Đề án Vấn đề thất nghiệp của nước ta từ năm 2000 đến nay

Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới có hiệu quả, ILO khuyến cáo các nước đang phát triển cần tập trung vào việc đáp ứng những yêu cầu thích nghi và hiện đại hóa phương thức quản lý thị trường lao động. Các hướng ưu tiên bao gồm : - Giảm khu vực kinh tế phi chính thức, tạo điều kiện để phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư, cải thiện điều kiện lao động; người lao động có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, được tư vấn pháp luật, được hưởng tín dụng nhỏ và có điều kiện hợp tác để mở rộng việc làm nhân văn. - Phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn, tạo điều kiện cho di chuyển lao động giải quyết lao động dư thừa, hạn chế việc tăng khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các nhóm dân cư. - Nâng cao chất lượng và độ linh hoạt của hệ thống giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của thị trường và cạnh tranh quốc tế. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động theo hướng quản lý gián tiếp, phi tập trung, chống phân biệt đối xử, bảo đảm quyền được làm việc và được an toàn, quyền thương lượng và tự do cư trú. - Tăng cường đối thoại xã hội và thương lượng tập thể nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, lành mạnh. - Phê chuẩn các Công ước của ILO liên quan đến việc làm, thị trường lao động, tiền lương, dịch vụ việc làm, hướng nghiệp và đào tạo nghề, an toàn vệ sinh lao động và khuyến khích áp dụng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vấn đề thất nghiệp của nước ta từ năm 2000 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thất nghiệp cao để giảm lạm phát hay ngược lại. Tức là họ buộc phải chấp nhận tăng cầu thông qua các chính sách tài khóa và tiền tệ để đổi được khả năng giảm thất nghiệp và điều này đồng nghĩa với việc chấp nhận một mức giá mới cao hơn. Tuy nhiên có một vài vấn đề liên quan tới quan điểm này khi người ta nhìn vào lý thuyết kinh tế vi mô về hành vi từng doanh nghiệp, từng hộ gia đình. Và nếu theo đó thì xem ra theo lý thuyết thất nghiệp chẳng bao giờ giảm tới con số 0. Tuy nhiên trên khía cạnh khác, tỉ lệ thất nghiệp lại được đo bởi mức cân bằng cung cầu của thị trường lao động. Thế nên, bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước Edumnd Phelps đã có cái nhìn khác về lý thuyết mối quan hệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Ông cho rằng, lạm phát không chỉ lệ thuộc vào thất nghiệp mà còn phụ thuộc vào dự tính của doanh nghiệp, của người lao động về khả năng tăng lên của giá cả, của mức lương. Từ đó ông xây dựng lý thuyết mà sau lễ trao giải Nobel Kinh tế 2006 này chúng ta được biết tới với cái tên Đường cong Phillips Bổ sung Kỳ vọng (Expectation - augmented Phillips). Khác với trước đây, lý thuyết mới cho thấy, với một tỉ lệ thất nghiệp cho trước, 1% tăng thêm trong dự kiến về lạm phát sẽ dẫn tới việc tăng thêm 1% lạm phát trên thực tế. Lý thuyết mới về lạm phát và thất nghiệp từ đó cũng đưa ra cái nhìn mới trái ngược với quan điểm về sự ổn định của việc mở rộng chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ sẽ giúp tăng công ăn việc làm. Cũng theo Edmund S.Phelps, về dài hạn không có mối quan hệ giữa lạm phát, thất nghiệp và cân bằng trong thất nghiệp chỉ được định đoạt bởi các nhân tố từ thị trường lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, lạm phát cao của hôm nay là nguồn gốc cho khả năng gia tăng lạm phát trong tương lai. Hay nói cách khác, để chặn lạm phát trong tương lai, tốt hơn hết là tìm giải pháp xóa bỏ những lo lắng về tương lai lạm phát ở hiện tại. Từ lý thuyết mới của Edmund S.Phelps cũng cho ta hiểu tại sao có thời điểm như những năm 1970, cả lạm phát và thất nghiệp ở nhiều nền kinh tế đều tăng. Hay lý giải việc nhiều Ngân hàng TƯ chống thất nghiệp bằng con bài tỉ giá song hiệu quả đôi lúc chẳng thấy đâu. Từ việc nhìn nhận về lạm phát và thất nghiệp, Giáo sư Phelps cũng đưa ra cái nhìn mới cho những nhận định về cái gọi là quy tắc vàng trong thông tin vốn. Theo đó sự thay đổi của tỉ lệ tiết kiệm từ cấp độ này lên cấp độ khác có khả năng phát sinh xung đột phân phối. Tuy nhiên, theo Edmund S.Phelps, có khả năng phát sinh cái gọi là Bất hiệu quả năng động - khi việc dự trữ tiền ở một số nền kinh tế là quá lớn và người ta có thể tăng phúc lợi cho nhiều thế hệ trong khi vẫn giảm tỉ lệ tiết kiệm. Nói khác đi, dù lượng tiền dư thừa có thấp, sản xuất có giảm, song trong một nền kinh tế tiết kiệm ít vẫn có tác động kích thích tiêu dùng - để từ đó đẩy nhanh tốc độ phát triển, và nới rộng quy mô kinh tế. Trong các công trình nghiên cứu của mình, Giáo sư Phelps, người từng làm việc nhiều năm với nhà kinh tế nổi tiếng Richard Nelson hồi giữa thập kỉ 60 cũng khẳng định tầm quan trọng của việc đầu tư cho giáo dục. Con người, cùng với công nghệ là chìa khóa để các nước nghèo “bắt kịp” tốc độ phát triển của các nước giàu. Điều này cũng lý giải tại sao tăng trưởng GDP ngày càng bộc lộ rõ sự phụ thuộc vào nguồn vốn nhân lực, thay vì chỉ dựa vào tốc độ tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Không có người thất nghiệp, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế cao là mục đích trọng tâm của chính sách kinh tế. Nhưng những người ra chính sách luôn phải đối mặt với sự xung đột: Làm sao để cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp? Làm sao để cân bằng giữa tiêu phí hiện nay và tích lũy sau này? Edmund S. Phelps đã đưa ra kiến thức về sự cân bằng trong 2 lĩnh vực trên. Ông đã nêu ra không chỉ công thức về tích lũy vốn mà còn cả về cách cân bằng giữa lạm phát thất nghiệp là vấn đề cơ bản để phân phối phúc lợi qua các thời kỳ. Phân tích của Phelps có tầm sâu sắc trong lý thuyết kinh tế cũng như chính sách kinh tế vĩ mô. Theo quan điểm thịnh hành hồi những năm 60, giữa lạm phát và thất nghiệp tồn tại mối liện hệ ổn định ngầm được được thể hiện trong biểu đồ Phillips (Phillips curve). Mối liên hệ đó được xác nhận bằng dữ liệu kinh tế ở vài quốc gia. Ngụ ý của nó là, trong chính sách kinh tế, người ta có thể lựa chọn giữa hoặc là lạm phát thấp, hoặc là thất nghiệp thấp, và thông qua chính sách tài chính và tiền tệ thì có thể giảm thất nghiệp. Theo biểu đồ Phillip, điều đó sẽ phải trả giá bằng lạm phát đột xuất (one-time increase). Nhưng có vài trục trặc với quan điểm trên. Biểu đồ Phillip chỉ thể hiện được mối liên hệ thuần túy giữa các thống kê mà chưa chỉ ra mối liên hệ rõ ràng nào với các thuyết kinh tế vi mô về