Đề án Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp Tập đoàn Dệt May Việt Nam

Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh của bất kỳ doanh nghiệp nằm ở bất cứ quốc gia nào. Nó quyết định đến sự sống còn của các doanh nghiệp. Trong cơ cấu của nền kinh tế nước ta dệt may được xác định là một ngành mũi nhọn. Hiện, sản phẩm dệt may Việt Nam đã xâm nhập hầu hết thị trường trên thế giới, trong đó có cả những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Với nhiều đặc tính nổi trội: mẫu mã đa dạng, kiểu dáng đẹp, chất lượng cao và giá thành thấp nên dệt may Việt Nam có tính cạnh tranh rất cao trên thị trường. Sau một năm gia nhập WTO ngành dệt may nước ta đã xây dựng được một thương hiệu mang tầm quốc tế. Đạt được thành quả đó, một phần rất lớn phụ thuộc vào chính nội lực của các công ty dệt may trong nước.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp Tập đoàn Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u ra hay tiềm ẩn. Định nghĩa chất lượng trong ISO 9000 là thể hiện sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách quan của sản phẩm với đáp ứng nhu cầu chủ quan của khách hàng; Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng sản phẩm nhưng tựu chung lại thì chúng phải bao gồm những khía cạnh sau: - Chất lượng sản phẩm phải là một tập hợp các chỉ tiêu, những đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm; - Chất lượng sản phẩm phải thể hiện trong tiêu dùng và cần xem xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào yêu cầu của thị trường; - Chất lượng sản phẩm phải gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu cầu thij trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục. Phong tục tập quán của một cộng đồng có thể phủ nhận hoàn toàn những thứ mà thông thường ta cho là “có chất lượng”, có tính hữu ích cao. 1.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm được đánh giá thông qua các chỉ tiêu, các thông số kinh tế- kỹ thuật cụ thể. Với mỗi sản phẩm cụ thể vai trò của các nhóm chỉ tiêu trong đánh giá chất lượng là khác nhau. Vì vậy đánh giá chất lượng phải sử dụng phạm trù sức nặng để phân biệt vai trò của từng chỉ tiêu đối với chất lượng sản phẩm Những chỉ tiêu chung nhất phản ánh chất lượng sản phẩm gồm: - Các thuộc tính kỹ thuật: phản ánh công dụng chức năng của sản phẩm. Nhóm này đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng tác dụng chủ yếu của sản phẩm được quy định bởi các chỉ tiêu kết cấu vật chất, thành phần cấu tạo về đặc tính cơ, lý, hoá của sản phẩm. Các yếu tố này được thiết kế theo những tổ hợp khác nhau tạo ra chức năng đặc trưng cho sản phẩm và hiệu quả của quá trình sử dụng sản phẩm đó; - Các yếu tố thẩm mỹ: đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức, dáng vẻ, kết cấu, kích thước, sự hoàn thiện tính cân đối, màu sắc, trang tri, tính thời trang; -Tuổi thọ của sản phẩm: Đây là yếu tố đặc trưng cho tính chất của sản phẩm giữ được khả năng làm việc bình thường theo đúng tiêu chuẩn thiết kế trong một thời gian nhất định trên cơ sở đảm bảo đúng các yêu cầu về mục đích, điều kiện sử dụng và chế độ bảo dưỡng quy định. Tuổi thọ là một yếu tố quan trọng trong quyết định lựa chọn mua hàng của người tiêu dùng; - Độ tin cậy của sản phẩm: Độ tin cậy được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất phản ánh chất lượng của một sản phẩm và đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng duy trì và phát triển thị trường mình; - Độ an toàn của sản phẩm: những chỉ tiêu an toàn trong sử dụng, vận hành sản phẩm, an toàn đối với sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường là yếu tố tất yếu, bắt buộc phải có đối với mỗi yếu tố sản phẩm trong điều kiện tiêu dùng hiện nay. Khi thiết kế sản phẩm phải luôn coi đây là tiêu chí cơ bản không thể thiếu được của sản phẩm; - Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm: cũng giống như độ can toàn, mức độ gây ô nhiễm được coi là một yếu tố bắt buộc các nhà sản xuất phải tuân thủ khi đưa sản phẩm của mình ra thị trường; - Tính tiện dụng: phản ánh những đòi hỏi về tính sẵn có, tính dễ vận chuyển, bảo quản, dễ sử dụng của sản phẩm và khả năng thay thế khi có những bộ phận bị hỏng; - Tính kinh tế của sản phẩm: đây là yếu tố quan trọng đối với những sản phẩm khi sử dụng có tiêu hao nguyên liệu, năng lượng. Tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng trong sử dụng trở thành một trong những yếu tố quan trọng phản ánh chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường; Ngoài ra những dịch vụ đi kèm sản phẩm, đặc biệt là dịch vụ sau khi bán đang trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong thành phần chất lượng sản phẩm. Trong nhiều trường hợp chúng đóng vai trò cơ bản cho sự thành công của doanh nghiệp trên thị trường. Tên, nhãn hiệu, danh tiếng, uy tín của sản phẩm cũng được coi như yếu tố chất lượng vô hình tác động lên tâm lý lựa chọn của khách hàng, thu hút sự chú ý và kích thích ham muốn mua hàng của họ. 1.3. Các yêu cầu và đặc điếm của chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm chính là kết quả của sự phối hợp thống nhất giữa lao động với các yếu tố công nghệ, kỹ thuật, kinh tế và văn hoá xã hội. Bao hàm trong chất lượng là một tập hợp các thuộc tính thể hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật đặc trưng phù hợp với môi trường xã hội và trình độ phát triển trong từng thời kỳ; Sản phẩm khi đưa ra thị trường, trở thành hàng hoá phải thoả mãn được khách hàng về cả hai mặt giá trị sử dụng và giá trị. Xuất phát từ bản chất sản phẩm luôn có hai đặc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng phản ánh công dụng cụ thể của sản phẩm và chính công dụng này làm nên tính hữu ích của nó. Và khi nói đến chất lượng sản phẩm không thể chỉ nói đến giá trị sử dụng của sản phẩm mà phải đề cập đến cả mặt giá trị và các dịch vụ khác có liên quan trực tiếp đến sản phẩm, thoả mãn được yêu cầu của khách hàng về mặt kinh tế; Chất lượng sản phẩm phải được hình thành trong tất cả mọi hoạt động, mọi quá trình tạo ra sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ , thống nhất giữa các quá trình trước, trong và sau sản xuất: nghiên cứu thiết kế, chuẩn bị sản xuất, sản xuất và sử dụng sản phẩm. Phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và công nghệ liên quan đến mọi hoạt động trong toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh. Các yếu tố tác động đến chất lượng mang tính nhiều vẻ, có yếu tố bên trong và bên ngoài, có yếu tố trực tiếp và yếu tố gián tiếp, nguyên nhân và kết quả; Chất lượng sản phẩm có tính tương