Để tồn tại và phát triển trong thời đại ngày nay mỗi quốc gia đều phải lựa chọn cho mình một chính sách đúng đắn và thích hợp. NEP là kiểu mẫu hoàn thiện nhất của sự kết hợp giữa những tính quy luật chung với những đặc điểm lịc sử cụ thể của mỗi nước ở mỗi giai đoạn. Chỉ trong thời gian ngắn, Đảng cộng sản Liên Xô, với sự lãnh đạo của Lênin đã xác định được kế hoạch thực sự khoa học để xây dựng một nước XHCN đầu tiên trên thế giới và đã giải quyết thành công những vấn đề cơ bản nhất trong trong thời kì quá độ.
CNXH từ lý luận đến thực tiễn là một bước ngoặt, ở đó diễn ra cuộc sát hạch đối với sự trưởng thành của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó. Nắm vững NEP, với tư cách là chiến lược xây dựng XHCN là bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của giai cấp công nhân và Đảng của nó trong cuộc sát hạch ấy. Điều đó cũng có tầm quan trọng quyết định đối với những nước quá độ lê XHCN từ một nền kinh tế lạc hậu, mà không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
52 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1062 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng nó tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cụ tín dụng chứ không phải là dùng để bù đắp ngân sách bội chi, khối lượng tiền tệ phát hành phải phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bằng hàng hoá và vàng.
- Bước ba: hoàn thành cải cách tiền tệ
Nhà nước ban hành đạo luật phát hành giấy bạc mới. Củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng. Mở rộng hệ thống tín dụng băng cách thành lập các ngân hàng khác. Ngân hàng công thương nghiệp, ngân hàng chuyên nghiệp và năng lượng, ngân hàng trung tâm của sự nghiệp công cộng và xây dựng nhà ở. Bên cạnh hệ thống ngân hàng là một hệ thống hợp tác xã tín dụng rộng khắp ở nông thôn.
Thắng lợi vững chắc của cuộc cải cách tiền tệ đã góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của NEP. Trong đó thắng lợi cơ bản nhất là ổn định đời sống nhân dân, củng cố liên minh công nông, điều chỉnh lại phân phối thu nhập quốc dân.
Thời kì 1921 đến 1924 là sự thử thách lớn, gay go đối với chính quyền Xô Viết trẻ tuổi. Thắng lợi của NEP trong thời kì này biểu hiện khá đầy đủ sức sống của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
C. ý nghĩa của NEP và bài học thành công
Chính sách kinh tế mới NEP có ý nghĩa cực kì quan trọng. Trước hết nó khôi phục được nền kinh tế Xô Viết sau chiến tranh. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biết một nước Nga bị tàn phá năng lề sau chiến tranh trở thành một đất nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó, nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo nguyên lý mà Lênin đã vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân. Trước hết là những vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình nền kinh tế XHCN.
Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có nước ta. Những quan điểm kinh tế của Đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức vận dụng quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mơi. Tất nhiên, do thời gian và không gian cách xa nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác nhau về bước đi nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở nước ta.
Với một ý nghĩa vô cùng to lớn như vậy, cùng với những thành công rực rỡ mà nó thu được trong công cuộc cải tổ nước Nga Xô Viết đã xây dựng bài học cho tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước đi lên từ điểm xuất phát thấp.
Thứ nhất, là chiến lược liên minh công nông về mặt thành tích. Tính tất yếu phải lựa chọn con đường quá độ đặc biệt lên CNXH xét một cách khái quát chủ yếu là do giai cấp công nhân chưa phát triển hay phát triển chưa đầy đủ. Do đó, chưa có đủ tiền đề vè kinh tế xã hội, chưa có chỗ dựa về chính trị cho công cuộc xây dựng CNXH bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và cho phép Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình có hiệu quả.
Phát huy vai trò sức mạnh của giai cấp công nhân bằng cách hình thành khối liện minh bằng hai sức mạnh: bên trong là liện minh giữa giai cấp công nhân và nông dân, bên ngoài là liên minh quốc tế XHCN. Điều này sẽ giúp củng cố nhà nước trẻ tuổi chưa có cơ sở kinh tế xã hội vững vàng. Đồng thời, xây dựng động lực cách mạng trong giai đoạn mới, biến công cuộc xây dựng CNXH thành sự nghiệp của quân chúng. Điều kiện đầu tiên để khởi động phong trào quần chúng là phải ổn định, cải thiện ít nhiều đời sống quần chúng vốn rất thấp và đã chịu thiếu thốn nhiều năm trong chiến tranh. Để liên minh công nông về mặt kinh tế đáp ứng được yêu cầu xây dựng cớ sở kinh tế bước đầu của CNXH và tạo đưọc động lực cho quá trình ấy thì phải bắt đầu từ nông nghiệp và nông thôn.
Thứ hai, là con đường từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế XHCN
Đặc điểm kinh tế chủ yếu trong thời kì quá độ là tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của CNTB lẫn vào CNXH.(1)
chỉ trong một thời gian ngắn của mấy năm đầu thập kỉ 20, trong nền kinh tế Xô Viết đã diễn ra hai quá trình chuyển biến kinh tế cơ bản. Quá trình thứ nhất, chuyển thành phần kinh tế XHCN sang quỹ đạo NEP. Đây là đòi hỏi của quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Trước hết là phải đảm bảo những cân đối nhất định về tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Muốn vậy, phải kiên quyết tổ chức lại sản xuất khu vực kinh tế XHCN lựa chọn những đơn vị cần thiết nhất có đủ điều kiện sản xuất và quản lý để tập trung đầu tư, sớm phát huy vai trò của chúng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Tiếp theo, phải chuyển các cơ sở kinh tế XHCN sang hoạch toán kinh tế, tạo điều kiện cho cúng hoạt động theo yêu cầu mới bằng cách: phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh của cơ sở, đổi mới nội dung và hình thức quản lý kinh tế Nhà nước.
