Doanh nghiệp được cổ phần hoá cần chào bán rộng rãi cổ phần ra bên ngoài, đảm bảo cho tất cả các nhà đầu tư kể cả nhà đầu tư nước ngoài đều có thể tiếp cận thông tin và có thể mua cổ phần. Nhà nước chỉ nắm giữ số vốn hạn chế với các doanh nghiệp Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Đa dạng hoá chủ sở hữu làm tăng sức ép lên ban lãnh đạo doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải áp dụng tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp hiện đại tiên tiến, minh bạch, tiếp cận thông lệ quốc tế, đáp ứng tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán- đây cũng là chìa khoá để doanh nghiệp vươn ra hội nhập trên thị trường quốc tế.
Lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp giúp tăng tính hấp dẫn của việc mua cổ phần. Nếu tình hình tài chính đến khi cổ phần hoá mới xử lý tất yếu làm chậm trễ quá trình cổ phần hoá, làm giảm tính hấp dẫn của việc mua cổ phần. doanh nghiệp cần chuyển các khoản công nợ đã loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp sang các công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp để tiếptục thu hồi, xử lý. Các doanh nghiệp nhà nước đã xác định là nợ quá lớn, không còn vốn Nhà nước thì nhanh chóng làm thủ tục cho đấu giá hoặc cho phá sản.
Để cổ phần hoá thực sự đi vào quỹ đạo, ngoài những biện pháp như đã nêu trên, việc tạo dựng khung pháp lý đầy đủ, thuận lợi,hoàn thiện các chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá, hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá, tạo môi trường thật sựbình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xử lý vấn đề tài sản trong doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá cũng hết sức cần thiết.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
- Số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm khoảng 24% tổng số doanh nghiệp khi chưa tiến hành sắp xếp lại và cổ phần hoá (khoảng 12000 doanh nghiệp vào thời điểm trước năm 1995)
- Có trên 10% vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá (khoảng 30000 tỷ đồng)
- Hầu hết các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ, yếu, hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém đã được đưa bớt ra khỏi hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy có thêm điều kiện để củng cố các doanh nghiệp nhà nước khác.
- Trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 30% số các doanh nghiệp (trên 800 doanh nghiệp) được hoàn toàn độc lập tự chủ trong kinh doanh mà không còn sự chi phối trực tiếp nào của nhà nước (nhà nước không nắm giữ một cổ phần nào, toàn bộ thuộc về tập thể người lao động)
- Việc sắp xếp lại và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh thành.
Đặc biệt, năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khấm khá, quy mô vốn lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như : Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, Công ty giấy Tân Mai, Công ty Kinh Đô, Công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1500 tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện Sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định trị giá trị cổ phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. ngay trong ngày đầu tiên bán đáu giá Vinamilk, bán hết hơn 1.66 triệu cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4.89lần mệnh giá. Tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của Công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong số 7 nhà đầu tư, tổ chức mua được cổ phần Vinamilk có 5 quỹ đầu tư nước ngoài và 2 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà đầu tư mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78.4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt nam chỉ chiếm 21.6%, và số vốn thu hút đượctừ các tổ chức đầu tư mới lên tới trên 450 tỷ đồng. Sau 3 năm chuẩn bị Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ một doanh nghiệp nhà nước lớn thành công ty cổ phần đại chúng .
Theo kết quả điều tra của Viện quản lý kinh tế trung ương (CIEM) phối hợp với Ngân hàng thế giới (WB) tại 559 doanh nghiệp cổ phần hoá, kết quả cho thấy:
87,53 % số doanh nghiệp khẳng định kế quả hoạt động kinh doanh tốt hơn nhiều so với trước khi cổ phần hoá.
2.2. Tác động của cổ phần hoá đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá.
Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng như đã đề cập ở trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế, xã hội. những kết quả này được thể hiện trong một số đánh giá tổng quát sau.
Qua báo cáo của 500 doanh nghiệp cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh chuyển biến tích cực. Xét trên tổng thể, các chỉ tiêu chủ yếu đều tăng. Cụ thể, vốn điều lệ tăng 5-100%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 137%, thu nhập của người lao động tăng 63%, số lao động tăng 13%, cổ tức trung bình đạt 15.5%.
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn. Qua báo cáo hoạt động của các doanh nghiệp có thời gian hoạt động trên một năm, kể cả những doanh nghiệp trước đó bị thua lỗ thì doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng gần gấp hai lần so với trước khi thực hiện cổ phần hoá.
Cổ phần hoá làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá nói chung và hiệu quả phát triển kinh tế nói riêng. Theo điều tra trên gần 600 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương năm 2005 cho thấy :87.53% doanh nghiệp kết quả hoạtdộng kinh doanh tốt hoặc tốt hơn nhiều so với trước cổ phần hoá, trung bình doanh thu tăng 13.4%, lợi nhuận trước thuế tăng 9.4% và đặc biệt lợi nhuận sau thuế tăng đến 54.3%, năng suất lao độngtăng 18.3%. Từ đây, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cải thiện vững chắc, đây không chỉ là nhân tố tích cực để thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá mà còn là nguồn hàng hoá tiềm năng cho các trung tâm giao dịch chứng khoán.
Trong 1 cuộc khảo sát 559 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hơn 1 năm cho thấy có tới 87.53% khẳng định kết quả hoạt động tốt hơn trước.Ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng 13 %, lợi nhuận sau thuế tăng 48.8%. Điều này cho thấy việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào hoạt động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh thu bình quân tăng 23.6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9.4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới 54.4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao như Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển: 30 lần, Công ty cổ phần cơ khí điện lạnh: 13 lần, Công ty cổ phần Kymdan: 11.2 lần…
Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều tăng: năng suất lao động tăng bình quân 18.3%; mức nộp ngân sách bình quân của các doanh nghiệp tăng 24.9%; đầu tư tài sản cố định tăng 11.5%; lương bình quân doanh nghiệp tăng 11.4%. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
2.3. Cổ phần hoá tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động và tăng thu nhập cho người lao động.
Trong số các chỉ tiêu đạt được trên, tốc độ tăng năng suất lao động là yếu tố ảnh hưởng tích cực nhất đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá.