đối cần được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với thời gian và không gian. Chất lượng sản phẩm không ở trạng thái cố định, mà thay đổi theo từng thời kì phụ thuộc vào sự biến động của các yếu tố sản xuất của khoa học- công nghê, tiến bộ kỹ thuật và yêu cầu của từng thị trường. Trên những thị trường khác nhau có những yêu cầu chất lượng khác nhau đối với cùng một loại sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cần phải xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện và môi trường kinh doanh, tình hình và khả năng phát triển kinh tế xã hội và công nghệ trong mỗi thời kỳ và của từng nước, từng khu vực thị trường cụ thể; Chất lượng được đánh giá trên cả hai mặt chủ quan và khách quan. Tính chủ quan của chất lượng thể hiện thông qua chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi chất lượng thiết kế. Đó là mức độ phù hợp của thiết kế đối với nhu cầu của khách hàng. Nó phản ánh nhận thức của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Nâng cao loại chất lượng này có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Tính khách quan thể hiện thông qua các thuộc tính vốn có trong từng sản phẩm. Nhờ tính khách quan này chất lượng có thể đánh giá thông qua các tiêu chuẩn, chỉ tiêu cụ thể. Tính khách quan của chất lượng thông qua chất lượng tuân thủ thiết kế. Đó là mức độ phù hợp của các đặc tính chất lượng sản phẩm so với tiêu chuẩn thiết kế đặt ra. Loại chất lượng này phụ thuộc chặt chẽ vào tính chất đặc điểm và trình độ công nghệ và trình độ tổ chức quản lý, sản xuất của các doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng loại này giúp các doanh nghiệp giảm chi phí chất lượng; Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trông những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với mục đích tiêu dùng cụ thể. Không thể có chất lượng chung cho tất cả mọi điều kiện, mọi đối tượng. Đặc điểm này đòi hỏi việc cung cấp những thông tin cần thiết về sản phẩm cho người tiêu dùng là một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với các nhà sản xuất. 1.4. Vai trò của chất lượng sản phẩm Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của mỗi doanh nghiệp. Tình hình đó đặt ra những thách thức to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia thị trường thế giới. Chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất cho sự tham gia của sản phẩm Việt Nam vào thị trường quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta; Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nâng cao đời sống và phát triển sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua. Mỗi sản phẩm có rất nhiều thuộc tính khác nhau. Khách hàng quyết định lựa chọn mua những sản phẩm có thuộc tính phù hợp với nhu cầu và khả năng, điều kiện sử dụng của mình. Họ so sánh các sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có tính kinh tế- kỹ thuật thoả mãn những mong đợi của họ ở mức cao hơn; Khi sản phẩm có chất lượng cao, ổn định, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ tạo ra một biểu tượng tốt, tạo ra niềm tin cho khách hàng vào nhãn mác của sản phẩm. Nhờ đó uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp được nâng cao có tác động lớn đến quyết định lựa chọn mua hàng của khách hàng. Nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường nhờ chất lượng cao là cơ sở cho khả năng duy trì và mở rộng thị trường, tạo sự phát triển lâu dài cho doanh nghiệp; Chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu tổng hợp và đánh giá năng lực của tiến bộ khoa học- công nghệ, năng suất lao động, tổ chức quản lý. Trong nhiều trường hợp nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tương đương với tăng năng suất lao động xã hội. Giá trị sử dụng, lợi ích kinh tế- xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào tăng lên, tiết kiệm các nguồn lực cho sản xuất, tăng doanh thu và lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo kết hợp thống nhất các loại lợi ích trong doanh nghiệp và xã hội, tạo động lực phát triển cho mỗi doanh nghiệp; Nâng cao chất lượng còn giúp cho người tiêu dùng tiết kiệm được thời gian và sức lực khi sử dụng sản phẩm do các doanh nghiệp cung cấp. Nó tạo cho người tiêu dùng những tiện lợi hơn và đáp ứng nhanh hơn, đầy đủ hơn. Suy cho cùng đó là những lợi ích mà mục tiêu của việc sản xuất và cung cấp sản phẩm đưa lại cho con người. Bởi vậy, chất lượng đã và luôn là yếu tố quan trọng số một đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng; Nâng cao chất lượng là giải pháp quan trọng tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo kết hợp thống nhất các loại lợi ích trong doanh nghiệp và xã hội, tạo động lực phát triển cho mỗi doanh nghiệp. Nhờ đảm bảo, duy trì và nâng cao chất lượng, các doanh nghiệp, chủ sở hữu, người lao động, người tiêu dùng và toàn xã hôị đều thu được những lợi ích thiết thực. Doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, phát triển thị trường, mở rộng sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, người tiêu dùng thoả mãn nhu cầu với chi phí hợp lý, chủ sở hữu có nguồn thu tăng và cuối cùng là Nhà nước tăng ngân sách và giải quyế những vấn đề xã hội; Tóm lại nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc đảy mạnh quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa đến nâng cao khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm hàng hoá Việt Nam và sức mạnh kinh tế của đất nước trên thị trường thế giới. 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm được tạo ra trong toàn bộ chu kỳ của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, bắt đầu từ khâu thiết kế sản phẩm tới các khâu tổ chức mua sắm nguyên vật liệu triển khai quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm chịu tác động của rất nhiều các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài và những nhân tố bên trong của doanh nghiệp. Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ ràng buộc với nhau, tạo ra tác động tổng hợp đến chất lượng sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra 1.5.1. Những nhân tố môi trường bên ngoài 1.5.1.1. Tình hình phát triển kinh tế thế giới Xu hướng toàn cầu hoá với sự tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới của mọi quốc gia- đẩy mạnh tự do thương mại quốc tế; Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học- công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin đã thay đổi nhiều cách tư duy cũ và đòi hỏi các doanh nghiệp phải có khả năng thích ứng; Cạnh tranh gay gắt cùng với sự bão hoà của thị trường. Vai trò của các lợi thế về năng suất chất lượng đang trở thành hàng đầu. 1.5.1.2. Tình hình thị trường Đây là nhân tố quan trọng nhất, là xuất phát điểm, tạo lực hút định hướng cho sự phát triển chất lượng sản phẩm. Sản phẩm chỉ có thể tồn tại khi nó đáp ứng được những mong đợi của khách hàng. Xu hướng phát triển và hoàn thiện chất lượng sản phẩm phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu trên thị trường. Nhu cầu càng phong phú đa dạng và thay đổi nhanh càng cần hoàn thiện chất lượng để thích ứng kịp thời đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. 