Để thực hiện tốt kế hoạch phát triển ngành thời kỳ 2003-2005, ngoài sự nỗ lực của toàn ngành, thủy sản cần được Đảng, Nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa. Đồng thời có các chính sách tạo điều kiện khuyến khích phát triển ngành. Thực hiện được như vậy, chắc chắn ngành thủy sản sẽ tạo được sự chuyển đổi về chất, hoàn thành tốt kế hoạch, tiếp tục phát triển là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước trong tương lai ./.
82 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1621 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp về thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2003-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong thời gian qua dẫn đến sự không hiệu quả của sản xuất kinh lĩnh vực khai thác thủy sản. Hiện nay lực lượng lao động khai thác còn khá dư thừa, kể cả lực lượng lao động kỹ thuật và lao động đến tuổi được bổ sung hàng năm ở vùng ven biển, nhiều nơi phải đi xen đi ghép trên một phương tiện đánh bắt. Trong khi số lượng thuyền trưởng và thuỷ thủ giỏi có khả năng đi tàu đánh bắt ở nhiều nơi còn thiếu, đặc biệt ở các tỉnh Bắc Bộ và Nam Bộ. Số lao động này đang dần chuyển sang các nghề sản xuất khác hoặc hoạt động có liên quan như nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Trong 2 năm qua công tác đào tạo được quan tâm tương đối tốt. Toàn ngành đào tạo được 9218 người đạt 100% kế hoạch, trong đó:
Đại học tại chức : 1140 người
Trung học tuyển mới : 2550 người
Dạy nghề tuyển mới : 5070 người
Bồi dưỡng công chức Nhà nước : 450 người
- Tiến sỹ : 8 người
Nhìn chung, lao động qua đào tạo của ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước phát triển lơn mạnh, đã đáp ứng được tương đối tốt nhu cầu phát triển, tuy nhiên lao động kỹ thuật cao còn rất hạn chế. Thời gian này đào tạo nguồn nhân lực còn gặp phải nhiều khó khăn, trình độ tuy có nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu phát triển ngành. Những năm tiếp theo ngành thủy sản cần phải chú trọng về vấn đề này.
4.2. Kế hoạch nguồn vốn đầu tư
Hai năm đầu thực hiện kế hoạch, nguồn vốn đầu tư phát triển toàn ngành đạt 10.883 tỷ đồng tăng hơn 9,0% so với kế koạch. Trong đó tổng vốn đầu tư cho phát triển ngành năm 2002 là 5.870 tỷ đồng tăng 116,4% so với năm 2000. Với việc khai thác một cách ồ ạt trong những năm trước đã làm cho nguồn lợi thuỷ sản suy kiệt, rút kinh nghiệm trong 2 năm vừa qua ngành chủ trương khai thác thuỷ sản có hệ thống và khoa học hơn, giảm mạnh khai thác gần bồ đồng thời tăng nhanh nuôi trồng thuỷ sản. Những năm qua, ngành đã ưu tiên vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho những công trình trọng điểm có hiệu quả kinh tế cao hoặc sớm phát huy hiệu quả. Cơ cấu đầu tư ngành thuỷ sản được phân bổ như sau :
Nguồn: Thương mại thuỷ sản - Bộ thuỷ sản
Nhìn vào biểu trên ta có thể thấy, cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch một cách đáng kể. Việc nuôi trồng thuỷ sản được ưu tiên cao nhất chiếm 45% tổng nguồn vốn đầu tư trong khi năm 2000 tỷ trọng này chỉ chiếm 35,6%. Khai thác thuỷ sản chiếm 18% tổng đầu tư, trong khi năm 2000 tỷ trọng này chiếm lớn nhất bằng 35,6%. Chế biến thuỷ sản và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong 2 năm qua tuy giảm về tỷ trọng nhưng đều cao hơn rất nhiều so với những năm trước đây, tăng 2 - 3 lần năm 2000. Với cơ cấu đầu tư như trên đã một phần nào hợp lý và tạo thuận lợi cho thực hiện kế hoạch, thực hiện có kết quả các chương trình kinh tế của ngành.
Việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong những năm qua đã thu được những kết quả khả quan, đáp ứng gần như 100% kế hoạch thu hút vốn đề ra. Nguồn vốn của ngành bao gồm: Vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn tự huy động trong dân và vốn nước ngoài. Tuy nhiên vốn ngân sách nhà nước rất eo hẹp và luôn không đáp ứng được yêu cầu của kế hoạch phát triển. Trong giai đoạn 2001-2002 nguồn vốn ngân sách chỉ đáp ứng được 85% kế hoạch. Với mục tiêu hoàn thành tốt kế hoạch đề ra, toàn ngành đã nỗ lực kêu gọi vốn tự huy động của dân và của doang nghiệp tăng lên gấp 2-3 lần so với năm 2000 tức là tăng 10%-20% kế hoạch. Biến động nguồn vốn đầu tư của ngành trong những năm qua như sau:
Bảng 2.19 : Biến động nguồn vốn đầu tư ngành thuỷ sản 2000-2002
Đơn vị: Nguồn vốn:Tỷ đồng; Tốc độ tăng trưởng (TT): %
Nguồn vốn
2000
2001
2002
T.Bình
Ngân sách
433
640
458.2
Tín dụng
1060
2558
3120
Huy động
850
1400
1791
Nớc ngoài
370
415
500.8
Tổng Đ.Tư
2713
5013
5870
TT. N.Sách
%
47.8
-28.4
9.7
TT. T.Dụng
%
141.3
21.97
81.6
TT. H.Động
%
64.7
27.93
46.3
TT. N.Ngoài
%
12.16
20.7
16.42
TT. Tổng
%
84.78
17.1
50.94
Nguồn: Tổng hợp báo cáo thực hiện kế hoạch các năm - Bộ thủy sản
Nhìn vào bảng ta thấy, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng nguồn vốn đầu tư là gần 60%, trong đó vốn tín dụng tăng trưởng cao nhất đạt 81,64%/ năm; vốn tự huy động tăng 46,3 %/ năm. Nguồn vốn ngân sách 2 năm qua tăng trưởng đạt 9,7%/ năm tuy nhiên trong những năm gần đây cụ thể là năm 2002, vốn ngân sách đã giảm một cách đáng kể, giảm 28,4% so với năm 2001 và chỉ đạt gần 70% kế hoạch đưa ra. Nhìn chung, hoạt động thu hút đầu tư trong thời gian qua tiến triển tốt, mặc dù nguồn vốn ngân sách hoạt động không hiệu quả nhưng hoạt động thu hút nguồn vốn tín dụng của các doanh nghiệp và của dân rất tốt nên đã lấp được khoản thiếu hụt mà vốn ngân sách tạo ra. Đầu tư không những hoàn thành mà còn vượt kế hoạch.
Như vậy, nguồn vốn đầu tư có những ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện tốt các mục tiêu ngành, thời gian qua nguồn vốn này đã được huy động đạt kết quả cao, sự phân bổ nguồn vốn tới các chương trình tương đối hợp lý, điều đó đã tạo động lực mạnh mẽ cho ngành thủy sản thực hiện các mục tiêu kế hoạch đưa ra: Tăng trưởng nhanh, chuyển dịch cơ cấu hợp lý và thực hiện thành công các chương trình kinh tế ngành.
III- Đánh giá, nhận xét chung
1. Kết quả đạt được
Trong hai năm qua 2001-2002, mặc dù gặp nhiều khó khăn và thách thức, nhờ có sự phấn đấu cao và tiến bộ trong chỉ đạo điều hành của Bộ, ngành Thuỷ sản đã đạt được :
- Đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và phát triển khá toàn diện; các chỉ tiêu đạt được đều vượt kế hoạch. Sản lượng khai thác xa bờ tăng dần, diện tích nuôi trồng mở rộng khắp đất nước ở những nơi nào có thể phát triển được, xuất khẩu đạt kim ngạch lớn...