Quá trình thứ hai, chuyển hướng quản lý điều tiết các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể sang quỹ đạo NEP.
Với một ý nghĩa lịch sử to lớn, với bài học thành công trong công cuộc xây dựng CNXH, chính sách kinh tế mới NEP của Lênin đã, đang và se được vận dụng sáng tạo trong điều kiện nước ta nhằm đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỉ mới với một nền kinh tế giàu mạnh, chính trị ổn định, xã hội công bằng văn minh.
Chương II
Việt Nam hội nhâp vào nền kinh tế của thế giới.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn được giải phóng (sau 30/4/1975), nước Cộng Hoà Xã Hội CHủ Nghĩa Việt Nam non trẻ với vô vàn những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên chúng ta có những thuận lợi cơ bản. Đặc biệt là cuộc đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khởi xướng và đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong việc phát triển một nền kinh tế vững mạnh theo định hướng XHCN. Và qua đây đã khẳng định được con đường chúng ta đang đi là đúng đắn.
Những thành tựu bước đầu chúng ta đạt được sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới cho phép rút ra kết luận rằng: vị trí của Việt Nam trong quan hệ chính trị – kinh tế tuỳ thuộc rất nhiều vào viêc chúng ta có những chính sách, biện pháp kịp thời và đúng đắn đến đâu, để kết hợp các nguồn lực trong nước với các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho việc tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội. Để chúng ta có một chỗ đứng trong nền kinh tế thế giới.
Nếu chỉ nhìn về mặt kinh tế đơn thuần, có thể nói rằng Việt Nam chưa có một vị trí đáng kể trong nền kinh tế quốc tế. Nếu nhìn trên quan điểm phát triển thì Việt Nam đã bước đầu tạo cho mình một vị trí quan trọng nhất định trong quan hệ kinh tế chính trị quốc tế. Kết quả đó không tách rời việc thực hiện đường lối đổi mới. Việt Nam đang và sẽ trở thành một đối tác mà các nước phải tính đến trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong phạm vi khu vực, Việt Nam có một vị trí quan trọng: Quan hệ hợp tác với Việt Nam là một bước không thể bỏ qua. Việt Nam đang thưc hiện quá trình đổi mới, đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng để đạt được một cơ sở phát triển lâu dài và bền vững còn phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội phức tạp.
Tuy nhiên chúng ta có những nguồn lực và lợi thế trong phát triển kinh tế. Chúng ta có nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ, tư chất người Việt Nam rất cần cù, tiếp thu nhanh nguồn lực mới, có khả năng sử lý linh hoạt, có thể tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Dù sao sức lao động của Việt Nam vẫn còn hạn chế về thể lực, về trình độ tổ chức kĩ thuật, về khả năng hợp tác trong công việc và còn thiếu nhiều việc làm. Bù lại chúng ta nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vị trí địa lý thuận lợi: Việt Nam nằm trên các đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng. Tạo khả năng phát triển các hoạt động trung chuyển, tái xuất khẩu và chuyển khẩu hàng hoá qua các khu vực lân cận.
Qua việc phân tích trên sẽ cho chúng ta một cái nhìn toàn diện và cụ thể hơn để tiếp tuc vững bước phát triển nền kinh tế nước nhà theo định hướng XHCN. Mà cụ thể là xây dựng nền kinh tế sáng tạo tự chủ trên nền tảng chính sách kinh tế mới NEP của Lênin.
Phần ba
Vận dụng NEP trong điều kiện nước ta
Chương I thực trạng đất nước.
tình hình đất nước 5 năm qua và những thành tựu trong 15 năm đổi mới
Trước đây đã có lúc đảng ta ngộ nhận mô hình CNXH ở nước ta. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi CNXH sớm bị xoá bỏ bằng những biện pháp cưỡng bức hành chính. Điều này dẫn đến hậu quả nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.
Trước tình hình ấy, Đảng ta đã có những nhận định về nền kinh tế đất nước. Từ đó đã có những quyết định chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều tiết quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Những chính sách của đảng là một vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt là chính sách kinh tế mới NEP một cách đầy sáng tạo trong điều kiện đất nước. Chúng ta khuyến khích các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh phát triển, chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp pháp kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài: Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
Do hàng loạt những chính sách đổi mới sáng tạo đã tạo nên sự vận động phát triển mạnh mẽ khiến nền kinh tế của chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Cuối cùng là đã tạo ra được một động lực tổng hợp kết quả như sau: lạm phát giảm từ mức độ siêu lạm phát xuống một con số và tiếp tục được kiểm soát. Việt Nam đạt được mức độ tăng trưởng cao và ổn định.
