Vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường ở những nước khác nhau, hay nói cách khác là ở sự kết hợp thành công hay không giữa thị trường và sự can thiệp của Nhà nước ở mỗi nước riêng biệt với hoàn cảnh địa lý, kinh tế, xã hội, lịch sử, con người khác nhau là nguyên nhân đưa đến sự tăng trưởng và phát triển khác nhau ở mỗi quốc gia. Vai trò kiểm soát, can thiệp của Nhà nước có thể và có khả năng điều chỉnh, hạn chế những khuyết tật của hệ thống kinh tế thị trường, điều chỉnh và lái kinh tế thị trường theo khuynh hướng, định hướng nhất định, làm cho nó mang đặc trưng, màu sắc riêng biệt.
Các mô hình kinh tế dù thành công hoàn hảo đến mức nào cũng có mặt trái, những khuyết tật vốn có của nó (như nạn thất nghiệp, phân hoá xã hội, tệ nạn xã hội.). Trên thế giới ngày nay, về mặt lí thuyết cũng như trên thực tế, không có và không thể có mô hình kinh tế nào là thiên đường cho kinh tế thị trường.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người mua trực tiếp gặp nhau.
- Người bán và người mua qua trung gian.
Nhưng mọi thị trường đều thực hiện một chức năng kinh tế, chúng ấn định giá cả đảm bảo sao cho số lượng hàng của người muốn bán bằng số lượng hàng của người muốn mua. Không thể nghiên cứu giá cả tách rời số lượng, do đó giá cả chi phối xã hội trong viêc lựa chọn mua cái gì, mua như thế nào và mua cho ai.
1.2 Cơ chế kinh tế thị trường là gì?
Theo Paul Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Cái gì? Như thế nào? và cho ai? Cơ chế thị trường “Không phải là sự hỗn hợp mà là trật tự kinh tế”. “Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp trí thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nó vẫn giải được những bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi”.
1.3. Kinh tế thị trường là gì?
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường vận động có sự tham gia của nhiều yếu tố, khái quát chung nó biểu hiện trên bề mặt xã hội là cung và cầu nối với nhau bằng giá cả nhưng dưới chiều sâu của nó là qui luật giá trị.
2. Ưu khuyết điểm của nền kinh tế hiện đại.
Kinh tế thị trường hiện đại phát triển vào khoảng những năm 50 của thế kỷ XX với đặc trưng chủ yếu là Nhà nước có thể can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài trong khi các giai đoạn trước đó (khoảng cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20). Kinh tế thị trường tự do phát triển theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào kinh tế mà chỉ làm các chức năng truyền thống của Nhà nước pháp quyền như: Bảo vệ quyền sở hữu của các nhà kinh doanh (vai trò của người đứng gác trong kinh tế thị trường), bảo đảm an ninh chính trị, quốc phòng, an ninh, xử lý các tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật. Trong giai đoạn thị trường hiện đại, Nhà nước can thiệp sâu vào kinh tế, chủ yếu thông qua các chính sách tài chính-tiền tệ, kinh tế đối ngoại (thuế, lãi suất, điều tiết xuất nhập khẩu...). Và trên thế giới hiện nay không có Nhà nước nào không can thiệp vào kinh tế chỉ khác nhau ở biện pháp, mục tiêu và kết quả đạt được. Kinh tế thị trường hiện đại ở các nước đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường (bàn tay vô hình ) và bàn tay hữu hình của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế thị trường thể hiện trên một số mặt như sở hữu Nhà nước đối với một số ngành kinh tế quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế-xã hội; Nhà nước trực tiếp đầu tư vào các công tình công cộng kết cấu hạ tầng như cầu đường, bến cảng, hệ thống thoát nước...; có các qui định hoặc can thiệp về tiền lương, phúc lợi xã hội, thực hiện các chức năng kinh tế đối ngoại, giao lưu kinh tế với các nước, đề ra các chính sách kinh tế, các biện pháp đối với kinh tế như luật chống độc quyền, luật bảo vệ người tiêu dùng.
2.1 Ưu điểm.
Cơ chế thị trường có khả năng tự điều tiết nền sản xuất và xã hội tức là tự vận động phân bố các nguồn tài nguyên vào sản xuất và khu vực làm cho nền kinh tế năng động huy động được mọi tiềm năng của nền kinh tế và của cải xã hội.
Nhờ thị trường và tự do trao đổi nên có thể thoả mãn và đáp ứng mọi nhu cầu khác nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất. Do đó trong kinh tế thị trường, tỷ trọng của khu vực dịch vụ ngày càng gia tăng, phản ánh xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc trưng của thời kỳ hậu công nghiệp hoá, được đánh dấu bằng sự gia tăng của khu vực dịch vụ (khu vực III) trên cơ sở một nền tảng khoa học công nghệ mới thay thế cho xu hướng gia tăng của công nghiệp chế biến (khu vực II) của thời kỳ công nghiệp hoá trước đây.
Cơ chế thị trường tự động kích thích sự sản xuất, tăng trưởng kinh tế và chuyên môn hoá sản xuất về cả chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất, kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế tự do, thúc đẩy sử dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và phát triển kinh tế.
2.2 Khuyết điểm.
Bên cạnh những mặt mạnh phản ánh xu thế chuyển đổi tất yếu nền kinh tế chung của thế giới trong thời gian qua, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những khuyết tật, mặt trái của nó. Cụ thể là:
Do mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận nên họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, khai thác bừa bãi dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên. Họ chỉ chạy theo những hàng hoá thu được lợi nhuận cao dẫn tới mất ổn định và phá vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội.
Cơ chế thị trường có thể hoạt động không có hiệu quả kể cả trong cạnh tranh tự do lẫn trong cạnh tranh có sự chi phối của các tổ chức độc quyền do hiện tượng cạnh tranh không hoàn hảo.
Cơ chế thị trường do có sự chọn lọc tự nhiên gây ra mất cân bằng và nhiều vấn đề xã hội, gây ra sự phân hoá giữa nghèo, nạn thất nghiệp, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng.
Cơ chế thị trường có thể cho phép tổ chức xã hội đạt hiệu quả cao nhưng cũng có thể gây ra bất bình đẳng lớn vì không có lí do gì buộc cơ chế thị trường phải phân phối một cách hợp lý.
II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
1. Đặc điểm cơ chế thị trường ở nước ta.