thói quen của người sản xuất và tiêu dùng. Nó cũng không đưa ra được lý thuyết về giảm thiểu tối đa số thất nghiệp. Nhìn chung người ta chấp nhận rằng tỷ lệ thất nghiệp không thể nào giảm tới “zero”, nhưng chưa có ai chỉ ra được tỷ lệ thất nghiệp nào thì cân bằng với thị trường lao động. Khung lý thuyết mà Phelps dựng nên từ cuối những năm 60 giúp giải thích vì sao cả lạm phát lẫn thất nghệp đều gia tăng trong những năm 70. Cuối những năm 60, Edmund Phelps đã thách thức những quan điểm trước đó về mối liên hệ giữa lạm phát và thất nghiệp. Ông nhận ra, lạm phát không chỉ phụ thuộc vào thất nghiệp mà còn phụ thuộc vào kì vọng của các công ty và người lao động về biến động giá và tăng lương. Ông đưa ra mô hình mà ban đầu được gọi là “Biểu đồ gia tố kỳ vọng Phillips” (expectations-augmented Phillips curve). Nó cho thấy, ở một tỷ lệ thất nghiệp nhất định, tỉ lệ lạm phát kỳ vọng (expected inflation) tăng lên sẽ khiến lạm phát thực sự tăng lên. Khi đặt giá và thương thảo lương, ông chủ và người làm công dựa trên sự kì vọng tăng giá và tăng lương nói chung. Giả thiết đó được chấp nhận rộng rãi và được củng cố bởi kết quả các nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm (empirical research). Phân tích của Phelps trái ngược với quan điểm trước đó cho rằng có thể dùng chính sách tài chính và tiền tệ để khống chế tỷ lệ thất nghiệp. Ông kết luận rằng không có sự cân bằng dài hạn giữa lạm phát và thất nghiệp trong khi lạm phát kì vọng đang trở thành lạm phát thật sự. Về lâu dài, nền kinh tế sẽ tiếp cận tới tỷ lệ thất nghiệp cân bằng (equilibrium unemployment rate), khi mà mức lạm phát thật sự trùng khớp với lạm phát kì vọng. Thị trường lao động sẽ quyết định mức cân thất nghiệp cân bằng như thế nào. Nỗ lực làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức cân bằng sẽ chỉ gây lạm phát liên tiếp. Chính sách làm ổn định vẫn có vai trò quan trọng việc kiềm chế dao động tỷ lệ thất nghiệp quanh mức cân bằng. Các nghiên cứu của Phelps nhấn mạnh việc phân tích các chính sách kinh tế hôm nay sẽ ảnh hưởng tới sự ổn định trong tương lai như thế nào: lạm phát cao ngày hôm nay có nghĩa là lạm phát kì vọng sẽ cao hơn trong tương lai, vì thế phác thảo các chính sách cho tương lai càng khó khăn hơn. Chính sách duy trì lạm phát ở mức thấp cũng có thể xem là để giảm mức lạm phát kỳ vọng - một lựa chọn có lợi cho mức lạm phát và thất nghiệp trong tương lai hơn là các phương án khác. Phelps cũng đưa ra mô hình đầu tiên về những yếu tố quyết định tới cân bằng thất nghiệp. Trong mô hình đó, các công ty định ra mức lương để tác động tới số lao động. Càng nhiều công ty muốn tăng lực lượng lao động thì tỷ lệ thất nghiệp càng giảm, mức lương đưa ra phải càng cao. Phelps chỉ ra sự tồn tại của tỷ lệ thất nghiệp cân bằng duy nhất được tính theo mức tăng lương của công ty và mức tăng lương kỳ vọng. Sự sáng tạo của Phelps là đã bắt đầu từ những giả định về hành vi hay các yếu tố cá nhân trong thị trường lao động. Phelps cũng là người đầu tiên tích hợp giả thiết về hiệu lực của lương vào lý thuyết kinh tế vĩ mô. Giả thuyết đó cho rằng đầu tư sinh lời nhất của một công ty là trả lương cao để nâng cao tinh thần người lao động, giảm thiểu số người chuyển việc và thu hút lao động có kĩ năng cao hơn. Cơ chế đó cũng giúp đưa tỷ lệ thất nghiệp về mức cân bằng. Phelps không phải là người duy nhất chỉ trích biểu đồ Phillips hồi cuối thập kỷ 60. Milton Friedman (giải Nobel năm 1976) cũng nhấn mạnh tới vai trò của lạm phát kỳ vọng. Khác với Friedman, Phelps nhấn mạnh tới sự tác động từ thất nghiệp tới lạm phát (không định trước). Đóng góp của Phelps đã thay đổi cơ bản quan điểm của các nhà kinh tế về cách thức điều hành kinh tế vĩ mô. Khung lý thuyết mà ông dựng nên từ cuối những năm 60 giúp giải thích vì sao cả lạm phát lẫn thất nghệp đều gia tăng trong những năm 70. Ông cũng làm sáng tỏ tính hạn chế của các chính sách kinh tế vĩ mô. Một ví dụ là ngày nay các ngân hàng trung ương thường quyết định tỷ lệ lãi suất dựa trên đánh giá tỷ lệ thất nghiệp cân bằng và sự cân bằng giữa tác động của chính sách tới các lĩnh vực khác nhau. V. Các vấn đề khác có liên quan 1.Luật về tiền lương tối thiểu Luật tiền lương tối thiểu tạo ra mức tối thiểu bắt buộc của tiền lương mà các doanh nghiệp phải trả cho người lao động của mình, bất kể thị trường có cân bằng hay không. Với hầu hết người lao động mức lương này không có ý nghĩa ràng buộc nhưng với lao động không lành nghề và không có kinh nghiệm mức lương này cao hơn giá trị sức lao động mà họ bỏ ra và cũng cao hơn mức cân bằng của thị trường. Các công trình nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế đã phát hiện ra rằng: khi tiền lương tối thiểu tăng 10% thì số người có việc làm trong đội ngũ không lành nghề này giảm từ 1 – 3 % 2.Công đoàn và thương lượng tập thể Công đoàn là hội đoàn của những người lao động (“nlđ”) cùng một ngành nghề, hay cùng một công xưởng, để bảo vệ cho quyền lợi của thành viên. Công đoàn không chỉ làm tăng tiền lương mà còn làm tăng sức mạnh của người lao động trong các cuộc thương lượng về nhiều vấn đề khác nữa chẳng hạn số giờ lao động và điều kiện làm việc. Tiền lương của người lao động tham gia công đoàn không phải do trạng thái cung cầu, mà do các cuộc thương lượng tập thể giữa những người lãnh đạo công đoàn và hội đồng quản trị doanh nghiệp quyết định. Kết quả số lượng người lao động được thuê giảm xuống và số người thất nghiệp tăng lên 3.Lý thuyết về tiền lương hiệu quả Những lý thuyết này quả quyết rằng tiền lương cao làm cho năng suất cao hơn. Ảnh hưởng của tiền lương đối với hiệu qủa của lao động dẫn đến thất bại của doanh nghiệp trong việc cắt giảm tiền lương ngay cả khi tồn tại tình trạng dư cung về lao động: Tiền lương ảnh hưởng đến dinh dưỡng và sức khỏe của người lao động từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động Tiền lương cao làm giảm tình trạng bỏ việc qua đó giảm thời gian tuyển mộ và đào tạo người lao động mới Chất lượng bình quân của lực lượng lao động trong doanh nghiệp phụ thuộc vào mức lương mà nó trả cho người lao động của mình. Thông qua việc trả lương trên mức cân bằng, doanh nghiệp có thể giảm bớt sự lựa chọn bất lợi là những lao động giỏi nhất tìm việc ở nơi khác và nâng cao chất lượng bình quân của lực lượng lao động qua đó làm tăng được năng suất lao động của họ Mức lương cao làm tăng nỗ lực của người lao động: tiền lương cao, tổn thất mà người lao động phải chịu khi bị phát hiện trốn việc và đuổi việc càng lớn 4. Các vấn