Hầu hết trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, việc làm và thu nhập của người lao động đều được bảo đảm ổn định và có chiều hướng tăng lên.
Cụ thể như sau : năng suất lao động tăng 18.3%/ năm ; lương bình quân của người lao động tăng 11.4%/ năm. Số lao động của doanh nghiệp trở thành cổ đông khá đông. Chế độ của người lao động được quan tâm giải quyết thoả đáng. Số lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá tăng bình quân 6.6%. Cổ tức bình quân đạt 17.11%. Hầu hết các doanh nghiệp đều có mức cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với doanh nghiệp, nhờ vậy mà hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như nâng cao tính chủ động của cán bộ quản lý trong thực hiện các mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả; 88% số doanh nghiệp khẳng định kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được tính toán trên cơ sở kết quả việc làm. Thực tế, có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ phần hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được khai thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiệm hơn trước.
Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho Nhà nước và xã hội
2.4. Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, giúp cơ cấu lại doanh nghiệp, huy động thêm vốn, tạo cho doanh nghiệp có chế quản lý năng động hiệu quả.
Do mục tiêu của cổ phần hoá là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có sự tham gia đông đảo của người lao động nên sẽ tăng cường được sự giám sát của các nhà đầu tư đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, thay đổi cung cách quản trị nhằm đảm bảo giải quyết được hài hoà lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp của các nhà đầu tư và của người lao động .
Việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút được một lượng lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất qua thị trường chứng khoán. Với 2242 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá năm 2004, 12411 tỷ đổng cổ phiếu đã được bán, Nhà nước nhờ đó đã có 10169 tỷ đồng (chiếm 58% tổng số vốn Nhà nước đã cổ phần hoá) để tái đầu tư phát triển kinh tế.
Mặt khác, quy mô vốn điều lệ của doanh nghiệp sau cổ phần hoá tăng bình quân 44% đã cho thấy cổ phần hoá thực sự đã mở ra một cánh cửa để các doanh nghiệp nhà nước tiếp cận với một “kênh” dẫn vốn mới đáp ứng cho nhu cầu phát triển. Việc tham gia của công chúng đầu tư trong các phiên đấu giá trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cho thấy không chỉ người lao động đang làm việc tại các công ty được đấu giá mà cả người dân đã khá quan tâm đến việc đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu. Tính đến hết tháng 1/2006, trung tâm đã đấu giá 28 phiên lớn cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá hoặc doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá bán bớt phần vốn nhà nước (chưa kể có 17 phiếu phối hợp thực hiện với trong tâm giao dịch chứng khoán TP HCM). Tổng giá trị cổ phần trúng giá đạt 2039,2 tỷ đồng, với 2880 nhà đầu tư trúng giá trên 4085 tổng số lượt nhà đầu tư đăng ký đấu giá.
Việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của những người lao động trong doanh nghiệp mà còn thu hút cả vốn của những nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông, gắn họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mia đường Lam Sơn và Công ty mía đường La Ngà đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. Cụ thể, ở Công ty mía đường Lam Sơn, nhà nước giữ 46%, nông dân trồng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26%, người lao động trong doanh nghiệp mua 24% cổ phần. Công ty mía đường Lam Sơn là một doanh nghiệp hoạt động rất có hiệu quả. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ 2000-2005) nộp ngân sách tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77.5 tỷ đồng và cổ tức là 20%/ năm.
Tiến trình cổ phần hoá đã tạo ra một số lượng khá lớn công ty cổ phần. Đến thời điểm hiện nay đã có hơn 1000 công ty cổ phần được hình thành trên nền của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Những công ty cổ phần này có tiềm lực lớn hơn các công ty cổ phần được các thành phần kinh tế khác lập ra. Phần lớn các công ty cổ phần này là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự xuất hiện của các công ty cổ phần có tiềm lực kinh tế lớn sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự tăng trưởng nhanh các chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong gần hai năm qua cho thấy tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Việc cổ phần hoá có hiệu ứng khá rõ nết đối với việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng thành lập doanh nghiệp nhà nước tràn lan đã được chấm dứt. Trong 3 năm từ 2001-2003 cả nước chỉ thành lập mới 59 doanh nghiệp nhà nước, hầu hết tập trung vào lĩnh vực dầu khí, năng lượng nguyên tử, xản xuất cơ khí hoặc hoạt động công ích. Nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước cũng được xử lý một phần.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đã đổi mới được công nghệ, nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính cạnh tranh.
III. Những khó khăn của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ khá nhiều hạn chế.
- Thứ nhất, Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ phần hoá còn chậm chạp, chưa nhiều, chúng ta mới cổ phần hoá được các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ.Theo các số liệu đã được đề cập cho thấy việc thực hiện cổ phần hoá luôn thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Kết quả thực hiện cổ phần hoá mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều Bộ, ngành, địa phương đạt dưới 50%. Theo kế hoạch (đã được điều chỉnh) từ nay cho tới cuối năm 2007, còn 1700 doanh nghiệp cần cổ phần hoá, bằng gần 70% số đã thực hiện của cả giai đoạn 2000-2005, đây thực sự là bài toán cho các Bộ, ngành, và lời giải của bài toán này cũng chính là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá trên thị trường chứng khoán. So với Đề án được Thủ tướng chính phủ phê duyệt thì số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chưa đạt 80%. Số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vào năm 2005 là chưa đạt.
Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có quy mô lớn, và một số tổng công ty đang cổ phần hoá, nhưng nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều có vốn nhà nước quá nhỏ. Số lượng có doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18.5% số doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng. Như vậy là số vốn chưa được cổ phần hoá còn rất lớn (khoảng 270 ngàn tỷ đồng), số vốn này tập trung chủ yếu tại các tổng công ty 91
Chúng ta đã cổ phần hoá và xắp xếp lại được khá nhiều doanh nghiệp nhưng xét về chỉ tiêu vốn nhà nước đã cổ phần hoá thì vẫn chưa tới 10%. Hơn nữa trong số các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá có tới 29% số doanh nghiệp ở đó nhà nước vẫn giữ một lượng cổ phần chi phối (từ 51% trở lên). Nhà nước đang còn nắm khoảng 46.5% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp này. Như vậy, thực chất mới chỉ khoảng 8% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá thuộc về các chủ sở hữu khác – không phải nhà nước. Con số này là quá ít. Vì nói đến cổ phần hoá thì chỉ tiêu chủ yếu nhất là cổ phần hoá vốn kinh doanh, do vậy có thể nói rằng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện rất chậm chạp chưa nhiều.