1.5.1.3. Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ Tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra khả năng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Tác động của tiến bộ khoa học công nghệ là không giới hạn, nhờ đó mà sản phẩm sản xuất ra luôn có các thuộc tính chất lượng với những chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật ngày càng hoàn thiện, mức thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng ngày càng tốt hơn. 1.5.1.4. Cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia Cơ chế quản lý kinh tế tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nghiên cứu nhu cầu, thiết kế sản phẩm. Nó cũng tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua cơ chế khuyến khích cạnh tranh, bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tính tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng. Mặt khác cơ chế quản lý kinh tế còn là môi trường lành mạnh, công bằng, đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp sản xuất đầu tư, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo chất lượng sản phẩm. 1.5.1.5. Các yêu cầu về văn hoá, xã hội Những yêu cầu về văn hoá, đạo đức, xã hội và tập tục truyền thống, thói quen tiêu dùng có ảnh hưởng trực tiếp tới các thuộc tính chất lượng của sản phẩm, đồng thời có ảnh hưởng gián tiếp thông qua các quy định bắt buộc mỗi sản phẩm phải thoả mãn những đòi hỏi phù hợp với truyền thống, văn hoá, đạo đức, xã hội của cộng đồng xã hội. Những đặc tính chất lượng sản phẩm chỉ thoả mãn toàn bộ những nhu cầu các nhân nếu nó không ảnh hưởng tới lợi ích của xã hội. 1.5.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 1.5.2.1. Lực lượng lao động trong doanh nghiệp Chất lượng không chỉ thoả mãn nhu cầu khách hàng bên ngoài mà còn phải thoả mãn nhu cầu khách hàng bên trong doanh nghiệp. Con người là nhân tố trực tiếp tạo ra và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Cùng với công nghệ con người giúp doanh nghiệp đạt chất lượng cao trên cơ sở giảm chi phí. Chất lượng phụ thuộc lớn vào trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm và tinh thần hiệp tác phối hợp giữa mọi thành viên và bộ phận trong doanh nghiệp. Năng lực và tinh thần của đội ngũ lao động, những giá trị chính sách nhân sự đặt ra trong mỗi doanh nghiệp có tác động sâu sắc toàn diện đến hình thành chất lượng sản phẩm tạo ra. 1.5.2.2. Khả năng về máy móc thiết bị, công nghệ hiện có của doanh nghiệp Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động trong những điều kiện xác định về công nghệ. Trình độ hiện đại về máy móc thiết bị và quy trình công nghệ của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt những doanh nghiệp tự động hoá cao, có dây chuyền sản xuất hàng loạt. Cơ cấu công nghệ, thiết bị của doanh nghiệp và khả năng bố trí phối hợp máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất ảnh hưởng lớn đến chất lượng các hoạt động, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. 1.5.2.3. Nguyên vật liệu và hệ thống cung ứng nguyên vật liệu của doanh nghiệp Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố đầu vào cấu thành sản phẩm và hình thành các thuộc tính chất lượng. Đặc điểm và chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.Mỗi loại nguyên vật liệu khác nhau sẽ hình thành những đặc tính chất lượng khác nhau. Tính đồng nhất và tiêu chuẩn hoá của nguyên liệu là cơ sở quan trọng cho ổn định chất lượng sản phẩm. 1.5.2.4. Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp Chất lượng của hoạt động quản lý phản ánh chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.Sự phối hợp, khai thác hợp lý giữa các nguồn lực hiện có để tạo ra sản phẩm lại phụ thuộc vào nhận thức, sự hiểu biết về chất lượng và quản lý chất lượng, trình độ xây dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, chính sách mục tiêu kê hoạch chất lượng của các bộ phận quản lý doanh nghiệp. 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM DỆT MAY CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM LÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 2.1. Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam 2.1.1. Đánh giá khái quát thực trạng chất lượng sản phẩm 2.1.1.1. Vài nét khái quát về Tập đoàn Dệt May Việt Nam Tên công ty : Tập đoàn Dệt-May Việt Nam Tên công ty viết tắt : Vinatex Điện thoại : 84-04-8257700 Fax : 84-04-8262269 Email : vinatexhn@vinatex.com.vn Website : www.vinatex.com.vn Địa chỉ : 25 Bà Triệu, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam Tỉnh/Thành phố : Hà Nội Ngành nghề : DệtMay-ThờiTrang » Dệt may-Thời trang Loại hình thương mại: - Công nghiệp dệt may: sản xuất kinh doanh từ nguyên liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may; sản xuất kinh doanh hàng dệt may gồm các chủng loại xơ, sợi, vải, hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn bông, len, thảm, đay tơ, tơ tằm. - Xuất nhập khẩu - Dịch vụ - Kinh doanh thương mại - Kinh doanh siêu thị các sản phẩm dệt may và các sản phẩm tiêu dùng khác - Kinh doanh tài chính: hoạt động trung gian tài chính, đầu tư tài chính, dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm,... - Đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp và đô thị - Các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật. Thông tin công ty : Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam (Vinatex ) được thành lập là một khối liên kết giữa các xí nghiệp trung ương của Nhà Nước trong lĩnh vực dệt may . Vinatex đóng nhiều vai trò khác nhau như : sảnxuất , xuất nhập khẩu và là một mạng lưới tiêu thụ bán buôn hay bán lẻ hàng dệt Nhiệm vụ chính - Ðầu tư, sản xuất, cung cấp, phân phối, nhập khẩu xuất khẩu trên lĩnh vực dệt may. Thành lập liên doanh và hợp đồng thương mại với các công ty trong và ngoài nước; - Phát triển và mở rộng thị trường trong và ngoài nước cũng như phân công các công ty thành viên thâm nhập các thị trường tiềm năng; -Nghiên cứu, chỉ đạo và áp dụng công nghệ phát triễn mới nhất, cải tiến thiết bị theo chiến lược phát triển; - Ðào tạo và mở các lớp chuyên sâu cho cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật cũng như đào tạo tay nghề cho công nhân. 2.1.1.2. Các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may Việt Nam theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 - Yêu cầu về sử dụng: phù hợp với mục đích và thời hạn sử dụng cả về hao mòn vật lý và hao mòn vô hình. Để thoả mãn yêu cầu này cần phải lựa chọn nguyên vật liệu may các vật liệu lót, đệm, chỉ, phụ liệu cho phù hợp. - Yêu cầu về vệ sinh: đòi hỏi các sp phải đảm bảo được sự hoạt động bình thường của cơ thể trong quá trình sử dụng, quần áo phải có khả năng bảo vệ được cơ thể, chống lại được các tác động của môi trường. Đồng thời không được gây độc hại cho cơ thể do những hoá chất được sử dụng trong quá trình giặt, tẩy… - Yêu cầu đối với gia công: yêu cầu về kích cỡ, đường may, mũi chỉ… - Yêu cầu về chỉnh lý: các chế độ giặt, ủi, hoàn chỉnh, bao gói, nhãn hiệu, bảo quản. - Yêu cầu về thẩm mỹ: mức độ phong phú về kiểu dáng, màu sắc, tính thời trang, độc đáo của sản phẩm, kỹ năng sáng tạo của các nhà thiết kế mốt thời trang. - Yêu cầu về tính kinh tế của sản phẩm: các loại chi phí cần thiết, giá thành sản phẩm, khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường. - Yêu cầu về dịch vụ: hoạt động giới thiệu sản phẩm, trình diễn sản phẩm mới, hướng dẫn thị hiếu tiêu dùng, các dịch vụ bán và sau bán hàng. - Yêu cầu về cơ lý hoá đối với nguyên phụ liệu (NPL): để đảm bảo chất lượng sản phẩm, việc kiểm soát chất lượng NPL là khâu quan trọng và phải đặt ngay từ khâu đặt hàng, khi giao nhận, bảo quản. Các chỉ tiêu chính cần kiểm tra là những chỉ tiêu về độ bền, bền màu, chỉ số sợi các vật liệu dùng làm bao bì sản phẩm, thành phần các loại thuốc nhuộm, chất tẩy…được sử dụng trong suốt chu kì sống và sau khi thải bỏ sản phẩm. 2.1.1.3. Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam Nhu cầu về sản phẩm Dệt may ngày càng tăng lên theo mức độ tăng thu nhập của người dân. Khi thu nhập đủ cao để đáp ứng mọi nhu cầu thiết yếu của con người thì hàng Dệt may không chỉ đơn thuần để đáp ứng nhu cầu mặc, mà còn để đáp ứng nhu cầu về thời trang, nhu cầu được mặc đẹp của mọi người. Như vậy, khi đời sống của cư dân ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm dệt may càng nhiều, đặc biệt là sản phẩm có chất lượng cao. Điều đó đòi hỏi ngành Dệt may phải không ngừng đổi mới, đồng thời thúc đẩy ngành phát triển không ngừng. Chất lượng là tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều thành phần, nhiều bộ phận hợp thành, chất lượng được hình thành trong tất cả các công đoạn của quá trình. Vì vậy, nó cần phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ giữa quá trình trước, trong và sau sản xuất. Bán thành phẩm ở phân xưởng cắt là công đoạn đầu tiên trong toàn bộ chu trình may, chất lượng của nó đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng tới tiến độ, chất lượng của các công đoạn sau này. Vì vậy, tại phân xưởng cắt phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng thành phẩm tại phân xưởng may. Quy trình này hằng năm đều được đánh giá lại. Nhờ đó mà chất lượng của bán thành phẩm của phân xưởng cắt nói riêng và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung có những thay đổi đáng kể. Những sai hỏng bao gồm ở các chi tiết, các lỗi sai chủ yếu như cắt sai, lấm vải, phai màu, rơi vãi chi tiết,…Sản phẩm sai hỏng đem sửa chữa được chiếm tỷ lệ lớn, phế phẩm vẫn tồn tại nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng số bán thành phẩm sản xuất ra trong năm. Bảng số 1: Tình hình chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt Đơn vị: nghìn sản phẩm Năm Sửa chữa được Phế phẩm Tỷ lệ phế phẩm/Tổng số sản phẩm sản xuất ra (%) 2005 775 40 0.12 2006 570 26 0.08 2007 436 11 0.03 2008 402 10 0.022 2009 386 5 0.012 (Nguồn: ??????????????????????????????????????? Phân xưởng may là nơi sản xuất chính của công ty. Tại đây sản phẩm hoàn chỉnh sẽ được tạo ra. Mỗi sản phẩm tạo ra là kết quả của nhiều công đoạn, chất lượng của công đoạn trước ảnh hưởng tới chất lượng của công đoạn sau, người công nhân làm không đúng yêu cầu kỹ thuật thì buộc phải tháo ra làm lại cho đến khi đúng mới được chuyển sang công đoạn tiếp theo để tránh xảy ra tình trạng lọt sản phẩm lỗi, sai hỏng tới tay khách hàng. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ tái chế đã giảm đáng kể qua các năm. Tỉ lệ phế phẩm trên tổng số sản phẩm sản xuất ra năm 2005 là 0.12% thì đến năm 2009 tỷ lệ này chỉ còn 0.012%, phế phẩm cũng giảm đáng kể với năm 2008 là 10 thì đến năm 2009 tỉ lệ này chỉ còn một nửa là 5 phế phẩm. Điều đó cho thấy chất lượng thành phẩm tại phân xưởng may đã có những bước tiến lớn trong quản lý, trình độ công nhân và có sự đầu tư máy móc có hiệu quả, đặc biệt là nhận thức về chất lượng. Tình hình chất lượng thành phẩm ở phân xưởng may Năm Tỷ lệ tái chế nội bộ (%) 2005 5.4 2006 4.9 2007 4.2 2008 3.8 2009 3.1 (Nguồn:?????????????????????????????????? Chất lượng thành phẩm ở phân xưởng may còn được đánh giá thông qua ý kiến phản hồi của khách hàng như yêu cầu sửa chữa lại. Trong các năm qua thì tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại đã giảm đáng kể (giảm gần 2 lần từ năm 2005 là 5.4% đến năm 2009 là 3.1%) làm tăng uy tín của các doanh nghiệp, thể hiện ngày càng có nhiều đơn hàng được ký kết và có nhiều khách hàng mới. Hàng dệt may Việt Nam khá đa dạng, phong phú từ sản phẩm dành cho quý ông như sơ mi, áo thun, quần âu, quần kaki, quần jeans… đến các nhóm hàng của quý cô, quý bà: hàng công sở, đồ mặc nhà… và nhất là nhóm của trẻ em từ tuổi teen đến sơ sinh… tạo nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Một số doanh nghiệp hàng đầu ngành dệt may như Việt Tiến, may 19, Nhà Bè, Phương Đông, Dệt may Hà Nội, May 10, Phong Phú, Sài Gòn 2, Sanding, Legafashion... đều đang tập trung mạnh mẽ cho công tác thiết kế mẫu, với việc mỗi doanh nghiệp thu hút hàng chục nhà thiết kế mẫu vào làm việc với những điều kiện khá ưu đãi. Nhờ đó chất lượng sản phẩm trong từng doanh nghiệp liên tục được nâng cao hơn và cụ thể như: Kết quả về chất lượng sản phẩm công ty cổ phần may 19 Thực trạng chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt Công đoạn cắt đóng vai trò quyết định tiến độ, chất lượng sản phẩm ở các công đoạn tiếp theo. Ở phân xưởng này có các sai hỏng thường gặp như cắt sai, lầm vải, phai màu….. Qua bảng số liệu dưới ta thấy: chất lượng bán thành phẩm ở khâu cắt ngày càng được nâng cao thể hiện qua các năm số lượng bán thành