Hiện nay có nhiều cách phân tích, lý giải, bình luận khác nhau khi nhìn vào sự vận động của nền kinh tế. ở đây trên cơ sở nhìn lại thực tiễn những năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có những đặc điểm sau đây.
Từng bước thực hiện quá trình mang tính qui luật của bước chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước, với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế đó là phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh làm cho hàng hoá lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp Nhà nước. Với cơ chế tài chính đặc biệt là cơ chế giá và tỷ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo bước ngoặt trong cơ chế kinh tế .
Cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn. Sản phẩm của một nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng và cơ bản là sản xuất nhỏ, sự yếu kém của bộ máy quản lý Nhà nước, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế.
Cụ thể là cơ chế thị trường chưa tạo được môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt những yếu kém trong thể chế tài chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi. Cơ chế thị trường thiếu đồng bộ, sự chuyển biến đã khá mạnh mẽ trên thị trường hàng hoá dịch vụ, trong khi đó lại lạc hậu trong thị trường nhân tố sản xuất. Tự do về sở hữu chưa đầy đủ do đó trên thị trường chưa thực hiện được tự do kinh doanh theo pháp luật đặc biệt đối với các doanh nghiệp Nhà nước khi mà quyền sở hữu và quyền sử dụng về vốn, tài sản, lao động chưa tách rời. Sự hình thành, vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế vận hành thô sơ, cơ chế quản lý đổi mới thiếu đồng bộ.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường, vừa tổng kết để tiếp tục hoàn thiện. Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội, không áp dụng các liệu pháp sốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, mà tiếp tục ổn định chính trị, đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới.
Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng XHCN là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về CNXH, khẳng định CNXH có thể sử dụng các công cụ phổ biến mà CNTB đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, qui luật giá trị cho mục tiêu của mình. Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành phát triển, còn nhiều yếu tố mất ổn định, từ chỗ nền kinh tế về thực chất đã từ lâu là nền kinh tế nhiều thành phần, nên đã không chủ trương tư nhân hoá tràn lan mà trái lại, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực lực và làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chất để ổn định và định hướng thị trường. Từ phân tích trên rút ra được rằng, để tiếp tục thực hiện phương châm ổn định để phát triển, Nhà nước ta phải đổi mới hơn nữa, nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện mới, đặc biệt thay đổi chất lượng, tác phong của bộ máy, chuyển từ tác phong chỉ huy, mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ, tạo môi trường và điều kiện cho thị trường phát triển, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng cửa quyền, tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước XHCN trong hoạt động của thị trường nước ta.
2. Những đặc trưng của kinh tế thị trường hướng tới.
Thể chế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt được trình độ xã hội hoá cao.
Giá tự do tức giá thị trường, tự do hoá thương mại (ban đầu ở trong nước, dần dần mở rộng ra thị trường ngoài nước) và cạnh tranh tạo mọi khả năng cho thị trường phát huy vai trò tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá.
Trong điều hành các hoạt động kinh tế (cơ chế quản lý) cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu trên sự hướng dẫn của các qui luật khách quan, đảm bảo nguyên tắc vận hành chủ yếu của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường. Tuy nhiên không xem các quan hệ thị trường hoạt động theo các qui luật khách quan một cách độc lập hoàn toàn, biệt lập với kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế của Nhà nước.
Mọi yếu tố sản xuất phải đi vào thị trường. Đây là đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường; đối cới nước ta đây còn là điều kiện cơ bản để nền kinh tế thị trường vận hành bình thường.
Đặc trưng xã hội cũng như vai trò xã hội to lớn của Nhà nước XHCN trở thành đặc trưng nổi bật của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN-mô hình kinh tế trong đó con người là nhân vật trung tâm.
Chương III : Mục tiêu và chức năng quản lý
kinh tế vĩ mô của Nhà nước
I. Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
1. Tất cả các Nhà nước trên thế giới đều có một mục tiêu là đảm bảo được sự lành mạnh của nền kinh tế-xã hội. Cụ thể là:
Mục tiêu sản lượng: Đạt được mức sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng, giữ vững tốc độ tăng trưởng sản lượng cao và vững chắc.
Mục tiêu việc làm: Tạo được việc làm tốt, hạ thấp tỉ thấp nghiệp (duy trì ở mức tự nhiên).
Mục tiêu ổn định giá cả: hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện tự do đặc biệt là trong hoàn cảnh hệ thống tài chính tiền tệ trên thế giới liên tục xảy ra khủng hoảng và bất ổn định.
Mục tiêu đối ngoại: ổn định tỷ giá hối đoái, cân bằng cán cân thanh toán. Mở rộng hợp tác trên phạm vi thế giới theo xu hướng quốc tế hoá sản xuất. Đây là mục tiêu mà các chính phủ hết sức quan tâm nhưng đồng thời rất thận trọng, một mặt mở rộng quan hệ thương mại quốc tế mặt khác vẫn giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền và độc lập, tránh phụ thuộc về kinh tế dẫn tới phụ thuộc về chính trị, đồng thời tạo vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế.
Phân phối công bằng: Đây được coi là mục tiêu quan trọng nhất trong các mục tiêu kinh tế bởi có giải quyết được nó mới có thể ổn định được xã hội. Phân phối công bằng sẽ tránh được sự phân biệt giàu nghèo, sự chênh lệch quá lớn trong xã hội đồng thời cũng tạo vị trí vững chắc cho giai cấp cầm quyền.
Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng của nền kinh tế trong đó các mục tiêu có tác động tương hỗ, bổ sung cho nhau vì mục tiêu chung của quốc gia.
2. Cụ thể đối với Việt Nam, Nhà nước có các mục tiêu cơ bản sau:
Đạt được trạng thái kinh tế tăng trưởng cao và lâu dài, cụ thể là trên dưới 10%, nâng cao thu nhập bình quân đầu người lên gấp đôi (400 USD) vào năm 2000.
Giải quyết công ăn việc làm ở mức tốt nhất, không ngừng mở rộng các loại hình sản xuất, có nhiều biện pháp thu hút đầu tư, các chính sách giáo dục đào tạo để có được đội ngũ lao động có chuyên môn và tay nghề cao.
Tiếp tục đẩy lùi kiểm soát lạm phát, giữ vững tỷ lệ lạm phát ở mức một con số (dưới 10%). Bắt đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế.
ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm mức tiền lương tối thiểu đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người lao động, ngăn chặn thu nhập, chi phí bất công. Đảm bảo phân phối thu nhập cân bằng (đặc biệt giữa các ngành nghề và loại hình lao động khác nhau)
Duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, giảm chênh lệch cán cân thanh toán quốc tế, đảm bảo giá cả phản ánh đúng tín hiệu thị trường.
Khuyến khích tạo cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
II. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trò đó được thể hiện qua các chức năng kinh tế của nó. Cụ thể như sau:
Định hướng sự phát triển của xã hội theo các đặc trưng và các yêu cầu đã định cho các chặng đường phát triển. ở nước ta đó là việc nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước với một cơ cấu phát triển kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đới sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này vượt ra ngoài khuôn khổ của lĩnh vực kinh tế đơn thuần. ở đây chính phủ đề ra các luật chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và bản thân Nhà nước phải tuân thủ. Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tình rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế cẩn thật, cân nhắc chi phí và lợi lộc. Nhưng khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới các ứng xử kinh tế của con người.
Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả, hạn chế tới mức thấp nhất các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và bộ máy quản lý kinh tế xã hội các cấp, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Những thất bại thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó là sự xuất hiện của độc quyền. Lợi dụng ưu thế của mình, các tổ chức độc quyền không ngừng tăng giá để thu lợi nhuận và như vậy phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo. Trong khi một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm giảm lợi nhuận nên các doanh nghiệp có xu hướng hạn chế cạnh tranh. Do đó, cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc quyền. Đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Khi có cạnh tranh hoàn hảo, nó sẽ đảm bảo được sự ganh đua của những người sản xuất, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.
Các tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt động thị trường và đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí-lợi ích cho doanh nghiệp khác, hoặc người khác mà doanh nghiệp hoặc con người đó không được nhận đúng những lợi ích mà họ cần được nhận hoặc không phải trả đúng số chi phí mà họ phải trả. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, thiếu an toàn trong sản xuất... mà xã hội phải gánh chịu. Những tác động bên ngoài như vậy làm cho hoạt kinh tế không hiệu quả. Vì vậy, Nhà nước nước phải sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như một phương pháp ngăn chặn những tác động bên ngoài, nâng cao hiệu quả như buộc phải bồi thường do ô nhiễm, phá huỷ môi trường, buộc ngừng sản xuất, khai thác...
Đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải đảm bảo nhận việc sản xuất hàng hoá công cộng. ích lợi của hàng hoá công cộng đối với xã hội và tư nhân là khác nhau và ích lợi giới hạn mà tư nhân thu đựoc từ hàng hoá công cộng là rất nhỏ. Vì vậy tư nhân thường không muốn sản xuất hàng hoá công cộng, trong khi có nhiều loại hàng hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng như Quốc phòng, luật pháp, trật tự... nên không thể giao cho tư nhân được. Việc Nhà nước phải tham gia sản xuất hàng hoá công cộng là tất yếu.
Nguồn thu chủ yếu của Nhà nước là từ thuế và phần chi phí của Nhà nước phải được trả bằng thuế thu được. Việc đề ra luật thuế qui định nghĩa vụ của mọi cá nhân và tổ chức cũng như đảm bảo công bằng trong xã hội là cần thiết. Tất cả mọi người đều phải tuân theo luật thuế.
Như vậy, Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị trường thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách đối với nền kinh tế và xã hội. Từ đó tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế diễn ra trôi chảy, ngăn cản sự lạm dụng của các doanh nghiệp khi họ độc quyền chiếm thị trường, kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.
Nhà nước điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh tức là các dao động của tổng thu nhập quốc dân kèm theo các dao động lên xuống của mức độ thất nghiệp và lạm phát.
Nhà nước cần cố gắng làm dịu những dao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Qua đó, Nhà nước ổn định nền kinh tế, duy trì nó càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
Nhà nước có thể đầu tư vào một số lĩnh vực cần thiết, để hỗ tợ, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Kết hợp phân phối và phân phối thu nhập Quốc dân đặc biệt là việc thực hiện tốt luật ngân sách Nhà nước. Sự hoạt động của cơ chế kinh tế thị trường có thể đạt hiệu quả cao, nhưng cơ chế thị trường lại hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tối ưu. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp. Diều đó được thực hiện thông qua các chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Hiển nhiên Nhà nước không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo. Bất cứ điều gì đều có mặt trái của nó. Do đó việc vẫn còn tồn tại tình trạng lạm phát, suy thoái là không thể tránh khỏi. Nhà nước chỉ có thể góp phần giảm bớt hậu quả của nó hoặc giảm tần số xuất hiện của khủng hoảng kinh tế.
Nhà nước còn có chức năng quản lý kinh tế vĩ mô.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
Định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà nước lựa chọn chính sách và các liên kết đối ngoại có lợi cho sự phát triển đất nước, phát huy ảnh hưởng ngoại giao trong khu vực và trên thế giới, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao của nền kinh tế Quốc dân.
Quản lý tài sản công, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội đặc biệt là quản lý đất đai, quản lý môi trường. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Các bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Khắc phục hạn chế các mặt tiêu cựu của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập Quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
III. Các công cụ vĩ mô của Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường
1. Công cụ pháp luật
Pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng trong quản lý kinh tế. Nó tạo ra hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế từ việc xác lập, quyền sở hữu đến bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh và điều tiết thu nhập. Nó thiết lập một trật tự quản lý đủ sức bao quát điều chỉnh mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, pháp luật thể hiện vai trò trên hai lĩnh vực.
Thứ nhất, pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu hoạt động sản xuất kinh doanh của họ làm tổn hại lợi ích của toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp.
2. Công cụ kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá là một trong những công cụ trọng yếu thực hiện chính sách kinh tế của Nhà nước hướng đến sự phát triển sản xuất để thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân. Nhờ kế hoạch hoá, Nhà nước quản lý nền sản xuất xã hội điều chỉnh sản xuất, phân phối và trao đổi của cải vật chất. Vai trò của kế hoạch hoá là thúc đẩy hình thành cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính thống nhất trong cân đối các nguồn lực, lựa chọn phương hướng phát triển đúng đắn và động viên được sức lực, trí tuệ của toàn xã hội.
3. Công cụ chính sách tài chính.
Chính sách này thể hiện chủ yếu ở hai nội dung thu và chi của Chính phủ, từ đó tác động vào tổng cung và tổng cầu, sản lượng, giá cả, việc làm. Chính sách tài chính được áp dụng và tác động thông qua hai con đường.
