Đề án Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nền kinh tế Việt Nam nói chung hay Hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới. Sau đây những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng của khối NHTM trong thời gian tới: Thứ nhất, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thiện và khẩn trương ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các TCTD phù hợp với các chuẩn mực quố tế. Hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng: nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và hệ thống cảnh báo những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD; phát triển và thống nhất cách thức giám sát ngân háng trên cơ sở lí luận và thực tiễn; xây dựng cách tiếp cận hoạt động đánh giá chất lượng quản lý rủi ro trong nội bộ các TCTD. triển khai mạnh hơn nữa các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường tiền tệ như: quyền chọn, hoán đổi, kì hạn, tương lai. Thứ hai, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, nợ xấu, lành mạnh hóa tình hình tài chính, làm sạch bảng cân đối tiền tệ của các NHTM; đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa khối NHTM nhà nước để tăng năng lực cạnh tranh, giảm bớt yếu tố can thiệp trực tiếp của nhà nước, minh bạch hóa hệ thống tài chính theo chuẩn mực quốc tế, từ đó tăng năng lực tự giám sát và quản lý rủi ro nội bộ. Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện chiến lược, chính sách quản trị rủi ro (trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến rủi ro tín dụng) phù hợp; Nâng cao chất lượng các công cụ lượng hóa rủi ro tín dụng và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường mới, giúp các nhà lãnh đạo ngân hàng lượng hóa mức độ rủi ro, phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro, nhận biết chính xác các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro để có giải pháp kịp thời và hữu hiệu. Thứ tư, hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế hóa mọi hoạt động trong ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc hạn chế rủi ro ở mọi khâu trong ngân hàng. Thường xuyên xem xét lại quy trình theo định kì, đảm bảo mọi công việc được xử lý một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. Thứ năm, thực hiện minh bạch và công khai hóa thông tin. Đây là tiền đề cơ bản để nâng cao chất lượng quản lí rủi ro. Việc minh bạch hóa và công khai thông tin không chỉ được thực hiệ giữa các NHTM với NHNN, trong nội bộ NHTM mà còn giữa NHTM với các nhà đầu tư, với công luận. Thứ sáu, bảo hiểm rủi ro có vị trí đặc biệt trong hệ thống quản lí rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cơ sở của bảo hiểm ngân hàng là các nghĩa vụ chi trả bảo hiểm cho các ngân hnagf khi gặp rủi ro.Quản lí rủi ro tín dụng và bảo hiểm là các bộ phận không thể thiếu trong quan điểm an ninh kinh tế và ổn định kinh doanh. Bảo hiểm ngân hàng là một trong những sản phẩm chuẩn đối với các ngân hàng trên thị trường quốc tế. Thứ bảy, một công cụ hiệu quả trong quản lí rủi ro là các phía sinh tín dụng trong các nghiệp vụ tự phòng vệ. Phái sinh tín dụng là các công cụ phái sinh được sử dụng để quản lí rủi rotins dụng. Chúng cho phép tách rủi ro tín dụng với các loại hình rủi ro khác vốn có trong mỗi công cụ cụ thể và chuyển rủi ro này từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ tín dụng) đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng). Khả năng tách rủi ro tín dụng khỏi các tài sản Có và tài sản Nợ làm cho phái sinh tín dụng trở nên hấp dẫn trong sử dụng. Nhờ các công cụ này, các TCTD có thể tự bảo vệ mình khỏi các rủi ro tín dụng, đảm bảo đa dạng hoá các rủi ro này. Thứ tám, xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo các yêu cầu về quản lí nội bộ của ngân hàng, thỏa mãn yêu cầu phát triển của các giao dịch kinh doanh ngày càng đa dạng, yêu cầu quản lí rủi ro, quản lí thanh khoản, có khả năng kết nối với các ngân hàng khác. Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên cơ sở đảm bảo phòng chống được rủi ro, bảo mật và hoạt động an toàn. Thứ chín, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực, trình độ, khả năng hôi nhập, hiệu quả công tác và phẩm chất đạo đức tốt. Thứ mười, từng bước xây dựng và định vị thương hiệu ngân hàng, chú trọng phát triển những sản phẩm, dịch vụ mới, tăng thu phí dịch vụ, giảm dần tỷ lệ thu từ các sản phẩm dịch vụ tín dụng truyền thống.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2070 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sự ra đời hoạt động ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử phát triển và bộ của con người. Hoạt động của ngân hàng có vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế và xã hội. Điều này xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng – điểm khác biệt xa với các doanh nghiệp kinh tế khác: ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Có thể nói rằng, tín dụng là hoạt động quan trọng có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với hoạt động này. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, người ta chẳng có cách gì để loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ sử sử dụng những phương pháp nhằm làm giảm thiểu rui ro tín dụng xuống mức có thể chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, việc giảm thiểu rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết. Nó giúp cho hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung đạt hiệu quả cao hơn. Điều này góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì những lí do đó nên em lựa chọn đề tài: “Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam” để nghiên cứu. Đề tài gồm 3 phần: Phần 1: Quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Phần 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Phần 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Để hoàn thành được đề án này, em xin chân thành cảm ơn Th.s Phan Thị Hạnh đã hướng dẫn tận tình cho em. PHẦN 1 QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NHTM 1.1. Khái quát về rủi ro trong hoạt động của NHTM 1.1.1. Khái niệm rủi ro Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt – hàng hóa tiền tệ. Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro phức tạp luôn đi sát các lĩnh vực hoạt động của mỗi ngân hàng. Sở dĩ như vậy là do: cùng với sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hóa, nguồn tiền của các ngân hàng đang có thay đổi mạnh mẽ. Nguồn tiền gửi của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm hơn với lãi suất. Điều này tạo thuận lợi hơn cho một ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ thống. Rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. 1.1.2. Phân loại Có nhiều cách để phân loại rủi ro khác nhau: *Phân chia rủi ro theo các loại tài sản thì rủi ro gồm: - Rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ - Rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán - Rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác *Phân chia rủi ro theo tính chất nghiệp vụ tín dụng ngân hàng thì có thể thấy các loại rủi ro sau đây: - Rủi ro nguồn vốn: rủi ro tín dụng, rủi ro tồn đọng vốn - Rủi ro lãi suất - Rủi ro hối đoái - Rủi ro thanh khoản Ngoài ra, còn có các rủi ro khác như: khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, hỏa hoạn, lỗi công nghệ... 1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM 1.2.1. Khái niệm và bản chất. Khái niệm: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng,biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Căn cứ vào khoản 01 điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (Ban hành theo Quyết định số 493 /2005/ QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Bản chất: Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, đó là hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng phải thực hiện các hoạt đọng phân tích khách hàng sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung, ngân hàng sẽ chỉ cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, trong các khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro bởi vì không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Và khi tổn thất dưới mức tỉ lệ tổn thất dự kiến thì ngân hàng coi đó là thành công trong quản lý. 1.2.2. Nguyên nhân. Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại những đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại có được các giải pháp cần thiết để hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất. Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro này có nguyên nhân từ nhiều phía: từ phía người cho vay, từ phía người đi vay và cả từ môi trường bên ngoài. *Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng. Trước hết phải nói đén các ngân hàng còn thiều một chính sách tín dụng nhất quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, danh mục vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn… Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ bản như dưới đây: - Ngân hàng không đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh giá khách hàng… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách hàng. - Sự nới lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích. - Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay. - Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao nhãng việc coi trọng chất lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh của khách hàng. - Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ. - Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng. - Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều, hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định. - Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay. *Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng. - Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác. -Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý. Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. -Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được o dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền. -Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ta, thói quen ghi chép đầy đủ chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. -Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì nhà nước chịu. *Nguyên nhân khách quan. -Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây ra tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh. -Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới. Bởi vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu -Sự tấn công của hàng nhập lậu. Với hàng trăm km bở biển cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm qua mà kết quả vẫn tràn lan tại các thành phố lơn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. -Rủi ro môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quản của cơ quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chạm chạp và còn gặp phải nhiều bất cập. -Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu; nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới; vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu; thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu;… -Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm tín dụng ngân hàng (CIC) của ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên và đã được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa đáp ứng được yêu cầu tra cứu thông tin. -Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ. 