phẩm sai hỏng giảm rõ rệt. Trong đó sản phẩm hỏng sửa chữa được chiếm tỷ lệ lớn, phế phẩm vẫn tồn tại nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Năm 2005 có 11387 bán thành phẩm sai hỏng trong đó 10267 chi tiết sửa chữa được và 1120 phế phẩm (chiếm 0.1% trên tổng số bán thành phẩm sản xuất ra trong năm). Đến năm 2007 có 3769 sản phẩm hỏng nhưng chỉ có 82 phế phẩm chiếm 0.003% tổng số bán thành phẩm sản xuất ra trong năm. Dưới đây là bảng số liệu về tình hình chất lượng sản phẩm ở xí nghiệp cắt trong một vài năm gần đây: (nguồn xí nghiệp cắt) Năm Chỉ tiêu S/P hỏng S/P hỏng sửa được phế phẩm tỷ lệ phế phẩm/ tổng số bán thành phẩm sản xuất ra 2005 11387 10267 1120 0.1 2006 9628 8631 997 0.05 2007 6213 5824 389 0.025 2008 4862 4679 183 0.008 2009 3769 3687 82 0.003 %2005/2005 84.55 84.07 89.02 - %2006/2006 64.53 67.48 39.02 - %2008/2007 78.26 80.34 47.04 - %2009/2008 77.52 78.8 44.81 - Như vậy, nhờ áp dụng hệ thống quản trị chất lượng, công tác kiểm tra thường được tiến hành một cách thường xuyên và ngay từ những công đoạn đầu cho nên chất lượng bán thành phẩm tăng lên rõ rệtgóp phần tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, giảm chi phí phế phẩm. Bên cạnh đó vẫn tồn tại bán thành phẩm không đạt yêu cầu được chuyển đến xí nghiệp maylàm mất thời gian và chi phí không đáng có để xử lý. Vì vậy công tác kiểm tra chất lượng và tự kiểm tra chất lượng cần được nâng cao hơn nữa. Thực trạng chất lượng sản phẩm ở xí nghiệp may Xí nghiệp may là nơi sản xuất chính của công ty, tại đây sản phẩm hoàn chỉnh sẽ được tạo ra và mỗi sản phẩm là kết quả của nhiều công đoạn, chất lượng của công đoạn trước sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của công đoạn sau, người công nhân làm đúng yêu cầu kĩ thuật thì buộc phải làm lại cho đến khi đúng thì mới chuyển sang công đoạn kế tiếp tránh tình trạng lọt sản phẩm lỗi, sai hỏng tới tay khách hàng Chất lượng sản phẩm còn được phản ánh thông qua ý kiến phản hồi của khách hàng như yêu cầu sửa chữa lại, sản phẩm bị trả lại. Sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại năm tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại 2005 0.25 2006 0.2 2007 0.15 2008 0.1 2009 0.05 (nguồn phòng kinh doanh) Theo bảng trên ta thấy, những năm qua tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại liên tục giảm, năm 2009 giảm 5 lần so với năm 2005 . Điều này đã làm tăng uy tín của công ty, ngày càng có nhiều đơn đặt hàng được ký kết và có nhiều khách hàng mới tìm đến với công ty Kết quả chất lượng sản phẩm ở công ty cổ phần may 10 Bảng số 1: Tình hình chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt Đơn vị: nghìn sản phẩm Năm Sửa chữa được Phế phẩm Tỷ lệ phế phẩm/Tổng số sản phẩm sản xuất ra (%) 2005 800 64 0.08 2006 590 36 0.06 2007 433 22 0.05 2008 374 7 0.018 2009 369 5 0.013 Nguồn :???????????????????????????????????????????? Ban đầu, sản phẩm của May 10 chỉ là những sản phẩm quân trang, phục vụ cho quân đội với lĩnh vực sản xuất là chủ yếu. Hiện nay, nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp đều được chú trọng phát triển đồng đều. Sản phẩm chính của May 10 đó là quần áo may mặc thông dụng như sơ mi, jacket, quần âu, quần soóc, quần áo trẻ em… Sản phẩm của May 10 ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại và kiểu dáng, các sản phẩm đều được chú trọng phát triển Từ bảng số liệu trên cho ta thấy tỉ lệ số phế phẩm của công ty đã giảm dần trong những năm gần đây. Cụ thể như năm 2005 tỉ lệ phế phẩm chỉ là 0.08 % nhưng đến năm 2008 tỉ lệ này giảm xuống còn 0.018 % và đến năm 2009 tỉ lệ này chỉ còn 0.013%. Ngoài ra chất lượng sản phẩm còn được phản ánh thông qua ý kiến phản hồi của khách hàng như yêu cầu sửa chữa lại, sản phẩm bị trả lại. Sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại năm tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại(%) 2005 0.3 2006 0.2 2007 0.1 2008 0.15 2009 0.07 (nguồn phòng kinh doanh) Theo bảng trên ta thấy, những năm qua tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại liên tục giảm, năm 2009 giảm hai lần so với năm 2008 từ 0.15 % còn 0,17 %. Chất lượng sản phẩm của công ty ngày một tăng do công ty đã chú trọng vào đầu tư hàm lượng chất xám trong sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu được đảm bảo do kiểm soát đầu vào tốt. Đối với mặt hàng xuất khẩu theo đơn đặt hàng, công ty hầu như không có hàng phế phẩm bởi vì khi có trục trặc về nguyên phụ liệu như lỗi vải, phụ liệu không đồng bộ…thì công ty đều báo với khách hàng để tìm cách thay thế, sửa chữa. Sản phẩm của công ty mà đặc biệt là các áo sơ mi nam mang thương hiệu cao cấp của mình. Thương hiệu sản phẩm của May 10 đã thành danh với đẳng cấp cao đã được khẳng định trên thị trường thế giới và chiếm thị phần ở trong cũng như ngoài nước. Chất lượng sản phẩm của công ty ngày một tăng do đã chú trọng vào đầu tư hàm lượng chất xám trong sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu được đảm bảo do kiểm soát đầu vào tốt. Đối với mặt hàng xuất khẩu theo đơn đặt hàng, công ty hầu như không có hàng phế phẩm bởi vì khi có trục trặc về nguyên phụ liệu như lỗi vải, phụ liệu không đồng bộ…thì công ty đều báo với khách hàng để tìm cách thay thế, sửa chữa. Thương hiệu sản phẩm của May 10 đã thành danh với đẳng cấp cao đã được khẳng định trên thị trường thế giới và chiếm thị phần ở trong cũng như ngoài nước. Để chất lượng sản phẩm may mặc được nâng cao, kiểu dáng đa dạng và phong phú các doanh nghiệp thuộc Tập Đoàn Dệt May Việt Nam Hiệp cũng khuyến cáo các nhà sản xuất cần tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng, thích mặc gì, loại vải nào, màu sắc ra sao để từ đó có định hướng đầu tư và phát triển cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Nhưng trên thực tế, Việt Nam luôn đi sau các nước trong khu vực, các nhà quản lý chưa mạnh dạn xúc tiến thị trường trong nước. Trong các cuộc thi collection, nhiều nhà thiết kế đã thành danh, độc lập phát triển bán hàng trong nước, nhưng số này không nhiều. Đội ngũ thiết kế còn mang nặng "tính sân khấu", chưa gắn kết với đời sống xã hội. Chu kỳ sống của sản phẩm dệt, may là rất ngắn, do vậy nhà thiết kế cần năng động, thường xuyên thay đổi mẫu mã sản phẩm để được xã hội chấp nhận. 2.1.2. Các giải pháp các doanh nghiệp Tập đoàn dệt may Việt Nam đã áp dụng để nâng cao chất lượng sản phẩm 2.1.2.1. Các giải pháp đã áp dụng để nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may Hoạt động nghiên cứu thị trường Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào từng loại thị trường cụ thể, nó có