Một là, tổng chi tiêu của Chính phủ làm tăng tổng cầu và qua đó tăng tổng cung. Vì vậy giải quyết vấn đề suy thoái và thất nghiệp.
Hai là, giảm thuế sẽ kích thích tiêu dùng và đầu tư, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển .
4. Chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường là chính sách không điều chỉnh khối tiền tệ cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc cấp tín dụng nền kinh tế mua ngoại tệ, tạm ứng cho ngân sách điều chỉnh khối tiền tệ sẵn có trong lưu thông phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ và hàng không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Chính sách tiền tệ được hướng vào khống chế nguồn gốc làm tăng lượng tiền cung ứng.
5. Chính sách thu nhập.
Đối với chính sách thu nhập ta phải quan tâm đến tiền lương. Nếu chế độ tiền lương không được đổi mới một cách cơ bản thì mọi cái đặt ra đều không có ý nghĩa. Thông qua chính sách này, Nhà nước có thể thực hiện được chế độ hưởng thụ công bằng, thực hiện chống tham nhũng có hiệu quả, siết chặt kỷ luật kỷ cương bằng “Cách mạng chế độ lương bổng” trả lương đúng theo tài năng và trách nhiệm của người lao động.
IV. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới
1. Một số điển hình:
Hồng Kông là một trong những quốc gia có bước phát triển nhảy vọt trong giai đoạn vừa qua, trở thành một trong những con rồng châu á và Hồng Kông cũng là quốc gia được coi là đại diện cho mô hình kinh tế “Laissez-faire” dựa trên tư tưởng của Adam Smith về sức mạnh của thị trường như “Bàn tay vô hình” dẫn dắt hành động của các cá nhân. Nhà nước ở đây chỉ thực hiện chức năng điều chỉnh để duy trì luật chơi của thị trường trong những trường hợp cần thiết mà thôi. Người ta công nhận rằng về bản chất thị trường có những khuyết điểm nhưng sự can hiệp của Nhà nước bị coi là làm biến dạng hoạt động của thị trường.
Mô hình cổ điển về kinh tế thị trường tự do được cải biến với sự bổ sung một số chính sách can thiệp của “bàn tay vô hình“ của Chính phủ theo các lý thuyết của Keynes và tân cổ điển được thực hiện ở một số nước đặc biệt là Hoa Kỳ. ở nước này chính quyền liên bang có những vai trò sau:
ổn định kinh tế vĩ mô
Hỗ trợ công nghiệp quân sự và công nghệ kỹ thuật cao phát triển
Bảo trợ cho người thất nghiệp
Khuyến khích đầu tư
Khuyến khích nghiên cứu và triển khai
Bảo vệ các công ty Mỹ trước những biện pháp buôn bán “không công bằng“ của nước ngoài
Đảm bảo hiệu lực của luật chống Tơ-rớt
Đôi khi điều chỉnh một số ngành của nền kinh tế
Đối với một nước hiện nay bắt đầu CNH nhưng có kỳ vọng phát triển nhanh chóng như Việt nam, thì một Nhà nước không chỉ hoàn thành chức năng điều chỉnh thị trường mà còn có khả năng thực hiện thành công phát triển dương như đang có sức hấp dẫn mạnh. Một số nước châu á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo đang là mẫu hình được ngưỡng mộ về tốc đọ tăng trưởng thần kỳ. Trong số rất nhiều yếu tố dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao ở các nước đó có những yếu tố không thể lặp lại được, nhưng sự tham gia tích cực của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thì được Nhà nước nghiên cứu và những người hoạch định chính sách Việt nam cho rằng là một yếu tố có thể lặp lại, tức là một kinh nghiệm mà các Quốc gia đi sau có thể vận dụng.
Điển hình nổi bật nhất là Nhật bản, bên cạnh những kinh nghiệm đáng chú ý khác về chính sách của Nhà nước như chú trọng đầu tư vào nguồn lực con người, vào công nghệ mới... thì sự can thiệp của Nhà nước được đại diện bởi Bộ thương mại quốc tế và công nghiệp, với việc đề ra và thực hiện chính sách công nghiệp thông qua hệ thống kế hoạch hoá hướng dẫn đã được nhà phân tích coi là một yếu tố quan trọng quyết định “sự thần kỳ“ của kinh tế Nhật bản. ngay từ những năm 1930 các công ty Nhật Bản đã được hướng dẫn về phương hướng đầu tư và sản xuất, được trợ cấp, bảo hộ thương mại và giảm thuế nếu chúng tuân theo những hướng dẫn đó. Cho dù đến nay, người ta vẫn tranh luận về sự can thiệp đó là lớn hay nhỏ nhưng điều thấy rõ ràng là sự can thiệp của Nhà nước đã có tác dụng hướng các tập đoàn tài chính công nghiệp vào một quỹ đạo phát triển có hiệu quả.
Vai trò Nhà nước ở một số nước rất tích cực đặc biệt trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá. Thứ nhất quy mô của khu vực công cộng rộng hơn đáng kể không phải chỉ có các chương trình phúc lợi xã hội, mà còn do hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước nhận sản xuất, cung ứng hàng hoá công cộng và nhằm gây tác động lan truyền đối với khu vực tư nhân trong một số lĩnh vực mà Nhà nước muốn thúc đẩy. Thứ hai Nhà nước thực thi chính sách bảo vệ và thúc đẩy một số ngành hoặc vùng, khuyến xuất khẩu thông qua những công cụ khác nhau, từ kiểm soát sản lượng, giá cả, trực tiếp trợ cấp, sử dụng thuế và các công cụ tài chính khác cho đến các biện pháp hướng dẫn. Với những mức độ can thiệp rất khác nhau của Nhà nước mà có thể thấy những kiểu Nhà nước có đặc điểm không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội khác nhau.