đề xã hội khác Vấn đề trợ cấp thất nghiệp: trợ cấp thất nghiệp giúp người lao động bị thất nghiệp giảm bớt gánh nặng về tài chính nhưng nó cũng khiến cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên do động lực đi tìm việc của họ bị giảm bớt đi. Cùng với đó, khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao thì khoản trợ cấp thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn nền kinh tế Tỉ lệ ăn theo: tỷ lệ này luôn tỷ lệ thuận với tỷ lệ thất nghiệp vì với toàn nền kinh tế khi có một người thất nghiệp thì cũng có nghĩa là có 1 người “ăn theo”. Mặc dù trong những người “ăn theo” không chỉ gồm những người thất nghiệp nhưng nó cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Tỷ lệ ăn theo cũng là một chỉ số quan trọng cùng với tỷ lệ thất nghiệp để đánh giá mức độ lành mạnh của nền kinh tế Bất bình đẳng: khi vấn đề bất bình đẳng được giải quyết thì sẽ có nhiều hơn những người trong độ tuổi lao động tham gia vào thị trường lao động. Nếu nền kinh tế không giải quyết tốt thì cũng làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Tuy nhiên đây là vấn đề tất yếu khách quan khi các quốc gia đang trên con đường phát triển. Các tệ nạn xã hội: một tỷ lệ lớn số tội phạm hiện nay là do thiếu tiền, thất nghiệp. Vì vậy có thể nói thất nghiệp là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc các tệ nạn xã hội gia tăng Chương II: Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam I.Tổng quan về lao động và việc làm 1. Lực lượng lao động Các chỉ tiêu chủ yếu về xã hội Chỉ tiêu (đến năm 2005) Đơn vị tính Chỉ tiêu kế hoạch 2001-2005 Ước thực hiện 2001-2005 1. tỷ lệ sinh giảm % .05 .04 2. tốc độ tăng dân số % 1.2 1.42 3. Tạo việc làm mới (tổng số 5 năm) Tr. Người 7.5 7.5 4. tỷ lệ lao động qua đào tạo % 30 25 5. tỷ lệ trẻ em đi học THC Strong độ tuổi % 80 80 6. tỷ lệ trẻ em đi học THPT trong độ tuổi % 45 40 7. tỷ lệ hộ đói nghèo % Dưới 10% Dưới 7% 8. tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi % 22-25 24 9. tuổi thọ bình quân Tuổi 70 71.3 10. cung cấp nước sạch nông thôn % 62 62 Với dân số khoảng 86 triệu người trong đó lực lượng lao động chiếm 54,8% (tương đương 46,61 triệu người), nước ta được coi là 1 nước có cơ cấu dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào. Mặc dù có 45,6 triệu lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế nhưng chúng ta có cơ cấu lao động các ngành chưa hợp lý với đa số lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và ở khu vực nông thôn. Điều này càng khẳng định nước ta vẫn là 1 nước nông nghiệp. Nông nghiệp 52.80% Công nghiệp 18.93% Dịch vụ 28.26% Chất lượng lao động của nước ta là vấn đề đánh lo ngại trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Chất lượng lao động được nghiên cứu dựa trên nhiều tiêu chí như: kỹ năng nghề nghiệp, sức khỏe, ý thức của người lao động,… Chất lượng đào tạo nhân lực nhất là ở bậc đại học nhìn chung còn thấp so với mục tiêu giáo dục, với yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế xã hội và với trình độ các nước trong khu vực có mặt còn non kém. Nội dung, phương pháp dạy đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu chuẩn bị nhân lực cho công nghiệp hóa rút ngắn và trình độ chưa theo kịp phát triển khoa học công nghệ hiện đại. Việc học tập ở mọi cấp học bị chi phối nặng nề bởi tâm lý bằng cấp; phương pháp giáo dục nặng về áp đặt, chưa khuyến khích sự năng động, sáng tạo của người học, chưa coi trọng năng lực tư duy và năng lực thực hành Hiện nay lao động đã qua đào tạo của nước ta mới chỉ có 32% và chỉ có 14,4% lao động thấp.có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn- đây là 1 tỷ lệ rất thấp. Mỗi năm chúng ta đào tạo ra hơn 1 triệu lao động chủ yếu từ các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trường nghề nhưng đội ngũ lao động này chỉ được dạy nhiều về lý thuyết chứ ko được đào tạo nhiều về kỹ năng chuyên môn vì thế khi ra trường họ chưa có đủ trình độ đáp ứng được ngay yêu cầu của công việc. Một nghiên cứu cho thấy việc đào tạo của chúng ta còn mất cân đối trong đào tạo ngành nghề. Hơn 50% sinh viên được hướng vào 3 ngành vàng là quản trị, báo chí và luật nhưng nhu cầu việc làm của những ngành nghề này không cao đặc biệt với lượng kiến thức được trang bị thì 1 cử nhân ko thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì thế rất nhiều trong số những sinh viên này sau khi ra trường đã tìm những công việc ko dính dáng gì đến ngành nghề của mình cả thậm chí là những công việc lao động phổ thông như bưng bê ở các quán cơm bình dân,oshin, tiếp thị. Phần còn lại gần 50% sinh viên các ngành nghề kỹ thuật được đạo tạo thì mới chỉ biết được những kiến thức cơ bản chưa có chuyên môn cao. Ví dụ như ngành công nghệ thông tin, với số lượng lớn các trường từ cấp dạy nghề đến cấp đại học đào tạo với điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên có trình độ khác nhau nhưng sinh viên mới chỉ được trang bị những kiến thức đơn giản về máy tính chứ chưa được đào tạo thành những chuyên gia về lập trình, tài chính, xây dựng,…Việc đào tạo này diễn ra tràn lan từ năm này qua năm khác không cần biết đến nhu cầu của thị trường. Vì thế tình trạng sau khi ra trường của đội ngũ sinh viên này cũng không khả quan hơn.Theo bảng số liệu do PGS.TS Đặng Quốc Bảo cung cấp thì tỉ lệ lao động không có chuyên môn ở Hà Nội hiện là 41,4%, Hải Phòng 64%, Đà Nẵng 54,4%, TP.HCM 55% và Bà Rịa Vũng Tàu là 62,9%.Thậm chí trong 13500 giáo sư tiến sĩ khoa học Việt Nam thì chỉ có 500 người (chiếm 3,7%) có sản phẩm được quốc tế công nhận. Theo nguồn số liệu của Viện chiến lược và chương trình giáo dục công bố năm 2004: Chỉ số tổng hợp về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực của Việt Nam là 3.79 điểm Chỉ số sự thành thạo tiếng anh là 2.62 điểm Chỉ số sự thành thạo công nghệ cao là 2.5 điểm Chất lượng đào tạo kém cùng với nền kinh tế quá quan tâm đến bằng cấp khiến cho mục đích học của người học cũng thay đổi, họ học ko phải vì kiến thức mà để có một tấm bằng rồi lại dùng nó để xin những công việc vượt quá khả năng của họ. Sức khỏe của người lao động kém cũng là một vấn đề đáng lưu tâm. Với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chế độ dinh dưỡng thiếu khoa học, chất lượng bữa ăn còn thấp tạo cho người lao động nước ta có sức khỏe chỉ ở mức trung bình. Cùng với đó là điều kiện làm việc chưa được đảm bảo, an toàn lao động chưa được quan tâm đúng mức từ đó dẫn đến nguy cơ xảy ra tai nạn lao động với người lao động cao. Một kết quả khảo sát