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến tích cực, hiệu quả, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn. Tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho lao động nghề cá.
- Nguồn vốn đầu tư đã được huy động và phân bổ tương đối hợp lý, bảo đảm được khá tốt nhu cầu phát triển, là tiền đề để hoàn thành xuất sắc các mục tiêu kế hoạch ngành.
- Các thành phần kinh tế đã phát triển theo hướng hiệu quả hơn, đã phần nào phát huy được các tiềm năng và sức mạnh nội lực của mình, cùng nhau hướng tới mục tiêu phát triển và hoàn thành kế hoạch đề ra.
- Công tác đào tạo và thu hút nguồn nhân lực đã rất được chú trọng. Hàng năm tạo được rất nhiều công ăn việc làm cho lao động đồng thời hoàn thành nhiều chương trình đào tạo lao động có tay nghề cao, đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển thời kỳ mới.
- Chất lượng và giá trị của sản phẩm khai thác, nuôi trồng, chế biến ngày càng nâng cao. Tạo ra diện mạo mới cho cạnh tranh và thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước.
- Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ được áp dụng vào sản xuất, nhất là công nghệ sinh sản giống thuỷ sản và công nghệ nuôi trồng một số loài thuỷ sản có giá trị cao.
- Đời sống ngư dân tiếp tục được cải thiện, tạo nhiều công ăn việc làm, góp phần vào việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội đất nước.
Đạt được những kết quả đáng phấn khởi trên có nhiều nguyên nhân. Quan trọng nhất là sự chỉ đạo suýt sao của các cấp Uỷ Đảng, chính quyền địa phương, có sự hỗ trợ của các Bộ, ngành liên quan với sự năng động sáng tạo của doanh nghiệp và bà con ngư dân trong triển khai sản xuất kinh doanh đồng bộ ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch, áp dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến sản phẩm, giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu, phát huy nội lực và tranh thủ có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài.
Mặc dù đạt được kết quả đáng kể trên, tuy nhiên ngành vẫn còn một số tồn tại yếu kém mà thời gian tới cần phải khắc phục.
2. Những yếu kém và tồn tại
2.1. Sự tăng trưởng quá mức, tự phát và thiếu ổn định ở một số lĩnh vực
Thủy sản, nhất là hải sản là ngành khai thác lợi dụng tài nguyên thiên nhiên. Những tài nguyên thiên nhiên là có giới hạn. Mặc dù nguồn lợi hải sản có thể phục hồi nhưng với điều kiện khai thác hợp lý trong giới hạn cho phép. Do sức ép về công ăn việc làm và thu nhập thấp, sức ép về sự phát triển dân số ở các vùng ven biển, do truyền thống và lịch sử chưa gặp và chưa biết đến sự hạn chế của tài nguyên biển nên khai thác hải sản ở Việt Nam trở thành cửa mở cho mọi người, không giới hạn. Với chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đối với mọi thành phần kinh tế và mọi tầng lớp dân cư, Nhà Nước luôn hỗ trợ cho nhân dân các vùng ven biển, tạo nhiều điều kiện cho họ đóng mới tàu thuyền đánh cá. Hậu quả là quá nhiều tàu thuyền, quá nhiều lao động được thu hút vào ngành khai thác biển, ở vùng gần bờ, các sông ngòi, hồ chứa. Hơn nữa do điều kiện kinh tế chung của đất nước và nhân dân với đặc thù nghề cá nhân dân nên dư thừa năng lực (tàu thuyền, người) lại dẫn đến khai thác quá mức làm cạn kiệt nguồn lợi ven bờ. Dẫn tới hậu quả :
- Nguy cơ nghèo đói của một bộ phận dân cư không thể chuyển sang nghề khác được và lực lượng này lại tích cực tàn sát nguồn lợi bằng cách dùng các phương tiện bất hợp pháp để khai thác, mong kiếm được thu nhập cao do cạnh tranh khốc liệt tranh giành quyền lợi.
- Lao động và tàu thuyền cho khu vực ven bờ dư thừa nhưng phát triển đánh cá khơi không phải là lối thoát, là cứu cánh có triển vọng nhất để cứu nghề cá ven bờ vì: Chưa rõ ràng về trữ lượng nguồn lợi để phát triển ồ ạt nghề khơi. Mặt khác nghề khơi là nghề cần nhiều vốn chứ không phải nghề cần nhiều lao động. Vốn đầu tư rất lớn, hơn nữa không phải tất cả các lao động nghề lộng có thể chuyển sang nghề khơi. Chỉ có lao động trẻ, được đào tạo mới ra làm nghề khơi được. Trong khi thực tế cho thấy vấn đề giải quyết bớt lượng tàu thuyền nhỏ, tăng tàu thuyền có công suất lớn và hiện đại, đào tạo lao động nghề cá còn rất nhiều khó khăn cần vượt qua.
- Nghề khai thác cá đã phát triển một cách quá mức, tức là dọc chiều dài đất nước chổ nào cũng có thể phát triển nghề khơi. Đây là một yếu kém trong khâu quản lý bởi vì: Không phỉ vùng khơi nào cũng có nhiều cá, hơn nữa không phải nhiều cá là mang lại hiệu quả kinh tế vì chỉ có hải sản có giá trị kinh tế cao mới mang lại kết quả cho nghề cá. Đồng thời ngành chưa tính tới sức ép tải của của thị trường nội địa đối với một bộ phận chỉ dùng cho tiêu thụ trong nước.
- Nghề nuôi trồng thủy sản nhất là nuôi trồng thủy sản trên biển và nước lợ phát triển đem lại thành tựu kinh tế lớn lao nhưng sự phát triển tự phát, thiếu quản lý đã và đang dẫn đến những thảm họa như: Môi trường sinh thái bị phá vỡ, nguồn tài nguyên suy kiệt, bệnh dịch hoành hành làm cho sự phát triển không bền vững. Ngoài ra, việc chuyển đổi nghề cá ven bờ nhằm bảo vệ nguồn lợi và nâng cao đời sống cho dân cư ven biển còn làm chắp vá. Tiềm năng đất, mặt nước, lao động, nguồn vốn trong dân còn dồi dào nhưng với cơ chế chính sách hiện nay cũng như cố gắng của Bộ vẫn chưa được khai thác hợp lý cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất hàng hoá lớn tạo thế tăng mạnh hơn và bền vững hơn cho Ngành.
- Phát triển ồ ạt chế biến và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thủy sản một mặt tăng nhanh được kim ngạch xuất khẩu và chống được sự độc quyền trong buôn bán, làm thiệt hại đến người sản xuất trực tiếp và làm cho giá nguyên vật liệu tăng cao dẫn đến hiệu quả kinh doanh chế biến và xuất khẩu ngày càng giảm sút, làm mất tính động lực cho sự phát triển và tận dụng không hết năng lực sản xuất.
Tóm lại, sự phát triển ồ ạt, tự phát, thiếu tính toán và thiếu quản lý sẽ làm hạn chế cho sự phát triển tiếp theo. Vì thế cần phải có một sự quyết tâm, một sự cải tổ thực sự, tính toán thận trọng và khoa học trong kế hoạch phát triển, nếu muốn phát triển bền vững.