Năm
Tăng trưởng GDP
Lạm phát %
1991
6.0
67.1
1992
8.6
17.5
1993
8.1
5.2
1994
8.8
14.4
1995
9.5
12.7
1996
9.3
4.5
1997
8.2
4.5
1998
5.8
3.8
1999
5
0.1
2000
6.75
0.6
Bảng tăng trưởng và lạm phát năm 1991 - 2000.
Nền tài chính tiền tệ của nước ta đã được cải thiện. Tỷ lệ thuế và phí được huy động vào ngân sách so với GDP tăng liên tục từ 62% của năm 1990 lên 79% năm 1993; 92,5%năm 1994 và 96,7% năm 1995. Nền kinh tế Việt Nam đã có nội lực, đầu tư tăng gấp 3 lần từ 11,6%của GDP năm 1989 đến 28% của GDP năm 1998, tích luỹ trong nước tăng 5 lần từ 3% lên đến 17% của GDP (nguồn: Ngân hàng thế giới). Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng trưởng trung bình hàng năm về tổng sản phẩm trong nước - GDP - là 8,2%; sản xuất công nghiệp là 13,3%; sản xuất nông nghiệp là 4,5%; về kim ngạch xuất khẩu là 20%. Lương thực không những đủ ăn mà hàng năm còn xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn gạo.
Đại hội VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ tư năm 1996 đến năm 2000 là: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với vấn đề giải quyết những vấn đề bức xúc về chính trị - xã hội.
Những năm qua kinh tế nước ta tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính viễn thông, đường xa, cầu, cảng, sân bay, điện, thuỷ lợi... được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.
Những thành tựu 5 năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên việc thực hiện nghị quyết của Đại hội còn có những yếu kém, khuyết điểm sau đây:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ tăng trưởng 5 năm qua chậm dần, năm 2000 đã tăng trở laị nhưng vẫn chưa đạt mức tăng trưởng cao như những năm giữa thập niên 90. Nhịp độ tăng trưởng GDP và GNP bình quân đầu người, nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu... không đạt được chỉ tiêu Đại hội VIII đề ra. Sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiêu sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài. Nạn buôn lậu và, làm hàng giả, gian lận thương mại tác động xấu đến tình hình kinh tễh - xã hội. Hệ thống ngân hàng tài chính còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý; đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, trong khi công tác quản lý, điều hành lĩnh vực này còn nhiều khuyết điểm. Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế Nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Kinh tế tập thể chưa mạnh.
Trước ngưỡng cửa đầu thế kỉ mới, năm 2001, chúng ta không thể nào không tự hào trước những thành quả chúng ta đã đạt được sau 15 đổi mới nhất là trong 2 năm gần đây 1999-2000. Đầu năm 1999 hạn hán, cuối năm trân đại hồng thuỷ chưa tưng có từ trước tới nay đã tàn phá miền trung gây ra những thiệt hại to lớn cho 10 tỉnh và hơn 10 triệu người dân, phá huỷ nhiều cơ sở kinh tế của đất nước. Chưa hết, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực đã gây nhiều ảnh hưởng bất lợi cho nước ta, nhất là trong đầu tư nước ngoài và thị trường xuất khẩu. Có thể nói răng năm 1999-2000 là hội tụ những khó khăn và thách thức lớn lao nhất trong 15 đổi mới đối với nền kinh tế nước ta. Nhưng kết thúc năm 2000 nền kinh tế nước ta vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng cao nhất so với các nước trong khu vực: 6,75%. Như vậy, đà tăng trưởng đang có xu hướng tăng dần lên và có dấu hiệu khởi sắc. Giá trị sản xuất công nghiệp so với năm 1999 tăng với tốc độ cao đạt 15,5%; trong đó tất cả các khu vực, tất cả các thành phần kinh tế đều có tốc độ cao hơn. Đáng lưu ý khu vực ngoài quốc doanh tăng khá cao nhờ thực hiện luật doanh nghiệp đã khuyến khich bỏ vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng trên 2,6%, tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính tăng 3,2%. Mới chỉ có hơn 10 năm đổi mới vừa qua, với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã làm cho nhân dân thế giới ngỡ ngàng. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập được với các nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Tất cả những gì chúng ta đạt được khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã nói nên công cuộc đổi mới ở nước ta là một cuộc cách mạng thực sự.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được và những nhân tố mới, đất nước ta vẫn còn những khó khăn thách thức lớn và vẫn còn những yếu kém khuyết điểm. Thiên tai đã gây nhiều thiệt hại về người và của, lại cộng với giá cả nông sản tụt mạnh đã gây thiệt hại cho đất nước nhiều tỷ đổng. Kim ngach xuất khẩu gao giảm 3,5%; cà phê giảm 2,6%. Nhập khẩu tăng cao hơn xuất khẩu do giá nhập khẩu tăng và lượng nhập một số loại hàng khá cao như ôtô, xe máy... Vì thế nhập siêu gia tăng, gần gấp 8 lần. Cùng với các yếu tố khác đã làm cho tiêu dùng giảm hơn 1%, đồng thời làm cho giá cả ngày một rộng ra.
Tuy một số chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm (1996-2000) chưa đạt, một số nghị quyết Đại hội VIII đề ra chưa được thực hiện tốt nhưng 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000) đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng.
Tổng sản lượng trong nước năm 2000 tăng gần gấp đôi so với năm 1990. kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế: từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chủ yếu có hai thành phần là kinh tế Nhà nước và kinh tế thập thể đã chuyển sang có nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vượt qua được cơn chấn động kinh tế thị trường, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở các nước châu á, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn nhiều so với 10 năm trước.