1.2.3. Hậu quả. Tín dụng là hoạt động chủ yếu, hoạt đọng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Đi liền với nó là rủi ro trong hoạt động tín dụng. Rủi ro tín dụng là khách quan, là không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược kinh doanh. Có rât snhieeuf lý do khiến người ta phải quan tâm đến vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sở dĩ như vậy là do rủi ro nếu không được dự kiến trước sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng bất lợi cho cả ngân hàng lẫn người gửi tiền vào ngân hàng. Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Trường hợp không đủ nguồn vốn để trả lại cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mát khả năng thanh toán, thậm chí phá sản. Vì hoạt động của ngân hàng có tính xã hội hóa cao nên dù chỉ có một ngân hàng có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng không được ứng cứu kịp thời của ngân hàng trung ương thì có thể gây ra “phản ứng dây chuyền”, đe dọa đến cả hệ thống ngân hàng. Rủi ro tín dụng tăng lên làm chi phí của ngân hàng tăng cao ngoài dự kiến, thu nhập giảm sút, phần nộp vào ngân sách nhà nước giảm. Việc tích lũy để đầu tư đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ gặp nhiều khó khăn về kinh phí. Ngân hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xóa nợ; ngoài một phần ngân sách Nhà nước cấp bù thì phần chủ yếu do ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên thu nhập bị giảm. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cao khiến cho uy tín trong nước và uy tín quốc tế của ngân hàng bị giảm sút. Điều này cũng gây tâm lý hoang mang, dao động cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Có thể nói, rủi ro tín dụng là rất nguy hiểm nếu vượt ra ngoài dự kiến. Nó có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể quản lý cẩn thận loại rủi ro này. 1.2. Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại 1.2.1. Dấu hiệu nhận biết. Việc kinh doanh khó có thể thất bại qua một qua một đêm, do vậy mà sự thất bại đó thường có một vài dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận ra những dấu hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết nhằm ngăn ngừa hoặc xử lý chúng. Nhưng cần chú ý là các dấu hiệu này đôi khi được nhận ra qua một quá trình chư không hẳn là một thời điểm, do vậy, cán bộ tín dụng phải nhận biết chúng một cách có hệ thống. Chúng ta có thể xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các nhóm sau: Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng: * Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng gồm: - Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối. - Khó khăn trong thanh toán lương. - Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi. - Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản. - Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau. - Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí. - Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn. * Các hoạt động cho vay: - Mức độ vay thường xuyên gia tăng. - Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi. - Thường xuyên yêu cầu nhân hàng cho đáo hạn. - Yêu cầu các khoản vay vượt quá dự kiến. * Phương thức tài chính: - Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn. - Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ: Thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả (factoring). - Giảm các khoản phải trả tăng các khoản phải thu. - Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu. - Có biểu hiện giảm vốn điều lệ. Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng: - Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. - Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán. - Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: + Được hoạch định bởi Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm. + Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật. + Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, của chủ nợ. + Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên. + Lập kế hoạch xác định mục tiêu kém; xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi. - Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ. - Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo, huấn luyện đầy đủ đảm đương vị trí then chốt. - Có tranh chấp trong quá trình quản lý: bao gồm các mối quan hệ tranh chấp giữa Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành với các cổ đông khác, chính quyền địa phương, nhân viên, người cho vay, khách hàng chính. - Có các chi phí quản lý bất hợp lý: tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giapo thông đắt tiền, Ban Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân. Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh. - Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Khách hàng bị ấn tượng bởi một khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm đạt được hợp đồng lớn. - Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác. - Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản phẩm dịch vụ ra quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế; tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc. Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc về vấn đề kĩ thuật và thương mại, biểu hiện: - Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm - Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất,; thay đổi thị hiếu; cập nhật kĩ thuật mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh. - Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước: Đặc biệt chú ý sự tác động của các chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động, môi trường. - Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao. - Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế. Nhóm 5:Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán: - Chuẩn bị không đầy đủ số liệu về tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính. - Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy; + Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên. + Khả năng tiền mặt giảm. + Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có. + Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp. + Những thay đổi về lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán. + Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn doanh số bán + Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ được kéo dài. + Hoạt động lỗ. + Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ. + Không hạch toán đúng tài sản cố định. + Làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra các tài sản vô hình. + Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng. + Tăng giá trị quá cao thông qua việc tính lại tài sản. + Phân bố nợ không thích hợp. + Lệ thuộc vào sản phẩm bất thường để tạo lợi nhuận. + ... - Những dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt thường cán bộ tín dụng cũng có thể nhận biết được như: + Những vấn đề về đạo đức, thậm chí dáng vẻ của nhà kinh doanh cũng biểu hiện dấu hiệu gì đó. + Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh cũng là một dấu hiệu + Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu. Trong tất cả các dấu hiệu đó dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa hơn nhất là chậm thanh toán khoản cho vay. 1.2.2. Đo lường. Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là làm giảm tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải lượng hóa và đánh giá được rủi ro tín dụng để từ đó có các biệ pháp quản lý hiệu quả. * Lượng hóa rủi ro tín dụng Lượng hóa rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa mức đọ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro. Sau đây là các mô hình được áp dụng tương đối phổ biến: * Mô hình chất lượng 6 C: Tư cách người vay (Character) Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích xin vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xất kinh doanh của khách hàng hay không, đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin tù nhiều nguồn khác như từ: trung tâm phòng ngừa rủi ro, tù ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin đại chúng,... Năng lực của người vay ( Capacity ) Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia . Đòi hỏi người đi vay phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự . Thu nhập của người đi vay (Cash) Trước hết , phải xác định được nguồn trả nợ cua người đi vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập từ bán thanh lý tài sản hoặc từ phát hành chứng khoán ,.. Bảo đảm tiền vay (Collateral) Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngânhàng . Các điều kiện (Conditions) Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng , nhằm thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương theo từng thời kỳ . Kiểm soát (Control) Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi cua luật pháp có liên quan va quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không ? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay không ? * Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & poor: Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody Standard & Poor là những dịch vụ tốt nhất. Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard & Poor) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng khoán (khaonr cho vay) trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán (cho vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại chứng khoán (khoản cho vay) bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không đầu tư (không cho vay). Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhận nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy được xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng lại có lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán (cho vay) này. Mô hình xếp hạng của công ty Moody và standard & Poor Nguồn Xếp hạng Tình trạng Standard & Poor Aaa Chất lượng cao, rủi ro thấp nhất* Aa Chất lượng cao* A Chất lượng trên trung bình* Baa Chất lượng trung bình* Ba Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ B Chất lượng dưới trung bình Caa Chất lượng kém Ca Mang tính đầu cơ,có thể vỡ nợ C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu Moody AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất* AA Chất lượng cao* A Chất lượng trung bình* BBB Chất lượng trung bình* BB Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ B Chất lượng dưới trung bình CCC Chất lượng kém CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu *Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model): Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào: - Trị số tài chính của người vay. - Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau: Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0.6X4 + 1,0X5 Trong đó: X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị hạch toán của nợ X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược lại, khi trị số Z càng thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ zếp khách hàng vào nhóm nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. *Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng: Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác. Bảng dưới đây là những hạn mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân hàng của Hoa Kỳ: STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm 1. Nghề nghiệp của người vay -Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh 10 -Công nhân có kinh nghiệm 8 -Nhân viên văn phòng 7 -Sinh viên 5 -Công nhân không có kinh nghiệm 4 -Công nhân bán thất nghiệp 2 2. Trạng thái nhà ở -Nhà riêng 6 -Nhà thuê hay căn hộ 4 -Sống cùng bạn hay người thân 2 3. Xếp hạng tín dụng -Tốt 10 -Trung bình 5 -Không có hồ sơ 2 -Tồi 0 4. Kinh nghiệm nghề nghiệp -Nhiều hơn 1 năm 5 -Từ 1 năm trở xuống 2 5. Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành -Nhiều hơn 1 năm 2 -Từ 1 năm trở xuống 1 6. Điện thoại cố định -Có 2 -Không có 0 7. Số người sống cùng (phụ thuộc) -Không 3 -Một 3 -Hai 4 -Ba 4 -Nhiều hơn ba 3 8. Các điều khoản tại ngân hàng -Cả tài khoản tiết kiệm và phat hành Sec 4 -Chỉ tài khoản tiết kiệm 3 -Chỉ tài khản phát hành Sec 2 -Không có 0 Khách hàng có điểm cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính sách tín dụng thao mô hình điểm như sau: Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng 29 – 30 điểm Cho vay đến 500 USD 31 – 33 điểm Cho vay đến 1000 USD 34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD 37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD 38 – 40 điểm Cho vay đến 5000 USD 41 – 43 điểm Cho vay đến 8000 USD 1.2.3. Kiểm soát. Rủi ro tín dụng không thể loại trừ hoàn toàn mà các ngân hàng chỉ có thể kiểm soát, quản lý để hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra. Phần này sẽ đề cập một số nguyên tắc mà các ngân hàng thương mại trên thế giới đã và đang thực hiện để kiểm soát rủi ro. 1.2.3.1. Quyết định cho vay trên cơ sở phải xác định và hiểu rõ người vay Trước hết, phải đảm bảo tín nhiệm trong quan hệ vay trả. Nguyên tắc này có thể được kiểm chứng qua thực tế và có quá trình quan hệ vay trả theo đúng các quy định của tín dụng và sự cam kết. Tuy nhiên, để thiết lập những quan hệ tín dụng đầu tiên thì nguyên tắc này vẫn phải được đảm bảo. Song nó còn được nhìn nhận và đánh giá ở những tiêu thức khác như: phẩm chất đạo đức kinh doanh; tính trung thực, nghiêm túc trong các quan hệ kinh tế; tính nghiêm túc trong việc chấp hành các luật lệ của Nhà nước. Thứ hai: phải đảm bảo nguyên tắc người vay vốn phải có đủ năng lực pháp lý và năng lực tài chính để sử dụng tiền vay và thực hiện các nghĩa vụ cam kết đối với các khoản vay. Thứ ba: phải đảm bảo nguyên tắc xây dựng được các phương án dự phòng trả nợ vay ngân hàng của người vay. 1.2.3.2. Hiệu quả và chất lượng tín dụng trên cơ sở hiệu quả sản xuất kinh doanh của người vay vốn. Điều này có nghĩa rằng: hạn chế rủi ro tín dụng cũng đồng nghĩa với hạn chế, giảm thiểu những rủi ro tổn thất trong sản xuất và kinh doanh. Một khi nguwoif vay vốn hoạt đọng sản xuất kinh donh khoong có hiệu quả, sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi, tình trạng mất vốn do thua lỗ...sẽ là những nguyên nhân trực tiếp sẽ làm cho các khoản tín dụng không được thực hiện đúng hạn. trong trường hợp người vay vốn bị páh sản thì tình trạng mất vốn của ngân hàng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Do đó ngân hàng có thu được vốn và lãi tiền vay hay không là phụ thuộc chủ yếu vào người vay vốn sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không. 1.2.3.3. Mở rộng khối lượng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng. Việc mở rộng hoạt đọng kinh doanh tín dụng là cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Song chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển thực chất của các ngân hàng. Chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng cam kết vay tiền, ngân hàng thu được gốc và lãi vay đúng hạn. Như trên đã đề cập,trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở ngân hàng, quyền trả nợ thực tế là của người vay. Do đó, khi ngân hàng đã quyết định và khoản cho vay được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay hay đúng hơn phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay.Vì vậy, việc phân tích, đánh giá năng lực tài chính và khả năng sản xuất kinh doanh của người vay để xem xét hiệu quả vốn tín dụng là đặc biệt quan trọng để quyết định chất lượng vốn tín dụng. Mọi sự hiểu biết của ngân hàng về những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà người vay vốn định đầu tư sẽ tạo thêm cho người vay cơ sở chắc chắn hơn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay. 1.2.3.4. Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Có thể nói, phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa tích cực những hậu quả lớn có thể xảy ra đối với mỗi ngân hàng, nhất là nhứng ngân hàng nhỏ, năng lực tài chính hạn chế. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và cộng đồng tài trợ. Nó được biểu hiện duwois hình thức mỗi ngân hàng không nên tập chung vốn quá nhiều cho một người vay. Những ngân hàng lớn cần huy động nhiều ngân hàng tham gia tài trợ và cùng quane lý vốn cho vay, hạn chế cho vay các lĩnh vực có tỷ lệ rủi ro cao. Khi nền kinh tế càng phát triển thì đòi hỏi các ngân hàng càng phải hợp tác và liên kết chặt chẽ để hỗ trợ nhau và tăng cường khả năng cùng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế. Đồng thời sư hợp tác, liên kết đó cũng chính là sự phân tán rủi ro, tránh tập trung rủi ro lớn vào một ngân hàng. Do vậy, phân tán rủi ro vừa là yêu cầu quan trọng của mỗi ngân hàng thương mại, vừa là xu thế hội nhập và hợp tác trong thị trường tài chính hiện nay. 1.2.3.5. Cho vay phải có đảm bảo tiền vay với tính khả thi cao. Thông thường để tránh những rủi ro không trả được nợ của người vay, các ngân hàng quy định điều kiện vay vốn, trong đó điều kiện về đảm bảo tiền vay được xem như quan trọng nhất. Đảm bảo tiền vay có nhiều loại: đảm bảo bằng cầm cố, thế chấp tài sản bằng tiền vay; đảm bảo bằng tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba; đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay và đảm bảo bằng chính sự tín nhiệm lẫn nhau trong quan hệ tín dụng. thực chất của đảm bảo vay vốn là sử dụng những giá trị của tài sản làm đảm bảo để trả nợ thay cho các khoản vay mà người vay đã sử dụng vào sản xuất kinh doanh nhưng không có khả năng trả nợ ngân hàng. Như vậy tài sản làm đảm bảo tiền vay phải có giá trị, bản thân nó phải trở thành hàng hóa, tức là khi chuyển giao quyền sở hữu thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành giá trị để trả nợ ngân hàng. Trên thực tế, nhiều ngân hàng đã đưa ra và quán triệt nguyên tắc này, song các tài sản đảm bảo nợ vay khi phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ hì lại không thể chuyển hóa thành giá trị được, tức là không thể bán để thu hồi nợ khi các ngân hàng được phép phát mại tài sản. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các khoản tài sản cho vay có tài sản làm đảm bảo tài sản nợ vay là tài sản đó phải là hàng hóa, có giá trị lớn hơn khoản vay, có thị trường tiêu thụ khi hàng hóa đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. 1.2.3.6. Cho vay phải do chính ngân hàng quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Việc có cho vay tiền hay không là do quyết định của ngân hàng. Trong thực tế, ngân hàng còn phải chịu những can thiệp từ bên ngoài vào các hoạt động tín dụng của mình. Điển hình là tình trạng cá nhân hay các cơ quan chính quyền các cấp đề nghị, thậm chí yêu cầu ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu vốn nào đó vì quyền lợi của người vay. Thường thì sự can thiệp bên ngoài lại chỉ nhằm vào các khoản cho vay, mà không có sự can thiệp vào các khoản huy động vốn. Nhưng đến khi không thu hồi được nợ, mất vốn thì sự can thiệp đó lại không bị đưa ra xem xét và cùng chịu trách nhiệm. Mọi sự can thiệp bên ngoài đối với khoản cho vay đều phải kinh tế. Vì vậy, thiếu tính nghiệp vụ ngân hàng, thường đưa đến những sai lầm và gây ra những tổn thất. Có thể nói, sự độc lập điều hành và quản lý ngân hàng trong khuôn khổ pháp lý sẽ có ý nghĩa rất lớn đến tính đúng đắn trong quyết định cho vay và trách nhiệm đối với quyết định đó. 1.2.3.7. Phải quản lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi và các khoản nợ có vấn đề. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gian hạn nợ. Ngân hàng cần phải phân loại nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề. Trên cơ sở phân tích nguyên nhân, thực trạng, ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp giải quyết nhằm hạn chế những khoản nợ này. - Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời song vẫn còn khả năng và ý chí trả nợ, ngân hàng sẽ áp dụng những chính sách hỗ trợ như: cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi... - Trong trường hợp người vay lừa đảo, chây ỳ, không có khả năng trả ngân hàng áp dụng chính sách thanh lý như bán tài sản thế chấp, phong tỏa tiền gửi trên tài khoản. - Ngân hàng cần xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Dựa trên rủi ro chấp nhận và danh mục các khoản cho vay rủi ro, ngân hàng xây dựng quỹ dự phòng. Quỹ này không có tác dụng giảm rủi ro mà để chống đỡ khi vốn của chủ khi tổn thất xảy ra. 1.2.4. Giám sát. Ngân hàng trong suốt thời gian cho vay phải liên tục giám sát các danh mục tín dụng nhằm có các hành động kịp thời khi có bất kỳ vấn đề nào nảy sinh đối với khoản vay. Việc giám sát được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau, tùy vào từng ngân hàng, hoặc dùng đồng thời các phương pháp, đó là: - Phương pháp dùng bảng so sánh: Cán bộ tín dụng xây dựng một bảng theo dõi với các nội dung đã được thống nhất với khách hàng (bao gồm các nội dung đã cam kết trong khế ước vay nợ và các tỷ số tài chính tối thiểu cần duy trì). Bảng theo dõi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu từng tháng của khách hàng trong suốt thời gian vay. Qua bảng này chúng ta có thể thấy sự gia tăng hay giảm về chất lượng khoản vay một cách khá dễ dàng. Kết cấu của bảng như sau: Chỉ tiêu 1 2 3 ... ... Ghi số kế hoạch Ghi số thực tế Ghi số kế hoạch Ghi số thực tế Cột chỉ tiêu cần theo dõi có thể là: Doanh số bán hàng so với kế hoạch; Tỷ lệ phần trăm tổng lợi nhuận; tỷ lệ phần tră lãi ròng; Khoản phải thu, phải trả (hay các hệ số vòng quay của nó). Khi lên bảng số liệu cán bộ tín dụng phải kiểm tra tính thời điểm của thông tin, tính pháp lý của thông tin. Sau khi lập bảng, cán bộ tín dụng sẽ thấy được mức đọ so sánh giữa các chỉ tiêu theo 2 chiều: So với kế hoạch ban đầu và so với thời gian trước đó (tháng trước). - Phương pháp dùng đồ thị: Phương pháp này theo dõi giám sát khách hàng bằng cách: Khi nhận được các số liệu kế hoạch (trong phần xét duyệt cho vay) cán bộ tín dụng sẽ đưa lên một đồ thị mà một trục là tháng, một trục là các mức độ của chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu được theo dõi bằng một đồ thị riêng. Mức Thán Khi nhận được số liệu thực tế, sau khi đã kiểm tra, cán bộ tín dụng tiếp tục đặt nó lên đồ thị. Các đường biểu diễn này phản ánh rõ xu hướng của chất lượng khoản vay. - Phương pháp kiểm tra tại chỗ: Phương pháp này đem lại sự yên tâm hơn cho ngân hàng so với việc phân tích các số liệu tài chính của khách hàng. Các nội dung xem xét cũng được xác định như trên nhưng bằng giải pháp kiểm tra tại chỗ mà thôi. Khi kiểm tra sẽ xuất hiện các dấu hiệu cảnh báo để từ đó có được nhận định trong việc giám sát. Tóm lại, việc giám sát cho dù bằng phương pháp nào thì cũng giúp cho ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm baoe đồng vốn được sử dụng đúng mục đích. Nếu giám sát không chặt chẽ sẽ tạo ra những lỗ hổng cho khách hàng sử dụng vốn sai với dự án, làm phát sinh ngững rủi ro tín dụng mà ngân hàng không biết và không lường trước được. Trong quá trình giám sát thì vai trò của cán bộ tín dụng là vô cùng quan trọng. Các cán bộ tín dụng không được để “ tình cảm “ chi phối trong công việc, kiên quyết xử lý một cách đúng đắn, đảm bảo thu hồi nợ vay. PHẦN 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2.1. Quan điểm quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam - Không tập trung cấp tín dụng quá cao cho 1 khách hàng, 1 ngành nghề/lĩnh vực có liên quan với nhau, 1 loại tiền tệ trên một địa bàn. - Quyết định cấp tín dụng cho một dự án lớn phải được thực hiện theo chế độ tập thể (nhiều thành viên cùng tham gia quyết định cho vay thông qua nhiều hình mức xét duyệt và biểu quyết của hội đồng tín dụng). - Áp dụng hạn mức tín dụng và/hoặc thời hạn cấp tín dụng tùy thuộc vào năng lực của chi nhánh. 