2.2. Những yếu kém trong chỉ đạo phát triển các lĩnh vực ngành
* Trong khai thác hải sản và bảo vệ nguồn lợi:
- Sự bất cập về điều tra cơ bản càng trở nên gay gắt đối với yêu cầu cao của Quy hoạch và tổ chức sản xuất trên biển, cũng như công tác bảo vệ phát triển nguồn lợi thủy sản.
- Chưa có biện pháp cụ thể, chưa có mô hình quản lý hữu hiệu đưa hệ thống cảng cá vào hoạt động hiệu quả. Một số cảng cá đã hoàn thành nhưng chưa đưa vào sử dụng hiệu quả như cảng cá Cà Mau (Cà Mau), cảng cá Xuân Phổ (Hà Tĩnh) và một số cảng khác.
- Các biện pháp quản lý chỉ đạo phát triển ngành cơ khí thuỷ sản, gắn khai thác với hậu cần dịch vụ, hoạt động cảng cá, chợ cá, tiêu thụ sản phẩm, bảo quản sơ chế sau thu hoạch còn hạn chế.
- Tình trạng khai thác một số loài hải sản có kích cỡ quá nhỏ hoặc các phương pháp khai thác ảnh hưởng đến bảo vệ nguồn lợi còn diễn ra ở nhiều nơi. Một số chủ trương bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của UBND một số tỉnh chưa được Bộ cho ý kiến thống nhất.
* Trong nuôi trồng thuỷ sản:
- Còn lúng túng trong công tác quy hoạch, cộng với thiếu vốn đầu tư làm cho cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản, nhất là thuỷ lợi ít được cải thiện dễ dẫn tới nhiều rủi ro trong nuôi trồng thủy sản. Tiềm năng phát huy thế mạnh của nuôi thuỷ sản còn nhiều kể cả ngọt, mặn lợ. Tuy nhiên một qui hoạch phát huy hợp lý thế mạnh này còn chưa rõ khi xét đến các yếu tố tự nhiên gắn với khả năng thị trường tiêu thụ.
- Chưa xây dựng được chiến lược phát triển giống thủy sản phục vụ nuôi trồng thuỷ sản... Việc quản lý giống thuỷ sản thiếu văn bản quy phạm pháp luật, thiếu hướng dẫn hoặc có nhưng thực hiện chưa tốt, dẫn tới hiện tượng chất lượng giống không ổn định, giống khi thừa khi thiếu, giá cả biến động. Công tác nghiên cứu khoa học về giống có tiến bộ nhưng chưa thực sự đi trước một bước, thiếu cơ cấu giống đáp ứng cho chuyển dịch cơ cấu.
- Việc xây dựng các vùng nuôi sạch chưa được chú trọng đúng mức cho phù hợp với yêu cầu của thị trường bớt rủi ro cho người nuôi và không tác hại đến môi trường sinh thái. Chậm xây dựng hệ thống cảnh báo môi trường gắn với quản lý các nguồn nước và hoạt động nuôi thủy sản.
- Nhiều dự án nuôi trồng thủy sản đã được xây dựng nhưng số lượng hoàn thành để đưa vào sản xuất chưa nhiều do các khâu tư vấn, thiết kế, thẩm định dự án, việc cấp vốn, đền bù giải toả và một số chính sách chưa đồng bộ, nên hạn chế hiệu quả đầu tư.
* Trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản:
- Những năm 2001-2002 lần đầu tiên ngành gặp phải cùng một lúc nhiều khó khăn, vướng mắc lớn trên thị trường xuất khẩu, thể hiện rõ sự lúng túng trong việc đối phó với các rào cản thương mại và các biện pháp hỗ trợ ngư dân và các doanh nghiệp.
- Các Tổng công ty của Bộ chưa thực sự là nòng cốt, chưa đi đầu trong hoạt động xuất khẩu và xúc tiến thương mại hoặc dịch vụ hậu cần tốt cho công tác này.
- Tuy có cố gắng đổi mới công nghệ, cải tiến mặt hàng và đáp ứng các yêu cầu vệ sinh của thị trường nhập khẩu hiệu quả, sức cạnh tranh của không ít sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu còn hạn chế. Lượng và giá trị nguyên liệu thất thoát sau thu hoạch còn cao. Trong số đó 2/3 số doanh nghiệp chế biến thuỷ sản, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa thật đáp ứng yêu cầu về điều kiện sản xuất về an toàn vệ sinh thực phẩm. Đầu tư cho việc tạo nguyên liệu và nâng cấp nhà máy chế biến chưa tương xứng và thiếu đồng bộ.
- Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lúng túng trong công tác xúc tiến thị trường, chậm đổi mới sản xuất, nên hiệu quả sản xuất không cao.
- Thị trường nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản vẫn chưa được thiết lập vững chắc xuất phát từ bảo đảm cả lợi ích ngư dân và doanh nghiệp. Còn tình trạng sử dụng kháng sinh, bơm chích tạp chất. Công tác kiểm tra, kiểm soát điều kiện vệ sinh của quá trình sản xuất nguyên liệu đã được triển khai song hiệu quả chưa cao.
2.3. Sự bất cập trong cơ chế đầu tư
Đầu tư vào thủy sản rất tốn kém nhưng chưa thực sự theo quy hoạch, nhiều phương án phát triển sản xuất hay chuyển đổi cơ cấu sản xuất chưa có căn cứ đã và đang gây ra lãng phí và thất thoạt lớn trong khi vốn ngân sách Nhà nước cho phát triển ngành thủy sản càn rất eo hẹp. Nhiều dự án được làm một cách chiếu lệ, thiếu cán bộ có kiến thức làm dự án. Còn nhiều dự án chất lượng kém, nặng nề xin vốn đầu tư, ít chú ý đến hiệu quả kinh tế và thu hồi vốn.
- Hoạt động đầu tư còn nhiều lúng túng trong việc lựa chọn, thẩm định, phê duyệt và quản lý các dự án đầu tư, chưa thu hút được đáng kể nguồn lực từ bên ngoài, nhất là nguồn vốn FDI vào phát triển. Trong khi nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước vẫn còn quá ít so với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu, sự phân bổ đang còn dàn trải thậm chí sai địa chỉ. Nguồn vốn tín dụng đầu tư được sử dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước triển khai còn hạn chế. Cơ quan tư vấn đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu, chuẩn bị và triển khai các dự án đầu tư còn nhiều lúng túng nên giải ngân chậm, chất lượng dự án chưa cao. Chưa triển khai được việc tổng kết đánh giá hiệu quả các dự án ODA và công tác đầu tư phát triển nguồn nhân lực và nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ của Ngành.
2.4. Một số yếu kém khác
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được xác lập, nhưng chưa có các biện pháp hữu hiệu để phát huy hết tiềm năng của các thành phần kinh tế hạn chế thấp nhất các biểu hiện không lành mạnh, để xảy ra tình trạng nậu vựa ép cấp, ép giá, thiếu thể chế cho sự cạnh tranh bình đẳng và hợp tác cùng có lợi; Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp Nhà nước chưa cao. Công tác sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Bộ tiến hành chậm. Việc phát triển quan hệ hợp tác nâng cao tính cộng đồng để đảm bảo sự phối hợp và nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh còn nhiều yếu kém. Hiệu quả sản xuất kinh tế hợp tác và hợp tác xã chưa có chuyển biến mạnh.
- Về phương diện quản lý vĩ mô, việc xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển ngành vẫn chưa hoàn thành, chưa trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Sự phối hợp các nguồn lực chưa tốt, giữ ngoại lực và nội lực, giữa các nguồn nội lực, giữa các nguồn tài chính và chính sách nguồn nhân lực. Trong chỉ đạo vẫn chưa khắc phục tình trạng cắt khúc giữa các khâu của quá trình sản xuất.