Chương II
vận dụng sáng tạo NEP vào nước ta
A. phân tích những tồn tại và nguyên nhân.
*bên canhj những thành tựu hết sức to lớn thì những tồn taij, khó khăn là một thách thức lớn lao cho công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta. Đảng ta đã nhận định: nước ta còn nghèo và kém phát triển, sự phát triển của nền kinh tế ong chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, còn nhiều yếu tố chưa đảm bảo tăng trưởng cao và lâu bền. Lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng lớn, tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ thấp, tốc độ thhu hút đầu tư mới của nước ngoài chậm lại. Phương hướng và cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Đầu tư dàn trải thất, thất thoát lớn. Công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến chưa phát triển; năng suất lao động thấp; giá thành cao; công nghệ lạc hậu; cơ cấu kinh tế chậm thanh đổi. Nhập siêu và bội chi ngân sách lớn, nợ nước ngoài cao, dự trữ quốc gia mỏng. Việc xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN bị buông lỏng. Phân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý, đất nước nghèo nhưng còn tiêu dùng quá khả năng làm ra, chưa dồn sức cho đầu tư phát triển, chưa ngăn chặn được những thủ đoạn làm giàu bất chính. Tệ quan liêu, tham nhũng, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản công càng phổ biến và nghiêm trọng. Chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng vàthu nhập giữa các tầng lợp dân cư có chiều hướng ngày càng mở rộng. Việc làm và nhiều vấn đề xã hội đặt ra ngày càng gay gắt. Những vấn đề đó có ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh tế, làm giảm nhịp độ tằng trưởng đồng thời tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định kinh tế - xã hội .
* Những hạn chế yếu kém do những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
+ Về mặt khách quan, nền kinh tế vốn có những khó khăn yếu kém lại bị thiên tai và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và ở một số nước trên thế giới từ những năm 1997.
+ Về mặt chủ quan:
Thứ nhất, việc quán triệt và tổ chức thực hiện nghịe quyết của Đảng ở nhiều cấp, nhiều ngành trên lĩnh vực còn yếu. Trong quá trình thực hiện, một số cán bộ đảng viên và cấp uỷ chưa quan tâm đầy đủ đến nghị quyết Đảng, không căn cứ vào nghị quyết của đảng để hành động và kiểm tra công việc của mình còn làm những việc không đúng với nghị quyết thậm trí trái với nghị quyết.
Thứ hai, bộ máy nhà nước và nền hành chính quốc gia còn yếu kém, chậm cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng bằng những chính sách thích hợp. Bộ máy cồng kềnh, thủ tục rườm rà, điều hành phân tán, hiệu lực thấp. Một bộ phận cán bộ kém năng lực, quan liêu, tham nhũng cửa quyền, ức hiếp quần chúng, cản trở sự phát triển kinh tế và gây bất bình trong nhân dân. Công cuộc đổi mới kinh tế và cải cách hành chính chưa theo kịp sự phát triển.
Thứ ba, thiếu cơ chế phù hợp để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân về kinh tế. Chưa thực hiện đúng phương châm “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng trên nhiều phương diện còn yếu, chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết để kịp thời để ra những chủ trương biện pháp phù hợp với tình hình mới. Nhiều cấp uỷ Đảng buông lỏng lãnh đạo công tác cán bộ, công tác tài chính - tiền tệ, để cán bộ Đảng viên hư hỏng, tham nhũng vận dụng chính sách tuỳ tiện, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước và xã hội.
B. vận dụng NEP.
Bác hồ đã từng nói:
“ Ta không thể giống Liên Xô vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác, ta có thể đi theo con đường khác để tiến đến CNXH ”.
lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội ngày càng chứng minh tầm quan trọng của sự kết hợp giữa tính quy luật chung với những đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước, mỗi giai đoạn. Chính sách kinh tế mới của Lênin là kiểu mẫu hoàn thiện nhất của sự kết hợp như thế. Tư tưởng của Lênin về con đường quá độ đặc biệt lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành cơ sở lý luận xuất phát và phương pháp luận của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những nước lạc hậu, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng của Lênin đã soi sáng sự phân tích nguyên nhân của những sai lầm nôn nóng chủ quan duy ý trí và việc tìm kiếm những giải pháp khắc phục sai sót, thực hiện bước chuyển biến theo tinh thần nghị quyết đại hội Đảng VI của Đảng ta. Không thể khắc phục sai lầm chỉ bằng phê phán những tác hại do sai lầm gây ra, mà trước hết phải vận dụng đúng quan điểm duy vật lịch sử, nhìn thẳng vào sự thật của những mâu thuẫn trong việc đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội cũng như phát hiện những khả năng đi lên, những lực lượng xây dựng xã hội mới từ trong sự vận động của các mâu thuẫn áp dụng NEP trong điều kiện nước ta cần lưu ý:
Một là, đường lối kinh tế của Đảng đãn xác định vị trí hàng đầu của nông nghiệp, gắn với ba chương trình mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Để đảm bạo thực hiện thắng lợi đường lối và nghị quyết đó của Đảng ta thì việc quán triệt tư tưởng chiến lược liên minh công nông về kinh tế của Lênin là quan trọng.
