm các đơn vị kinh tế và những hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào nguồn vốn và sức lao động của mỗi cá nhân là chủ yếu và đang chiếm một vị trí quan trọng ở nhiều ngành nghề nông thôn, cũng như ở thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng nhóm và từng người dân. Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã chỉ rõ “kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ giúp giải quyết khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trương tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hay hợp tác xã”. Chúng ta đều biết, kinh tế cá thể, tiểu chủ về thực chất, là thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân, cho đến nay nó vẫn được coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu đó không tạo ra quan hệ sản xuất , vì nó không phải là một chế độ sở hữu độc lập mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn tại và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất đó. Thành phần kinh tế này luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh doanh và luôn chịu phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để tác động, hướng dẫn và định hướng nó theo định hướng nó theo XHCN. 2.5. Sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ tổng kết thực tiễn lần nay trong văn kiện của Đảng đã có một bước tiến quan trọng trong đổi mới tư duy về nhận định các thành phần kinh tế. Bằng cách đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nướn ngoài vào danh mục các thành phần kinh tế nước ta. Đay là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài về tư liệu sản xuất. Nó được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào kết quả sản xuất, kinh doanh vào hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dưng các co sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Nó đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, khi kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 2.6. Sở hữu hỗn hợp Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất .Có thể nói đây là một loại hình kinh tế trung gian ,có tính chất đan xen giãu thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa .Trong điều kiện hiện nay thường có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở hữu hỗn hợp khác nhau .Đó là sự kết hợp ,liên kết giữa các chủ thể :Nhà nước tập thể và tư nhân để tạo nên dạng sở hữu sinh động như :Nhà nước và nhân dân nhà nước và tập thể ,Nhà nước ,tập thể và tư nhân,tập thể,tư nhân v.v.Thực chất, đây cũng là các xí nghiệp (hoặc công ty) cổ phần, chỉ có sự khác biệt là ở chổ các chủ thể không đồng nhất về tính chất. Đó là các hình thức tổ chức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào-hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dưới dạng công ty , xí nghiệp cổ phần hùn vốn liên doanh hai bên, ở trong nước và nước ngoài. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ,hay hình thức kinh tế tư bản Nhà nước làm phương tiện và cứu cánh để phát triển .Bởi chủ nghĩa tư bản Nhà nước, theo V.I.Lênin ,là một hình thưc phổ biến trong thời kỳ quá độ, và sự tồn tại của nó thực sự cần thiết .Đây là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó có phần tham dự của Nhà nước và tư nhân với nhiều hình thức cụ thể ,trên mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông , dịch vụ ,tín dụng … ở nước ta hiện nay, “kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài” .Nó có ưu thế mạnh hơn so với tư bản tư nhân ở chổ, nó đã kết hợp được sức mạnh tổng hợp của cả hai thành phần kinh tế có tiềm lực lớn nhất trong thời kỳ quá độ. Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nước ta là cái có khả năng thực hiện tập trung hoá ,chuyên môn hoá sản xuất và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường trong và ngoài nước Điều kiện, môi trường làm việc thủ tục hành chính đơn giản là các điều kiện để cho “chủ nghĩa tư bản Nhà nước” có những đóng góp thật sự cho việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, chúng ta đang chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, đó chính là giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư bản Nhà nước ,đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tuy nhiên vấn đề cổ phần hoá còn mới mẻ , cần phải nhận thức một cách đầy đủ , áp dụng từng bước. Trong hình thức sở hữu hỗn hợp mà nòng cốt là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, còn tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân tư cấp tự túc, kinh tế tiểu chủ trong các khu vực kinh tế còn lạc hậu, sản xuất hàng hoá chậm phát triển. