Khuyến nghị
Để bảo đảm cho quyền hiến định của
con người, của công dân thực sự là quyền,
chúng tôi để xuất một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục rà soát, soạn thảo,
thông qua các luật cụ thể hóa các quyền đã
được xác định trong Hiến pháp năm 2013.
Điều này đóng vai trò rất quan trọng trong
việc khắc phục tình trạng thiếu thống nhất,
đồng bộ của hệ thống pháp luật về quyền
cũng như không bảo đảm tính hợp hiến, tôn
trọng quyền trên thực tế.
Thứ hai, cần chuyển đổi từ tư duy quản
lý sang tư duy kiến tạo phát triển trong xây
dựng và thi hành pháp luật. Nếu việc xây
dựng (và cả thi hành) pháp luật về quyền chỉ
đơn thuần dựa trên nhu cầu quản lý thì mục
đích của pháp luật chưa đạt được. Theo
phương pháp tiếp cận dựa trên quyền
(Human Rights-Based Approach), việc xây
dựng, thi hành pháp luật cần phải dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau:12 (1) Coi việc
hỗ trợ thực hiện, hưởng thụ các quyền con
người là một mục tiêu cơ bản trong việc xây
dựng, thi hành pháp luật; (2) Lấy các nguyên
tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người
làm định hướng trong việc xây dựng, thi
hành pháp luật; (3) Làm rõ những chủ thể
của quyền, chủ thể có nghĩa vụ và các quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể có quyền, có trách
nhiệm trong quá trình xây dựng, thi hành
pháp luật. Nếu như đội ngũ cán bộ xây dựng,
thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật tiếp cận toàn diện với phương pháp
tiếp cận dựa trên quyền sẽ bảo đảm tốt hơn
yêu cầu về bảo vệ quyền.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Để quyền thực sự là quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỂ QUYỀN THỰC SỰ LÀ QUYỀN
TS. Trương Hồng Quang
* Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Chuyển đổi giới tính, tiếp
cận thông tin, quyền con người, quyền
công dân, hạn chế quyền.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 02/5/2020
Biên tập : 22/5/2020
Duyệt bài : 28/5/2020
Article Infomation:
Keywords: Gender reassignment,
access to information, human rights,
citizen rights, restriction of rights.
Article History:
Received : 02 May. 2020
Edited : 26 May. 2020
Approved : 28 May. 2020
Tóm tắt:
Bài viết phân tích một số vấn đề trong quá trình xây dựng và thi
hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam.
Từ đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để quyền thực sự là
quyền.
Abstract:
This article provides an analysis of some issues in the process of
developing and enforcing legal regulations on human rights and
citizen rights in Vietnam. It is also based on the practices, the
author proposes a number of recommendations for this issue so
that the right becomes truly it is.
Bảo vệ quyền con người, quyền côngdân là một chức năng, nhiệm vụ củaNhà nước và là một đặc tính quan
trọng của Nhà nước pháp quyền1. Tuy vậy,
không phải bao giờ quá trình xây dựng, thi
hành pháp luật về quyền con người, quyền
công dân (sau đây gọi là quyền) cũng đáp ứng
được kỳ vọng. Thực tế cho thấy, còn có tình
trạng như “treo quyền”, quyền đã được hiến
định và thể chế hóa nhưng chưa đủ cơ sở thực
thi hoặc pháp luật về quyền còn nặng về tính
quản lý, Việc đánh giá, tìm ra các nguyên
nhân của tình trạng này đóng vai trò rất quan
trọng để bổ sung, phát triển cơ chế bảo vệ
quyền hiện nay.
1. Hiện tượng “treo quyền”
Hiện nay, một số quyền hiến định chưa
được luật hóa hoặc đang được điều chỉnh bởi
văn bản có hiệu lực pháp lý thấp. Cụ thể,
một số quyền như: quyền biểu tình, quyền
lập hội, quyền hội họp, quyền tự do ngôn
luận, quyền được sống trong môi trường
trong lành chưa được cụ thể hóa đầy đủ
bằng văn bản luật. Một số quyền được điều
chỉnh bởi nghị định, thông tư. Ví dụ, Nghị
định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của
Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động
và quản lý hội (có nội hàm của quyền lập
hội),... Khoảng trống trong quy định của
pháp luật về quyền gây ảnh hưởng đến việc
tiếp cập, thực hiện các quyền của công dân.
Số 13 (413) - T7/202024
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1 Xem: Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (đồng chủ biên, 2019),
Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, sách chuyên khảo, tái bản
lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.7.
25Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Khi phân tích quyền chuyển đổi giới
tính sẽ cho thấy tình trạng “treo quyền” thực
sự khá lo ngại. Trước đây, Bộ luật Dân sự
năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa
ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính (mặc dù
đã được đề cập trong quá trình soạn thảo)2.
Thực tiễn cho thấy, chuyển đổi giới tính là
nhu cầu chính đáng của người chuyển giới3.
Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận vấn đề
chuyển đổi giới tính trong phần Quyền nhân
thân (Điều 37): “Việc chuyển đổi giới tính
được thực hiện theo quy định của luật. Cá
nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa
vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định
của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân
phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi
theo quy định của Bộ luật này và luật khác
có liên quan”.
Tuy nhiên, có hai vấn đề cần quan tâm
liên quan đến vấn đề chuyển đổi giới tính:
Thứ nhất, quy định về chuyển đổi giới
tính tại Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015
vẫn còn điểm “vênh” so với các quyền nhân
thân khác. Tên các điều về quyền nhân thân
khác đều được thiết kế theo cấu trúc “Điều
. Quyền.” nhưng tên Điều 37 chỉ được
thiết kế với nội dung “Điều 37. Chuyển đổi
giới tính”.
Thứ hai, Bộ luật Dân sự năm 2015 được
thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2017 nhưng đến nay, vẫn chưa
có văn bản quy định cụ thể về quyền này.
Theo Kế hoạch triển khai thi hành Bộ
luật Dân sự năm 2015 (ban hành kèm theo
Quyết định số 243/QĐ-TTg ngày
05/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ), Bộ
Y tế được giao “nghiên cứu, đề nghị xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật về chuyển
đổi giới tính” (mục II.4b), thực hiện trong
năm 2016 và năm 2017. Thực hiện nhiệm vụ
được giao, Bộ Y tế đã lập đề nghị xây dựng
Luật Chuyển đổi giới tính, gửi Bộ Tư pháp
thẩm định vào tháng 12/2017. Trên cơ sở đó,
Bộ Tư pháp đã có Báo cáo thẩm định số
10/BC-BTP ngày 15/01/2018 gửi Bộ Y tế và
Văn phòng Chính phủ. Ngày 19/7/2018, Bộ
Tư pháp đã có Công văn số 2639/BTP-
PLDSKT gửi Bộ Y tế đề nghị Bộ Y tế tiếp
tục nghiên cứu, thúc đẩy tiến độ xây dựng
dự án Luật Chuyển đổi giới tính, đảm bảo
hiệu quả triển khai thi hành Bộ luật Dân sự
năm 2015. Tuy nhiên, phải đến năm 2020,
Bộ Y tế mới trình Chính phủ hồ sơ đề nghị
xây dựng Luật Chuyển đổi giới tính để
Chính phủ xem xét, đề nghị Quốc hội đưa
vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Theo Báo cáo nghiên cứu “Hiện trạng
trải nghiệm y tế và nhu cầu chuyển đổi giới
tính của người chuyển giới ở Việt Nam” do
Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi
trường (iSEE) công bố năm 20174, trong số
408 người chuyển giới tham gia khảo sát thì
có 56,8% dự định ra nước ngoài làm phẫu
thuật; 13% dự định làm tại các cơ sở y tế và
bệnh viện tư trong nước; chỉ có 8,6% dự
định phẫu thuật ở các cơ sở y tế/bệnh viện
công trong nước; 157 người (chiếm 38,5%)
chưa phẫu thuật nhưng đang sử dụng hoc-
môn; 35 người (chiếm 8,6%) đã từng trải
qua ít nhất một lần phẫu thuật chuyển đổi
giới tính. Trong số 35 người này, 40% đã ra
nước ngoài để thực hiện phẫu thuật; 37,1%
thực hiện tại các cơ sở tư nhân trong nước;
69,4% được khám đánh giá một cách toàn
diện trước khi phẫu thuật; 28,6% được khám
đánh giá tuy nhiên chưa được làm đầy đủ,
thoả đáng theo như họ mong muốn; 2% cho
biết không được khám đánh giá trước phẫu
thuật; 14,3% không nhận được chăm sóc và
tư vấn hậu phẫu, 25,7% có nhận được dịch vụ
này nhưng không cảm thấy hài lòng; 60% cho
biết họ nhận được khám và tư vấn tâm lý đầy
đủ sau phẫu thuật; 71,4% cho biết sau khi
2 Xem: Hồng Khánh (2006), Người chuyển đổi giới tính phải được thừa nhận, https://vnexpress.net/tin-
tuc/thoi-su/nguoi-chuyen-doi-gioi-tinh-phai-duoc-thua-nhan-2072247.html, ngày 27/10/2006.