Một điều đáng chú ý là cả ở Nhật bản và các nước Đông á, vai trò của Nhà nước không phải là bất di bất dịch trong các giai đoạn phát triển. Sự can thiệp của Nhà nước giảm đi khi công nghiệp hoá được hình thành. Nhà nước rút bỏ những hạn chế về thể chế khi thị trường thực sự hình thành và hoạt động tốt, nhường chỗ cho khu vực tư nhân ở một số lĩnh vực công nghiệp để chuyển vốn sang “khai phá” những lĩnh vực mới. Vừa do sự phát triển nội tại như vậy, vừa do những trào lưu toàn cầu mà một loạt quá trình “hoá” như tư nhân hoá, tự do hoá, phi điều tiết hoá... đang diễn ra ở các nước nói trên. Tuy có sự thay đổi nhưng dường như vai trò của Nhà nước trong các nền kinh tế này chưa giảm đi một cách rõ rệt.
2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam:
Công cuộc cải cách, đổi mới của ta theo đường lối của Đảng diễn ra trong khoảng hơn 10 năm, một khoảng thời gian lịch sử ngắn ngủi.Chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý kinh tế thị trường, trong khi đó có nhiều khó khăn phải đương đầu với những vấn đề kinh tế-xã hội gay gắt. Do đó việc nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ mô hình kinh tế thị trường của các nước nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết tật vốn có của nó, vận dụng những mặt thành công dạng mô hình của các nước trên thế giới là một việc có ý nghĩa cấp thiết đối với việc giải quyết những vấn đề kinh tế-xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường của ta ngày càng phát triển mạnh mẽ. Một số vấn đề cụ thể:
Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Nhà nước là quan trọng nhưng phải có tính hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
Thứ hai, Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào nền kinh tế nhưng phải “làm chủ” được thị trường.
Thứ ba, khả năng điều hành của bộ máy quản lý cũng như hệ thống chính sách vô cùng quan trọng trên thị trường do đó việc xây dựng một bộ máy quản lý đơn giản, gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả có tích chất bắt buộc đối với sự phát triển của đất nước.
Trong nền kinh tế hỗn hợp-một nền kinh tế có sự kết hợp các nhân tố của nền kinh tế thị trường và các nhân tố của nền kinh tế chỉ huy của nhà nước hầu như rất thận trọng trong việc cân nhắc các liều lượng can thiệp của mình vào nền kinh tế, ở những quốc gia khác nhau ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, liều lượng và các biện pháp can thiệp cũng rất khác nhau nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Có ba mức độ can thiệp khác nhau của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường: Đó là điều tiết, điều khiển và quản lý Nhà nước về mặt kinh tế ở tầm vĩ mô.
Đương nhiên, hiện nay không có một lý thuyết chung hay mô hình kinh tế lý tưởng cho tất cả các nước, nhưng những kinh nghiệm thành công và không thành công có thể giúp chúng ta tham khảo bổ ích trong việc hoạch định những chính sách kinh tế-xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường của ta ngày càng mạnh mẽ và phong phú hơn.
Chương IV : Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay
I. Thực trạng quản lý của Nhà nước ta hiện nay.
1. Mặt tích cực.
Cho tới nay nền kinh tế nước ta được đánh giá là đang mạnh lên so với các năm trước cả về thế và lực. Từ thực tiễn này, người nước ngoài cũng phải thừa nhận rằng Việt Nam là nước thành công nhất trong số các nước chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Sự tăng lên về thế lực của nền kinh tế có được là nhờ một phần quan trọng ở sự tác động của cơ chế quản lý kinh tế mới, sản phẩm của bộ máy Nhà nước. Để sản sinh ra cơ chế đó, bộ máy Nhà nước đã trải qua nhiều cải tiến rất quan trọng.
Trước hết đó là sự cải tiến về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Trước kia, tổ chức Đảng, cán bộ Đảng làm thay quá nhiều công việc của tổ chức Nhà nước, cán bộ Nhà nước. ở thời kỳ đó, luật kinh tế có ít. Thay vào đó là các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Những năm gần đây bên cạnh những chỉ thị, nghị quyết đó, Nhà nước đã ban hành các đạo luật kinh tế. Nó mở đường cho hoạt động đầu tư nước ngoài, và các hoạt động kinh tế trong nước bởi không có luật kinh tế cũng như sự tác động của Nhà nước chẳng khác nào tham gia một cuộc chơi không có luật và trọng tài. Có thể nói rằng bộ máy Nhà nước đã có những biến chuyển trong việc chuyển sang bộ máy làm luật nói chung và luật kinh tế đã có những biến chuyển trong việc chuyển sang bộ máy làm luật nói chung và luật kinh tế nói riêng.
Thứ hai, đó là sự cải tiến về mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp. Trước đây, Nhà nước điều hành doanh nghiệp từ A đến Z. ở thời kỳ đó, bộ máy Nhà nước về kinh tế được thiết kế là bộ máy “trực quản“ đối với doanh nghiệp. Mấy năm vừa qua, sự phân định giữa Nhà nước với doanh nghiệp đã tõ rõ, dứt khoát hơn, trong đó khẳng định các cơ quan Nhà nước có quyền tự chủ trong kinh doanh, các cơ quan Nhà nước chỉ làm quản lý Nhà nước trong đó quản lý Nhà nước về kinh tế. Trên thực tiễn, sự biến chuyển theo phân định trên đây tuy diễn ra chậm chạp và không ít lệch lạc nhưng đã làm cho bộ máy Nhà nước bớt đi vào “sản xuất kinh doanh” để đi vào “Sản xuất cơ chế kinh tế”, làm cho quản lý vĩ mô của Nhà nước có bước chuyển quan trọng.
Thứ ba, đó là sự cải tiến mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong hệ thống bộ máy Nhà nước. Bắt đầu nhấn mạnh tính độc lập tương đối, sự phân định rõ về chức năng nhiệm vụ và quyền hạn và trách nhiệm của 3 loại cơ quan đó. Sự chuyển biến này đã tạo điều kiện để cơ chế quản lý kinh tế mới không chỉ phong phú, đa dạng dưới hình thức văn bản pháp lý, mà còn cả trong việc sử dụng các công cụ kinh tế (tài chính, tiền tệ... ), các công cụ kiểm tra, giám sát, xét xử... trong kinh tế.
Thứ tư, đó là sự cải tiến mối quan hệ giữa các Bộ của Chính phủ quản lý. Sự cải tiến này không chỉ làm giảm bớt các Bộ trong thành phần Chính phủ, không chỉ chuyển các Uỷ ban Nhà nước từ “siêu bộ” thành “ngang bộ” mà quan trọng là ở sự cải tiến về mặt chức năng của mỗi Bộ. Sự cải tiến này tuy diễn ra chậm chạp nhưng nó phát huy tác dụng dễ thấy trong cuộc sống của nền kinh tế như Ngân hàng Nhà nước thôi chức năng kho bạc Nhà nước, Uỷ ban vật giá Nhà nước đã thu hẹp thành ban vật giá của Chính phủ...