- Chức năng nhiệm vụ của các đơn vị thuộc ngành còn chồng chéo, công tác cải cách hàng chính kể cả thủ tục, thể chế, bộ máy, cán bộ còn chậm làm ảnh hưởng đến năng lực và hiệu lực của bộ máy hành chính cản trở việc thực hiện kế hoạch phát triển ngành thời gian qua.
Chương III
Những giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản Việt nam 2003-2005
I. Những thuận lợi khó khăn đối với phát triển thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003-2005
1. Những thuận lợi
Trong nước, sự ổn định chính trị- xã hội là nền tảng vững chắc tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đang phát triển thuận lợichuyển sang giaiđoạn phát triển cao theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá, nguồn lực phát triển từ trong nước được tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện. Nhà nước quan tâm đầu tư cho ngành thuỷ sản ngày một phát triển . Bên cạnh đó, chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôntheo nghị quyết 09/2000/NQ-CP của chính phủ cùng với khả năng tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục tăng là động lực cho tăng trưởng mới của ngành.
Tiềm năngvề mặt nước, tài nguyên đưa vào phát triển ngành còn lớn, nhất là tiềm năng đất và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn nhiều. Cộng với các công trình hạ tầng cơ sở đầu tư vừa qua bắt đầu phát huy hiệu quả cả trong khai thác lẫn nuôi trồng thuỷ sản.
Nhu cầu thuỷ sản trên thế giới ngày càng tăng. Thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng. Hợp tác quốc tế và khu vực đang tạo ra những điều kiện mới để tiếp cận hội nhập, đặc biệt là về kinh nghiệm quản lý, khoa học công nghệ, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Với sự phát triển của khoa học công nghệ thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, có thể tạo ra được các bước đột phá về giống, thức ăn, phát triển nguyên liệu...Tạo luận cứ cho phát triển bền vững trong những năm tới.
2. Những khó khăn
- Công nghiệp hoá hiện đại hoá đang là yêu cầu đối với hoạt động đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Nhu cầu đầu tư lớn cơ sở dich vụ hậu cần lớn nhưng khả năng đáp ứng còn hạn chế. Thực tế cho thấy ngân sách Nhà nước còn eo hẹp không đáp ứng đủ cho việc triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Bộc lộ những khó khăn do tốc độ tăng trưởng nhanh chóng thời gian qua có thể làm suy kiệt nguồn tài nguyên biển và mất cân bằng sinh thái sẽ làm ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững và hiệu quả trong thời gian tới.
- Sự biến động tình hình thế giới đặc biệt là chiến tranh xâm lược I-Rắc của đế quốc Mỹ sẽ gây những bất lợi đến xuất khẩu thuỷ sản. Ngoài ra, việc áp dụng chặt chẻ các rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam và sức ép cạnh tranh gay gắt của các đối thủ trên thế giới gây ra những trở ngại và thách thức lớn cho ngành thuỷ sản
- Ngoài ra, hoạt động của ngành thuỷ sản thường bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như: Lũ lụt, bảo, bệnh dịch làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của việc thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam.
II. Mục tiêu kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản thời kỳ 2003-2005
1. Mục tiêu chung
Bảo đảm tốt khâu nguyên liệu, nâng cao công nghệ chế biến, mở rộng thị trường và tháo gỡ các khó khăn, rào cản trong xuất khẩu thuỷ sản để giữ nhịp tăng kim ngạch xuất khẩu; có các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn; có bước đột phá phát triển theo hướng coi trọng chất lượng nghề cá biển đảm bảo gia tăng giá trị, nâng cao hiệu quả, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi, coi trọng nuôi biển ở một số khu vực ven bờ, ven đảo thuận lợi và các đối tượng đang có điều kiện thị trường.
Thực hiện chủ trương sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ngành. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính đến năm 2010 của Chính phủ. Có các chuyển biến tích cực trong các hoạt động hội nhập Quốc tế và khu vực, tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các hỗ trợ của các nước và tổ chức Quốc tế cho phát triển ngành.
2. Nhiệm vụ cụ thể
- Tập trung triển khai công tác quy hoạch phát triển Ngành, ưu tiên các dự án quy hoạch phục vụ chuyển dịch cơ cấu nông thôn ven biển, đặc biệt ở những vùng chuyển đổi từ trồng cây nông nghiệp, làm muối kém hiệu quả sang phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
- Tập trung các nguồn lực để phát triển nhanh các nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ xuất khẩu. Đưa thêm các nhóm sản phẩm mới như cá Rô phi đơn tính, Tôm thẻ chân trắng, tôm càng...trở thành các sản phẩm hàng hoá với giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, trong đó ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở thuỷ lợi phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản khu vực, hệ thống giống giống thuỷ sản quốc gia; hệ thống thông tin liên lạc phục vụ khai thác hải sản xa bờ, khu neo, đậu phòng tránh bão cho tàu thuyền nhằm nâng cao hiệu quả hạn chế rủi ro cho nghề đánh bắt hải sản .
- Ưu tiên phát triển một số ngành nghề nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo vùng bải nganh ven biển và hải đảo
- Có giải pháp cụ thể thực hiện chỉ thị của Thủ Tướng chính phủ và các văn bản của ngành liên quan tới không sử dụng thuốc kháng sinh, hoá chất bị cấm trong nuôi trồng và bảo quản hàng thuỷ sản cũng như việc bơm chích tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản cho chế biến xuất khẩu.
- Chủ động thực hiện chương trình hội nhập quốc tế trong công tác thị trường, thuế quan, đầu tư, các điều kiện tham gia hội nhập của ngành theo nội dung cam kết đa phương và song phương của Chính phủ; đẩy mạnh xúc tiến thương mại và nâng cao sức cạnh tranh tạo chổ đứng vững chắc cho hàng thuỷ sản xuất khẩu vaò các thị trường.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý ngành trên cơ sở Luật Thuỷ Sản và các nghị định trình Chính phủ; xây dựng các văn bản hướng dẫn của ngành về luật pháp và chính sách có liên quan. Triển khai việc điều chỉnh chức năng nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức bộ máy và biên chế, nâng cao năng lực và tay nghề của cán bộ và công nhân viên.
- Tiếp tục việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, sát nhập, giải thể những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tổng kết xây dựng mô hình, phát huy vai trò kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân để tạo thành tổng thể các thành phần kinh tế phát triển và hoạt động có hiệu quả.
- Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên biển, xây dựng các chính sách nhằm chủ động và đưa vào ổn định việc giúp dân cư khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất kinh doanh.
3. Các chỉ tiêu kế hoạch 3 năm cuối (2003-2005) kế hoạch phát triển 5 năm ngành thuỷ sản
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu của thời kỳ 2003-2005
Chỉ tiêu
Đơn vị
2001-2005
2003-2005
2005
1-Tổng sản lượng Thuỷ sản
+Sản lượng khai thác
+Sản lượng nuôi trồng
2-Kim ngạch xuất khẩu
3-Diện tích nuôi trồng
+Mặn lợ, biển
+Nước ngọt
4-Lao động nghề cá
5-Cơ sở chế biến
1000Tấn
1000Tấn
1000Tấn
Tỷ USD
1000Ha
1000Ha
1000Ha
1000ng
Cơ sở
4.400
2.600
1.800
3.4
1.700
725
925
-
-
7.540
4.200
3.340
7,55-7,8
3.300
1.850
1.450
-
-
2.550
1.400
1.150
3,0
1.200
700
500
4.000
225
Nguồn: Báo cáo kế hoạch phát triển ngành thủy sản 2001-2005
- Ngành thủy sản phấn đấu thời kỳ kế hoạch 2003-2005 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 1,89%/ năm về sản lượng, đến năm 2005 đạt 2.550.000 tấn. Trong giai đoạn này ngành giữ vững ở mức khai thác 1.400.000 tấn còn sản lượng nuôi trồng liên tục tăng hàng năm. Đến 2005 đạt 1.150.000 tấn tăng bình quân 5,71%/ năm; Kim ngạch xuất khẩu tăng trươởng đạt 12% - 14,3%/ năm; Diện tích mặt nước nuôi trồng tăng 7,9% /năm.