3 Xem: Trương Hồng Quang, Nguyễn Bích Loan, Vũ Hữu Trường Điền (2017), Bộ luật Dân sự năm 2005 và
2015: Phân tích - Đối chiếu, tái bản lần thứ nhất, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.62-64.
4 Xem nội dung của báo cáo tại địa chỉ:
ence-on-medical-intervention-of-Transgender-community-in-Vietnam-FINAL.pdf, truy cập ngày 01/5/2020.
Số 13 (413) - T7/202026
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
phẫu thuật, họ gặp rắc rối liên quan đến giấy
tờ tuỳ thân, do ngoại hình thật không khớp
với thông tin và hình ảnh trên giấy tờ; 14,3%
nhận thấy sức khỏe giảm sút sau khi phẫu
thuật. Với chi phí can thiệp y học rất cao,
nhiều người đã tìm đến các dịch vụ chui giá
thấp và chính họ gặp không ít rủi ro. Có thể
thấy, việc chưa có một hành lang pháp lý đầy
đủ về chuyển đổi giới tính đã dẫn đến quyền
chuyển đổi giới tính đang bị “treo” và nhiều
người chuyển giới đã phẫu thuật trước đây
vẫn tiếp tục sống trong tình trạng giấy tờ nhân
thân khác với cơ thể hiện tại, vẫn có thể bị
xâm phạm tình dục nhưng chưa được bảo vệ
thích đáng, gặp khó khăn trong việc thực hiện
một số thủ tục hành chính/dịch vụ công5...
2. Quyền được hiến định và thể chế hóa
nhưng chưa đủ cơ sở thực thi
Thực tiễn lập hiến và lập pháp của Việt
Nam cho thấy, đôi khi nguyên tắc về quyền
và một quyền cụ thể đã được hiến định và
thể chế hóa nhưng vẫn chưa đủ cơ sở để thực
thi trong thực tế; ví dụ, vấn đề hạn chế quyền
liên quan đến quyền tiếp cận thông tin.
Trước hết, hạn chế quyền là việc cho phép
nhà nước áp đặt điều kiện hay hạn chế với việc
thực hiện/hưởng thụ một số quyền con người,
quyền công dân nhất định nhằm bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng6. Vấn đề này được ghi
nhận trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến
pháp ở nhiều quốc gia dưới những hình thức
diễn đạt khác nhau và với mức độ khác nhau.
Quan điểm được chấp nhận rộng rãi là phần
lớn các quyền con người mang tính tương đối
(relative right) nên có thể bị hạn chế. Sự hạn
chế quyền là hiện tượng bình thường và phổ
biến ở mọi quốc gia7.
Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, với
Hiến pháp năm 2013, đây là lần đầu tiên
nguyên tắc chung về hạn chế quyền được
hiến định. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng”. Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 15
Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “Việc
thực hiện quyền con người, quyền công dân
không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân
tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác”. Những quy định này được đánh giá
là một điểm sáng của Hiến pháp năm 2013.
Theo đó, không được ai tùy tiện cắt xén, hạn
chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần
thiết nhưng phải được luật quy định. Có thể
nhận thấy, Hiến pháp năm 2013 đã xác lập
một nguyên tắc chung về hạn chế quyền8.
Việc hạn chế việc thực hiện quyền chính là
điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của các
quyền con người, quyền công dân. Quy định
này nhằm bảo đảm rằng việc hạn chế quyền
chỉ được đặt ra khi có lý do khách quan, hợp
pháp và hợp lý, trên cơ sở có sự nghiên cứu,
cân nhắc cẩn thận của chủ thể có thẩm
quyền. Như vậy, quy định về nguyên tắc hạn
chế quyền đã góp phần bổ sung cho hệ thống
cơ chế bảo vệ quyền con người tại Việt Nam.
Tuy vậy, nguyên tắc hạn chế quyền nêu
trên còn khá nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu làm rõ, bổ sung, phát triển cả về cơ sở
pháp lý và trong thi hành pháp luật. Nội
dung nguyên tắc hạn chế quyền tại Điều 14
Hiến pháp năm 2013 vẫn chưa được giải
thích, minh định rõ về trường hợp cần thiết
hạn chế quyền. Luật Tiếp cận thông tin năm
5 Xem: Trương Hồng Quang (2019), Quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính theo
pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.106.