6 tháng đầu năm 2006 tốc độ cổ phần hoá còn chậm hơn do một loạt các doanh nghiệp khó cổ phần hoá từ năm 2005 chuyển sang và do đó chúng ta bắt đầu cổ phần hoá các doanh nghiệp có qui mô lớn. Vì vậy công việc định giá rất khó khăn. hiện nay chúng ta còn 2176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn là 260000 tỷ đồng chưa được cổ phần hoá.
Ngoài ra xét về cơ cấu các doanh nghiệp được cổ phần hoá, việc cổ phần hoá chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực. Cụ thể là các doanh nghiệp được cỏ phần hoá chủ yếu là thuộc ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng, số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá trong các lĩnh vực khác rất ít.
- Thứ hai, quyền sở hữu về mặt thực tế được chuyển đổi rất ít, đến hết năm
2005 tổng số vốn trong các doanh ghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá chỉ chiếm 12% tổng số vốn của các doanh nghiệp nhà nước song nếu trừ 50% số vốn nhà nước còn nắm giữ trong các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá thì số vốn huy động thêm của xã hội chỉ là 6%. Một thực tế khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15.1%.. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng.
- Thứ ba, thời gian tiến hành cổ phần hoá còn dài
theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án Hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá một doanh nghiệp tuy đã giảm được từ 512 ngày (năm 2001) xuống còn 473 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài.
- Thứ tư, cổ phần hoá phần lớn thực hiện theo mô hình khép kín, bộ máy quản trị, tư duy điều hành trong các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá cơ bản là vẫn như cũ.
Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghhiệp nhà nước nên hiệu quả thấp. Đa số lãnh đạo của của các công ty cổ phần đều là cán bộ cũ của doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, không có thêm những khuôn mặt mới với tư duy theo lối mới đẻ đem lại sức sống mới cho công ty cổ phần. Cụ thể như sau: theo số liệu điều tra trong các doanh nghiệ đã cổ phần hoá 86% giám đốc, 88% phó giám đốc và 90% kế toán trưởng vẫn giữ nguyên như cũ. Do vậy chất lượng quản trị doanh nghiệp không được cải thiện. Vì vậy hiệu quả hoạt đốngản xuất kinh doanh về ngắn hạn có thể có thay đổi song về trung và dài hạn rất khó có thể thay đổi. Việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều lệ tại khá nhiều công ty cổ phần là một cái cớ để các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị không thực hiện hết chức năng của công ty cổ phần theo luật định, mà chủ yếu tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Lãnh đạo công ty không đại diện cho cổ đông có sở hữu vốn lớn mà chủ yếu Nhà nước định hướng tham gia quản lý. Những điều đó dẫn đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần hoá nào mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước.
- Thứ năm, một số doanh nghiệp cổ phần hoá mới chỉ tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận, chia cổ tức, trong khi chưa chú trọng đến những vấn đề có ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của doanh nghiệp là thực hiện đổi mới công nghệ, đầu tư vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh. Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hoá, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vẫn còn có những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.Chẳng hạn trong ngành nông nghiệp, có một số doanh nghiệp nhiều năm không dám hoạt động vì càng hoạt động càng lỗ. không những thế, gần đây, các nhà quản lý đã nhận thấy có một số doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hoá đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng doanh nghiệp này không lớn song đây là hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng nhiều đến uy tín của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
- Thứ sáu, việc thực hiện chính sách dối với người lao động có những bất cập. thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động, không lo được việc làm cho họ. Ngược lại, ở một số đơn vị làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy, tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần giải quyết. trong một số doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, đặc biệt là trong những doanh nghiệp có những lợi thế về vị trí địa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phần mà những người lao động trong các doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi. Người lao động do chưa ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu, nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. điều này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân những người lao động mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hoá là tạo động lực quản lý cho doanh nghiệp khi người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ.
- Thứ bảy, vai trò của các doanh nghiệp. Công tác tuyên truyền, vận động vẫn còn bị xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự quan tâm, hưởng ứng tích cực của xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá. Dường như vấn đề cổ phần hoá chưa phải là nhu cầu tự thân, nhu cầu nội tại của các doanh nghiệp nhà nước, thậm chí còn là sự miễn cưỡng. trong thực tế thực hiện, hầu hết các chương trình hay kế hoạch cổ phần hoá đều là của các bộ, ngành, hay chính quyền địa phương, chưa có ( hoặc nếu có thì cũng rất ít) doanh nghiệp chủ động đề xuất đưa tên mình vào chương trình hay kế hoạch đó. Điều này chỉ có thể lý giải là đối với các doanh nghiệp, cổ phần hoá không hấp dẫn họ. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước vẫn không muốn, hay né tránh, hoặc tìm cách né tránh thực hiện cổ phần hoá vì muốn được an toàn hơn và không muốn mất đi lợi ích hay lợi thế đang có. Một trong những lợi thế đang mang lại quá nhiều lợi ích - lợi nhuận siêu ngạch đó là sự độc quyền hoặc những ưu đãi mà các doanh nghiệp vẫn nghĩ là chỉ là doanh nghiệp nhà nước mới có được. Ở đây nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước chưa có cùng một suy nghĩ và hành động. Do vậy, nếu còn có sự khác nhau về thái độ và quyết tâm đối với cổ phần hoá, và khi các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn e ngại và nghi ngờ, chưa quyết tâm thì vẫn còn nhiều trở ngại cho quá trình cổ phần hoá.
Ngoài ra, còn có những cản trở đối với quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua là : vướng mắc nhiều về đất đai và sở hữu tài sản, chưa có chính sách cơ chế rõ ràng, cổ phần hoá còn khép kín, còn có sự phân biết đối xử trước và sau cổ phần hoá chẳng hạn như vay vốn ngân hàng, những khó khăn về giải quyết số lao động dôi dư của các doanh nghiệp, thủ tục hành chính phức tạp và thời gian kéo dài… Đây là những vấn đề nằm ngoài khả năng của doanh nghiệp. Do vậy nếu nhà nước không giải quyết triệt để các vấn đề này thì không thể đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá được.
Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước chủ yếu, việc cổ phần hoá chậm đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Tiến độ cổ phần hoá vẫn chậm so với kế hoạch đặt ra.
IV. Nguyên nhân của những hạn chế.
Để tìm ra những giải pháp nhằm thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trước hết cần tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế .
Nước ta tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, các điều kiện khách quan cho việc triển khai cổ phần hoá là:
- Trình độ xã hội hoá sản xuất còn chưa chín muồi
- Nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế còn phổ biến là tự cấp tự túc lên kinh tế hàng hoá, đồng thời trong quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở đường cho kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường phát triển
- Trình độ dân trí và yếu tố xã hội cũng là những nhân tố khách quan làm cản trở tiến trình cổ phần hoá
- Chúng ta chưa làm tốt công tác tuyên truyền để thông suốt quan điểm, chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Chính phủ. Bên cạnh đó, sự quyết tâm của các cơ quan thuộc Chính phủ, của nhiều địa phương chưa cao, việc điều hành triển khai cổ phần hoá còn chậm và lúng túng. Cổ phần hoá là chủ trương đúng đắn và cần thiết song việc điều hành còn yếu, có vấn đề chậm được khẳng định như : cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc đối với doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp nào không hoặc chưa tiến hành cổ phanà hoá? Do vậy, các cán bộ quản lý tại doanh nghiệp và kể cả các cơ quan quản lý của doanh nghiệp có tâm lý không muốn cổ phần hóa
- Thói quen dựa dẫm vào cơ chế bao cấp, chính sách ưu đãi của nhà nước đã quá ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người. Không ít cán bộ quản lý sợ mất quyền quản lý của mình đối với doanh nghiệp trực thuộc, thậm chí có người còn nhận thức sai trái rằng cổ phần hoá là tư nhân hoá.
- Cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá chậm được ban hành và chưa đủ sức hấp dẫn, chưa thoả đáng. Cơ chế chính sách chưa phù hợp tập trung là biện pháp cụ thể, thống nhất về xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Các văn bản pháp lý vừa thiếu, vừa chồng chéo, nhất là văn bản hướng dẫn xác định giá trị quyền sử dụng đất đai vào giá trị vốn của nhà nước tại doanh nghiệp.
- Mức độ khuyến khích đối với doanh nghiệp cũng như người lao động trong doanh nghiệp còn chưa đủ sức hấp dẫn, chế độ ưu đãi đối với người lao động còn nhiều bất cập…cũng cản trở tốc độ cổ phần hoá.
- Công tác tuyên truyền, vận động, giải thích về chủ trương cổ phần hoá còn chưa được quán triệt, chưa được làm đến nơi đến chốn. Thậm chí có những công nhân đã mua cổ phần ở công ty nhưng cũng không biết mua để làm gì.
- Bộ máy tổ chức thực hiện cổ phần hoá còn thiếu thống nhất và ăn khớp. Hiện nay, nước ta đã thiết lập bộ máy đổi mới doanh nghiệp các cấp trong đó có Ban cổ phần hoá. Song việc phối hợp hoạt động còn hạn chế do bộ máy tổ chức của Ban chưa độc lập, chuyên trách mà phần lớn cán bộ đều là kiêm nhiệm.
- Chủ trương cổ phần hoá là một vấn đề mới nhưng Chính phủ chưa có các văn bản được ban hành một cách chặt chẽ và hệ thống vì vậy còn gây những ách tắc trì trệ đáng tiếc trong quá trình cổ phần hoá
- Trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong chỉ đạo cổ phần hoá còn chưa rõ ràng, thủ tục qui trình cổ phần hoá còn rườm rà, phiền nhiễu…
- Việc xác định tài sản của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do không có đủ cơ sở pháp lý và sự hướng dẫn chỉ đạo.
Như vậy, những nguyên nhân trên đã cản trở tiến trình cổ phần hoá, làm choquá trình cổ phần hoá gặp nhiều trở ngại, chưa đạt yêu cầu về mục tiêu lẫn tiến độ thực hiện. Trước tình hình đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải xác định được giải pháp để khắc phục những hạn chế, thú đẩy tiến trình cổ phần hoá
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Đây là một trong những giải pháp nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước, xác định chủ sở hữu đích thực của doanh nghiệp, huy động nguồn vốn nhà rỗi của nhân dân và của xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng sức cạnh tranh để hội nhập quốc tế.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể sau:
1.1. Giải pháp để nâng cao nhận thức và chỉ đạo thực hiện.
Trong thực tế, nhiều cán bộ quản lý, nhất là lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp mà mình đang quản lý. Cản trở này bắt nguồn từ nhận thức không đúng về cổ phần hoá. Có thể nói rằng, đại bộ phận các cán bộ quản lý doanh nghiệp, người lao động chưa thấy rõ bản chất, vai trò và ưu thế của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với sự páht triển nền kinh tế, đối với việc cải thiện hoàn cảnh của người lao động. Việc tuyên truyền về cổ phần hoá chưa đạt tới mức làm cho cán bộ, đảng viên trong các doanh nghiệp nhà nước hiểu đúng về cổ phần hoá, về vai trò của người lao động trong cổ phần hoá. Vì thế ở nhiều doanh nghiệp nhà nước, cán bộ , công nhân viên đều không muốn doanh nghiệp của mình bị cổ phần hoá, bản thân mình chuyển từ chế độ tuyển dụng sang chế độ lao động hợp đồng.
Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức không những chỉ cho các cán bộ nhân viên mà cho cả người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước và công chúng. Thực tiễn cho thấy rằng việc làm cho người lao động thấy rõ được lợi ích khi doanh nghiệp cổ phần hoá là rất quan trọng. Người lao động sẽ tự giác, đồng tâm cùng Nhà nước thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá. Nhưng quan trọng hơn nhiều là làm cho người lao động hiểu được vị trí của họ trong doanh nghiệp cổ phần, một môi trường mới. Người lao động cần nhận thức được vai trò làm chủ của họ đối với doanh nghiệp, mức độ làm chủ đến đâu, những gì họ được phép làm…tránh tình trạng người lao động lạm dụng quyền làm chủ quá mức tạo nên sự không ổn định trong hoật động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Những giải pháp cụ thể cho việc nâng cao nhận thức này có thể bao gồm:
- Thiết lập những chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng về cổ phần hoá, giải đáp những băn khoăn, thắng mắc của công chúng, của doanh nghiệp về các vấn đề cụ thể của cổ phần hoá, nhất là từ phía lao động trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá cũng như từ phía công chúng.