thể được đánh giá cao ở thị trường này nhưng không được đánh giá cao ở thị trường khác hoặc phù hợp với đối tượng khách hàng này nhưng không phù hợp với đối tượng khách hàng khác. Vì vậy mà công tác nghiên cứu thị trường là vô cùng quan trọng, công tác nghiên cứu thị trường khoa học và được tổ chức chặt chẽ sẽ đem lại những nguồn thông tin phong phú và phản ánh đúng nhu cầu của khách hàng, thị trường về sản phẩm của các doanh nghiệp, cung cấp đầu vào cho công tác thiết kế. Các doanh nghiệp Tập đoàn dệt may Việt Nam luôn chú trọng quan tâm, đầu tư đến công tác nghiên cứu thị trường: - Cử cán bộ phòng kinh doanh tham gia điều tra tình hình biến động nhu cầu và giá cả các loại sản phẩm may mặc trên thị trường thông qua việc điều tra từ phía khách hàng truyền thống và phỏng vấn trực tiếp. - Sử dụng cửa hàng dịch vụ để giới thiệu sản phẩm, điều tra nghiên cứu thị trường. - Thông qua hội chợ quốc tế để điều tra thông tin về thị trường. Hàng năm, các doanh nghiệp Tập đoàn dệt may Việt Nam vẫn tiến hành tuyển thêm kỹ sư thiết kế mẫu, nhân viên Marketing, cử nhân kinh tế có trình độ và kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường nhằm nắm bắt chính xác nhu cầu và đáp ứng một cách nhanh nhất. Hoạt động cung ứng nguyên vật liệu đầu vào Đặc điểm và chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Mỗi loại nguyên vật liệu khác nhau sẽ hình thành những đặc tính khác nhau. Tính đồng nhất và tiêu chuẩn hoá của nguyên vật liệu là cơ sở quan trọng cho ổn định chất lượng sản phẩm. Hàng năm, các doanh nghiệp Tập đoàn dệt may Việt Nam nhập với số lượng lớn nguyên vật liệu, đa dạng về chủng loại như vải chính, vải lót, cúc, chỉ…từ nhiều nguồn khác nhau cả trong và ngoài nước. Dù xuất phát từ nguồn nào, các doanh nghiệp cũng đều đánh giá lựa chọn nhà cung cấp nguyên vật liệu trên các phương diện: - Bảo đảm chất lượng - Giá cả hợp lý - Thời gian giao hàng - Ưu tiên nhà cung cấp lâu năm với số lượng lớn Hoạt động sản xuất Trong những năm trở lại đây, do môi trường cạnh tranh quyết liệt, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, tốc độ thay đổi công nghệ nhanh chóng làm cho công nghệ đang sử dụng trở nên lỗi thời, lạc hậu. Công nghệ thiết bị mới ứng dụng trong sản xuất giúp nâng cao các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật của sản phẩm, làm xuất hiện các nguồn nguyên liệu mới tốt hơn, rẻ hơn. Trước những khó khăn, thách thức mới, các doanh nghiệp Tập đoàn dệt may Việt Nam đã luôn tìm cách khắc phục sử dụng có hiệu quả máy móc, thiết bị hiện có và đầu tư thêm một số máy móc quan trọng phục vụ sản xuất. Cùng với quá trình đổi mới công nghệ, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện đổi mới quản lý, sắp xếp lại dây chuyền sản xuất cho thích hợp, tổ chức các lớp huấn luyện nâng cao tay nghề và kỹ thuật vận hành thao tác xử lý công việc theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000 và SA 8000. Hoạt động trong và sau bán hàng Trong cơ chế thị trường, môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt, bán hàng là hoạt động không thể thiếu trong bất kỳ doanh nghiệp nào vì nhờ nó hàng hoá được đưa tới tay người tiêu dùng, đem lại và tăng doanh thu cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam đã luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ, đặc biệt là hoạt động dịch vụ sau bán hàng đã có những thay đổi lớn và được khách hàng đánh giá rất cao như giải quyết thắc mắc của khách hàng nhanh chóng hơn và thuận tiện hơn… 2.1.2.2. Ưu, nhược điểm của các giải pháp nâng cao chất sản phẩm dệt may Ưu điểm: - Thông qua các hoạt động nghiên cứu thị trường mà các doanh nghiệp đã nắm bắt được những thông tin phản hồi từ khách hàng về các loại sản phẩm cũng như chất lượng, mẫu mã, giá cả, xác định chính xác nhu cầu của khách hàng và đáp ứng một cách nhanh nhất. Nhờ có thông tin luôn được cập nhật thường xuyên đến toàn thể công nhân viên trong công ty tạo sự thống nhất trong cách thực hiện nên sai sót xảy ra không đáng kể làm chất lượng sản phẩm ngày càng được đảm bảo và ổn định - Từ việc thực hiện tốt trong mối quan hệ tốt với nhà cung ứng, chú ý đến chất lượng sản phẩm ngay từ nguyên vật liệu đầu vào, không những đảm bảo được chất lượng, mà còn tiết kiệm được thời gian và chi phí cho hệ thống chất lượng, đảm bảo hoạt động sản xuất và chất lượng đầu ra. - Cùng với công nghệ, công nhân trong các doanh nghiệp Tập đoàn dệt may Việt Nam ngày càng được nâng cao trình độ tay nghề, sự hiểu biết về quản lý chất lượng giúp cho các doanh nghiệp đạt chất lượng cao trên cơ sở giảm chi phí. - Các hoạt động trong và sau bán hàng đảm bảo thoả mãn khách hàng một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất, nhờ đó tăng uy tín, danh tiếng, duy trì và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp. Nhược điểm: - Công tác nghiên cứu thị trường còn chưa thực hiện một cách triệt để, đồng bộ, hầu như mang tính thăm dò thị trường nên cơ cấu mặt hàng đơn giản kiểu cách mẫu mã, bao bì đơn điệu, chưa đáp ứng được sự thay đổi nhu cầu thường xuyên của thị trường quốc tế. - Công tác đánh giá lựa chọn nhà cung cấp chưa tối ưu, chi phí cao, hiệu quả kinh doanh thấp. Phần lớn nguyên phụ liệu đầu vào phải nhập khẩu, tỷ lệ nội địa hoá thấp giá nhập khẩu và chi phí vận chuyển cao. - Các doanh nghiệp còn mang nặng tính kiểm tra sản phẩm cuối cùng, gây hao phí sức lao động, vật tư và không kiểm tra hết được sản phẩm sai hỏng. Tình trạng máy móc còn thiếu đồng bộ trong dây truyền công nghệ bởi những khó khăn chung của nền kinh tế Việt Nam. - Nhiều thắc mắc của khách hàng về lỗi sản phẩm chưa được giải quyết hoặc giải quyết rất chậm làm mất khách hàng, đặc biệt khách hàng là cá nhân, tổ chức đặt hàng với số lượng nhỏ thì việc trả hàng chậm và giải quyết thắc mắc ít được quan tâm. 2.1.3. Đánh giá chất lượng sản phẩm dệt may 2.1.3.1. Những thành tựu đạt được - Sản phẩm luôn giúp cơ thể thoải mái trong quá trình sử dụng, bảo vệ được cơ thể chống lại được tác động của môi trường. Trong quá trình sử dụng hóa chất như nhuộm, giặt, là…Được các doanh nghiệp trong tập đoàn kiểm soát rất chặt chẽ, đem lại độ an toàn, không gây độc hại cho người mặc. - Không những thế các sản phẩm còn ngày càng phong phú với các kiểu dáng, mẫu mã đa dạng thay đổi theo từng mùa, từng công việc đáp ứng tính thẩm mỹ của người tiêu dùng như quần áo cho mùa đông, mùa hè hay đồng phục công sở… - Trong những năm qua, bằng sự nỗ lực chung của tất cả các cán bộ công nhân viên trong toàn các doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm của Tập đoàn dệt may Việt Nam