Hai là, để phát triển kinh tế hàng hoá trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về mặt chính sách và quản lý cần chú ý những khâu then chốt sau:
- Ra sức phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp vốn còn mang nặng tính chất tự nhiên, tự cung tự cấp. Chuyển dần sản xuất nông nghiệp độc canh sang nông nghiệp phát triển toàn diện, hướng tới thâm canh và chuyên môn hoá trình độ cao. Nên nông nghiệp hàng hoá gồm nhiều thành phân kinh tế và có tính chất đặc biệt, là cơ sở chủ yếu đảm bảo đời sống xã hội, là điều kiện đầu tiên và thường xuyên có sự hình thành phát triển công nghiệp, là cơ sở cho tích luỹ ban đầu, từ nội bộ nền kinh tế xây dựng mức thuế nông nghiệp hợp lý.
- Tổ chức trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa các thành phần kinh tế, tạo cơ sở chuyển nền kinh tế sang quỹ đạo tái sản xuất mở rộng, lưu ý đến việc tổ chức quá trình lưu thông, phát huy được tác dụng tích cực vốn có của nó đối với sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
- Nắm chắc các khâu thương nghiệp, tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển: Thương nghiệp cần phải nắm được ngày càng lớn khối lượng hàng hoá mà xã hội sản xuất ra bằng cách thiết lập cho được mối quan hệ hợp đồng trực tiếp thường xuyên giữa thương nghiệp quốc doanh với thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Thương nghiệp cần có một khối lượng tiền để lưu thông hàng hoá, cụ thể là phải thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với ngân hàng. Ngành thương nghiệp cần có tổ chức bộ máy hợp lý, vận dụng thành thạo phương pháp kinh doanh xã hộ chủ nghĩa.
Trên đây là bước định hướng chung cho nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên nước ta cũng có những đặc điểm riêng khác biệt với nước Nga thời bấy giờ. Đó là: Điểm xuất phát về kinh tế xã hội, trong khi nước Nga đã trải qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa có nền đại công nghiệp bên cạnh nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá thì nước ta không trải qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa, chưa có nền đại công nghiệp và nông nghiệp còn ở trình độ độc canh tự cấp tự túc. Đó là hoàn cảnh quốc tế lúc đó bất lợi cho nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nhưng chúng ta hiện nay thì những điều kiện quốc tế lại tạo ra những khả năng khách quan lớn lao.
Xem xét kĩ những điều kiện phân tích những thành công bước đầu, những khó khăn tồn tại đã giúp chúng ta hình thành chiến lược NEP sáng tạo.
Thứ nhất, xây dựng tư duy lý luận và quan điểm lý luận đúng về chủ nghĩa xã hội thực hiện vè cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Đảng luôn luôn xác định “ lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ lam cho hành động”.(1) Thông qua sự vận dụng của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lý luận đó sẽ đi vào thực tiễn mà quan trọng nhất là việc hình thành tư tưởng lý luận và quan điểm lý luận đúng đắn về sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của đất nước.
Thứ hai, hình thàng tư tưởng chính trị và quan điểm chính trị đúng đắn phản ánh những đòi hỏi của kinh tế xã hội.
Xét một cách khái quán thì hoạt động của Đảng thực chất là hoạt động chính trị. Nhận thức được các vấn đề chính trị phải dựa trên tư duy chính trị - sản phẩm của tư duy lý luận khoa học của một giai cấp đóng vai trò lịch sử. Một mặt “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”(2), mặt khác “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế ”. Trong mọi giai đoạn của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhất là trong giai đoạn còn nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội, có lợi ích khác biệt, mâu thuẫn với nhau thì tư duy chính trị đúng là nhân tố quyết định đầu tiên về mọi thắng lợi về kinh tế.
Tư duy chính trị Lênin trong chặng đầu thời kì quá độ biểu hiện cụ thể trên các chính sách, chủ trương quang trọng như:
+ Chính sách với nông nghiệp và nông thôn: xây dựng khôi liên minh công nông về kinh tế và chính trị, xây dựng chính sách thuế nông nghiệp và trao đổi hàng hoá.
+ Sự kết hợp yếu cầu kinh tế với yêu cầu xã hội-chính trị trong hoạt động quản lý Nhà nước với hoạt động kinh doanh.
+ Bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo quản lý kinh tế xã hội cho phép khắc phục tình trạng phân tán manh mún, thói quen tự phát, tạo ra sức mạnh hợp tác với tính tổ chức.
+ Xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn, cho phép tự giác kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba, vận dụng tư duy lý luận-chính trị vào hoạt động thực tiễn. Trong thực trạng nước ta hiện nay cần chú ý một số điểm: Đánh giá tình hình thực trạng kinh tế xã hội theo phương pháp phân tích mâu thuẫn; đồng thời phải vận dụng phương pháp xem xét hệ thống, từ đó đề ra những biện pháp đồng bộ và có trọng điểm; thực hiện nguyên tắc tính thống nhất giữa tư duy và hành động, nói với làm. Đối với một tổ chức tập thể việc vận dụng tư duy mới, quan điểm mới để thể hiện trong chính sách nghị quyết, phải đi đôi với công tác tổ chức cán bộ.
Thứ tư, vận dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ vào đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta.