6 Xem: Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên, 2015), Giới hạn chính đáng đối với các quyền con người, quyền công
dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr.29.
7 Xem: Jack Donnelly, “The Relative Universality of Human Rights”, Human Rights Quarterly, Vol. 29, No.
2 (May, 2007), pp.281-306.
8 Xem: Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (đồng chủ biên, 2019),
Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, tlđd, tr.24.
27Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
20169 nhắc lại quy định của Hiến pháp năm
2013 về việc hạn chế quyền tiếp cận thông
tin phải do luật định trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng; việc thực hiện quyền
tiếp cận thông tin của công dân không được
xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
hoặc của người khác (khoản 4, 5 Điều 3). Ở
đây cho thấy, Luật chưa làm rõ được cụ thể
lý do/mục đích hạn chế quyền tiếp cận thông
tin. Điều này dẫn đến các cách giải thích
khác nhau, không thống nhất trong thực tế.
Ví dụ, thông tin về đại dịch bệnh truyền
nhiễm rõ ràng liên quan đến sức khỏe cộng
đồng nhưng cơ quan nhà nước chưa muốn
công bố sớm vì sợ sẽ gây mất trật tự trong
xã hội, gây hoang mang cho người dân. Vậy,
trong trường hợp này thông tin có nên được
công bố sớm hay không? Làm cách nào để
xác định được một biện pháp nào là cần thiết
hơn và chính đáng hơn?
Bên cạnh đó, một số quy định về điều
kiện, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông
tin chưa có cơ sở bảo đảm thi hành trong
thực tiễn. Ví dụ, Điều 7 Luật Tiếp cận thông
tin năm 2016 quy định vấn đề thông tin công
dân được tiếp cận có điều kiện như sau:
“1. Thông tin liên quan đến bí mật kinh
doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ
sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý.
2. Thông tin liên quan đến bí mật đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận
trong trường hợp được người đó đồng ý;
thông tin liên quan đến bí mật gia đình được
tiếp cận trong trường hợp được các thành
viên gia đình đồng ý.
3. Trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng
đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung
cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh
doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì
lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng
theo quy định của luật có liên quan mà
không cần có sự đồng ý theo quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này”.
Tuy nhiên, thế nào là bí mật đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, lợi
ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng cho
đến nay vẫn là câu hỏi đang còn bỏ ngỏ. Nếu
không làm rõ được những câu hỏi này, quyền
của các chủ thể sở hữu các bí mật nêu trên sẽ
bị hạn chế một cách không rõ ràng ngay từ cơ
sở pháp lý. Do đó, Điều 7 Luật Tiếp cận thông
tin sẽ khó đi vào đời sống xã hội.
3. Các điều kiện, thủ tục, quy trình thực
hiện quyền còn nặng về quản lý nhà nước
Điểm d, khoản 2 Điều 24 Luật Tiếp cận
thông tin năm 2016 quy định người yêu cầu
phải cung cấp lý do, mục đích cung cấp
thông tin. Có thể thấy rằng, quy định này còn
nặng về quản lý, chưa tiếp cận được dưới
góc độ quyền con người, quyền công dân.
Nếu thông tin đó là thông tin được phép
cung cấp thì lý do, mục đích của việc sử
dụng thông tin không còn quan trọng. Pháp
luật quốc tế và pháp luật ở các nước trên thế
giới không buộc người yêu cầu phải nêu lý
do, mục đích của việc sử dụng thông tin.
Trong quá trình soạn thảo Luật Tiếp cận
thông tin năm 2016, qua các bản Dự thảo
Luật cho thấy sự thay đổi về nội dung quy
định này:10
- Dự thảo Luật đăng tải lấy ý kiến nhân
dân trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư
pháp không có quy định này.
9 Có thể xem thêm về chủ đề này trong một số công bố của cùng tác giả: Trương Hồng Quang (2018), “Nhu
cầu giải thích quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, (3), tr.3-13; Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng
Quang (đồng chủ biên, 2019), Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm
2013, tlđd.
10 Luật này được chuẩn bị trong vòng 10 năm mới có thể thông qua và ban hành. Xem: Nguyễn Lê (2019),
Tiếp cận thông tin: Có luật rồi nhưng dân vẫn phải “xin”,
roi-nhung-dan-van-phai-xin-20190327121828862.htm, ngày 27/3/2019.