- Tiếp tục không ngừng chuyển đổi cơ cấu nghề cá theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đóng góp ngày càng nhiều cho nguồn thu Ngân sách Nhà nước vv.
- Thời gian này, hoàn thành tốt các chương trình kinh tế ngành. Phấn đấu tới năm 2005, tạo công ăn việc làm cho 3.600 nghìn lao động, xây mới 15 cơ sở chế biến để đến năm 2005 đạt 225 cơ sở. Phối hợp với các Bộ, Ngành và thành phần kinh tế khác thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Bảng 3.2: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển thủy sản thời kỳ 2003-2005
Đơn vị: Tỷ đồng
Hạng mục
2001-2005
2003-2005
Tổng vốn đầu tư
+ Nguồn vốn ngân sách
+ Nguồn vốn tín dụng
+Nguồn vốn huy động
+ Nguồn vốn nước ngoài
24.907,6
4.120
12.987,6
6.600
1.200
14.024,6
3.021,8
7.309,6
3.409,0
284,2
Khai thác hải sản
3.966,6
1.755,5
Nuôi trồng thủy sản
18.189
10.693,0
Chế biến xuất khẩu thủy sản
1.935
1.037,1
Tăng cường quản lý ngành thủy sản
817
539,0
Nguồn: Báo cáo kế hoạch phát triển ngành thủy sản 2001-2005
Thời kỳ này, với mục tiêu chủ đạo nhất là hoàn thành đạt kết quả cao nhất kế hoạch phát triển ngành. Thực hiện thành công và vượt các chỉ tiêu kế hoạch ban đầu. Toàn ngành nỗ lực kêu gọi và huy động tối đa nguồn lực trong và ngoài nước. Trong thời kỳ này, tổng nguồn vốn đầu tư là 14.024,6 tỷ đồng chiếm 56,3% tổng nguồn vốn thời kỳ kế hoạch 5 năm, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,4%/năm. Trong đó, nguồn vốn được huy động chủ yếu là nguồn vốn tín dụng và vốn huy động chiếm tới 76% tổng nguồn vốn cần huy động, được phân bổ phần lớn cho chương trình nuôi trồng thuỷ sản (75.8%). Trong thời gian này, công tác đầu tư tăng cường quản lý ngành được chú trọng hơn với nguồn vốn là 539 tỷ đồng chiếm 66% kế hoạch 2001-2005.
III. Các giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản thời kỳ 2003-2005
1. Lựa chọn khâu đột phá cho kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2003-2005
a- Trong khai thác hải sản:
- Khai thác hải sản là một lĩnh vực khó và chậm được đổi mới. Tàu thuyền, ngư cụ, công nghệ, lao động, khai thác cá biển của ta vẫn còn lạc hậu và có nhiều bất cập khi đi vào công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong điều kiện một nước nghèo, kinh tế chậm phát triển, dân trí ven biển và hải đảo còn thấp như nước ta, thì phát triển khai thác biển xa, phát triển kinh tế biển là rất cần thiết và gặp những thách thức lớn. Để đẩy mạnh sự phát triển của lĩnh vực này, trong những năm tiếp theo, tất cả các tỉnh, thành phố ven biển và toàn Ngành cần tiến hành đánh giá lại một cách đầy đủ, toàn diện thực trạng khai thác hải sản, sự biến động, chuyển đổi ở vùng gần bờ và kết quả cũng như những vấn đề đang đặt ra trong trong thực hiện chủ trương khai thác hải sản xa bờ. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, gắn với yêu cầu hội nhập dựa vào khả năng và hiện trạng sử dụng nguồn lợi để có định hướng chiến lược và giải pháp đẩy mạnh phát triển khai thác hải sản gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi, nhất là khai thác hải sản xa bờ, đồng thời thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ cấu khai thác gần bờ một cách hợp lý. Do đó, phải tập trung đẩy mạnh điều tra dự báo nguồn lợi, lựa chọn những mô hình hoạt động có hiệu quả, có khả năng phát triển từ các thành phần kinh tế, trên từng vùng, từng lĩnh vực hoạt động (cả khai thác, dịch vụ hậu cần, tiêu thụ sản phẩm) để khuyến khích, hỗ trợ các mô hình này phát triển. Một số việc cụ thể là:
- Tập trung đầu tư điều tra nguồn lợi hải sản xa bờ, Vùng Vịnh bắc Bộ, Trường Sa, DK1, tiến tới lập bản đồ ngư trường khai thác.
- Tìm giải pháp tổ chức để tăng cường năng lực khai thác hải sản ở các ngư trường trọng điểm.
- Thí điểm và mở rộng từng bước vững chắc hợp tác đánh cá với các nước, trước hết là các nước láng giềng trong khu vực.
- Tăng cường năng lực hậu cần dịch vụ cho khai thác xa bờ và khai thác ở vùng biển nước ngoài song song với việc đẩy mạnh hợp thác với vùng biển ngoài hải phận.
- Phát triển khai thác hải sản gắn với các biện pháp bảo vệ nguồn lợi hải sản. Chuẩn bị để triển khai thi hành Luật Thuỷ sản, các nghị định quản lý nguồn lợi hải sản, quy hoạch tàu thuyền, nghề nghiệp, mùa vụ, đối tượng khai thác.
b- Trong nuôi trồng thuỷ sản:
- Đối tượng, qui mô hàng hoá, phương thức nuôi bước đi phù hợp cần được tính toán, xác định rõ ràng trong quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo tuyến, theo vùng, trên từng địa phương bảo đảm nâng cao giá trị sản phẩm của Ngành một cách vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có kết quả, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá Ngành thời gian tới.
- Tập trung giải quyết khâu đột phá là cung ứng đủ giống thuỷ sản có chất lượng và giá bán hợp lý.
- Chuyển giao nhanh những kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản tiên tiến cho ngư dân. Khuyến khích các thành phần kinh tế đẩy mạnh sản xuất giống thương phẩm cung cấp cho nhu cầu nuôi trồng và thị trường.Tính toán để có thể cân đối trên cơ sở số lượng và chất lượng giống theo yêu cầu của từng đối tượng để nhập khẩu một số lượng giống cần thiết cho yêu cầu phát triển nuôi thuỷ sản.
- Quản lý tốt việc nhập khẩu, sản xuất và lưu thông thức ăn và các chế phẩm dùng trong nuôi trồng thuỷ sản. Trong khi vẫn bảo đảm sự thông thoáng theo môi trường chính sách đổi mới để phát huy cao nguồn lực trong dân cho phát triển.
- Làm tốt công tác kiểm dịch giống thuỷ sản, nuôi thả đúng thời vụ, hạn chế rủi ro dịch bệnh. Mở rộng từng bước vững chắc việc sản xuất tôm sú giống tại phía Bắc.
- Tiếp tục hoàn chỉnh việc chuyển đổi đất ruộng trũng, đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản. Nhanh chóng đưa các dự án đầu tư nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm trên cát, nuôi hải sản biển vào hoạt động.