2.2. Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam 2.2.1. Bộ máy quản lý rủi ro tín dụng Tại các NHTM Việt Nam khối quản lý tín dụng bao gồm các Phòng/ Bộ phận sau: - Bộ phận chính sách tín dụng (CSTD) - Phòng tái thẩm định (TTĐ) - Phòng quản lý tài sản đảm bảo (QL TSĐB) - Phòng giám sát tín dụng (GSTD) - Phòng xử lý nợ (XLN) Các Phòng/ Ban trên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc khối quản lý tín dụng. Nhân viên từng bộ phận chịu sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo bộ phận. 2.2.2. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng 2.2.2.1. Quy trình chính sách tín dụng - Rà soát, sửa đổi và xây dựng CSTD - Thông qua hạn mức và cơ cấu đầu tư theo ngành/vùng kinh tế - Đánh giá rủi ro đối với các ngành/vùng kinh tế - Đánh giá rủi ro đối với khoản tín dụng lớn - Tham gia ý kiến đối với các sản phẩm tín dụng mới - Cơ chế báo cáo công việc 2.2.2.2. Quy trình tái thẩm định - Phạm vi tham gia tía thẩm định - Nhận hồ sơ tín dụng - Tái thẩm định và phê duyệt tín dụng - Thẩm định trực tiếp các khoản vay theo quy định - Thẩm định trực tiếp các khoản vay theo quy định - Lập/Rà soát mức phê duyệt của các cá nhân - Phê duyệt của Ủy ban tín dụng - Đào tạo kỹ năng tín dụng cho chuyên viên CM/CB/PB - Cơ chế báo cáo 2.2.2.3. Quy trình Định giá và Quản lý tài sản Đảm bảo - Phạm vi tam gia - Định giá - Đánh giá lại - Thay đổi hạn mức, phạm vi định giá, loại TSĐB, gias trị định giá, tỷ lệ cho vay/TSĐB - Đánh giá cơ cấu, danh mục TSĐB - Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu TSĐB - Xây dựng hệ thống thông tin TSĐB - Cơ chế báo cáo 2.2.2.4. Quy trình Giám sát Tín dụng - Phạm vi hoạt động - Giám sát viêc tuân thủ và cảnh báo - Đánh giá cơ cấu dư nợ trên toàn hệ thống - Đánh giá các khoản tín dụng lớn (giảm rủi ro tập trung) - Cảnh báo sớm khả năng xảy ra rủi ro - Xây dựng/phổ biến “bài học kinh nghiệm” - Đề xuất các hình thức kỷ luật do vi phạm quy định tín dụng - Trích dự phòng rủi ro toàn hệ thống - Cơ chế báo cáo 2.2.2.5.Quy trình Xử lý Nợ - Phạm vi tham gia xử lý nợ - Xử lý các khoản nợ khó đòi – Quy trình chính - Xử lý nợ thông qua các cơ quan pháp luật - Bán đấu giá tài sản đảm bảo - Nhận TSĐB tiền vay thay thế nghĩa vụ trả nợ - Tạm dừng tính lãi, miễn giảm lãi cho các khoản vay khó đòi - Dùng dự phòng đã trích để xử lý rủi ro tín dụng - Bình thường hóa các khoản nợ tiến triển tốt - Cơ chế báo cáo 2.2.3. Công tác quản lý rủi ro tín dụng - Quản lý toàn diện và hiệu quả các loại rủi ro tín dụng có thể xảy ra trong toàn hệ thống theo nguyên tắc tuân thủ quy định của Việt Nam, định hướng của Hội đồng Quản trị và tiệm cận với thông lệ quốc tế. - Đề xuất với Tổng giám đốc để đệ trình Hội đồng quản trị và Ủy ban quản lý rủi ro để phê chuẩn về chính sách quản lý rủi ro tín dụng, phương pháp nhận biết, đo lường, kiểm soát và giám sát rủi ro tín dụng. - Chuẩn bị kế hoạch duy trì và kế hoạch ứng phó với những bất ngờ và trực tiếp chỉ đạo thực hiện trong trường hợp xảy ra. - Tái thẩm định tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng danh mục cho vay và đầu tư có chất lượng cao và bền vững. - Theo dõi, đánh giá và đề ra các biện pháp xử lý nợ xấu để giảm thiểu tổn thất theo các mục đã phê duyệt. - Xây dựng phổ biến văn hóa quản trị rủi ro và nhận thức rủi ro trong toàn bộ ngân hàng. 2.3. Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam 2.3.1. Thành công - Trong những năm trở lại đây,nhìn chung tỷ lệ nợ quá hạn tại các NHTM đã giảm và duy trì ở mức độ cho phép hoặc thấp hơn. - Tích cực thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Trong việc xét duyệt các khoản vay đã chú trọng công tác phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu, nâng cao chất lượng thẩm định các khoản vay, các dự án đầu tư, chú ý phân tích hiệu quả cà các yếu tố tác động đến dự án để thấy được rủi ro của khoản vay. - Thực hiện tốt viếc kiểm tra tín dụng, phối hợp tốt với kiểm soát nội bộ trong việc kiểm tra chéo công tác tín dụng. 2.3.2. Hạn chế Hạn chế của công tác quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam tiềm ẩn lớn tại các NHTM nhà nước. - Hầu hết các ngân hàng chưa xây dựng cho mình một chính sách tín dụng khoa học, phù hợp. - Quản trị danh mục cho vay của NH chưa chú trọng đa dạng hóa. - Các NH chưa xây dựng được mô hình lượng hóa rủi ro và xác định mức cho vay tối đa, tối uuw đối với khách hàng. - Thông tin – đầu vào vô cùng cần thiết phục vụ ra quyết định của NH chưa được lưu trữ, thu thập và xử lý hiệu quả. - Chất lượng nguồn nhân lực ở hầu hết các NHTM còn chưa đồng đều, một số chưa đáp ứng được với đòi hỏi của thời kỳ mới. Cán bộ tín dụng thiếu khả năng, kỹ năng dự báo kinh tế, thị trường, phân tích tình hình tài chính, phi tài chính của doanh nghiệp. - Chịu sự điều chỉnh chi phối của nhiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng. PHẦN 3 GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM Nền