Số 13 (413) - T7/202028
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
- Điểm d khoản 2 Điều 17 Dự thảo trình
Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp
thứ 40, Quốc hội khóa XIII, tháng 8/2015
quy định văn bản yêu cầu cung cấp thông tin
phải có lý do yêu cầu cung cấp thông tin và
mục đích sử dụng thông tin đối với thông tin
quy định tại khoản 3 Điều 16 của Luật này
(thông tin về các hoạt động nội bộ; hồ sơ, tài
liệu nội bộ của các cơ quan nhà nước; thông
tin đang trong quá trình giải quyết công việc
của các cơ quan nhà nước, nếu việc cung cấp
là cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người yêu cầu nhưng không
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba);
- Điểm d khoản 2 Điều 20 của dự thảo
Luật trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ
10, Quốc hội khóa XIII quy định văn bản
yêu cầu cung cấp thông tin phải có lý do yêu
cầu cung cấp thông tin và mục đích sử dụng
thông tin đối với thông tin quy định tại
khoản 2 Điều 19 của Luật này (thông tin liên
quan đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất, kinh
doanh của công dân nhưng không thuộc loại
thông tin phải được công khai theo quy định
tại Điều 14 của Luật này).
- Các dự thảo về sau đến lúc được Quốc
hội thông qua quy định nội dung văn bản yêu
cầu cung cấp thông tin cần có lý do yêu cầu
cung cấp thông tin, mục đích sử dụng thông
tin đối với tất cả các loại thông tin (lý do hoặc
cả lý do và mục đích sử dụng thông tin).
Chúng tôi cho rằng, nội dung quy định
của điểm d, khoản 2 Điều 24 Luật Tiếp cận
thông tin năm 2016 như vậy chưa thể hiện
đúng nguyên tắc hạn chế quyền được quy
định tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013. Điều
này có thể dẫn đến tình trạng hạn chế quyền
tiếp cận thông tin một cách không chính
đáng trên thực tế.
4. Khuyến nghị
Để bảo đảm cho quyền hiến định của
con người, của công dân thực sự là quyền,
chúng tôi để xuất một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục rà soát, soạn thảo,
thông qua các luật cụ thể hóa các quyền đã
được xác định trong Hiến pháp năm 2013.
Điều này đóng vai trò rất quan trọng trong
việc khắc phục tình trạng thiếu thống nhất,
đồng bộ của hệ thống pháp luật về quyền
cũng như không bảo đảm tính hợp hiến, tôn
trọng quyền trên thực tế.
Thứ hai, cần chuyển đổi từ tư duy quản
lý sang tư duy kiến tạo phát triển trong xây
dựng và thi hành pháp luật. Nếu việc xây
dựng (và cả thi hành) pháp luật về quyền chỉ
đơn thuần dựa trên nhu cầu quản lý thì mục
đích của pháp luật chưa đạt được. Theo
phương pháp tiếp cận dựa trên quyền
(Human Rights-Based Approach), việc xây
dựng, thi hành pháp luật cần phải dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau:12 (1) Coi việc
hỗ trợ thực hiện, hưởng thụ các quyền con
người là một mục tiêu cơ bản trong việc xây
dựng, thi hành pháp luật; (2) Lấy các nguyên
tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người
làm định hướng trong việc xây dựng, thi
hành pháp luật; (3) Làm rõ những chủ thể
của quyền, chủ thể có nghĩa vụ và các quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể có quyền, có trách
nhiệm trong quá trình xây dựng, thi hành
pháp luật. Nếu như đội ngũ cán bộ xây dựng,
thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật tiếp cận toàn diện với phương pháp
tiếp cận dựa trên quyền sẽ bảo đảm tốt hơn
yêu cầu về bảo vệ quyền.
Thứ ba, Ủy ban thường vụ Quốc hội cần
ban hành nghị quyết giải thích một số quy
định về quyền trong Hiến pháp năm 2013
(khoản 2 Điều 14, khoản 4 Điều 15) để tạo
cơ sở cho việc cụ thể hóa quy định của Hiến
pháp năm 2013 về quyền, bảo đảm thực thi
quyền hiến định trong thực tế n
11 Xem các bản dự thảo tại địa chỉ:
View_Detail.aspx?ItemID=448&TabIndex=1&LanID=1153.
12 Xem: Đặng Minh Tuấn (2016), “Cách tiếp cận dựa trên quyền trong xây dựng, thực thi chính sách, pháp
luật”, in trong: Vũ Công Giao, Ngô Minh Hương (đồng chủ biên), Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý
luận và thực tiễn, sách chuyên khảo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 67.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_quyen_thuc_su_la_quyen.pdf