- Tiến hành áp dụng quản lý vùng nuôi tốt, bảo đảm vệ sinh môi trường vùng nuôi, vệ sinh chất lượng sản phẩm từ vùng nuôi, xây dựng và phổ biến mô hình quản lý cộng đồng ở các vùng nuôi thuỷ sản. Không sử dụng các hoá chất, kháng sinh bị cấm vào nuôi trồng thuỷ sản.
- Đa dạng hoá các loài tôm nuôi ngoài tôm sú, đưa tôm thẻ chân trắng vào làm một trong các đối tượng nuôi chính, tăng lợi thế cạnh tranh bằng nuôi tôm sú có kích cỡ với sức cạnh tranh cao trên thị trường. Cùng với nuôi công nghiệp sạch bệnh cần phát triển nuôi sinh thái ở những vùng phù hợp. Mở rộng nuôi cá ba sa, cá tra, rô phi đơn tính, các đối tượng nước ngọt xuất khẩu khác.
- Then chốt của việc bảo đảm phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhanh, ổn định, bền vững là làm tốt quy hoạch. Trong thời gian 2003-2005, trên cơ sở hoàn thành Quy hoạch tổng thể, sớm xây dựng và trình phê duyệt quy hoạch nuôi ruộng trũng, nuôi trên cát, nuôi vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Các địa phương phải hoàn thành quy hoạch chi tiết các vùng nuôi. Bộ tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có giải pháp đầu tư thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản.
c- Trong chế biến và xuất khẩu thủy sản:
- Song song với tập trung đầu tư cho chế biến xuất khẩu, cần tăng cường đầu tư cho chế biến tiêu thụ nội địa. Coi chế biến tiêu thụ nội địa là hướng lâu dài phục vụ dân sinh, đồng thời là cán cân đối trọng bảo đảm sự ổn định, an toàn cho xuất khẩu.
- Để thực hiện chỉ tiêu xuất khẩu trong thời gian tới, cần tăng cường mạnh hơn công tác xúc tiến thương mại, tiếp tục nâng cao năng lực tiếp cận thị trường của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp phía Bắc và Bắc Miền Trung. Duy trì cơ cấu các thị trường hiện có, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và thị trường EU, tiếp tục đầu tư khai thác thị trường chính ngạch Trung Quốc và mở rộng tìm kiếm các thị trường khác như: Nga, Trung Đông, Mỹ La Tinh...
- Có kế hoạch cùng các địa phương tìm giải pháp khuyến khích nâng cấp và đổi mới công nghệ các cơ sở chế biến, đặc biệt trong số 2/3 cơ sở chế biến hiện chưa đáp ứng các yêu cầu thị trường về công nghệ và chất lượng. Đầu tư cho bao bì, nhãn mác và đăng ký bản quyền thương hiệu sản phẩm. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn Quốc tế để nâng số lượng doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào danh sách được phép xuất khẩu vào EU.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn phát triển thị trường xuất khẩu.
2. Huy động các nguồn vốn cho phát triển thuỷ sản
Kế hoạch nguồn vốn đầu tư để thực hiện kế hoạch 2003-2005 là: 14.024,6 tỷ đồng. Cơ cấu vốn đầu tư cho thời kỳ 2003-2005 như sau:
Bảng 3.3: Cơ cấu vốn đầu tư ngành thủy sản thời kỳ 2003-2005
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn vốn
Giá trị
Tỷ trọng (%)
Tổng: Trong đó
14.024,6
100,0
Tín dụng
7.309,6
52,0
Huy động
3.409,0
24,3
Ngân sách
3.021,8
21,55
Nước ngoài
284,2
2,15
Nguồn: Kế hoạch phát triển ngành thủy sản 2001-2005 - Bộ thủy sản
Tuy nhiên so với dự báo nhu cầu vốn của Viện chiến lược thuỷ sản thì tích luỹ nội bộ của ngành chỉ đáp ứng được khoảng 50% ( tuy tình hình thực hiện kế hoạch 2 năm qua cho thấy, tích lũy trong ngư dân, chủ tàu, chủ nậu vựa để phát triển đã đạt tới 60 đến 65%). Như vậy phần còn lại phải dựa vào nguồn vốn bên ngoài kể cả trong nước và ngoài nước. Giải pháp huy động nguồn vốn thời gian tới được thực hiện cụ thể như sau :
- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất- kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này
- Nhà nước có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vốn cho khu vực gặp nhiều khó khăn ở vùng ven biển, hải đảo, vùng giáp biên, khai thác vùng khơi, vùng nghèo như các tỉnh Bắc trung bộ, đầu tư mạnh vào vùng trọng điểm nghề cá như đồng băng Sông Cửu Long, Nam Trung Bộ.
Đối với nguồn vốn trong nước: dự báo hàng năm ngành thuỷ sản cần 70 đến 80 triệu USD, chiếm khoảng 30% nhu cầu tổng đầu tư. Để thu hút được nguồn nước ngoài cần hoàn thiện cơ sở đầu tư, các chế định quản lý, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư , tạo môi trường hấp dẫn hơn, đẩy mạnh hợp tác đầu tư khai thác, chế biến dịch vụ và thương mại thuỷ sản đối với Mỹ, Đan Mạch...
Khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có quy chế riêng tại một số đảo hoặc vùng ven biển như khu chợ cá, dịch vụ thuỷ sản , sản xuất giống cá biển, nuôi thuỷ sản ...
Ưu tiên cho các dự án đầu tư tạo lập hạ tầng hoàn chỉnh và xây dựng khu nuôi công nghệ sản xuất giống một số loài thuỷ sản quý hiếm. Bên cạnh đó có chính sách ưu đãi cho việc đào tạo cán bộ có trình độ công nghệ cao, tinh nhuệ trong xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư phát triển. Cần đầu tư phát triển các trung tâm phân tích, phổ biến thông tin và thị trường công nghệ. Đẩy mạnh công tác khuyến ngư hơn nữa.
3. Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ xuất khẩu
Cần tiếp tục đa dạng hóa thị trường, tiếp tục tiềm kiếm bạn hàng, cũng cố những vị trí ở những thị trường quen thuộc, thâm nhập vào những thị trường đã có đồng thời mở rộng thêm những thị trường mới ( Châu phi, Trung Đông...), tạo các mối quan hệ với bạn hàng theo chiều sâu, giảm bới thị trường trung gian thường xuyên điều chỉnh và không bị lệ thuộc vào một thị trường. Tăng tỷ trọng thị trường Nhật Bản, EU, ASEAN và các nước khác đồng nghĩa làm giảm thị trường Mỹ Trung Quốc và Hồng Kông (ở đây hiểu là, tuy giảm tỷ trọng thị trường nhưng không làm giảm kim ngạch xuất khẩu tại các thị trường đó ). Mục tiêu trong thời gian tới, cơ cấu thị trường thủy sản đạt được như sau:
Bảng 3.4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản dự kiến
(Dự kiến tỷ lệ % theo giá trị xuất khẩu)
Thị trường
2002
Năm
2005
2010
Nhật Bản
26,6
40
40
Mỹ
32,4
18
20
EU
4,2
10
10
Tr.Q+H.Kông
14,9
10
10
ASEAN
3,9
4
4
Các nước khác
17,9
18
16
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010
Như vậy, mục tiêu những năm tới, ngành cần mở rộng và phát triển thị trường kể cả thị trường trong nước và nước ngoài, tận dụng tối đa vị trí của vùng ven biển, thế mạnh của sản phẩm thuỷ sản để tăng cường giao lưu kinh tế, ổn định thị trường truyền thống, thúc đẩy hơn nữa mở rộng thị trường mới như EU, Mỹ, Trung Quốc, các nước ả Rập và kể cả thị trường cá nổi nhỏ, giá trị thấp ở Châu Phi... Các giải pháp cụ thể là:
- Tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên từng thị trường cho từng chủng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lý, thương mại, ngoại giao, truyền thống. Tuy nhiên yếu tố chất lượng và giá cả được đặt lên hàng đầu.