ngày càng được khẳng định ở cả trong và ngoài nước, sản phẩm của các doanh nghiệp ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng bằng chất lượng cao. Đã có nhiều doanh nghiệp của Tập đoàn dệt may Việt Nam được nhận chứng chỉ ISO ISO 9001:2000, ISO 14000 và SA 8000…như Công ty May Việt Tiến, Công ty Dệt Phong Phú, Công ty May 10, Công ty cổ phần Dệt 10/10, Công ty cổ phần Kinh doanh Len Sài Gòn, Công ty cổ phần May Sài Gòn 3, Công ty liên doanh Coats Phong Phú, Công ty Scavi Việt Nam, Công ty TNHH Sợi Tainan (Vietnam), Công ty May Nhà Bè, Công ty May Hưng Yên, Công ty cổ phần May xuất khẩu Phan Thiết, Công ty Dệt may Thành Công, Công ty Dệt may Hà Nội, Công ty TNHH May thêu thời trang Sơn Kim, Công ty May Phương Đông, DNTN Dệt nhuộm vải Phước Thịnh, Công ty TNHH Han-Soll Vina. - Sản phẩm của Tập đoàn dệt may Việt Nam được khách hàng đánh giá rất cao thông qua các hội chợ triển lãm hàng công nghiệp Việt Nam chất lượng cao. - Chi phí cho chất lượng (chi phí sai hỏng, chi phí khắc phục phòng ngừa, chi phí đánh giá) giảm đáng kể 2.1.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế: - Tỷ lệ sai hỏng sản phẩm có giảm nhưng vẫn còn cao so với nhiều đối thủ cạnh tranh. - Mẫu mã sản phẩm còn đơn điệu, ít thay đổi, chưa thật sự phong phú và đa dạng, - Chi phí cho sản phẩm hỏng như vật tư, thời gian… còn cao.. - Khách hàng phàn nàn về chất lượng sản phẩm do lọt sản phẩm lỗi - Khả năng phát hiện và kiểm soát sản phẩm không phù hợp trong công ty chưa thật sự nhanh nhạy và kịp thời Hoạt động kiểm tra mới chỉ là kiểm tra trực tiếp chất lượng sản phẩm còn kiểm tra các hoạt động văn phòng chưa được thực hiện thường xuyên. Nguyên nhân: - Thị trường đầu vào ở nước ta kém phát triển như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường nguyên vật liệu, thị trường thông tin. Các doanh nghiệp thiếu vốn do chính sách vay vốn còn nhiều phức tạp và thiếu công bằng. - Công tác đảm bảo chất lượng và nâng cao chất lượng chưa được nhận thức một cách đúng đắn trong đông đảo đội ngũ lao động dẫn đến việc thực thi quy trình công nghệ và kỹ thuật công nghệ ở một số bộ phận lao động chưa cao. Nhận thức về chất lượng trong các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, vẫn còn bộ phận không nhỏ cả cán bộ và công nhân vẫn chưa có nhận thức nhất quán về chất lượng. Chạy theo số lượng, ít quan tâm tới chất lượng là hành vi phổ biến của công nhân trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vì họ được trả theo sản phẩm sản xuất ra nhưng họ chưa hiểu được rằng nâng cao chất lượng sẽ làm tăng năng suất, tăng thu nhập cho chính họ. - Về công nghệ: Máy móc thiết bị lạc hậu, nhiều máy đã hết hạn tính khấu hao nhưng vẫn được đưa vào sử dụng gây thiếu tính đồng bộ dẫn đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra chưa cao, một số bộ phận vẫn chưa sử dụng hết máy móc thiết bị - Công tác đào tạo chưa thường xuyên, liên tục dẫn đến chất lượng của dội ngũ công nhân không đồng đều. Hình thức đào tạo tại chỗ, cán bộ và công nhân có tay nghề chịu trách nhiệm hướng dẫn, kèm cặp, người học sẽ chịu rất nhiều phương pháp của người dạy, phương pháp mới hầu như chưa có. - Tuy đã kiểm tra nhưng cũng không tránh khỏi những sai sót chất lượng thiếu đồng bộ, điều kiện bảo quản nguyên phụ liệu chưa được chú ý nên còn hiện tượng mục vải, loang màu, đứt sợi gây thiệt hại cho sản xuất. - Hệ thống quản lý chất lượng trong toàn công ty là khá rộng lớn nên việc đảm bảo tính thống nhất giữa các bộ phận là khó khăn, việc trao đổi thông tin đôi khi còn hạn chế, thông tin giữa các phòng ban chưa thực sự có hiệu quả để kiểm tra nhau và làm việc quản lý theo quy trình đơn giản hơn - Công tác đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân chưa được thường xuyên, liên tục dẫn đến chất lượng của đội ngũ công nhân không đồng đều Công tác nghiên cứu thị trường: do công ty chưa có bộ phận chuyên trách riêng để làm chức năng này nên khả năng nắm bắt thông tin còn kém, chưa nắm bắt kịp thời những yêu cầu mới của thị trường trong và ngoài nước để xây dựng phương án kinh doanh phù hợp - Công ty chưa áp dụng công cụ thống kê vào trong quản trị chất lượng, công tác tính toán chi phí chất lượng chỉ mang tính ước lượng thường là không chính xác May10 - Đại bộ phận nguyên phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu đều phải nhập khẩu Nguyên nhân lớn nhất của công ty là cần vẫn chưa chủ động được nguyên phụ liệu sản xuất. Nguyên liệu chính cho ngành may là vải. Mà vải sản xuất ở trong nước thì không thể đáp ứng được yêu cầu của hàng may xuất khẩu về độ đồng đều trong màu sắc, độ co rút, sự đa dạng chủng loại, tính thời trang và sự thống nhất giữa các lô hàng. Vì thế hầu hết vải để sản xuất kinh doanh đều phải nhập khẩu từ nước ngoài với giá cao rất đắt do chi phí giao nhận, vận chuyển, nhiên liệu đặc biệt là giá năng lượng như điện, dầu lửa tăng cao đột biến làm giá thành tăng, sản phẩm kèm tính cạnh tranh về giá so với Trung Quốc do họ có một vùng nguyên liệu chuyên phục vụ cho ngành may vì thế có nhiều khả năng để giảm chi phí, hạ giá thành. Trong khi đó, nguồn nguyên liệu của nước ta không tập trung nên việc thu gom nguyên liệu của công ty tiến hành rải rác làm cho chất lượng nguồn hàng không ổn định. Nếu có sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước thì cũng chỉ để sản xuất hàng nội bộ. Bên cạnh đó, những mặt hàng tót thì giá cả lại chưa phù hợp, thường đắt hơn hàng ngoại nhập cùng loại. Không chỉ phải nhập khẩu vải mà cả những phụ liệu của ngành may như khoá, cúc, móc, nhãn mác…của công ty cũng đều phải nhập khẩu. Chính vì thực tế đó, phần nào làm cho công ty may theo phương thức gia công là chính mà chưa tự túc được nguyên liệu. - Bất cập trong phương thức gia công xuất khẩu Gia công xuất khẩu thực chất là phương thức làm thuê cho người đặt hàng. Trong phương thức này, các loại vải may, thậm chí cả các phụ liệu như cúc, chỉ khuy, nhãn mác, khoá, móc đều được nhập khẩu rồi tái xuất sau khi đã thành thành phẩm hoàn chỉnh. Hạch toán trên thành phẩm gia công xuất khẩu ta biết giá trị mới tăng thêm, gồm cả sức lao động của công nhân và hoạt động của bộ phận quản lý, chỉ chiếm khoảng 20% tổng sản phẩm. Các hợp đồng gia công đem lại lợi nhuận thấp chỉ bằng 1/3, thậm chí bằng ¼ so với sản phẩm cùng loại được sản xuất xuất khẩu trực tiếp (FOB). Điều này dẫn đến tình trạng kết quả kinh doanh thấp, lại phụ thuộc và chịu áp lực từ phía nước ngoài. Mà phương thức gia công xuất khẩu chiếm tỉ trọng lớn trong xuất khẩu hàng hoá của công ty nên thị trường xuất khẩu của công ty thực chất