- Cần tổ chức các khoá tập huấn cho các giám đốc doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao nhận thức của họ đối với cổ phần hoá, nâng cao năng lực tổ chức thựchiện cổ phần hoá. Như đã nêu ở trên, cổ phần hoá gắn liền với sự ra đời, tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, tuyệt đại đa số các giám đốc doanh nghiệp nhà nước chưa hiểu biết nhiều về công ty cổ phần. Trong quá trình cổ phần hoá và sau cổ phần hoá, các cán bộ lãnh đạo của công ty lúng túng rất nhiều khi đối mặt với những vấn đề tưởng chừng la đơn giản như cổ đông, bỏ phiều bầu hội đồng quản trị, phân chia cổ tức, …Vì vậy, trong chương trình tập huấn cần chú trọng nội dung về công ty cổ phần, về thị trường chứng khoán.
- Thực hiện việc công bố thường xuyên, định kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng về kết quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá để củng cố lòng tin của công chúng vào triển vọng và tác động kinh tế, xã hội to lớn của giải pháp này.
Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước nên việc tiến hành hoạt động này khá nhạy cảm về chính trị. Những giải pháp cải cách động đến vấn đề sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước dễ gây sự phản ứng từ khá nhiều cán bộ , đảng viên vốn có tư duy đã trở thành “bất di bất dịch” là chỉ có doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà nước mới là nền tảng của chủ nghĩa xã hội. Nhiều người cho rằng, có nhiều doanh nghiệp nhà nước thì kinh tế mới có thể trở thành nền tảng chủa chủ nghĩa xã hội. Vì vậy theo họ, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là làm “giảm sút” về lượng vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù, nhiều nghị quyết Đảng đã xác định cổ phần hoá là giải pháp cần thiết có thể khắc phúc sự yếu kém, thiếu hiệu quả song nhận thức này trong nhiều cán bộ quản lý,lãnh đạo các cấp vẫn chưa theo kịp với chủ trương này của Đảng. Tư duy chưa đúng về vị trí nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế nhà nước là cản trở rất lớn trong nhận thức về cổ phần hoá. Thực tiễn ở các nước cho thấy, ngay cả tư nhân hoá cũng không đồng nghĩa với việc xoá bỏ thành phần kinh tế công.
Lợi ích cá nhân của nhiều cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những cản trở việc nhận thức đúng về cổ phần hoá. Những người này lo rằng khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần, vị trí quản lý của họ bị thay đổi và không có gì đảm bảo nào chắc chắn rằng họ sẽ giữ những cương vị đó trong công ty cổ phần được hình thành trên nền tảng của doanh nghiệpmà mình đang quản lý. Mối lo này cùng với những lợi ích khác cản trở những cán bộquản lý hiểu đúng tầm quan trọng của giải pháp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Một số Bộ, địa phương và phần lớn doanh nghiệp nhà nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá, lo ngại quyền lợi bị ảnh hưởng hoặc chưa thực sự yên tâm là cổ phần hoá sẽ có hiệu quả. Từ đó, đã nảy sinh tư tưởng chần chừ, né tránh, sợ trách nhiệm, e ngại lệch hướng, chờ đợi người khác làm trước,thiếu chủ động thực hiện. Điều đáng ngại hơn là chính lãnh đạo của các ngành trung ương không chuyển biến nhanh như ở địa phương. Các bộ, ngành có tiến độ cổ phần hoá chậm hơn so với địa phương.
1.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến về cổ phần hoá.
Thực tế cho thấy đây là một công tác rất quan trọng trong tiến trình thực hiện cổ phần hoá, thực hiện tốt công tác này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá, giúp cổ phần hoá sớm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Đẩy mạnh tuyên truyền về cổ phần hoá cũng như thị trường chứng khoán trong dân chúng, trên cơ sở này nhà đầu tư được tiếp cận nhiều hơn, sâu hơn với các kiến thức từ đó khơi thông các nguồn vốn cho việc đầu tư tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực tế công tác cổ phần hoá thời gian qua cũng cho thấy, doanh nghiệp nào làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về cổ phần hoá, về các quyền lợi và trách nhiệm mà cổ đông nhận được sau cổ phần hoá thì cổ phần hoá được tiến hành nhanh gọn và hiệu quả do tạo được sự tin tưởng và yên tâm của người lao động và nhà đầu tư.
Với ý nghĩa đó, khi thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến về chủ trương cổ phần hoá cần chú ý một số vấn đề sau:
- Xác định những vấn đề thiết thực: Ngoài những nội dung chung về chủ trương chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, cần xác định những nội dung trọng tâm cần phổ biến, đối tượng cần phổ biến là ai, tránh sự dàn trải không cần thiết. Ví dụ như đối với người lao động, cái họ quan tâm hơn cả là những lợi ích được hưởng và những trách nhiệm phải gánh chịu khi doanh nghiệp mà họ làm việc tiến hành cổ phần hóa, họ cũng muốn biết kết quả hoạt động của những doanh nghiệp đã tiến hành cổ phần hoá…
- Thực hiện tuyên truyền với hình thức đa dạng, phong phú, cần bảo đảm tính dân chủ và cởi mở trong việc trao đổi những vấn đề liên quan đến cổ phần hoá. Những thắc mắc của người lao động, dù lớn hay nhỏ, phổ biến haycá biệt đều phải được giải đáp cụ thể, thấu đáo.
- Công tác tuyên truyền phổ biến về cổ phần hoá cần phải được tiến hành trong toàn bộ quá trình cổ phần hoá. Trong suốt quá trình chuẩn bị cổ phần hoá, xây dựng phương án cổ phần hoá, tổ chức thực hiện cổ phần hoá…các cấp các ngành chỉ đạo quá trình cổ phần hoá phải nắm đượcdiễn biến tư tưởng của người lao động, phát hiện kịp thời những băn khoăn vướng mắc của người lao động để có biện pháp giải quyết kịp thời.