- Đầu tư cho khoa học công nghệ chế biến thủy sản xuất khẩu để tăng chất lượng và chữ “tín” các sản phẩm thủy sản mình trên thị trường trong nước và quốc tế, nghiên cứu cải tiến mẫu mã, đa dạng các sản phẩm sao cho thích hợp với nhu cầu ngày càng khắt khe của người tiêu dùng và nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm mình trên thị trường quốc tế.
- Nghiên cứu thị trường, tăng cường hơn nữa công tác tiếp thị, quảng cáo sản phẩm...đồng thời phát triển mạng lưới tiêu thụ để đưa sản phẩm tới các thị trường tiêu thụ.
- Thời gian tới ngành thuỷ sản cần sắp sếp lại để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia và thị trường thuỷ sản. Kiên quyết dẹp bỏ những doang nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, khó có khă năng khôi phục lại để tạo điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh.
- Tạo dựng và duy trì trạng thái thị trường có lợi cho ngành thuỷ sản đảm bảo tính hiệu quả của việc phân phối phân phối vốn, đất đai: Ví dụ chính sách sử dụng đất đai lâu dài, chính sách hình thành trang trại lớn. Ngoài ra, nên hạn chế số lượng người tham gia quá nhiều vào khai thác mà phát triển doanh nghiệp trọng điểm để không những đảm bảo phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển có hiệu quả của các doanh nghiệp. Cũng tương tự như trong nuôi trồng: không ưu tiên phát triển manh mún, trong chế biến không nên phát triển dàn trải.
4. Giải pháp về nhân lực ngành
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, nhu cầu lao động trong ngành thuỷ sản sẽ tăng với nhịp độ 2,65%/ năm chủ yếu trong hai lĩnh vực: nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Lao động khai thác hải sản phải giảm để tăng tính hiệu quả thương mại, vì lượng lao động khai thác gần bờ đã quá lớn, lực lượng này sẽ chuyển một phần sang khai thác khơi, một phần sang nuôi nước lợ, biển. Mặt khác do tốc độ tăng dân số cao 2%/ năm nên áp lực lao động đối với cùng này vẫn lơn. Nhà nước cần phải phát triển các ngành nghề khác, nhằm tận dụng nguyên liệu từ thuỷ sản và thế mạnh ven biển tăng thêm việc làm, tăng thu ngoại tệ...
Thời kỳ kế hoạch tới, ngành cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ năng, kỹ luật cao cho mọi lĩnh vực ngành, cụ thể các giải pháp sau:
- Tập trung đào tạo cán bộ quản lý ngành thuỷ sản giỏi kiến thức chuyên môn, xã hội để có thể quản lý ngành phát triển bền vững.
- Đào tạo cán bộ khoa học có khả năng tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của thế giới trong mọi lĩnh vực.
- Đào tạo đội ngũ thanh tra, kiểm soát viên trong mọi lĩnh vực từ bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đến an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Đồng thời xúc tiến nhanh và tìm kiếm các phương thức đào tạo cán bộ thuỷ sản phù hợp với yêu cầu trước mắt về kiến thức và số lượng, từng bước tạo ra đội ngũ lâu dài đồng bộ. Đề nghị Chính phủ cho phép ngành thuỷ sản tìm kiếm sự giúp đỡ của các nước các tổ chức quốc tế để đào tạo cán bộ đại học và sau đại học ở các nước có nghề cá phát triển.
5. áp dụng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực sản xuất và hoạt động khuyến ngư ngành thủy sản
* Triển khai thực hiện Nghị quyết TW 2 và kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành TW Đảng khoá IX, xác định các quan điểm, định hướng chiến lược khoa học công nghệ đến năm 2020, nhiệm vụ, mục tiêu đến 2010 và những giải pháp để đẩy nhanh phát triển khoa học công nghệ. Trước mắt cần tập trung vào việc gắn hơn nữa giữa nội dung các hoạt động khoa học công nghệ với yêu cầu phát triển Ngành và việc đổi mới quản lý và tổ chức hoạt động khoa học công nghệ, từng bước chuyển hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sang chế độ tự trang trải kinh phí, tự chủ, tự chịu trách nhiệm dưới hình thức doanh nghiệp.
- Về công nghệ trong nuôi trồng thủy sản: Giải pháp thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ là đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ cho sản xuất. Tham gia tích cực vào chương trình công nghệ sinh học. Những năm tiếp theo hoạt động khoa học công nghệ phải tập trung giải quyết những nhiệm vụ của Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản và quá trình chuyển đổi diện tích canh tác nông nghiệp đặt ra. Khâu đột phá là chiến lược và các đề án về giống thuỷ sản. Tập trung đầu tư, dành kinh phí khoa học cho nghiên cứu sản xuất và chuyển giao công nghệ sản xuất giống, ưu tiên cho giống sạch bệnh; bảo đảm lựa chọn được cơ cấu giống đa dạng, hợp lý, phù hợp với điều kiện tự nhiên và gắn chặt với thị trường sản phẩm. Thời kỳ 2003-2005, cần tiếp tục củng cố qui trình sản xuất giống tôm sú, tạo ra những vùng, những cơ sở nuôi dưỡng, bảo tồn phát triển nguồn tôm sú bố mẹ. Đồng thời nghiên cứu đưa vào sản xuất các loại giống tôm he chân trắng, tôm càng xanh, tôm rảo, tôm he mùa... Song song với tôm, phải đẩy mạnh nghiên cứu và hình thành sự lựa chọn cơ cấu giống cá trên từng tuyến: cá mú, cá giò, cá vược, ở tuyến nước mặn; cùng với cá tra, ba sa, tạo điều kiện nghiên cứu phát triển mạnh cá rô phi đơn tính và các loài khác trên các vùng nước ngọt. Mở rộng phát triển nuôi cua, cá, nhuyễn thể... ở tuyến nước lợ. Bên cạnh đó, ngoài việc tập trung cho nghiên cứu sản xuất, chuyển giao công nghệ giống thuỷ sản, phải chú trọng nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn, quy phạm (theo GAP) nuôi sạch, chú trọng công tác phòng ngừa dịch bệnh, cảnh báo môi trường, không sử dụng kháng sinh, hoá chất bị cấm.
- Về điều tra nguồn lợi, khai thác hải sản: Đồng thời với việc tiếp tục điều tra nguồn lợi hải sản xa bờ, cần tập trung điều tra nghiên cứu, xử lý thông tin và thống kê thực tiễn để có nhanh một số kết quả về nguồn lợi phục vụ dự báo và giúp tổ chức sản xuất, phát triển công nghệ khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học cho việc lập quy hoạch và đổi mới công nghệ sản xuất của Ngành phù hợp với phát triển ổn định, bền vững. Đồng thời với nghiên cứu điều tra nguồn lợi hải sản trên vùng biển Việt Nam, cần tiến hành thu thập thống kê số liệu nguồn lợi hải sản trên các vùng biển tiếp giáp các nước láng giềng Đông Nam á làm cơ sở phục vụ cho việc hợp tác đánh cá chung giữa các nước đã và sẽ được mở ra.