của Viện khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động cho thấy 40% doanh nghiệp không có cán bộ y tế và 44% doanh nghiệp không tổ chức khám sức khỏe khi tuyển dụng lao động và khám sức định kỳ cho người lao động. Ý thức kỷ luật của người lao động là vấn đề đáng quan tâm nhất. Mặc dù lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển giao từ bên ngoài nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp. Người lao động hay có hiện tượng trốn việc, đi làm muộn, gây gổ đánh nhau, ý thức bảo vệ tài sản chung còn kém. Những điều này dẫn đến năng suất lao động của họ thấp, tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế không được khả quan. Ngoài ra kỹ năng làm việc theo nhóm cũng như khả năng hợp tác để hoàn thành công việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Vì thế nếu một công việc cá nhân thì họ làm tốt nhưng nếu làm việc tập thể thì năng suất lao động giảm xuống rõ rệt và trong nhiều trường hợp công việc đã không được hoàn thành đúng như yêu cầu của cấp trên Sự hiểu biết về luật pháp của họ còn khá nhiều hạn chế. Đa số người lao động chưa từng đọc qua luật lao động vì thế họ ko biết mình có quyền lợi gì. Vì thế họ thường phải gánh chịu thiệt thòi khi tham gia thị trường lao động. Các hợp đồng lao động thường là hợp đồng miệng hoặc không đúng với trình tự và yêu cầu của một hợp đồng lao động nên hệ thống khó có thể bảo vệ họ khi các quyền lợi cá nhân của họ bị xâm phạm. Họ thường không được người sử dụng lao động mua bảo hiểm lao động, làm việc ở điều kiện môi trường không đảm bảo, làm quá số giờ quy định, hưởng lương không đúng, bị trừ lương khi mắc lỗi, gây khó khăn khi muốn chuyển công ty… Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng... nên nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng”. Trong khi đó, nhu cầu lao động đang có xu hướng tăng cả về số lượng và chất lượng, chủ yếu do nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là số doanh nghiệp mới thành lập ngày càng nhiều. Ngoài ra, nhiều người lao động chưa có trình độ ngoại ngữ đủ để làm việc, dù rằng trên thực tế tình trạng này đang được cải thiện nhờ ngày càng có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam cũng như một số người Việt được đào tạo ở nước ngoài quay về nước làm việc. Hiện nay, cả nước có hơn 240.000 doanh nghiệp, thu hút khoảng 9 triệu lao động. Dự kiến đến năm 2010, nước ta có khoảng 500.000 doanh nghịêp, góp phần tạo thêm 2,7 triệu chỗ làm việc mới cho người lao động. Nhu cầu đào tạo mới nghề cho lao động là rất lớn, chưa kể nhu cầu đào tạo, đào tạo lại cho số lao động hiện có. Đặc điểm lao động Việt Nam được xuất khẩu lao động ra nước ngoài Lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc nhìn chung có ưu điểm nổi bật là cần cù, chịu khó, khéo tay, tiếp thu nhanh. Tuy nhiên, số người có chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm khoảng 1/3 và người mới chỉ thâm nhập được vào những lĩnh vực không đòi hỏi trình độ tay nghề cao và thông thạo về ngoại ngữ. Đây cũng là tình trạng chung của các nước đang phát triển. Vì vậy sự cạnh tranh trên thị trường lao động đối với Việt Nam càng lớn hơn. Ngoài ra lao động Việt Nam còn bộc lộ những nhược điểm làm giảm tính cạnh tranh của chính mình, đó là thể lực yếu, kỷ luật lao động yếu, ngoại ngữ kém, tính cộng đồng không cao và chưa có tác phong công nghiệp trong làm việc và lối sống. Về trình độ tay nghề, phần lớn lao động Việt Nam không qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, trung bình chiếm khoảng ¾ tổng số lao động xuất khẩu Về loại hình ngành nghề, lao động xuất khẩu của Việt Nam tập trung vào một số ngành sau: nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 60%; xây dựng, công nghiệp: 16% và dịch vụ:24% Về lứa tuổi, do phía đối tác nước ngoài yêu cầu lứa tuổi người lao động từ 18-35 tuổi nên lao động Việt Nam cũng chỉ tập trung và lứa tuổi này, trong đó 18-25 tuổi chiếm khoảng 27% còn lại là 25-35 tuổi 2. Việc làm Thu nhập sụt giảm đang là vấn đề trầm trọng tại Nam Á, nơi có 4 trong số 10 thanh niên kiếm chưa tới 1USD/ngày và chỉ có 1 trong số 10 người là có khả năng nuôi sống gia đình với mức thu nhập trên mức đói nghèo 2USD/ngày. Theo báo cáo của 6 tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, nhu cầu của các doanh nghiệp này trong giai đoạn 2008-2012 lên tới 80.000-90.000 người, trong đó số lao động có trình độ cao đẳng là 24.000 người. Về cơ cấu, qua khảo sát ở 40 doanh nghiệp, trong thời gian tới, số lao động cần tuyển, lao động qua đào tạo nghề chiếm trên 40%, lao động có trình độ cao đẳng, đại học chiếm khoảng 18%, còn lại là lao động phổ thông. Theo báo cáo của VINASHIN, trong số nhu cầu nhân lực đến năm 2010 và 2015 của tập đoàn, số lao động qua đào tạo nghề chiếm từ 60-70%, tỷ lệ cao đẳng, đại học từ 22-26%. Ở đồng bằng sông Cửu Long, khi mất đi 1ha đất nông nghiệp trồng cây lâu năm thì mất đi 3,5 việc làm và 0,3 việc làm dịch vụ nông nghiệp Theo ông Nguyễn Hữu Hoài Phú - chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn TP.HCM, cuộc điều tra (năm 2006) trên nhóm người bị thu hồi đất cho thấy “số lao động nông nghiệp chuyển sang lao động công nghiệp có tăng nhưng không nhiều, từ 3,1 lên 6,6%”, trong khi sau khi bị thu hồi đất số lao động nông nghiệp thất nghiệp tăng từ 28,1 lên 38,8%. Kết quả điều tra còn cho thấy sau khi bị thu hồi đất, thu nhập bình quân của hộ gia đình khoảng 25,3 triệu đồng/năm, giảm khoảng 13% so với trước đó Số lao động có việc làm năm 2007 tăng 2,3% so với năm 2006, trong khi con số này của năm 2006 là 2,7% so với năm 2005. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm, song tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên lại tăng. Mặt khác khi lạm phát cao đã làm giảm thu nhập thực tế của nhiều nhóm xã hội. Từ chỗ chỉ có 15 nước tiếp nhận lao động Việt Nam vào năm 1995 với trên 10 ngàn lao động, đến nay lao động Việt Nam đã có mặt trên 40 nước và vùng lãnh thổ, với khoảng 400 ngàn lao động. Các thị trường trọng điểm là Malayxia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhưng dù là nước xuất khẩu lao động, hiện Việt Nam cũng đang phải “nhập khẩu lao động có chuyên môn kỹ thuật cao vào làm việc trong các doanh nghiệp vốn FDI, các dự án công ty nước ngoài trúng thầu và văn phòng đại diện nước ngoài. Những ngành nghề mở nhiều việc làm mới và bị thu hẹp. Nhìn chung, bốn khu vực sẽ tạo ra nhiều việc làm mới bao gồm những ngành nghề liên quan đến vốn đầu tư nước ngoài, xuất nhập khẩu, năng lực cạnh tranh cao và doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh bao gồm: cơ khí, thép, đóng tàu, hoá chất, năng lượng điện, giao thông vận tải, vật liệu xây dựng, công nghệ thông tin, viễn thông, điện, điện tử, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch và các loại hình dịch vụ...  - Khu vực xuất nhập khẩu sử dụng nhiều lao động tăng nhanh, bao gồm: chế biến thực phẩm, sản phẩm điện tử, cơ khí, sản phẩm hoá chất, xuất khẩu lao động, rau quả, vật liệu xây dựng, cao su, cà phê, hạt điều, sản phẩm gỗ, phần mềm và công nghệ thông tin, dịch vụ vận tải biển và giao nhận, thủ công mỹ nghệ... - Khu vực có năng lực cạnh tranh cao, bao gồm: gạo, cà phê, thuỷ sản, cao su tự nhiên, may mặc, da giày, đồ uống, đồ chơi, gốm sứ, thuỷ tinh, động cơ diesel công suất nhỏ, chất tảy rửa, biến thế, cáp điện, dầu thô, than, khí đốt chloruamit, hàng thủ công mỹ nghệ, du lịch... - Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện phát triển vì tính chất linh hoạt, năng động, "chen chân" được vào các lĩnh vực doanh nghiệp lớn còn bỏ ngỏ và khó xoay sở, bao gồm: doanh nghiệp dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển làng nghề, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu... Hiện nay, cả nước có hơn 240.000 doanh nghiệp, thu hút khoảng 9 triệu lao động. Dự kiến đến năm 2010, nước ta có khoảng 500.000 doanh nghịêp, góp phần tạo thêm 2,7 triệu chỗ làm việc mới cho người lao động. Chúng ta đang phấn đấu cải cách hành chính và tạo môi trường đầu tư thuận lợi để đến năm 2010 có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp (hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ) đạt tỷ lệ 200 người dân/1 doanh nghiệp. Trong khi đó, những ngành có khả năng cạnh tranh thấp sẽ bị thu hẹp, đó là những ngành có mức bảo hộ cao, có hàm lượng vốn lớn, công nghệ lạc hậu và năng suất lao động rất thấp, những ngành "xế chiều" khai thác tài nguyên thiên nhiên và xuất khẩu thô: thép, giấy, phân bón, hoá chất và ximăng của nhà sản xuất trong nước, khai thác mỏ, than, mía đường và nông nghiệp. II. Thực trạng thất nghiệp Việt Nam Trong thập niên vừa qua, kể từ năm 1995, tỷ lệ thanh niên thất nghiệp tại các quốc gia đang phát triển ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương tăng 85,5%Với tỷ lệ trên, 9,5 triệu thanh niên trong độ tuổi từ 15 đến 24 không có việc làm, báo cáo vừa công bố sáng nay (30/10) của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thuộc Liên Hợp Quốc cho biết Tại khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương, số thanh niên thất nghiệp trong 2005 là 15,8%, trong khi đó ở Nam Á là 10% - tương đương 13,7 triệu nam và nữ. Tại Đông Á, trừ Nhật, số lượng thanh niên không có việc làm giảm từ 13,1 triệu người xuống còn 12 triệu người trong khoảng thời gian từ 1995-2005, tương đương 7,8 %. Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp trên toàn cầu được dự đoán sẽ tăng thêm 24 triệu người vào năm 2015, với gần một nửa trong số đó, 11 triệu người là ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị theo phân vùng (%) Khu vực 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Sơ bộ 2007 6.42 6.28 6.01 5.78 5.60 5.31 4.82 4.64 Đồng bằng sông Hồng 7.34 7.07 6.64 6.38 6.03 5.61 6.42 5.74 Đông bắc 6.49 6.73 6.10 5.93 5.45 5.12 4.32 3.97 Tây Bắc 6.02 5.62 5.11 5.19 5.30 4.91 3.89 3.42 Bắc Trung Bộ 6.87 6.72 5.82 5.45 5.35 4.98 5.50 4.92 Duyên hải Nam Trung Bộ 6.31 6.16 5.50 5.46 5.70 5.52 5.36 4.99 Tây Nguyên 5.16 5.55 4.90 4.39 4.53 4.23 2.38 2.11 Đông Nam Bộ 6.16 5.92 6.30 6.08 5.92 5.62 5.47 4.83 Đồng bằng sông Cửu Long 6.15 6.08 5.50 5.26 5.03 4.87 4.52 4.03 Tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn phân theo vùng (%) Khu vực 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Sơ bộ 2006 74.16 74.26 75.42 77.65 79.10 80.65 81.79 Đồng bằng sông Hồng 75.53 75.36 76.08 78.25 80.21 78.75 80.65 Đông bắc 73.01 73.05 75.32 77.09 78.68 80.31 81.76 Tây Bắc 73.44 72.78 71.08 74.25 77.42 78.44 78.78 Bắc Trung Bộ 72.12 72.52 74.50 75.60 76.13 76.45 77.91 Duyên hải Nam Trung Bộ 73.92 74.60 74.85 77.31 79.11 77.81 79.81 Tây Nguyên 77.04 77.18 77.99 80.43 80.60 81.61 82.70 Đông Nam Bộ 76.58 76.42 75.43 78.45 81.34 82.90 83.46 Đồng bằng sông Cửu Long 73.18 73.38 76.53 78.27 78.37 80.00 81.70 Tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam nguồn GSO Năm % TN thành thị % thời gian lđ được sử dụng ở nông thôn 1996 5,88 72,28 1997 6,01 73,14 1998 6,85 71,13 1999 6,74 73,56 2000 6,44 74,18 2001 6,28 74,26 2002 6,01 75,30 2003 5,78 77,66 2004 5,6 79,2 2005 5,3 80,7 Tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm, nhưng tỷ lệ thất nghiệp hữu hình và dài hạn thấp, tỷ lệ thất nghiệp vô hình và ngắn hạn cao, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi ở khu vực thành thị còn lớn (4,91%) Theo tính toán có khoảng 20-30% thất nghiệp vì đất canh tác ngày càng thu hẹp do phát triển các khu công nghiệp Nguyên nhân Năm 2008 là năm thứ 2 Việt Nam chính thức là thành viên của WTO. Tác động của hội nhập kinh tế đến việc làm và thị trường lao động Việt Nam được thể hiện dưới nhiều hình thức: Tình trạng thất nghiệp và nghèo có thể gia tăng. Vì dưới tác động của cạnh tranh, có những doanh nghiệp sẽ bị phá sản, hoặc thu nhỏ sản xuất, và sẽ dẫn đến việc lao động bị mất việc làm hoặc bị giảm thu nhập. Trong khi đó, thị trường lao động sẽ hình thành theo hướng liên thông mở trong và ngoài nước, người lao động nước ngoài sẽ tham gia vào thị trường lao động Việt Nam, và nếu lao động trong nước không được đào tạo tốt, có kỹ năng đáp ứng yêu cầu thì cũng sẽ bị cạnh tranh ngay chính trên sân nhà. Theo tính toán, nếu GDP giảm đi 2% so với GDP tiềm năng thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên 1%. Theo dự báo, đến năm 2012, Việt Nam chỉ cung cấp được 50% nhu cầu lao động có kỹ năng đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Đó là con số đáng báo động. Hiện nay, nhìn vào con số người thất nghiệp của Việt Nam, người trẻ chiếm tỷ lệ rất lớn, tới 75% ở dưới tuổi 34. (Ở các nước, tỷ lệ này thường dao động ở mức 50-60%). Đây là sự lãng phí nguồn lực rất lớn Vậy thất nghiệp ở nước ta sẽ tăng hay giảm ? Trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc vào 2 nhân tố chính, đó là: nhận thức, đổi mới của hệ thống quản lý thị trường lao động cũng như của hệ thống giáo dục - đào tạo và nhận thức, bản lĩnh của từng người trong việc chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận sự thay đổi, quyết tâm học tập rèn luyện và ý chí vươn lên làm giàu.       