Thứ năm, đó là sự cải tiến mối quan hệ giữa Trung ương với địa phương. Về sự cải tiến này, trong nhận thức đang có chuyển biến, còn trên thực tế chưa thực hiện được bao nhiêu. Sự chậm chễ này ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành một cơ chế đủ sức giải toả mối quan hệ Thung ương và địa phương về quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế trong từng vùng lãnh thổ.
2. Mặt tiêu cực.
Trong những năm năm qua, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang lên, song sự thật chúng ta vẫn là một trong những nước thuộc nhóm quốc gia nghèo trên thế giới. Cơ chế quản lý mới tuy đã tác động góp phần làm chuyển biến tình hình nhưng tõ ràng là cơ chế chưa đủ sức đề làm cho nền kinh tế vận động thoát khỏi quỹ đạo trì trệ, kém hiệu quả lâu nay của nó. Những khuyết điểm của cơ chế quản lý mới xuất phát từ bộ máy Nhà nước chưa được cải cách thể hiện tập trung ở một số mặt dưới đây:
Một là, phương thức lãnh đạo của Đảng tuy đã có những cải tiến nhưng đổi mới chậm hơn so với những đổi mới trong quản lý của Nhà nước, sự chậm hơn này đã đặt ra những giới hạn không thể vượt qua được của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Hai là, khả năng làm luật (đặc biệt là luật kinh tế) của bộ máy Nhà nước hiện nay còn quá thấp so với yêu cầu của việc quản lý nền kinh tế đang chuyển đổi. Kế hoạch xây dựng dự án luật từ nhiều năm nay luôn luôn đạt thấp, nhiều dự án kéo dài hết năm này qua năm khác vẫn chưa xong. Cơ quan làm luật là Quốc Hội, khả năng trong việc xem xét và quyết định cũng đang còn phải tìm cách để tăng cường. Nền kinh tế từ chỗ quá thiếu luật để hoạt động nay đang trong tình trạng nếu thiếu luật sẽ hoạt động rời rạc. Do vậy, đòi hỏi phải có hệ thống luật mới đầy đủ. Với khả năng hiện nay của Quốc hội, phải một thời gian nữa mới ban hành được những bộ luật mới cho nền kinh tế. Và như vậy, từ nay đến đó, hoạt động kinh tế trong xã hội, về cơ bản là hoạt động trong tình trạng thiếu luật. Nói cách khác, phần cơ chế quản lý kinh tế dưới hình thức luật kinh tế sẽ luôn luôn thiếu. Tính pháp lý của cơ chế quản lý kinh tế mới không thể cao được.
Ba là, để lấp vào lỗ hổng của tình trạng thiếu luật, cơ chế quản lý kinh tế đã phải cộm lên tại các hình thức dưới luật. Loại cơ chế này không do Quốc hội ban hành mà do hệ thống của Chính phủ ban hành. Do đó, hoạt động kinh tế phải luồn lách vòng vèo, thậm chí rơi vào “rối rắm” không vận hành tiếp tục được.Đây chính là một tệ nạn mà cơ chế mới vẫn mắc phải, chưa thoát ra được nguyên nhân chính sinh ra nó chưa được khắc phục.
Bốn là, trong cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống đòn bẩy kinh tế có vai trò và vị trí hết sức quan trọng. Nếu có được những đòn bẩy tốt và sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng việc, đúng mục đích... thì đó là những tác động rất hữu hiệu vào nền kinh tế của Nhà nước. Cần nêu rằng, những đòn bẩy kinh tế luôn luôn là cái không có sẵn, mỗi quốc gia phải tự chế tạo lấy các đòn bẩy thích hợp cho nước mình bởi đôi khi những đòn bẩy của nước này lại là “đòn cản” của nước khác. Việc “chế tạo” các đòn bẩy kinh tế là một công việc hết sức khó khăn, đầy trọng trách, đòi hỏi Nhà nước phải có một bộ máy làm việc điêu luyện. Đây là một trong những điểm yếu của Nhà nước ta.
Nhìn thực trạng cơ chế quản lý kinh tế từ bộ máy hoạch định ra cơ chế đó, chúng ta thấy rõ những gì còn phải chờ đợi ở cuộc cải cách bộ máy đó mới có được. Mỗi đòi hỏi mới đối với cơ chế quản lý đó, chúng ta thấy rõ những gì còn phải chờ đợi ở cuộc cải cách bộ máy đó mới có được. Mỗi đòi hỏi mới đối với cơ chế quản lý kinh tế đều là mỗi đòi hỏi đối với bộ máy Nhà nước. Chừng nào còn chần chừ , do dự trong việc thực hiện cải cách hệ thống bộ máy Nhà nước thì chừng đó chưa thể có được một cơ chế quản lý đực đổi mới.
II. Các biện pháp cần làm trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay, trong thời gian trước mắt, chúng ta cần làm một số công việc sau:
1. Tiếp tục quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế một cách triệt để hơn.
Đây là một trong những nội dung trọng yếu của quá trình chuyển đổi. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề được đặt ngược hẳn lại. Cái mà trước đây ta chống cạnh tranh thì bây giờ cần phải khuyến khích, điều mà trước đây ta khuyến khích độc quyền thì phải có biện pháp để khắc phục. ở nước ta, độc quyền được tạo ra chủ yếu bởi Nhà nước thông qua các qui định thành lập các doanh nghiệp lớn có vị trí chi phối trong cả nước hay trong từng địa phương. Nếu cứ để tình trạng độc quyền như hiện nay thì thị trường sẽ không phát huy được chức năng của mình. Để chống độc quyền, cần tiến hành đồng thời việc xoá bỏ ngay các tổ chức trung gian như Tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp, xí nghiệp liên hiệp...nếu xét thấy không có tác dụng.
Trong điều kiện nước ta hiện nay thị trường giá cả còn có những diễn biến phức tạp. Điều đó đòi hỏi các biện pháp quản lý giá cả của Nhà nước phải hết sức linh hoạt và đa dạng phù hợp với diễn biến của mỗi loại hình thái thị trường đang từng bước chuyển mình trong cơ chế mới.