- Về công nghệ chế biến thuỷ sản: Những năm qua khoa học công nghệ đã góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản tiếp cận và áp dụng thành công chương trình quản lý chất lượng theo HACCP và GMP trong phạm vi nhà máy. Nhiệm vụ then chốt của khoa học công nghệ trong năm 2003-2005 là phải xây dựng được hệ thống an toàn vệ sinh chất lượng sản phẩm đến đầu nguồn nguyên liệu một cách hệ thống, bảo đảm tại mọi khâu đáp ứng được yêu cầu an toàn vệ sinh, chất lượng sản phẩm thuỷ sản.
Ngoài ra, thời gian tới ngành thủy sản củng cố cơ sở vật chất của các Viện, Trung tâm nghiên cứu tương xứng với yêu cầu phát triển và thực hiện được các nhiệm vụ trên. Trước mắt đầu tư để hoàn thành dứt điểm các hạng mục công trình trọng điểm sớm đưa vào sử dụng như phòng thí nghiệm, trại sản xuất thực nghiệm, Trạm quan trắc và cảnh báo môi trường, dịch bệnh, Trung tâm giống Quốc gia. Có kế hoạch cụ thể để có thế hệ các nhà khoa học mới, thay thế được lớp đàn anh, đáp ứng các yêu cầu mới của đổi mới, phát triển, hội nhập. Ưu tiên lựa chọn đào tạo cán bộ đầu đàn, các nhà khoa học biển giỏi chuyên môn.
* Công tác khuyến ngư cần gắn kết chặt chẽ với kết quả các hoạt động khoa học công nghệ để nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học công nghệ đến với người sản xuất và ứng dụng tốt trong thực tế sản xuất thuỷ sản. Trọng tâm của công tác khuyến ngư là tiếp tục thực hiện chuyển giao công nghệ sản xuất giống thuỷ sản (thực hiện tiếp các dự án 2002 và 10 dự án chuyển giao giống thuỷ sản mới); hướng dẫn thực hiện nuôi theo qui trình sạch, an toàn, không sử dụng hoá chất, kháng sinh; tổng kết tuyên truyền mở rộng các hình thức, mô hình nuôi mới; phổ biến chuyển giao các công nghệ khai thác hải sản, hướng dẫn công nghệ bảo quản sau thu hoạch trong nuôi trồng thuỷ sản và trên tàu, trên bến sau khai thác, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm từ nuôi trồng, khai thác đến chế biến và tiêu thụ.
6. Đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế
Những năm tiếp theo, ngành cần phải có kế hoạch chuẩn bị các chương trình, dự án, tổ chức lực lượng để trang thủ có hiệu quả tối đa các cơ hội hợp tác với nước ngoài. Xây dựng quy chế trách nhiệm và phân cấp cụ thể để các địa phương cơ sở chủ động tìm kiếm các nguồn và phương thức hợp tác, tài trợ theo hướng chung của ngành, tạo ra nguồn lực rất quan trọng về vốn và công nghệ cho sự phát triển của ngành.
Để tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế cao cần phải có những hành lang pháp lý hấp dẫn hơn đối với đầu tư vào các lĩnh vực thuộc ngành thuỷ sản như các ưu đãi về thuế sử dụng đất cho đầu tư vào nuôi trồng đặc biệt ở các vùng ven biển
Tập trung nghiên cứu cơ sở về mặt pháp lý quốc tế cho việc xác định vùng chồng lấn hoặc ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Xúc tiến việc xuất khẩu lao động nghề cá theo các hiệp địng chính thức với nước ngoài để tạo công ăn việc làm và học hỏi kinh nghiệm quản lý.
IV. Những kiến nghị đối với Nhà nước
1. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo triển khai đồng bộ việc hoàn thiện và đưa vào thực hiện qui hoạch tổng thể sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước liên quan đến phát triển nuôi trồng thuỷ sản, có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các địa phương, đặc biệt là triển khai qui hoạch thuỷ lợi đồng bộ cho các vùng nuôi trồng thuỷ sản sản xuất hàng hoá lớn, các vùng mới chuyển đổi, nhanh chóng đưa các công trình đầu tư xây dựng vào sản xuất để triển khai mạnh mẽ chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản đã được Chính phủ phê duyệt.
2. Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành sớm có ý kiến và phê duyệt các đề án Bộ đã trình trong năm 2001 và trước đó. Cần thiết nhất là:
- Qui hoạch tổng thể ngành Thuỷ sản.
- Chương trình khai thác hải sản xa bờ.
- Hệ thống thông tin cứu nạn, quản lý tàu thuyền cùng với một số chủ trương Bộ Thuỷ sản trình xin ý kiến.
3. Đề nghị Chính phủ cho thành lập Quĩ xúc tiến thương mại thuỷ sản, có sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước và huy động vốn của các doanh nghiệp; thực hiện bảo hộ hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường nước ngoài.
4. Đề nghị Chính phủ có biện pháp tháo gỡ các vướng mắc về tín dụng cho dân nuôi trồng thuỷ sản, thực hiện cho vay với nguồn vốn lớn cho các đề án có hiệu quả kinh tế xã hội cao. Đồng thời có chính sách cụ thể về đất đai nuôi trồng thuỷ sản thể hiện rõ 5 quyền trong sử dụng đất canh tác, tránh ách tắc khi giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi đất đai và đền bù giải toả khi xây dựng các dự án đầu tư.
*
* *
Như vậy, ngành thủy sản cần phải tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được trong năm 2001-2002, khắc phục những tồn tại và yếu kém, vượt qua các thử thách mới trong cơ chế thị trường, toàn Ngành tiếp tục sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước quyết tâm phấn đấu hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội kế hoạch năm 2003-2005 đã đề ra.
Kết luận
Giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế ngành thủy sản đã xây dựng các định hướng, các giải pháp, bước đi cho quá trình phát triển tiếp theo 2003-2005. Những quan điểm cơ bản của của kế hoạch phát triển ngành là tiếp tục phát triển nghề cá nhân dân trên cơ sở công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hướng mạnh về xuất khẩu, thích nghi với điều kiện sinh thái, trong mối quan hệ liên ngành và có mối liên hệ mật thiết gắn với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc phòng của tổ quốc. Mục tiêu và giải pháp được thể hiện phương pháp và bước đi của ngành thủy sản trong thời gian tới. Với những giải pháp đưa ra, ngành thủy sản sẽ thực hiện tốt không những hoàn thành mà còn vượt xa kế hoạch đề ra.
Để thực hiện tốt kế hoạch phát triển ngành thời kỳ 2003-2005, ngoài sự nỗ lực của toàn ngành, thủy sản cần được Đảng, Nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa. Đồng thời có các chính sách tạo điều kiện khuyến khích phát triển ngành... Thực hiện được như vậy, chắc chắn ngành thủy sản sẽ tạo được sự chuyển đổi về chất, hoàn thành tốt kế hoạch, tiếp tục phát triển là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước trong tương lai ./.
Tài liệu tham khảo
1- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ngành thủy sản 2000-2010 - Bộ thủy sản
2- Cơ sở chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong ngành thủy sản - Hà Xuân Thông - Viện nghiên cứu thủy sản
3- Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản các năm 2000-2002 - Bộ thủy sản
4- Báo cáo định hướng kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2001-2005 - Bộ thủy sản
5- Giáo trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế đất nước - TS. Ngô Thắng Lợi - Khoa KH & PT - ĐHKTQD Hà nội.
6- Giáo trình kinh tế phát triển - Khoa KH & PT - ĐHKTQD Hà nội.
7- Các tạp chí phát triển kinh tế, nghiên cứu kinh tế vv... các năm
8- Một số tài liệu khác...
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0021.doc