Trước mắt (1- 2 năm), do mới dỡ bỏ một phần các bảo hộ của Nhà nước nên đầu tư vào dần dần, việc làm mới tạo ra chưa nhiều nhưng hầu hết yêu cầu trình độ cao (tỷ lệ vốn/ lao động cao), tỷ lệ thất nghiệp thành thị sẽ ít thay đổi, xoay quanh mức thất nghiệp hiện nay (5,15% vào năm 2006) nhưng sẽ có sự dịch chuyển nhỏ lao động từ khu vực chính thức - gồm trên 13 triệu người, chiếm khoảng 30% lao động xã hội - sang khu vực không chính thức. Trong ngắn hạn (3 - 5 năm), thất nghiệp hữu hình có thể sẽ tăng lên bởi vì mở cửa mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ cũng như đầu tư sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, đổi mới công nghệ và chất lượng lao động dẫn đến làm giảm số lượng lao động không được đào tạo và có thể gây phá sản đối với một số doanh nghiệp; thêm vào đó là sức ép của lao động dư thừa trong nông thôn - nông nghiệp (di chuyển lao động nông thôn- thành thị còn tiếp diễn hàng chục năm với quy mô hàng chục triệu người để đạt cơ cấu kinh tế của một nước công nghiệp hóa), khu vực doanh nghiệp nhà nước bị đẩy ra cộng với lực lượng lao động tham gia thị trường lao động lần đầu gia tăng vẫn ở mức cao (trên 1,2 triệu người/năm). Nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) và kinh nghiệm của Trung Quốc cũng phản ánh khuynh hướng này. Cùng với xu hướng thất nghiệp hữu hình tăng trong ngắn hạn là việc tăng nhanh tỷ lệ việc làm trong khu vực phi chính thức, giảm nhất thời việc làm trong khu vực chính thức. Sẽ có nhiều người mất việc và từ nông thôn ra bổ sung vào lực lượng tự tạo việc làm, làm dịch vụ, kinh doanh nhỏ và làm việc tạm thời trong những doanh nghiệp phi kết cấu, doanh nghiệp gia đình. Tỷ trọng làm việc của khu vực kinh tế nhà nước, của khu vực nông nghiệp sẽ giảm. Như vậy, tình trạng thất nghiệp trá hình (đặc biệt là dưới các hình thức thời gian làm việc ít, thu nhập thấp, trình độ cao làm việc giản đơn và làm trái ngành nghề) sẽ giảm. Trong dài hạn khi nền kinh tế mở cửa hấp thụ được lượng vốn đầu tư lớn, mặt bằng chất lượng lao động được nâng lên, nếu chúng ta xây dựng được một “xã hội học tập" có cạnh tranh rất mạnh về năng lực, phẩm chất, tư duy lao động và quản lý tốt, không để xảy ra khủng hoảng kinh tế thì thất nghiệp hữu hình sẽ giảm và đạt ở mức thất nghiệp tự nhiên. Những nhân tố tích cực này sẽ tiếp tục thúc đẩy ổn định và tăng trưởng kinh tế nhưng tác động của tăng năng suất sẽ ngày càng cao và chiếm ưu thế so với tăng việc làm. Thất nghiệp trá hình sẽ giảm mạnh trong dài hạn đồng thời với việc tăng việc làm trong khu vực chính thức làm công ăn lương và giảm dần tỷ trọng làm việc trong khu vực phi chính thức. Như vậy thất nghiệp tăng hay giảm phụ thuộc vào từng loại hình, từng thời kỳ và phụ thuộc vào chính từng người cũng như trình độ quản lý nền kinh tế nói chung, trình độ quản lý thị trường lao động nói riêng. Chương III: Định hướng giải quyết việc làm trong thời gian tới I. Định hướng và mục tiêu giải quyết việc làm ở Việt Nam 1. Định hướng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 có viết:“Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” Giải quyết việc làm được thực hiện thông qua ba hướng chính: phát triển kinh tế tạo nhiều việc làm xuất khẩu lao động, chuyên gia thực hiện chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện nhất quán chính sách đối với lao động dư dôi nhằm tạo điều kiện cho người lao động ổn định cuộc sống, và tìm việc làm mới sau khi thôi việc,. 2. Mục tiêu Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 sẽ  đưa được tổng số 1 triệu lao động đi xuất khẩu II.Thị trường lao động Thị trường lao động là kênh chính giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp ở mọi quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Sở dĩ như vậy vì 3 lý do: những thay đổi về việc làm là kết quả của thay đổi cơ cấu kinh tế; môi trường kinh doanh (nơi tạo ra doanh nghiệp mới và nuôi dưỡng sáng kiến) phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tạo việc làm và tăng năng suất của thị trường lao động lao động gần như là tài sản duy nhất mà người nghèo đang sở hữu. Do vậy, trong một môi trường được quản lý tốt, tính hiệu quả và tính công bằng cần đặt lên trên hết nhằm hướng tới mục tiêu: việc làm đầy đủ, việc làm có năng suất và việc làm nhân văn. Để đạt được các mục tiêu đã nêu thì thị trường lao động cần làm tốt ba chức năng (2):       - Phân bố nguồn lực có hiệu quả: bảo đảm mọi người tìm được việc làm nhanh chóng, phù hợp với kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và năng lực từng người.       - Phân phối thu nhập công bằng: gắn tiền lương với kết quả công việc và hiệu quả kinh doanh, công nhân được trả đúng với giá trị cống hiến, tốc độ tăng năng suất lao động phải lớn hơn tốc độ tăng tiền lương thực tế.       - Phân tán rủi ro: có hệ thống chính sách bảo vệ người thất nghiệp, hạn chế đến tối thiểu việc mất thu nhập, tạo điều kiện để người thất nghiệp có thể tìm được việc làm nhanh chóng.       Thực hiện ba chức năng đã nêu sẽ trực tiếp làm tăng tổng sản phẩm xã hội, tăng thu nhập của cá nhân người lao động và thoả mãn các nhu cầu về mặt xã hội – thực hiện ổn định xã hội gắn liền với tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, tình trạng thất nghiệp lớn sẽ gây ra những hậu quả kinh tế – xã hội nghiêm trọng; bởi vì những người thất nghiệp đã bị đẩy từ khu vực sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội và cho bản thân mình sang khu vực nhận phân phối thu nhập của nền kinh tế vốn đã rất eo hẹp. Một số giải pháp phát triển thị trừơng lao động Giải pháp liên quan đến cung lao động Duy trì các kết quả đã đạt được liên quan đến chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm hạn chế tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là 1 đòi hỏi cấp bách để có thể tiến tới hội nhập khu vực và quốc tế Nâng cao trình độ của những người dưới độ tuổi lao động Nhanh chóng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động thong qua đào tạo lao động kỹ thuật gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm hình thành cơ cấu lao động mới phù hợp với nền kinh tế hiện đại Đẩy mạnh công tác dạy nghề bằng nhiều cách như đạo tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,trường nghề, kết hợp vừa học vừa làm, đào tạo từ xa,… Đổi mới công tác giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, điều phối tốt công tác giao dục đào tạo để có 1 cơ cấu đào tạo hợp lý giữa các bậc và các chuyên môn