là của khách hàng đặt gia công - Hoạt động thiết kế sản phẩm còn chưa đáp ứng được yêu cầu Sản phẩm của công ty còn chưa phong phú. Mặc dù vừa mới năm 2005, công ty đã thành lập ban thiết kế thời trang nhưng do mới đi vào hoạt động nên tính chuyên nghiệp chưa cao, hoạt động chưa thực sự hiệu quả, só sản phẩm do công ty tự thiết kế còn nhiều hạn chế về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc…Việc không năm bắt thông thị trường, không hiểu rõ thị hiếu khách hàng của người tiêu dùng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc xuất khẩu theo hình thức xuất khẩu trực tiếp của công ty - Trình độ công nhân may còn nhiều hạn chế. Trình độ của công nhân may và điều kiện máy móc thiết bị cũng còn hạn chế, chủ yếu làm việc theo thói quen, do họ làm việc lâu năm nên dần dần sử dụng thành thạo máy móc. Tuy nhiên, công nhân của xí nghiệp chưa có khả năng phản xạ với các sự cố xảy ra trong quá trình sản xuất do họ chưa được đào tạo về chuyên môn kĩ thuật cũng như trình độ văn hoá tốt nên chưa phát huy được tính sáng tạo. 2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may tại các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam 2.2.1. Mục tiêu chất lượng sản phẩm trong những năm tới của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam Khi ra nhập WTO, các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam đã chủ động xây dựng cho mình những phương hướng và mục tiêu để tận dụng cơ hội này mở rộng thị trường. Để tận dụng cơ hội, vượt qua những thách thức, Tập đoàn dệt may Việt Nam đề ra các mục tiêu chất lượng cần thực hiện trong những năm tới như sau: - Quản lý chặt chẽ sản phẩm đầu ra. Hạn chế sản phẩm tái chế nội bộ dưới 5%, sản phẩm lỗi kỹ thuật đến tay khách hàng trả lại phấn đấu dưới 0,1% tổng sản phẩm xuất trả. Chú trọng khâu gấp, đóng gói sản phẩm, hình thức bao bì, bao gói đạt tính khoa học, tính thẩm mỹ. Đầu tư nâng cao chất lượng thiết kế, thiết kế mẫu để tạo ra những chủng loại đa dạng, mẫu mã phong phú đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. - Tổ chức huấn luyện đào tạo lại chuyên môn tay nghề cho cán bộ của Tổng công ty. Coi trọng huấn luyện công nhân mới, công nhân có tay nghề yếu. - Bổ sung kịp thời máy móc trang thiết bị theo yêu cầu sản xuất nhất là các máy móc chuyên dùng. Tiếp tục cải tiến điều kiện làm việc cho cán bộ công nhân trong Tổng công ty. - Duy trì và hoàn thiện hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000:2001. 2.2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may tại các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam - Đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ là quá trình lâu dài, tốn kém không thể tiến hành một cách ồ ạt, tràn lan, nhất là trong điều kiện khó khăn chung. Cán bộ kỹ thuật xem xét đánh giá toàn bộ máy móc thiết bị. Tiến hành thanh lý những máy móc thiết bị không còn phù hợp, không đảm bảo chất lượng mà vẫn đưa vào sử dụng, xác định khoanh vùng, bộ phận cần đầu tư. - Nâng cao chất lượng đào tạo quản lý, trình độ tay nghề công nhân. Các doanh nghiệp phải có quá trình đào tạo khoa học, cập nhật về kiến thức quản lý. Đội ngũ cán bộ quản lý có kiến thức về chất lượng hịên đại, năng động khả năng nắm bắt cơ hội, năng lực hoạch định chiến lược cả trong ngắn hạn và dàu hạn. Đội ngũ lao động trực tiếp có trình độ, năng lực vận hành máy móc thiết bị mới. - Thưởng phạt công bằng theo năng lực, trách nhiệm và quyền lợi của nhân viên. Cố gắng trả lương, trả thưởng, xây dựng các công trình văn hoá, thể thao, quan tâm thường xuyên tới đời sống vật chất , tinh thần của người lao động, môi trường này phải dảm bảo tính bình đẳng về quyền lợi, nghĩa ụ đánh giá chính xác kết quả đóng góp của người lao động. - Các khâu các bộ phận cần có sự hợp tác liên kết chặt chẽ, hiệu quả. Các vấn đề về chất lượng được đưa ra tập thể, phát huy quyền dân chủ trong doanh nghiệp trong các buổi giao ban hoặc các cuộc đại hội toàn Tổng công ty. Cần thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa phòng kỹ thuật và phòng kinh doanh, giữa bộ phận thiết kế và bộ phận Marketting. - Tăng cương kiểm soát quá trình sản xuất sản phẩm. Chú trọng phát hiện và kiểm soát chặt chẽ hơn nữa ở khâu sản xuất nhằm giảm tỷ lệ sai hỏng, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nguyên vật liệu, đảm bảo cho chất lượng đầu ra, giảm các chi phí không đáng có. KẾT LUẬN Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh của bất kỳ doanh nghiệp nằm ở bất cứ quốc gia nào. Nó quyết định đến sự sống còn của các doanh nghiệp. Trong cơ cấu của nền kinh tế nước ta dệt may được xác định là một ngành mũi nhọn. Hiện, sản phẩm dệt may Việt Nam đã xâm nhập hầu hết thị trường trên thế giới, trong đó có cả những thị trường khó tính như Mỹ, EU,… Với nhiều đặc tính nổi trội: mẫu mã đa dạng, kiểu dáng đẹp, chất lượng cao và giá thành thấp nên dệt may Việt Nam có tính cạnh tranh rất cao trên thị trường. Sau một năm gia nhập WTO ngành dệt may nước ta đã xây dựng được một thương hiệu mang tầm quốc tế. Đạt được thành quả đó, một phần rất lớn phụ thuộc vào chính nội lực của các công ty dệt may trong nước. Trên đây là một số nghiên cứu của em về “Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam”. Do trình độ va thời gian có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót trong bài viết. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của cô giáo cho bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Công Thắng. Dệt may: Còn nhiều rào cản cần tháo gỡ- Báo Lao Động- Số 268 Ngày 19/11/2008 - GS.TS Nguyễn Đình Phan. Giáo trình Quản lý Chất lượng trong các tổ chức- Nhà xuất bản Lao động-Xã hội. Hà Nội 2005. Trang 9->30 - Mỹ Hạnh. Dệt may Việt Nam: Khó thoát cảnh gia công- Báo Sài Gòn giải phóng- Thứ hai, 12/11/2007 - Ngọc Mai. Dệt may Việt Nam hướng về thời trang - Giải pháp để cạnh tranh-. Báo Người Lao Động Điện tử – Tiếng nói của Liên đoàn Lao động TPHCM. Thứ tư, 19-11-2008 - PGS.TS. Nguyễn Ngọc Huyền. Giáo trình Quản trị Kinh doanh- Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nội 2007. Trang 218, 219 - Sách: FEI Công ty cổ phần kinh tế đối ngoại- Dệt May Việt Nam Cơ hội và thách thức- Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia Hà Nội 2003. Trang 103 - Th.s Hồ Tuấn. Chất lượng tăng trưởng dệt may Việt Nam từ cách tiếp cận chuỗi giá trị- Tạp chí Công nghiệp-Tiếp thị. Thứ Hai, 15/09/2008 - VNEconomy. Dệt may Việt Nam giành ưu thế tại Mỹ- Báo điện tử Kinh tế & Đô thị. Ngày 24/11/2008 MôC LôC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26469.doc
Tài liệu liên quan