- Thực hiện xã hội hoá công tác tuyên truyền phổ biến về chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nói riêng và chủ trương sắp xếp, đổi mới hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nhà nước nói chung. Làm sao để mọi doanh nghiệp, mọi nhà quản lý, mọi người lao động cũng đều có thể hiểu rõ về công tác cổ phần hoá.
1.3. Phải có quyết tâm cổ phần hoá.
Từ thực tiễn cổ phần hoá và ba năm hoạt động của công ty cổ phần Thăng Long ý chí thực hiện cổ phần hoá của tập thể lãnh đạo doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến quá trình cỏ phần hoá. Để động viên mọi người tham gia tích cực vào quá trình cổ phần hoá, công tác tư tưởng của tổ chức quần chúng có tác dụng quan trọng, song song với các biện pháp hành chính của Nhà nước, góp phần xây dựng nhận thức tự giác cảu lãnh đạo doanh nghiệp, mở đường cho quá trình cổ phần hoá diễn ra thuận lợi.
Quyết tâm cổ phần hoá của lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có tác dụng động viên toàn thể cán bộ công nhân viên tự giác tham gia các công việc cổ phần hoá, tạo ra sự thống nhất nhận thức về chủ trương cổ phần hoá của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của cán bộ công nhân viên làm việc tại doanh nghiệp; công tác tuyên truyền cổ phần hoá phải được thực hiện trong suốt quá trình cổ phần hoá, từ nhận thức bước đầu về cổ phần hoá, khắc phục thói quen “làm công ăn lương” , sức ỳ “bao cấp” của doanh nghiệp nhà nước cho đến thời gian công ty cổ phần hoạt động, trong đó cần quan tâm đặc biệt đến nhận thức pháp luật của người lao đồng về cổ phần hoá để được sử dụng đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp về cổ phần hoá.
Ý chí quyết tâm cổ phần hoá của người lao động thể hiện rõ nhất ở thời điểm quyết định đầu tư mua cổ phiếu; khi đó thái độ của lãnh đạo doanh nghiệp rất quan trọng, thể hiện trách nhiệm của mình trước sự nghiệp cổ phần hoá của doanh nghiệp.
1.4. Thực hiện cổ phần hoá từng bước vững chắc.
Theo kinh nghiệm của công ty cổ phần Thăng Long, những công việc cổ phần hoá không phức tạp nhưng đòi hỏi phải có nghiệp vụ nhất định và đặc biệt phải có cách làm hợp lý.
Cổ phần hoá là cuộc chuyển đổi sở hữu quan trọng, xác lập quyền sở hữu của các cổ đông, cổ phần hoá phải được thực hiện dân chủ toàn diện tử tuyên truyền, giải thích đến quyết nghị và trong hoạt động thực tiễn.
Cổ phần hoá là cuộc vận động quần chúng phát huy trách nhiệm và năng lực của các cổ đông nên phẩi đề cao các biện pháp tư tưởng biến tự phát thành tự giác.
Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi, nhiều khâu, đòi hỏi sự tham gia của nhiều người nên phải được chỉ đạo chặt chẽ, từ bộ máy điều hành, lịch trình công việc, kiểm tra, sơ kết định kỳ cho đến thành công.
Cổ phần hoá là công việc hoàn toàn mới mẻ từ nhận thức đến việc làm cụ thể, nên cần có tư vấn từ khâu xây dựng điều lệ đến khâu tham gia thị trường chứng khoán, trong đó, mỗi một việc phải có cách làm phù hợp, đạt hiệu quả.
Về điều lệ của công ty cổ phần, nên sử dụng điều lệ mẫu của các ban đổi mới doanh nghiệp địa phương, bảo đảm các nội dung cơ bản theo quy định của pháp luật, nhưng rất cần tham khảo kinh nghiệm của các công ty khác tương tự về nội dung, phương pháp thi hành điều lệ; khâu góp ý, thông qua điều lệ của cán bộ công nhân viên cần được hướng dẫn cụ thể; khi thông qua từng phần của điều lệ nên cố gắng đạt được sự thống nhất bằng giải thích, thuyết phục và phấn đấu đạt được sự thống nhất tuyệt đối trước đại hội cổ đông sáng lập.
Về xác định giá trị doanh nghiệp, nên thuê cơ quan tư vấn chuyên nghiệp, bảo đảm sự minh bạch,công bằng từ khâu công bố tài chính doanh nghiệp đến khâu định giá doanh nghiệp…
Về thực hiện chính sách lao động, đặc biệt là sử dụng quỹ đào tạo của cổ phần hoá, cũng nên thuê tư vấn để khai thác triệt để các chính sách ưu đãi của Nhà nước và bảo đảm tiến độ cổ phần hoá…
Phương án sản xuất kinh doanh trong quy trình cổ phần hoá đôi khi chỉ được quan tâm như là một thủ tục cổ phần hoá. Tuy nhiên, trong điều kiện cổ phần hoá “ không khép kín” trong nội bộ công nhân viên của doanh nghiệp, các cổ phiếu được bán đấu giá trên thị trường chứng khoán, thì phương án sản xuất kinh doanh của cổ phần hoá cần được chuẩn bị thực chất hơn, cần được thông qua chặt chẽ hơn tại đại hội cổ đông sáng lập.