Mở rộng quy mô và chất lượng cầu lao động Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp. Chiến lược phát triển sử dụng nhiều lao động, lựa chọn phát triển các ngành kinh tế hiện đại kết hợp với duy trì và phát triển các ngành kinh tế truyền thống lợi thế trong xuất khẩu của Việt Nam là 1 trong số các hướng đi được đánh giá là hiệu quả và hợp thời Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút việc làm Về công tác xuất khẩu lao động: cần tạo ra được nhận thức đúng đắn của các cấp và toàn xã hội về xuất khẩu lao động và chuyên gia từ đó thiết lập được sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền cơ sở và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Cần xây dựng và thực hiện các đề án riêng phù hợp với đặc điểm của từng thị trường. Cuối cùng cần chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của thị trường và có sự tuyển chọn cũng như đào tạo đội ngũ này 1 cách kỹ lưỡng (đào tạo người lao động về: ngoại ngữ, pháp luật, văn hóa, phong tục của nước sở tại) Hoàn thiện chính sách và thể chế thị trường lao động Tạo điều kiện để thị trường lao động vận hành có hiệu quả. Pháp luật về lao động cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của Bộ luật lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động Các tổ chức giao dịch về lao động và việc làm cần có cơ chế để có thể hoạt động tích cực hơn, người lao động và người sử dụng lao động có thể dễ dàng tiếp cận được với nhau, đặc biệt tại các nơi có mật độ dân cư cao và tỷ lệ người tìm việc lớn để giúp cho người lao động có thể tiếp cận đến việc làm 1 cách thuận tiện nhất, cần hình thành hệ thống thông tin – thống kê về thị trường lao động, nắm bắt thường xuyên, cập nhật kịp thời về tình hình cung và cầu lao động theo vùng, ngành Về công tác tiền lương nên giảm sự can thiệp của nhà nước trong công tác tiền lương đặc biệt với các doanh nghiệp nhà nước. Cần hoàn chỉnh chế độ tiền lương theo hướng thị trường, tiến tới thống nhất mức lương cho mọi loại hình doanh nghiệp, các nội dung khác nhà nước chỉ nên hướng dẫn, không nên duyệt đơn tiền lương và khống chế mức tiền lương bình quân III. Giải pháp Các văn bản Luật: Luật lao động sửa đổi(12/12/2006) Nghị định quy định về tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp(27/3/2000) Luật bảo hiểm xã hội(12/7/2006) Luật người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng(29/11/2006) Luật dạy nghề(12/12/2006) Các giải pháp chính của nhà nước Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm có nội dung cơ bản sau: Chương trình hoạt động với 3 dự án và 2 hoạt động chủ yếu sau: 1. Dự án vay vốn tạo việc làm:  a) Mục tiêu: tạo việc làm cho 1,7 - 1,8 triệu lao động thông qua hoạt động vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm.  b) Nội dung: - Cho vay ưu đãi với lãi suất thấp đối với người thất nghiệp, người thiếu việc làm, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang trại, làng nghề có khả năng tạo nhiều việc làm mới, đặc biệt đối với thanh niên chưa có việc làm; - Hàng năm, ngân sách Trung ương bổ sung cho Quỹ quốc gia về việc làm cho 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Quốc phòng và các tổ chức chính trị - xã hội. 2. Dự án hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: a) Mục tiêu: đưa 40 - 50 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. b) Nội dung: - Hỗ trợ khai thác, mở thị trường tiếp nhận lao động; - Hỗ trợ cấp bù chênh lệch lãi suất cho vay đối với các đối tượng chính sách vay vốn đi làm việc ở nước ngoài; - Hỗ trợ đào tạo nghề, đào tạo định hướng, nâng cao chất lượng nguồn lao động. 3. Dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động: a) Mục tiêu: nâng cao năng lực và hiện đại hoá 30 - 40 Trung tâm giới thiệu việc làm; nâng số người được tư vấn và giới thiệu việc làm lên 4 triệu người trong 5 năm; xây dựng và đưa vào sử dụng trang Web về thị trường lao động vào năm 2008. b) Nội dung: - Nâng cao năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường lao động; - Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; - Hàng năm, tổ chức điều tra thị trường lao động giúp cho việc đánh giá thực hiện các mục tiêu của Chương trình và xây dựng kế hoạch lao động trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; - Hỗ trợ tổ chức sàn giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên. 4. Hoạt động giám sát, đánh giá: a) Mục tiêu: đánh giá, giám sát các hoạt động, dự án trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.b) Nội dung: - Đánh giá kết quả thực hiện các dự án trong Chương trình, kết quả từng năm và thực hiện Chương trình; - Giám sát việc thực hiện các hoạt động trong Chương trình; - Nghiên cứu, kiến nghị, sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách cho phù hợp với đặc thù của Chương trình. 5. Hoạt động nâng cao năng lực quản lý lao động - việc làm: a) Mục tiêu: hướng dẫn nghiệp vụ cho 75 nghìn cán bộ làm công tác lao động - việc làm từ Trung ương đến địa phương; b) Nội dung: tổ chức tập huấn về phương pháp xây dựng và triển khai Chương trình, các văn bản mới; phương pháp xây dựng và quản lý dự án vay vốn Quỹ quốc gia về việc làm, nghiệp vụ giới thiệu việc làm cho cán bộ các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, cán bộ Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cán bộ lao động - việc làm ở địa phương. Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm qua hai giai đoạn 2001-2005 và đến 2010, trong đó dự án vay vốn giải quyết việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm đóng vai trò chính hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm. Đã có hàng trăm ngàn dự án vay vốn giải quyết việc làm từ Quỹ quốc gia. Chương trình này đã góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân và toàn xã hội về việc làm, khiến người lao động chủ động tự tạo việc làm cho bản thân, không trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 đã chỉ rõ: nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người(HDI) của nước ta. Tốc độ dân số đến năm 2010 còn 1,1%. Xoá hộ đói, giảm hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn( thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80-85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng cao lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện Chương trình dạy nghề Chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực Lấy phát triển bền vững còn người làm trung tâm Mỗi con người là một cá nhân độc lập làm chủ quá trình lao động của mình