1.1. Các biện pháp quản lý giá trên thị trường.
Đối với thị trường độc quyền cần qui định giá chuẩn đối với hàng hoá dịch vụ; qui định chính sách, cơ chế quản lý giá cước. Trong tương lai xu hướng chung là xoá bỏ vị trí độc quyền của các sản phẩm bằng cách Nhà nước tạo điều kiện và cho phép tiếp tục mở rộng hợp tác, liên doanh với nước ngoài, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, khuyến khích cạnh tranh trong kinh doanh bằng cách tạo ra cơ chế cạnh tranh giữa nội bộ các doanh nghiệp độc quyền.
Đối với thị trường cạnh tranh cần phải qui định giới hạn mức giá trần và giá sàn; thực hiện các chính sách bình ổn giá giá, trợ giá tiến hành thanh tra và sử lý vi phạm kỷ luật về giá.
1.2. Hình thành đầy đủ các thị trường cần thiết cho việc thương mại hoá nền kinh tế như: thị trường vốn, thị trường lao động, đưa các thị trường này vào hoạt động.
Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thông qua các chính sách mở cửa, đầu tư thông thoáng.
2. Tiếp tục đa dạng hoá chế độ sở hữu theo xu hướng phát triển doanh nghiệp tư nhân đổi mới phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Sở hữu là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Các hình thức sở hữu được luật hoá trở thành chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của một chế độ kinh tế xã hội. Chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ giải quyết vấn đề động lực, lợi ích, chính trị pháp quyền.
Có thể hình dung mô hình sơ hữu trong thời kỳ quá độ ở nước ta gồm các hình thức cơ bản sau: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu tư bản Nhà nước. Các hình thức này có mối quan hệ vừa cạnh tranh, vừa hợp tác lẫn nhau tạo nên cơ sở kinh tế của kinh tế thị trường, trong sự vận động quá độ phát triển theo định hướng mục tiêu “dân giàu nước mạnh” và “xã hội văn minh” ở nước ta.
3. Cải cách bộ máy hành chính, đổi mới công tác quản lý Nhà nước.
Thực tế đổi mới trong những năm qua cho thấy công tác quản lý hành chính của Nhà nước chậm đổi mới. Tình trạng quan liêu, tham nhũng và sự can thiệp quá sâu của chính quyền địa phương các cấp, của các bộ chủ quản theo ngành đang kìm hãm sự ra đời của cơ chế kinh tế mới. Trong thời gian tới, việc hoạch định cơ chế quản lý mới hoàn toàn phụ thuộc kết quả của việc thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước. Nếu cuộc cải cách này không được tiến hành khẩn trương, đạt được các mục tiêu đã đặt ra, thì khó có tiến bộ trong việc hoạch định cơ chế quản lý kinh tế theo phương hướng đổi mới.
Trong việc thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước, vấn đề cốt lõi là đổi mới chức năng của cả hệ thống bộ máy và trên cơ sở đó mà đặt lại chức năng của từng cơ quan trong hệ thống này. Mọi sự thay đổi, nếu không dẫn đến thay đổi chức năng của bộ máy nói chung và từng cơ quan nói riêng, thì vẫn không tạo ra sự thay đổi căn bản nào.
4. Giữ vững ổn định chính trị, tạo cơ chế chính sách gọn nhẹ kết hợp đổi mới công tác kế hoạch hoá.
Kế hoạch là công cụ quản lý liên ngành của Nhà nước bao gồm nhiều loại công việc nhiều loại hình nội dung và hình thức phong phú đa dạng. Vai trò chủ yếu của kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô là thúc đẩy hình thành cơ cấu hợp lý vì vậy phải đảm bảo tính thống nhất trong cân đối các nguồn lực, lực chọn phương hướng phát triển đúng đắn và động viên được sức lực, trí tuệ của toàn xã hội thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đề ra.
Để phù hợp với việc quản lý kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường có thể phác hoạ một bố cục hợp lý của hệ thống kế hoạch hoá định hướng sau:
4.1. Cần xúc tiến nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cũng như các chiến lược phát triển ngành, vùng, lĩnh vực.
4.2. Hệ thống thông tin-dự báo có vai trò rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Công tác dự báo còn phân tán, cần được xử lý tổng hợp để nâng cao chất lượng, cung cấp kịp thời thông tin kinh tế-xã hội, thị trường.
4.3. Nghiên cứu thiết kế các chương trình và dự án phát triển, đây là một phương pháp kế hoạch hoá đồng thời cũng là một bộ phận cấu thành của kế hoạch. Thực tế đây là “phần cứng” của kế hoạch và thông qua đó Nhà nước có điều kiện bố trí và chỉ đạo kế hoạch có trọng điểm và hiệu quả cao.
4.4. Đổi mới phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm. Cần phát huy vai trò tạo môi trương, hướng dẫn và điều tiết của các doanh nghiệp Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức kinh tế có sự tham gia của đối tác nước ngoài.
5. Đổi mới hệ thống pháp chế theo hướng dân chủ hoá, tăng cường phối hợp công cụ quản lý vĩ mô.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay cần tính đến một số vấn đề sau:
5.1. Phải tạo lập một hệ thống pháp luật trong đó cơ chế quản lý của nó phải phản ánh sự đa dạng của chủ thể kinh doanh và lợi ích kinh doanh nhưng lại phải theo định hướng XHCN. Hệ thống pháp luật đó phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích kinh doanh và công bằng xã hội.
5.2. Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh là trung tâm, mục tiêu động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Do đó, pháp luật không thể là những qui định hạn chế quyền tự do kinh doanh mà phải tạo tiền đề pháp lý cho sự ổn định các quan hệ kinh doanh làm cho mọi thành phần kinh tế, mỗi doanh nghiệp và công dân yên tâm huy động mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm năng kinh tế vào hoạt động kinh doanh.
5.3. Pháp luật chỉ qui định những điều cấm và để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Cơ chế thị trường nguyên tắc doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không ngăn cản “thay cho” doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật cho phép.
6. Về tài chính
6.1. Chính sách tiền tệ được xem là một lĩnh vực hàng đầu của chính sách kinh tế vĩ mô, một đòn bẩy hàng đầu để điều tiết kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh khối tiền tệ cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc cấp tín dụng nền kinh tế mua ngoại tệ, tạm ứng cho ngân sách, mà còn điều chỉnh khối tiền tệ đã sẵn có trong lưu thông cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặch thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Tuỳ vào thực trạng nền kinh tế và tiền tệ cụ thể mà chính sách tiền tệ xác định theo hướng thắt chặt hay mở rộng.