kinh tế Việt Nam nói chung hay Hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới. Sau đây những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng của khối NHTM trong thời gian tới: Thứ nhất, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thiện và khẩn trương ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các TCTD phù hợp với các chuẩn mực quố tế. Hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng: nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và hệ thống cảnh báo những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD; phát triển và thống nhất cách thức giám sát ngân háng trên cơ sở lí luận và thực tiễn; xây dựng cách tiếp cận hoạt động đánh giá chất lượng quản lý rủi ro trong nội bộ các TCTD. triển khai mạnh hơn nữa các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường tiền tệ như: quyền chọn, hoán đổi, kì hạn, tương lai... Thứ hai, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, nợ xấu, lành mạnh hóa tình hình tài chính, làm sạch bảng cân đối tiền tệ của các NHTM; đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa khối NHTM nhà nước để tăng năng lực cạnh tranh, giảm bớt yếu tố can thiệp trực tiếp của nhà nước, minh bạch hóa hệ thống tài chính theo chuẩn mực quốc tế, từ đó tăng năng lực tự giám sát và quản lý rủi ro nội bộ. Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện chiến lược, chính sách quản trị rủi ro (trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến rủi ro tín dụng) phù hợp; Nâng cao chất lượng các công cụ lượng hóa rủi ro tín dụng và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường mới, giúp các nhà lãnh đạo ngân hàng lượng hóa mức độ rủi ro, phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro, nhận biết chính xác các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro để có giải pháp kịp thời và hữu hiệu. Thứ tư, hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế hóa mọi hoạt động trong ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc hạn chế rủi ro ở mọi khâu trong ngân hàng. Thường xuyên xem xét lại quy trình theo định kì, đảm bảo mọi công việc được xử lý một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. Thứ năm, thực hiện minh bạch và công khai hóa thông tin. Đây là tiền đề cơ bản để nâng cao chất lượng quản lí rủi ro. Việc minh bạch hóa và công khai thông tin không chỉ được thực hiệ giữa các NHTM với NHNN, trong nội bộ NHTM mà còn giữa NHTM với các nhà đầu tư, với công luận. Thứ sáu, bảo hiểm rủi ro có vị trí đặc biệt trong hệ thống quản lí rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cơ sở của bảo hiểm ngân hàng là các nghĩa vụ chi trả bảo hiểm cho các ngân hnagf khi gặp rủi ro.Quản lí rủi ro tín dụng và bảo hiểm là các bộ phận không thể thiếu trong quan điểm an ninh kinh tế và ổn định kinh doanh. Bảo hiểm ngân hàng là một trong những sản phẩm chuẩn đối với các ngân hàng trên thị trường quốc tế. Thứ bảy, một công cụ hiệu quả trong quản lí rủi ro là các phía sinh tín dụng trong các nghiệp vụ tự phòng vệ. Phái sinh tín dụng là các công cụ phái sinh được sử dụng để quản lí rủi rotins dụng. Chúng cho phép tách rủi ro tín dụng với các loại hình rủi ro khác vốn có trong mỗi công cụ cụ thể và chuyển rủi ro này từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ tín dụng) đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng). Khả năng tách rủi ro tín dụng khỏi các tài sản Có và tài sản Nợ làm cho phái sinh tín dụng trở nên hấp dẫn trong sử dụng. Nhờ các công cụ này, các TCTD có thể tự bảo vệ mình khỏi các rủi ro tín dụng, đảm bảo đa dạng hoá các rủi ro này. Thứ tám, xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo các yêu cầu về quản lí nội bộ của ngân hàng, thỏa mãn yêu cầu phát triển của các giao dịch kinh doanh ngày càng đa dạng, yêu cầu quản lí rủi ro, quản lí thanh khoản, có khả năng kết nối với các ngân hàng khác. Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên cơ sở đảm bảo phòng chống được rủi ro, bảo mật và hoạt động an toàn. Thứ chín, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực, trình độ, khả năng hôi nhập, hiệu quả công tác và phẩm chất đạo đức tốt. Thứ mười, từng bước xây dựng và định vị thương hiệu ngân hàng, chú trọng phát triển những sản phẩm, dịch vụ mới, tăng thu phí dịch vụ, giảm dần tỷ lệ thu từ các sản phẩm dịch vụ tín dụng truyền thống. KẾT LUẬN Ngân hàng là một tổ chức tái chính trung gian quan trọng bậc nhất góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên xuất phát từ đặc thù hoạt động của mình, ngân hàng lại là lĩnh vực kinh doanh đầy rủi ro, trong đó nguy cơ tín dụng là một nguy cơ lớn đe dọa sự tổn tại và phát triển của ngân hàng, bởi cung ứng vốn thông qua hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng. Với mối quan hệ ngày càng phức tạp của ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại, sự sụp đổ của một ngân hàng do không đòi được nợ, dù ở quy mô nào, cúng sẽ gây ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng cũng như các chủ thể kinh tế khá, thậm chí gây ra sự hoảng loạn trong toàn bộ hệ thống ngân hàng từ đó gây ra những cuộc khủng hoảng về kinh tế, xã hội mà không thể lường trước được. Chính vì thế, ngăn chặn, phòng ngừa và kiểm soát rủi ro tín dụng là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các nhà quản lý rủi ro trong ngân hàng. Với nội dung đã trình bày, đề tài nghiên cứu đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và công tác quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, đồng thời trên cơ sở phân tích thực trạng đã đề xuất một số giải pháp hữu ích góp phần giúp công tác quản lý rủi ro tín dụng được hiệu quả hơn. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21371.doc
Tài liệu liên quan