- Sử dụng đúng đắn quan hệ háng hoá tiền tệ: Quan hệ hàng hoá tiền tệ đã được giải phóng khỏi hình thái tư nhân, từ nay sẽ gắn với hình thái xã hội chủ nghĩa. Mục đích sử dụng thay đổi (từ chỗ gắn với mục đích lợi nhuận của giai cấp tư sản chuyển sang thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa); sự thay đổi đó là tất yếu khách quan bắt nguồn từ sự tác động tổng hợp của hệ thống quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội và quy luật sản xuất hàng hoá. Cơ chế tập trung dân chủ thay thế cơ chế cạnh tranh giữa các tư nhân trong mối quan hệ giữa các xí nghiệp và các ngành.
- Vận dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ trong đổi mới cơ chế quan lý kinh tế ở nước ta hiện nay:
+ Do điểm xuất phát rất thấp của quá trình tiến nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và tình trạng không bình thường về kinh tế xã hội hiện nay nên quan hệ hàng hoá và tiền tệ trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta có những đặc điểm sau:
Trình độ sản xuất hàng hoá không đồng đều: sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế đòi hỏi chú ý vận dụng các hình thức quan hệ tiền-hàng đẩy sản xuất hàng hoá nhỏ, phát triển và hình thành hệ thống phân công lao động và quan hệ sản xuất đối với sản xuất lơn. Lưu thông hàng hoá còn chiếm ưu thế đối với sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải bắt đầu từ lưu thông và hướng mạnh lưu thống vào kích thích sản xuất, phát triển phân công lao động xã hội, gắn với lưu thông sản xuất thành quá trình tái sản xuất mở rộng.
Xem xét thực trạng các quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn phải phân tích tính chất các quan hệ ấy.
+ Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong đổi mới cơ chế quản lý cơ sở.
Quan điểm của Đảng ta là chuyển các đơn vị cơ sở của nền kinh tế sang sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa, thực hiện hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chống kiểu kinh doanh tuỳ tiện, theo xu hướng vô chính phủ.
Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trên những mặt chủ yếu sau: thiết lập tính kế hoạch, tính tổ chức trong hoạt động sản xuất ở cơ sở; vận dụng quy luật giá trị trong việc xác định chi phí sản xuất sản phẩm, chủ động được nguồn vật tư, nguyên liệu, năng lượng; xác định lợi nhuận của xí nghiệp là kết quả của phép trừ doanh thu với chi phí sản xuất và khoản trích nộp nhà nước; khả năng tự chủ tài chính của xi nghiệp tách rời tài chính nhà nước mà gắn bó với tín dụng ngân hàng; phát triển liên kết, liên doanh giữa các đơn vị kinh tế.
+ Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế Nhà nước.
Phải giải quyết đúng mối liên hệ qua lại giữa quan hệ kế hoạch nhà nước với quan hệ thị trường, giữa quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa với các thành phần tư nhân cá thể, giữa trình độ sản xuất hàng hoá khác nhau ở các vùng, giữa kinh tế đối ngoại với kinh tế trong nước.
Thực hiện đổi mới trên những nội dung sau:
Phân biệt dõ chức năng quản lý kinh doanh của các đơn vị kinh tế với chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế; vận dụng tính quy luật “thương nghiệp là măt xích đặc biệt” trong dây truyền quản lý (tổ chức việc trao đổi hàng hoá đúng đắn giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn); xây dựng chính sách tài chính quốc gia theo quan điểm kinh tế hàng hoá có kế hoạch (Xí nghiệp tự chủ tài chính, Nhà nước có quyền thu ngân sách; cân đối thu chi ngân sách dựa vào sự tác động tích cực lẫn nhau giữa tài chính, ngân hàng và thương nghiệp; ngân hàng kiểm tra với tài chính Xí nghiệp); phát huy vai trò của ngân hàng trên cơ sở những biện pháp ổn định đồng tiền.
Trên đên là sự áp dụng NEP dựa vào những bài học kinh nghiệm mà Đảng ta đã phân tích và đúc rút qua 15 năm đổi mới. Với những thành công bước đầu rất đáng khích lệ, Đảng và nhân dân Việt Nam tự hào về những thành tích đó và càng quyết tâm xây dựng một nền kinh tế giàu mạnh hơn nữa.
C. phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005
Những thành tựu về kinh tế - chính trị đạt được trong công cuộc đổi mới nói chung và việc áp dụng sáng tạo chính sách NEP nói riêng đã và đang tạo ra thế và lực mới cho chặng đường tiếp theo, một kỉ nguyên mới của dân tộc. Với quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kiên trì đường nối đối ngoại độc lập, tự chủ, mộng mở, chúng ta sẽ tạo ra những khả năng mới cho nhu cầu phát triển.
I. phương hướng, nhiệm vụ
1.Định hướng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. ứng dụng nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là công nghệ ứng dụng sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn với sản xuất thị trường tiêu thu; hình thành sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
Phấn đấu đến năm 2005 thu nhập bình quân của nông dân gấp 1,7 lần so với hiện nay; không còn hộ đói, giảm đáng kể tỷ lệ hộ nghoè. Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh tăng năng suất, tăng năng suất và chất lượng. Sản lượng lương có hạt thực năm 2005 dự kiến 37 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tập trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh như cao su, càphê....
Phát triển chăn nuôi, dự kiến năm 2005, sản lượng thịt hơi các loại khoảng 2,5 triệu tấn. Phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào khoảng 2,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản khoảng 2,5 tỷ$.
Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, tiếp tục đầu tư xây dựng đường giao thông đến hơn 500 xã hiện chưa có đường ôtô đến trung tâm, mở rộng mạng lưới cung cấp điện, nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn. Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệ sơ chế và chế biến về nông thôn...
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 4,8% năm. Đến năm 2005, ngành nông nghiệp chiếm khoảng 75-76% giá trị sản xuất toàn ngành; lâm nghiệp khoảng 5-6%; thuỷ sảng khoảng 19-20%.
2. Định hướng phát triển công nghiệp.
Phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiêt bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp.
Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Phát triển một số công nghiệp quốc phòng cần thiết. Chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp với định hướng chung và lợi thế của từng vùng, từng địa phương; trước hết tập trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nhiều lao động và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công nghiệp.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 13% năm.
Định hướng phát triển một số ngành công nghiệp:
+ Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, phấn đấu đến năm 2005 đạt 8-10 lít sữa /người/năm đưa kim ngạch xuất khẩu sữa gấp 2 lần so với năm 2000, dự kiến sản phẩm đường mật các loại bình quân đầu người vào năm 2005 khoảng 14,4kg.
+ Ngành giấy, đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất hiện có, nghiên cứu xây dựng thêm một số cơ sở sản xuất bột giấy và giấy để có thể tăng sản xuất thêm 20 vạn tấn. Đưa tổng năng lực sản xuất lên 60 vạn tấn và đạt sản lượng 50 vạn tấn vào năm 2005.
Ngành dệt may và da giày, chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường trong nứoc và nước ngoài. Tăng cường đầu tư, hiện đại hoá một số khâu sản xuất. Phấn đấu đến năm 2005, đạt sản lượng 2,5-3 vạn tấn bông xơ, 750 triệu mét vải, nâng sản lượng giày dép lên 410 triệu đôi.
Ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin,thực hiện đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá những cơ sở sản xuất hiện có, xây dựng một số cơ sở mới để đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm nhập khẩu và tăng dần xuất khẩu. Phát triển mạnh công nghiệp phần mềm phục vụ phục vụ nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu, đưa giá trị sản phẩm phẩm mềm đạt trên 500 triệu $ vào năm 2005, trong đó xuất khẩu 200 triệu $.
+ Ngành cơ khí, tập trung đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, thiết bị, hiện đại hoá một số khâu then chổt trong chế tạo, chú trọng công nghệ đóng tàu và sửa chữa tàu, đặc biệt là các loại tàu có trọng tải lớn. Phát triển một số lĩnh vực hiện đại như cơ điện tử; từng bước đưa ngành cơ khí thành ngành công nghiệp mạnh, đáp ứng khoảng 25% nhu cầu chế tạo tiết bị cho nền kinh tế và nội hoá khoảng 70-80% các loại phụ tùng xe máy, 30% phụ tùng lắp ráp ô tô.
+ Ngành dầu khí, tiếp tục tìm nguồn vốn hợp tác thăm dò, tìm kiếm khai thác để tăng thêm khả năng khai thác dầu khí. Sản lượng khai thác dầu năm 2005 đạt 27-28 triệu tấn quy đổi.
+ Nghành điện, sản lượng điện phát ra năm 2005 khoảng 44 tỷ KWh, tăng bình quân 12%/năm, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp, nông nghiệp, phát triển các ngành dịch vụ, và phục vụ dân sinh.
+ Ngành than, mở rộng thị trường tiêu thụ than trong và ngoài nước để tăng nhu cầu sử dung than. Dự kiến sản lượng than năm 2005 khoảng 15-16 triệu tấn.
+ Ngành hoá chất phân bón, nghiên cứu các điều kiện để sớm khởi công xây dựng nhà máy sản xuất DAP công suất 33 vạn tấn diamon phốt phát; đưa tổng năng lực sản xuất phân lân các loại đến năm 2005 khoảng 2,2 triệu tấn. Dự kiến sản lượng phân ure năm 2005 vào khoảng 80-90 vạn tấn.
+ Ngành thép, tiếp tục phát triển đầu tư chiều sâu các cơ sở luyện và cán thép hiện có. Phấn đấu sản lượng thép cán các loại vào năm 2005 khoảng 2,7 triệu tấn.
3. Định hướng phát triển các ngành dịch vụ.
Đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
Phát triển thương mại, cả nội thương và ngoại thương. Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn pháp luật, dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo...
Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng các ngành dịch vụ trên 7,5%/năm.
4. Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại.
+ Về xuất khẩu, nhập khẩu.
Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu, có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động...
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm khoảng 144 tỷ USD, tăng 16%/năm. Nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 15,9%; nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệpb, tăng bình quân hàng năm là 22%. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 16,2%.
+ Về thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Fdi). Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA). Định hướng trong 5 năm tới dành 15% vốn ODA vào các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản, kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói giảm nghèo. 25% cho các ngành năng lượng và công nghiệp: khoảng 25% cho các ngành giao thông, bưu điện... Ngoài ra cần tăng cường đầu tư ra nước ngoài; phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ và các dịch vụ khác.
II. các giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005
1. Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn 2001-2005 tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để đảm bảo các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh, thực sự là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp tổ chức lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quản năng lực cạnh tranh đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; thực hiện việc tách quyền chủ sở hữu Nhà nước của các cơ quan Nhà nước với quyền sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xoá bỏ chế độ cơ quan, cấp hành chính chủ quản. Hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sở hữu. Ưu tiên bán cổ phần cho người lao động. Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả các tổng công ty mẹ - công ty con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành chuyên môn hoá, gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh.