Lấy lợi ích của người lao động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý lao động nhằm tăng năng suất lao động Bảo đảm môi trường dân chủ thuận lợi cho tiến hành giao lưu đồng thuận, tạo cơ hội thăng tiến cho tất cả mọi người Có chính sách giải phóng và phát huy tiềm năng của người lao động, bảo đảm hiệu quả công việc Phát triển nguồn nhân lực bám sát thị trường lao động. Mấu chốt là phải xây dựng được các chính sách quản lý phát triển giáo dục và đào tạo đúng đắn Có hệ thống chính sách sử dụng phù hợp nguồn nhân lực bao gồm tuyển dụng , chính sách lao động, phân công lao động, phân bổ nguồn nhân lực, chính sách cán bộ, tiền lương, khen thưởng Chương trình bảo hiểm thất nghiệp, mặc dù chương trình này làm giảm nhẹ những khó khăn về kinh tế cho người thất nghiệp nhưng nó lại làm tăng quy mô thất nghiệp tạm thời và tỷ lệ thất nghiệp. Người thất nghiệp nhận được trợ cấp thất nghiệp phải chịu ít sức ép hơn trong việc tìm kiếm việc làm mới và rất có khả năng họ không chấp nhận công việc không hấp dẫn. Khi ký hợp đồng anh ta cũng ko muốn ký hợp đồng dài hạn vì anh ta biết rằng chương trình bảo hiểm thất nghiệp đảm bảo một phần thu nhập của mình. Ngoài ra khi nền kinh tế lâm vào tình trạng bất ổn tỷ lệ thất nghiệp tăng lên thì chương trình này sẽ ngốn khá nhiều ngân sách của nhà nước Tính đến hết  năm 2006, nhà nước đã chi 6.376 tỷ đồng để giải quyết chính sách cho gần 200 nghìn lao động tại 3.656 doanh  nghiệp sắp xếp lại, tạo thuận lợi cho lao động sau khi rời doanh nghiệp có thể tự lập nghiệp hoặc có việc làm mới phù hợp với khả năng. Các giải pháp khác của nhà nước Quỹ quốc gia giải quyết việc làm tại các địa phương: là một trong những chương trình hỗ trợ trực tiếp tạo việc làm. Vốn vay từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm với lãi suất ưu đãi là biện pháp tài chính quan trọng để kích thích các cơ sở sản xuất kinh doanh, các hộ gia đình được vay vốn phát triển sản xuất tạo việc làm và tăng thu nhập. Công đoàn Việt Nam: là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động. Các hoạt động tự tìm việc của người lao động Chủ động tìm việc làm, nhiều lao động ở nông thôn đã tìm đến các khu đô thị và công nghiệp để tìm cơ hội mới. Quá trình này sẽ còn kéo dài hàng chục năm nữa với quy mô hàng chục triệu người. Và trong thời gian tới, cơ cấu lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Lao động dịch chuyển sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Phần lớn đội ngũ này có năng lực chuyên môn, chấp nhận sự thay đổi, có trình độ ngoại ngữ tốt Có một lượng lớn lao động từ khu vực Nhà nước đã sang khu vực tư nhân Một lượng lớn lao động Việt Nam đi xuất khẩu lao động Ngược lại, chính quá trình hội nhập cũng tạo thêm được nhiều việc làm có năng suất cao, trước hết là ở khu vực có vốn FDI và thông qua việc xuất khẩu các loại máy móc thiết bị. Từ đó, sẽ xây dựng và phát triển được một bộ phận việc làm hiện đại với năng suất cao, tác động lan tỏa ra toàn bộ nền kinh tế. Lao động Việt Nam khi được “so tay” với lao động ngoại quốc có kỹ năng tốt cũng sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm hơn. Hội nhập chính là cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, để nhanh chóng tiếp cận trình độ chung của thế giới thông qua con đường đào tạo và học hỏi kinh nghiệm khi làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài. Và những kinh nghiệm của quá trình làm việc trong môi trường quốc tế ngay tại “sân nhà” sẽ giúp ích rất nhiều cho lao động Việt Nam trong giai đoạn hội nhập này. IV.Khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế đối với các nước đang phát triển. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới có hiệu quả, ILO khuyến cáo các nước đang phát triển cần tập trung vào việc đáp ứng những yêu cầu thích nghi và hiện đại hóa phương thức quản lý thị trường lao động. Các hướng ưu tiên bao gồm :       - Giảm khu vực kinh tế phi chính thức, tạo điều kiện để phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư, cải thiện điều kiện lao động; người lao động có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, được tư vấn pháp luật, được hưởng tín dụng nhỏ và có điều kiện hợp tác để mở rộng việc làm nhân văn.       - Phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn, tạo điều kiện cho di chuyển lao động giải quyết lao động dư thừa, hạn chế việc tăng khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các nhóm dân cư. - Nâng cao chất lượng và độ linh hoạt của hệ thống giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của thị trường và cạnh tranh quốc tế. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động theo hướng quản lý gián tiếp, phi tập trung, chống phân biệt đối xử, bảo đảm quyền được làm việc và được an toàn, quyền thương lượng và tự do cư trú. - Tăng cường đối thoại xã hội và thương lượng tập thể nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, lành mạnh. - Phê chuẩn các Công ước của ILO liên quan đến việc làm, thị trường lao động, tiền lương, dịch vụ việc làm, hướng nghiệp và đào tạo nghề, an toàn vệ sinh lao động và khuyến khích áp dụng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”. Lời kết Đề án là sự tổng hợp ý kiến của rất nhiều bên từ các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu, các trường đại học đến các doanh nghiệp, người dân và các cơ quan quốc tế đang có hoạt động nghiên cứu về nền kinh tế Việt Nam.những thử thách, khó khăn đang đặt ra rất nhiều nhưng với đội ngũ rất lớn những người có tâm huyết trong việc đưa đất nước đi lên. Với 1 cơ sở lý luận đúng đắn, bộ máy chính trị ổn định, cùng với sự nỗ lực của người dân, em tin chắc trong một tương lai gần vấn đề thất nghiệp sẽ được cải thiện một cách đáng kể.Mặc dù còn nhiều thiếu sót nhưng em hi vọng bản đề án có thể cho chúng ta thấy được một cái nhìn khách quan về tình hình thất nghiệp của nước ta. Qua việc tìm hiểu nguyên nhân và giải pháp của vấn đề, chúng ta có thể hiểu hơn và xây dựng lên những chính sách đúng đắn và khả thi. Các tài liệu tham khảo Sự biến đổi tâm lý và điều kiện sống của công nhân viên chức và lao động thủ đô trong quá trình sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước – nhà xuất bản lao động Xuất khẩu lao động của một số nước Đông Nam Á – kinh nghiệm và bài học – nhà xuất bản khoa học xã hội Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam – nhà xuất bản khoa học xã hội www.nobelprize.org Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21491.doc
Tài liệu liên quan