6.2. Quản lý Nhà nước về các hoạt động ngân hàng-tín dụng: Phải có một hệ thống luật hoặc văn bản pháp qui dưới luật cụ thể, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.
6.3. Kiềm chế lạm phát: Khó có thể nói chống lạm phát là nhờ một biện pháp riêng biệt nào, mà phải là sự tác động đồng thời, ăn khớp của cả gói các biện pháp. Bên cạnh việc xử lý, giải quyết vấn đề hối suất ngoại tệ, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ một hệ thống giải pháp cho cả trước mắt và lâu dài. Cụ thể là:
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng.
Giảm mức thâm hụt ngân sách.
Sửa đổi hệ thống ngân hàng.
Chấn chỉnh hệ thống tài chính, giá cả, xuất nhập khẩu.
Cải cách chế độ tiền lương.
Xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống luật và các văn bản dưới luật.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý .
Cải cách bộ máy hành chính.
6.4. Về chế độ tiền lương: Cần “Cách mạng chế độ lương bổng” bằng thang lương đúng nguyên tắc, phân phối XHCN nghĩa là hưởng theo tài năng và đóng góp. Có như vậy mới siết chặt được kỷ luật, kỷ cương và tiếp tục hiện chống tham nhũng có kết quả, xây dựng một phong cách làm ăn mới, chấn chỉnh và thiết lập công bằng xã hội.
7. Về đối ngoại
Mở rộng hợp tác cấp Nhà nước tạo điều kiện hợp tác kinh tế. đẩy mạnh xúc tiến thương mại, cần thành lập cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia, có chi nhánh ở các trung tâm lớn của đất nước để quản lý và định hướng cho hoạt động quan trọng này.
8. Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý vĩ mô.
Sức mạnh của quản lý Nhà nước chính là nhờ ở phương hướng hoạt động đúng đắn và nghệ thuật phối hợp các hoạt động theo trật tự và phương hướng đã đề ra. Quản lý theo mệnh lệnh tác động trực tiếp đến đối tượng thực hiện. Còn quản lý vĩ mô tác động gián tiếp, gây nên phản ứng lây truyền và từ đó có thể gặt hái được những thành quả to lớn.
Việc sử dụng hệ thống công cụ quản lý vĩ mô có thành công hay không một phần lớn phụ thuộc vào công tác cán bộ. Một yêu cầu rất cấp bách là phải đào tạo lại cán bộ và bố trí cán bộ đúng với năng lực chuyên môn từng người. Khoa học quản lý khác với khoa học cơ bản ở chỗ vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật và gắn liền với các yếu tố chính trị-kinh tế-xã hội và tư duy. Do đó cán bộ quản lý cần được đào tạo một cách có hệ thống và hình thành được những tư duy mới trên cơ sở tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tiễn ở trong nước và trên thế giới. Không thể có ngay một “thế hệ mới” được đào tạo sẵn để thay thế lập tức toàn bộ đội ngũ cán bộ trong cơ chế cũ mà phải biết kết hợp đào tạo ngắn hạn để đáp ứng yêu cầu trước mắt và đào tạo dài hạn chuẩn bị cho tương lai.
Kết luận
Vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường ở những nước khác nhau, hay nói cách khác là ở sự kết hợp thành công hay không giữa thị trường và sự can thiệp của Nhà nước ở mỗi nước riêng biệt với hoàn cảnh địa lý, kinh tế, xã hội, lịch sử, con người khác nhau là nguyên nhân đưa đến sự tăng trưởng và phát triển khác nhau ở mỗi quốc gia. Vai trò kiểm soát, can thiệp của Nhà nước có thể và có khả năng điều chỉnh, hạn chế những khuyết tật của hệ thống kinh tế thị trường, điều chỉnh và lái kinh tế thị trường theo khuynh hướng, định hướng nhất định, làm cho nó mang đặc trưng, màu sắc riêng biệt.
Các mô hình kinh tế dù thành công hoàn hảo đến mức nào cũng có mặt trái, những khuyết tật vốn có của nó (như nạn thất nghiệp, phân hoá xã hội, tệ nạn xã hội..). Trên thế giới ngày nay, về mặt lí thuyết cũng như trên thực tế, không có và không thể có mô hình kinh tế nào là thiên đường cho kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, những kinh nghiệm thành công hay thất bại của các mô hình kinh tế có thể giúp chúng ta có những tham khảo bổ ích trong việc hoạch định chính sách kinh tế nhằm giải quyết tốt các vấn đề kinh tế thị trường của chúng ta ngày càng mạnh mẽ và phong phú hơn. Cũng cần phải lưu ý các tư tưởng lệch lạc đối với kinh tế thị trường:
Sùng bái kinh tế thị trường, xem kinh tế thị trường là “thiên đường”, để cho kinh tế thị trường tự phát điều chỉnh, tự do phát triển .
Cho rằng kinh tế thị trường có thể tự điều chỉnh nên Nhà nước không cần kiểm soát, can thiệp gì đối với nền kinh tế thị trường.
Cho rằng chỉ có phát triển kinh tế tư nhân mới là phương thức duy nhất để phát triển kinh tế thị trường của ta hiện nay.
Rõ ràng, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng tuyệt đối của Nhà nước đối với nền kinh tế. Việc hoạch định một đường lối chính sách phát triển cụ thể, lâu dài là một yêu cầu bức bách của tất cả các quốc gia trong bất cứ giai đoạn phát triển nào. Đây là vấn đề còn đỏi hỏi nỗ lực nghiên cứu chung trong thời gian tới.
Danh sách tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin.
Trường Đại học kinh tế quốc dân - Bộ môn kinh tế chính trị học.
Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế.
Trường Đại học kinh tế quốc dân.
Kinh tế học tập 1- Paul Samuelson.
Kinh tế học tập 1- David Begg.
Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam
GS.TS Lương Xuân Quỳ (chủ biên).
Vai trò của Nhà Nước trong phát triển kinh tế
Vũ Tuấn Anh - Viên Kinh Tế hoc.
Tạp chí phát triển kinh tế- số 107.
Tạp chí nghiên cứu thị trường - số 4/99.
Tạp chí nghiên cứu thị trường - số 248.
Tạp chí kinh tế và phát triển - số 9/95 và số 6/95.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35081.doc