Về phương án nhân sự cho cổ phần hoá, tức là chuẩn bị các chức danh chủ chốt của công ty cổ phần tương lai, trong điều kiện cổ đông nhà nước nắm giữ cổ phiếu chi phối, thì vẫn được chuẩn bị theo thông lệ, còn trong trường hợp cổ đông nhà nước không nắm giữ cổ phiếu chi phối, thì khả năng quyết định của Nhà nước sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ. Nhưng bất luận trong trường hợp nào, việc quyết định các chức danh chủ chốt của công ty cổ phần phải được thực hiện theo điều lệ công ty cổ phần, dựa vào sự tín nhiệm của quần chúng, ý kiến chuẩn bị nhân sự của tổ chức Đảng cơ sở trong doanh nghiệp, không nên có sự can thiệp chủ quan của phía các cơ quan quản lý nhà nước. Đại hội cổ đông sáng lập thường tập trung nhiều nhất ở việc thảo luận nội dung điều lệ và nhân sự lãnh đạo công ty cổ phần. Những ý kiến khác nhau về nội dung điều lệ cần được trao đổi thống nhất qua các cuộc họp góp ý và đặc biệt, ở cuộc họp cuối cùng trước đại hội cổ đông sáng lập; nhân sự lãnh đạo công ty cổ phần cần được thống nhất từ phía doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ công ty. Sau đó, danh sách nhân sự dự kiến của doanh nghiệp cổ phần hoá phải được thống nhất với người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Trong quá trình chuẩn bị nhân sự như vậy, những ý kiến khác nhau cần được thoả thuận và có thể phải nhượng bộ lẫn nhau theo tinh thần xây dựng vì lợi ích chung để đi đến thống nhất trước khi đưa ra đại hội đồng cổ đông biểu quyết.
Kinh nghiệm của Công ty cổ phần Thăng Long cho thấy, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại cơ sở cần được đặt dưới sự lãnh đạo tập trung của Ban chấp hành Đảng bộ doanh nghiệp trên cơ sở nhận thức tự giác và quyết tâm cổ phần hoá của lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nhà nước, thực hiện quá trình cổ phần hoá từng bước vững chắc, bảo đảm dân chủ thông qua các biện pháp tư tưởng.
Cũng theo kinh nghiệm của công ty cổ phần Thăng Long, mô hình công ty cổ phần định hướng xã hội chủ nghĩa đặt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát triển hơn nữa sự nghiệp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong hoàn cảnh hiện nay. Mô hình công ty cổ phần định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là vừa sản xuất kinh doanh có lãi, vừa làm tốt công tác xã hội, phát huy vai trò của các tôt chức quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ công ty cổ phần. Trong công ty cổ phần, tổ chức Đảng cơ sở phải tác động tích cực để đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đầy đủ tại đơn vị cơ sở. Trong trường hợp các đảng viên của tổ chức Đảng cơ sở không có điều kiện nắm giữ các vỉtí chủ chốt của công ty cổ phần, thì vai trò của tổ chức Đảng cơ sở là phấn đấu trở thành hạt nhân chính trị, có các hình thức tác động khác nhau, từ động viên, giáo dục, kiểm tra, giám sát đến đấu tranh để công ty cổ phần hoạt động theo chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong điều kiện này đòi hỏi rất nhiều ở người đảng viên về bản lĩnh chính trị và phương pháp hoạt động trong mối quan hệ lao động phức tạp của công ty cổ phần.
Trong trường hợp các đảng viên của tổ chức Đảng cơ sở có điều kiện nắm giữ các vị trí chủ chốt của công ty cổ phần, thì vai trò của tôt chức Đảng là vai trò lãnh đạo đối với công ty cổ phần được thể hiện trựctiếp thông qua các nghịquyết của tổ chức Đảng cơ sở trong công ty.
Những giải pháp cụ thể thực hiện mô hình công ty cổ phần định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng ở một đơn vị cơ sở, tức là đề cao tính hiệu quả, phát huy năng lực của từng người và của tập thể, phát huy vai trò quản lý tập thể trên cơ sở đề cao trách nhiệm cá nhân, phát huyquyền làm chủ của người laođộng theo quy chế dân chủ ở công ty, thực hiện tốt trách nhiễm xã hội hoá “đền ơn đáp nghĩa”, công tác từ thiện, chăm lo đời sống người lao động.
- lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm công tác hàng đầu, làm chỗ dựa cho công tác xây dựng Đảng và các hoạt động khác, làm tốt công tác xây dựng Đảng để tạơ phát triển bền vững của sản xuất kinh doanh và cac hoạt động khác.
- Nội dung sinh hoạt Đảng phải tập trung tháo gỡ những vướng mắc của sản xuất kinh doanh để đạt được hiệu quả, thể hiện vai trò của tôt chức Đảng trong công ty cổ phần.
- Trong lãnh đạo sản xuất kinh doanh phải phát huy vai trò khoa học- công nghệ; coi trọng chuyển giao công nghệ; tập trung kinh phí và nhân lực cho công tác nghiên cứu thị trường. Trong chỉ đạo thực tiễn, phương pháp công tác là yếu tố quyết định, thể hiện năng lực sáng tạo của trí tuệ.
- Trên cơ sở xác định nhiệm vụ được giao và kết quả sản xuất kinh doanh lãnh đoạ công ty phải quan tâm đến việc phát triển toàn diện, tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các mặt công tác trong đó vai trò của Công đoàn, đoàn thanh niên cộng sản và các tổ chức quần chúng khác được phát huy triệt để theo chức năng, nhiệm vụ, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong sự hài hoà vớilợi ích theo pháp luật của cácthành viên khác trong công ty.
- Duy trì và phát huy chức năng đại hội công nhân viên chức trong công ty cổ phần, đại hội công nhân viên chức tiến hành trước đại hội cổ đông hàng năm, tạo môi trường dân chủ trong cán bộ công nhân viên theo “chiến lược con người” của nền sản xuất văn minh.
1.5. Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp cổ phần hoá.
- Trước hết doanh nghiệp cổ phần hoá cần xác định đúng mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và xoá bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp đối với doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộquản lý doanh nghiệp cổ phần hoá về mọi mặt cho phù hợp với môi trường kinh doanh mới. Để thực hiện điều này cần:
- Đồng thời với việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần có chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý công ty cổ phần cho tất cả cán bộ quản lý doanh nghiệp nằm trong diện cổ phần hoá, nâng cao vai trò quản lý của đội đồng quản trị, tạo ra sự cân đối giữa quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên hội đồng quản trị
- Mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý các công ty cổ phần cho tất cả cán bộ quản lý các doanh nghiệpđã cổ phần hoá. Về kinh phí cho các lớp bồi dưỡng này cần có sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước. đây là vấn đề đặc biệt quan trọng. thực tiễn cho thấy rằng sự hụt hẫng về kiến thức cũng như kỹ năng quản lý công ty cổ phần của cán bộ quản lý doanhnghiếp sau cổ phần hoá là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự kém hiệu quả và không ổn định trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiếp sau cổ phần hoá.
- Đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá, tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho người lao động và cán bộ quản lý doanh nghiệp về quyền cổ đông, của các cơ quan quản lý trong công ty nhằm làm cho các cổ đông, nhất là cổ đông người lao động nắm được các quy định pháp lý tránh tình trạng tranh chấp phức tạp trong nội bộ doanh nghiệp hoặc làm chủ “hình thức” hoặc “sai lệch vị trí” của người lao động và cổ đông thiểu số trong doanh nghiệp sau khi chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
1.6. Xoá bỏ cổ phần hoá khép kin và lành mạnh hoá tình hình tài chính.
Doanh nghiệp được cổ phần hoá cần chào bán rộng rãi cổ phần ra bên ngoài, đảm bảo cho tất cả các nhà đầu tư kể cả nhà đầu tư nước ngoài đều có thể tiếp cận thông tin và có thể mua cổ phần. Nhà nước chỉ nắm giữ số vốn hạn chế với các doanh nghiệp Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Đa dạng hoá chủ sở hữu làm tăng sức ép lên ban lãnh đạo doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải áp dụng tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp hiện đại tiên tiến, minh bạch, tiếp cận thông lệ quốc tế, đáp ứng tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán- đây cũng là chìa khoá để doanh nghiệp vươn ra hội nhập trên thị trường quốc tế.
Lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp giúp tăng tính hấp dẫn của việc mua cổ phần. Nếu tình hình tài chính đến khi cổ phần hoá mới xử lý tất yếu làm chậm trễ quá trình cổ phần hoá, làm giảm tính hấp dẫn của việc mua cổ phần. doanh nghiệp cần chuyển các khoản công nợ đã loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp sang các công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp để tiếptục thu hồi, xử lý. Các doanh nghiệp nhà nước đã xác định là nợ quá lớn, không còn vốn Nhà nước thì nhanh chóng làm thủ tục cho đấu giá hoặc cho phá sản.
Để cổ phần hoá thực sự đi vào quỹ đạo, ngoài những biện pháp như đã nêu trên, việc tạo dựng khung pháp lý đầy đủ, thuận lợi,hoàn thiện các chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá, hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá, tạo môi trường thật sựbình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xử lý vấn đề tài sản trong doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá…cũng hết sức cần thiết.
KẾT LUẬN
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá là yêu cầu bức xúc hiện nay. Đạt được điều đó đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực, cố gắng của các doanh nghiệp cổ phần hoá mà cần có sự quan tâm của Nhà nước ở tất cả các ngành các cấp trong việc đổi mới chính sách cơ chế, cũng như kịp thời giải quyết các vướng mắc đối với doanh nghiệp cổ phần ho. Đó là một trong những vấn đề quan trọng để thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Chính phủ từ những vấn đề được nêu ra trong bài viết, có thể khẳng định cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn trong giai đoạn hiện nay, hiệu quả mà cổ phần hoá mang lại là không thể phủ nhận và hoàn toàn có thể tăng trong tương lai. Bên cạnh đó có thể thấy những hạn chế trong tiến trình cổ phần hoá phần lớn xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan nên hoàn toàn có thể khắc phục được trong thời gian tới.
Với những lý do đó, việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có những ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Để làm tốt nhiệm vụ này, chắc chắn phải huy động nhiều hơn sức lực và thời gian của các tổ chức, cá nhân từ trung ương tới địa phương. Với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước sẽ được thực hiện thành công, góp phần vào những thắng lợi chung của sự phát triển kinh tế đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS Lê Hồng Hạnh
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước_ những vấn đề lý luận và thực tiễn
Nhà xuất bản chính trị quốc gia-năm 2004- trang 60_trang 75
2. Phạm Quang Huấn - cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 15 năm nhìn lại
Tạp chí kinh tế quản lý - tháng 2/2006- trang 41_trang 45.
3. TS Nguyễn Thị Hoài Lê - Đẩy nhanh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Tạp chí tài chính doanh nghiệp- số 10/2006-trang 12_trang 13.
4. TS Hoàng Thị Liễu-Cổ phần hoá là con đường dẫn tới hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp.
Tạp chí tài chính doanh nghiệp-số 9/2006- trang 16_trang 18.
5. Trương Đông Lộc_Võ Văn Dứt_Lê Long Hậu - Tác động của cổ phần hoá đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - tháng 1/2006- trang 66_trang 67.
Trang Liên - Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực trạng và những
biện pháp kiến nghị.
Tạp chí tài chính doanh nghiệp- số 11/2005- trang 16_trang 18.
Trần Văn Hiền- Hậu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực trạng và kiến nghị.
Tạp chí tài chính doanh nghiệp- số 1+2/2006- trang 27_trang 28.
PGS.TS Trần Đình Ty - Doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Thực trạng và giải pháp.
Tạp chí kinh tế và dự báo- tháng 11/2005- trang 15_trang 17.
Phạm Bang Ngạn- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Kinh nghiệm từ một đơn vị cơ sở.
Tạp chí khoa học thương mại- số 7/2004 - trang 58_trang 60.
TS Vũ Thành Hưng - Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Tạp chí kinh tế và phát triển- tháng8/2005-Trang 9_ trang 10.
TS Hà Thị Sáu- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. vì sao còn trì trệ
Tạp chí phát triển kinh tế - tháng 9/2004- trang 24_trang 26.
Trần Tuấn Linh - Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước kinh nghiệm từ Trung Quốc
Tạp chí tài chính doanh nghiệp - số 4/2005- trang 38_ trang 39.
Lê Tuyết - Bước tiến mới trong công cuộc cổ phần hoá
Tạp chí tài chính doanh nghiệp - số 3/2006- Trang 5_ trang 6.
14. Vương Hồng Hà - cổ phần hoá sau hơn 10 năm thực hiện. Kết quả và những hạn chế
Tạp chí tài chính doanh nghiệp - số 3/2005 - trang 6_trang 8.
Trần Hữu Tiến - Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Tạp chí tài chính doanh nghiệp - số 3/2004- trang 3_ trang 5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10711.doc