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối liên hệ nội tại và tác động qua lại lẫn nhau , nó là kết quả của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. II- Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 1. Tính tất yếu tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 1.1. Khái niệm thành phần kinh tế Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở chế độ về tư hữu tư liệu sản xuất. Chính sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một hiện tượng khách quan cho nên chúng đều có tác dụng tích cực đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho phương thức sản xuất mới ngày càng phát triển,dẩn dắt,chuyển hoá các thành phần kinh tế khác hội nhập vào phương thức sản xuất mới 1.2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam Từ hội nghị lần thứ III ban chấp hành TW khoá 5 (Tháng 7-1984) đã nêu vấn đề vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng phê phán sự nóng vội muốn xoá bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN; Khẳng định sự tồn tại lâu dài của cơ cấu kinh tế nhièu thành phần ở nước ta. Xen thành phần kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, thàng phần này giữ chi phối trong nền kinh tễ quốc dân.Đại hội VI cũng khẳng định sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta như sau: Kinh tế XHCN :bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn với các thành phần đó. Các thành phần kinh tế khác, gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước, mà hình thức cao nhất là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ (1991) xem nước ta còn tồn tại: kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển nhưng khong phải là thành phần kinh tế độc lập. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ lần thứ VII (Tháng1-1994) đã cho rằng ở nước ta còn tồn tại các thành phần kinh tế sau: khu vực doanh nghiệp Nhà nước; kinh tế hợp tác xã; kinh tế hộ xã viên; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Tiếp tục nhấn mạnh vai trò chủ đạo của quốc doanh Cho đến Đại hội IX cúa Đảng đả đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào danh mục các thành phần kinh tế nước ta. Hiện nay nước ta có các thành phần kinh tế sau:kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế hợp tác mà nong cốt là các hợp tác xã; kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 2.3. Tính tất yếu khách quan có nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta là vì: Khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, điểm xuất phát về lực lượg sản xuất , về phần công lao động xã hội, năng xuất lao đọng và trình đọ phát triển kinh tế rất thấp và không đồng đều giữa các xí nghiệp, các nghành, các vùng kinh tế . trong điều kiện đó , xã hội cũ để lạikhông ít các thành phần kinh tế và không thể bổng chốc cải tiến nhanh được. Hơn nữa, sau nhiều năm cải tạo và xây dựng nhiều quan hệ sản xuất mới, xuất hiệh thêm mội sốd thành phần kinh tế mới (kinh tế Nhà nước , kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước…). Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan, xoắn xít với nhau cấu thành đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Xây dựng và quản lý vĩ mô của Nhà nước thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nằm xây dưng cơ sở vật chất cho CNXH, vốn là những nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Song trong điều kiện thu nhập quốc dân còn thấp và ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước sẻ không, hoặc chậm thực hiện các nhiệm vụ nói trên. Để thực hiện có hiệu quả và với tốc độ nhanh các nhiệm vụ trên, phải giãi phóng mọi tiềm lực bị kìm hãm từ trước đến nay khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn và công nghệ, kinh nghiệm quản lí,nhất sức lao động kỹ nghệ, kinh nghiệm quản lý, sức lao động nhất là nguồn lao động trí tuệ…Mục đích đó chỉ có thể thực hiện được khi sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Nước ta thuộc loại nước có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào. Nhưng tỷ lệ người lao động chưa có việc làm đang chiếm một tỷ lệ lớn, tạo nên sức ép đối với nền kinh tế. Trong khi đó khả năng thu hút sức lao động không nhiều vì thiếu vốn, đặc biệt là ngoại tập tệ mạnh. Trong điều kiện đó, khai thác vận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong nhẽng khả năng tốt nhất để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Cũng cần ý thức rằng, vấn đề thất nghiệp là vấn đề chung của nền kinh tế hàng hoá, chứ không phải chỉ riêng có trong xã hội tư bản. Hơn nữa, trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần mà nhận thức kại khái niệm: có việc làm hay không có việc làm. Từ đó khắc phục những mặc cảm không đúng trước đây, cho rằng chỉ khi nào làm việc trong các xí nghiệp hoặc cơ quan Nhà nước thì mới có việc làm. rõ ràng sự tồn tại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là yêu cầu khách quan đối với việc tạo việc làm cho người lao động, một yêu cầu cần phải kết hợp chiến lược kinh tế và xã hội cần được coi trọng. Nó cho phép có điều kiện thuận lợi khai thác các hiệu quả nhất các tiềm năng hiện có hoặc đang tiềm ẩn trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ, hợp tác bên ngoài để có rhể phát triển nền kinh tế nước ta hướng vào tăng trưởng nhanh và hiện đại hoá. Chỉ có nhiều thành phần kinh tế chúng ta mới có khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, hiệu quả quản lý. Chúng ta đang tồn tại điều kiện quốc tế mới, thời đại mới, thời đại sản xuất quốc tế hoá. Chúng ta đã khắc phục sự hạn chế của tư tưởng “khép kín” với thế giới bên ngoài Rõ ràng, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước và ssặc điểm thời đại. Chủ trương đó khẳng định sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. 2. Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, về phương thức tổ chức quản lý và do đó khác nhau về cả cánh thức thu nhập. Tuy nhiên, tất cả thành phần kinh tế này đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan cảu nền kinh tế và xã hội nước ta. Vì vậy mỗi thành phần kinh tế đều là bộ phận cảu nề kinh tế quốc dân. Chúng có vai trò vị trí nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của nhà nước. 2.1. Kinh tế Nhà nước Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như: đất đai, khoáng sản… Kể cả phần vốn mà Nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta lần đầu đưa ra thành phần kinh tế Nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đây. Thực tiễn 5 năm thực hiện đường lối đã giải quyết cơ bản vấn đề xã hội; nắm giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế, đảm bảo quốc phòng an ninh; làm trọng điểm đầu tư để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế… Để làm tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước văn kiện đại hội IX còn nhấn mạnh đến đầu tư vào những ngành sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, ngành công nghiệp, công nghệ cao, xây dựng các công ty đủ mạnh để làm nồng cốt trong các tập đoàn kinh tế mạnh tham gia cạnh tranh 2.2. Kinh tế hợp tác Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã. Hiện nay, một thực tế đặt ra là nếu không phát triển và củng cố hình thức kinh tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là rất khó khăn. Vì vậy đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nêu nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi, quản lý dân chủ. Phong trào hợp tác hoá ở nước ta xuất hiện từ cuối những năm 50, nó đóng góp hết sức quan trọng trong việc chống Mỹ cứu nước. Những hợp tác xã với mô hình cũ, khi chuyển qua cơ chế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đổi mới kinh tế hợp tác xã nông nghiệp theo định hướng XHCN, Nhà nước ta đã có chủ trương mới theo chỉ thi 100 của Ban bí thư, và nghị quyết 10 của Bộ chính trị, tiến hành khoán khâu đến khoán hộ. Thay đổi đó có ý nghĩa hết sức to lớn đối với phát triển nông nghiệp, song mặt khác lại có tình trạng kinh tế tập thể yếu dần đi, thậm chí không còn tác dụng nữa. Đại hội VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã với hình thức liên kết tự nguyện của người lao động nhằm kết hợp sức mạnh từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết vấn đề của sản xuất kinh doanh. Như vậy kinh tế hợp tác xã phải với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Cái mới hơn trước đây của hợp tác xã nông nghiệp là: “Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đống góp cổ phần. Mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”. Như vậy, vị trí, vai trò của hợp tác xã mà nồng cốt là hợp tác xã đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng định hướng XHCN sự phát triển kinh tế nhất là kinh tế nông nghiệp. 2.3. Kinh tế tư bản Nhà nước Nước ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kinh tế tư bản Nhà nước có vị trí quan trọng và phổ biến; là hình thức tốt nhất thu hút vốn lỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý tiên tiến: là hình thức kinh tế quá độ, trung gian để đưa nước ta đi lên CNXH. Cần mở rộng việc vận dụng hình thức kinh tế này ở nước ta trong thời gian tới. 2.4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ Thành phần kinh tế này có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng và tồn tại lâu dài. Nhà nước cần giúp đỡ họ giải quyết các khó khăn để nâng cao hơn nữa hiệu quả king doanh của họ. Xu hướng vận động của thành phần kinh tế này là từng bước đi vào con đường kinh tế hợp tác theo nguyên tắc tự nguyện, hoặc có thể làm vệ tinh cho kinh tế Nhà nước nếu họ thấy có lợi. 2.5. Kinh tế tư bản tư nhân Nhà nước đánh giá cao vai trò tích cực của thành phần kinh tế này qua 10 năm đổi mới. Bên cạnh vai trò tích cực, thành phần kinh tế này cũng nảy sinh các tiêu cực, hạn chế như: làm hàng giả, trốn thuế, đầu cơ , buôn lậu… Nhà nước một mặt cần tăng cường vai trò và hiệu quả quản lý vic mô nhằm hạn chế mặt tiêu cực của nó. Mặt khác Nhà nước cần có chính sách khuyến khích hộ đầu tư, bỏ vốn vào nông nghiệp, áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Không nên có sự phân biệt đối xử với chủ đầu tư người nước ngoài và người trong nước. Có thể cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với chủ đầu tư là người Việt Nam 2.6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Từ tổng kết thực tiễn, lần này trong văn kiện Đại hội IX của Đảng đã có một bước tiến quan trọng trong đổii mới tư duy về phân định các thành phần kinh tế. Băng việc khái quát và đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào danh mục các thành phần kinh tế đa dạng cuả nước ta, lần đầu tiên việc phân định các thành phần kinh tế hoàn toàn không phụ thuộc vào công thức đã được định trước mà đã dựa vào nhu cầu thực tiễn khách quan. Vì đây là một thành phần kinh tế không hoàn toàn giống như thành phần kinh tế tư bản Nhà nước cả về nội dung và hình thức, mối quan hệ và vai trò cảu nó trong nền kinh tế quốc dân nhất là trong bối cảnh chúng ta vừa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa chủ động hội nhập vài thị trường khu vực và quốc tế với cả thời cơ và nguy cơ, vận hội và thách thức. Nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả nguồn lực bên ngoài thì việc phân định các thành phần kinh tế để có chính sách phát triển phù hợp là vấn đề vừa cấp bách vừa có ý nghĩa chiến lược. Mặc dù một số năm gần đây tốc độ đầu tư nước ngoài vào nước ta có bị giảm sút, nhưng chỉ tính 10 năm từ 1990- 2000 vốn FDI ở nước ta cũng đã chiếm hơn 28% tổng vốn đầu tư xã hội. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài càng phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế và thành công của công cuộc đổi mới. 3. Thực tiễn giải quyết quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta vừa qua 3.1. Những thành công chúng ta đã đạt được Nhờ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, công cuộc đổi mới cảu chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới 70% lao động và 80% dân số, nơi khai sinh sự nghiệp đổi mới bằng “khoán 10”, “chỉ thị 100”, từ chổ thiếu đói đã đưa nước ta lên hàng thứ hai về xuất khẩu gạo trên thế giới. Khu vực kinh tế tư nhân là lĩnh vực phát triển mạnh thứ hai cho đến nay chúng ta đã có 22000 doanh nghiệp tư nhân gấp hai lần doanh nghiệp Nhà nước có hiện nay.Trong đó có doanh nghiệp sử dụng tới 10000 lao động. Khu vực ngoài quốc doanh chiếm tới hai phần ba tổng sản phẩm trong nước về hiệu quả kinh tế , củng như tất ca các nước có nền kinh tế thị trường, ở khu vực ngoài quốc doanh hiẹu quả trên mọt đồng vốn cao hơn doanh nghiệp Nhà nước, đời sống của khu vực này củng cao hơn. Cơ cấu thành phần kinh tế củng có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước , phát huy tiềm năng khu vực ngoài quốc doanh. Đến năm 2000 tỷ trọng kinh tế Nhà nước trong GDP vào khoảng 39%; khu vực kinh tế tập thể là 8,5% ; khu vực kinh tế tư nhân là ,3%; khu vực kinh tế cá thể 32%; khu vực kinh tế hổn hợp 3,9%; và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 13,3% Các công ty cổ phần được hình thành thông qua hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với tư nhân tư bản trong nước và nước ngoài. Cho đến nay đã có rất nhiều công ty Nhà nước góp vốn với tư nhân trong nước. Các công ty liên doanh này phát triển ngày càng nhiều rất cần thiết nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng nhanh sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài trên thị trường trong và ngoài nước. Tháng 12/1996 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần đầu tiên được công bố và sau đó được sửa đổi bổ sung. Cho đến tháng 6/1997 đã có 1719 dự án đầu tư của nước ngoài hợp tác liên doanh với nước ta, với tổng số vốn đăng ký là 20,45 tỷ USD với số vốn đầu tư đã thực hiện hưon 6 tỷ USD, bằng 30% tổng số vốn đăng ký. Phần còn lại trong các doanh nghiệp này Việt Nam tham gia góp vốn trung bình từ 25-30%, chủ yếu bằng giá trị đất đai, nhà xưởng… Có cấu thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, cơ sở kết cấu hạ tầng tăng từ 62% lên 85% vào năm 2000. Đầu tư nước ngoài thuộc liên minh Châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp trên 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng thương mại, dịch vụ liên quan, góp phần nâng cao vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mở rộng đầu tư ra nước ngoài, đến nay đã có trên 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ. Các thành phần kinh tế bắt đầu thể hiện được vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế, mỗi năm tạo thêm được 1,2 triệu việc làm mới, tỷ lệ hộ nghèo từ 30% giảm xuống còn 10%. Vai trò chủ đạo cảu kinh tế Nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp Nhà nước được đổi mới, phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt có hiệu quả 3.2. Những hạn chế Mặc dù vừa qua chúng ta đã đạt được nhiều thành công… tuy vậy cũng còn rất nhiều hạn chế tồn tại. Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích luỹ nội bọ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế những năm gần đây giảm sút Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế còn thấp, nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chưa đủ sức cạnh tranh. Tốc độ cổ phần hóa và hình thành các khu chế xuất còn chậm, các doanh nghiệp Nhà nước, có một số họat động kém hiệu quả, nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp hơn mức dự kiến 3.1. Nguyên nhân Sự tồn tại yếu kém và những mặt hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Công tác chỉ đạo điều hành của chính phủ, các bộ ngành ở TW và địa phương còn nhiều bất cập, thiếu ráo riết thiếu kiểm tra, đôn đốc, chưa có sự phối hợp thường xuyên chặt chẽ nên hiệu quả chưa cao. Các giải pháp đề ra thường thực hiện quá chậm, công tác quản lý sản xuất kinh doanh ở cấp cơ sở thiếu chủ động, nhạy bén. Một số nghị quyết của Đảng chưa được các nghành, các cấp nhận thức thống nhất và chấp hành đầy đủ, chậm trễ trong việc làm rõ và cụ thể hoá một số chủ trương quan trọng như sắp sếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… Một số cơ chế, chính sách có xu hướng trở lại bao cấp như khoanh nợ, xoá nợ, giảm thuế, miễn thuế, bù lãi suất đã làm cho một số cơ sở kinh doanh thiếu năng động, sáng tạo và có phần ỷ lại. Cải cách hành chính chậm, thiếu kiên quyết, thực hiện chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, ý thức trách nhiệm, kỷ luật và tổ chức thực hiện ở các ngành, các cấp còn rất yếu. Tập trung, dân chủ, kỷ luật, kỷ cương trong thi hành nhiệm vụ còn kém, tinh thần sáng tạo, vượt khó chưa cao. Một bộ phận cán bộ công chức còn nhiều yếu kém, bất cập về trình độ chuyên môn và năng lực điều hành công việc, cửa quyền, tham nhũng, hối lộ. Ngoài ra, nguyên nhân khách quan từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nền kinh tế còn non yếu, các thành phần kinh tế phát triển không đồng đều cũng gây ra các hạn chế trên. Iii- một số giải pháp 1. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước Kinh tế Nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tâng kinh tế, xã hội và một số sơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ Kinh tế Nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã có những cố gắng nhất định đổi mới và vươn lên, song còn nhiều doanh nghiệp Nhà nước còn chưa làm tốt vai trò chủ đạo. Trong thời gian tới cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới sao cho hoạt động có hiệu quả, thực hiện tốt vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế. Thực hiện hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất- kinh doanh, trong đó, sở hữu Nhà nước tỷ lệ cổ phần chi phối, Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực hiện giao khoán, bán, thêu các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sát nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các công ty đủ mạnh để làm nòng cốt trong các tập đoàn kinh tế lớn. Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Mở rộng và phát triển kinh tế tập thể trong đó hợp tác xã là nòng cốt Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức đa dạng. Chuyển đổi hợp tác xã cũ theo luật hợp tác xã đã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong nông nghiệp trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chud trọng hát triển các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại. Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên doanh, liên kết giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi loại thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và quản lý, mở rộng thị trương ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn tập thể, giải quyết nợ tồn động của hợp tác xã cũ. Giải thể các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cũ không còn tác dụng sau nhiều lần điều chỉnh củng cố. Cho đến nay cả nước đã giải thể 2958 hợp tác xã và 33804 tập đoà sản xuất nông nghiệp. Số còn lại, điều chỉnh từ chức năng sản xuất chuyển sang thực hiện chức năng dich vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá dưới hình thức hợp tác xã cổ phần. Nhà nước cần có giải pháp tạo môi trường kinh tế, chính trị, xã hội tạo môi trương kinh tế chính trị xã hội cho sự phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, lâm ngư nghiệp thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn cụ thể: + Hoàn thiện chính sách về ruộng đất tiết kiệm có hiệu quả, tích tụ tập trung vào hộ chuyên nông hàng hoá, phát triển ngành nghề và dịch vụ + Đổi mới chính sách thuế theo hướng đảm bảo sự công bằng giữa các vùng, ổn định nguồn thu ngân sách, đông thời có ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng cao và gia đình có chính sách. + Khuyến khích phát triển ngành nghề, dịch vụ theo hướng gắn nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế bién và dịch vụ + Đổi mới chính sách khoa học- công nghệ, chính sách bảo quản chế biến, vận chuyển và tiêu thụ + Nâng cao trình độ dân trí, giáo dục y tế và văn hoá ở nông thôn + Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở nông thôn theo hướng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cương pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước và vai trò của các đoàn thể 3. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa phát triển trong các ngành nghề hiện nay không cấm. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân nhằm phat huy tối đa nội lực, phát triển lực lượng sản xuất. Sửa đổi bổ sung hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo bình đẳng về cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân có điều kiện sản xuất kinh doanh. Đảm bảo sự bình đẳn của các thành phần kinh tế trong sản xuất, trong vấn đề tiếp cận vốn, đất đai, công nghệ và xuất nhập khẩu. Tiếp tục phát huy những tác động tích cực của luật Doanh nghiệp, tiến tới xây dựng một hệ thống luật áp dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc thành phần kinh tế, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ. 4. Phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhất là kinh tế trang trại Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn và thành thị được Nhà nước tạo điều kiện để phát triển. Hiện nay, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đóng vai trò quan trọng lâu dài. Nhà nước cần tăng cường các chính sách hỗ trợ phát triển, giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăm về vốn, khoa học kỹ thuật, về thông tin thị trường để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh, tăng năng suất lao động xã hội, tạo thêm công ăn việc là và đóng góp hơn nữa cho công cuộc xây dựng đất nước. Hướng dẫn, vận động kinh tế cá thể, tiểu chủ từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước hay hợp tác xã Hướng dẫn và giúp đơc kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Tổ chức đào tạo dạy nghề và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tạo điều kiện và khuyến khích sự hợp tác giữa các các hộ cá thể, tiểu chủ 5. Phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước phát triển dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước và kinh tế tư nhân trong nước. Nhà nước cần có biện pháp và chính sách kinh tế, được ban hành hợp lý. Ví như đối với kinh tế tư bản nước ngoài, nhà nước đã có luật pháp, chính sách ưu đãi thông thoáng, thì đối với kinh tế tư nhân trong nước cũng cần như vậy Tiếp tục mở rộng các hình thức liên doanh với nước ngoài: đây là hình thức liên doanh theo tỷ lệ vốn có mức độ khác nhau giữa Nhà nước và tư nhân, Việt kiều và các tổ chức nước ngoài, được tổ chức dưới dạng các xí nghiệp liên doanh. Hình thức này được thực hiện trong thời kỳ đổi mới và được thông qua được đầu tư trực tiếp để hình thành các trung tâm công nghiệp mới với kỹ thuật công nghệ cao Về hình thức tô nhượng, mà thực chất là hình thức xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài được hình thành trong các khu chế xuất, phải có các chính sách phù hợp nhằm thu hút các nguồn vốn, để từ đó tạo công ăn việc làm, và thông qua đó mà đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, cán bộ quản lý giỏi Nhập kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Tạo nguông hàng xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới. Tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại và quốc tế. Phát triển hình thức gia công đặt hàng, hình thức này thương áp dụng đối với các ngành sản xuất vật chất, ngành mà hàm lượng sống đòi hỏi nhiều. Nó là hình thức khá phù hợp với nước ta, một nước có dân số đông và tỷ lệ lao động cao Hình thức đại lý cũng tương tự hình thức gia công cần được chú ý và khuyến khích phát triển 6. Mở rộng và nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài Nhà nước cần tạo ra môi trường thuận lợi, xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào nước ta, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu và công nghệ cao Nghiên cứu để tiến tới thống nhất một khuôn khổ pháp luật chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. C- kết luận Chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là bước ngoặt làm thay đổi đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Sự thành công hay không của quá trình chuyển đổi quyết định sự thành công hay không của sự nghiệp đổi mới. Quá trình đổi mới kinh tế trong những năm qua cho thấy rằng việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kinh tế kế hoạch bao cấp, sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước là hợp với xu hướng phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu phạm trù sở hữu, mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế là có ý nghĩa hết sức to lớn và thiết thực. d- Tài liệu tham khảo Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hn. 1996 C Mác và Ph. Ăngen,toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, HN, 1995 Văn kiện đại hội Đảng lần thứ 8 và 9 Tạp chí thông tin lý luận, số: 3/93, 4/93, 6/98 Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số: 2/99, 4/99 Tạp chí Triết họch số: 2/91, 1/92, 2/92, 1/93, 4/93,8/93 Giáo trình kinh tế chính trị Giáo trình kinh tế phát triển Giáo trình kinh tế học quốc tế Sách báo khác. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35255.doc
Tài liệu liên quan