Nhà nước thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể. Hoàn thành quá trình chuyển đổi các hợp tác xã cũ, đồng thời nghiên cứu bổ xung Luật Hợp tác xã cho phù hợp với tình hình mới. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển mạnh. Thực hiện quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân nhằm phát huy tối đa nội lực, phát triển lực lượng sản xuất. Sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội cho mọi tổ chức, các nhân thuộc các thành phần kinh tế. Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối sử. Tiếp tục phát huy những tác động tích cực của Luật Doanh Nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại.
Kinh tế có nguồn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển và là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào nước ta, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Tạo ra khuôn khổ pháp lý nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài để phát huy lợi thế so sách của đất nước.
2. Hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng thích hợp, bao gồm hệ thống ngân hàng, thể chế tài chính phi ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và bảo lãnh đầu tư... nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội, mở rộng nguồn vốn dài hạn và trung hạn. giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn và tín dụng. Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại, tách chức năng tín dụng, chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh, đặt các ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động trong môi trường cạnh tranh.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật và chính sách nhằm mở rộng thị trường lao động. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề, hoạt động dịch vụ, giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động. Thu hút nguồn lực để phát triển mạnh mẽ và hiện đại hoá hệ thống đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường và sự phát triển khoa học, công nghệ.
Phát triển thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất; mở rộng cơ hội cho các công dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được dễ dàng có đất và sử dụng đất lâu dài cho sản xuất kinh doanh.
Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Quy hoạch sử dụng đất đai, nhất là ở các đô thị, theo hướng văn minh, hiện đại, công bố công khai quy hoạch này để doanh nghiệp và người dân thực hiện.
Phát triển các thị trường dịch vụ như dịch vụ khoa học công nghệ; dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn quản lý, thị trường sản phẩm trí tuệ...
3. tăng cường hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, nâng cao tính định hướng và dự báo, nâng cao chất lượng của các quy hoạch và kế hoạch.
Chính sách đầu tư nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, các dự án không có khả năng thu hồi vốn; hổ trợ đầu tư cho các vùng khó khăn, các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước.
Huy động các nguồn vốn trong xã hội để đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh bằng các hình thức thích hợp, Nhà nước chỉ hỗ trợ đầu tư vào một số dự án ở những ngành, lĩnh vực và những vùng ưu tiên phát triển ở từng thời kỳ.
Tăng cường hiệu lực và đổi mới cơ chế quản lý ngân sách Nhà nước theo hướng triệt để tiết kiệm, nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết định và thực hiện ngân sách, thực hiện công khai, minh bạch trong chi tiêu ngân sách. Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng luôi dưỡng nguồn thu, theo hướng thực hiện công khai minh bạch, giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư; khuyến khích phát triển sản xuất và bảo đảm công bằng xã hội. Tién hành cải cách thuế giai đoạn 3 theo hướng thu hẹp dần các mức thuế suất, giảm tỷ trọng thuế0 dán thu, áp dụng các sắc thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, thuế bất động sản.
Đổi mới và hoạn thiện chính sách và cơ cấu chi tiêu ngân sách Nhà nước theo hướng tích cực; triệt để xoá bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp Nhà nước thông qua ngân sách Nhà nước và các công cụ chính sách khác.
Tăng cường quản lý nơ, nhất là nợ nước ngoài; xử lý nợ doanh nghiệp Nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các quỹ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của Nhà nước theo hướng chuyển từ tiền ưu đãi sang hậu đãi. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo, thông tin, bảo đảm hoạt động kinh doanh phải công khai, minh bạch đối với tài chính doanh nghiêp. xây dựng luật quản lý vốn và tài sản của Nhà nước.
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm xoát lạm phát, thúc đẩy sản xuất tiêu dùng kích thích đầu tư phát triển, bảo đảm kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công cụ chính sách gián tiếp. Thực hiện chính sách tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo cung cầu trên thị trương, từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam, trước hết là đối với những tài khoản vãng lai. Nâng cao vai trò của ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực điều hành, quản lý tiền tệ, giám sát các hoạt động tín dụng; tăng cường năng lực của ngân hàng Nhà nước về tổ chức, thể chế và cán bộ.
Đẩy mạnh và xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp vơi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ xung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các luật:Luật Thương Mại, Luật phá sản doanh nghiệp, Bộ luật lao động, luật các tổ chức tín dụng, luật ngân sách Nhà nước... Xây dựng một số luật mới như: Luật doanh nghiệp trên cơ sở thống nhất luật doanh nghiệp Nhà nước và luật doanh nghiệp hiện hành; luật đầu tư trên cơ sở thống nhất luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và luật khuyến khích đầu tư trong nước; luật khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh... Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng luật, ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một cách nghiêm minh.
4. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại.
Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ... để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện chính sách bảo hộ có trọng điểm, có điều kiện và có thời hạn phù hợp với tiến trình hội nhập. Tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, đặc biệt chú trọng tới các cam kết trong khuôn khổ ASEAN (như AFTA, AICO, AIA...) APEC, ASEM.
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động xuất nhập khẩu mà pháp luật cho phép, bao gồm cả xuất, nhập khẩu dịch vụ. Nhà nước khuyến khích xuất khẩu nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh, thông qua vận hành quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, cũng như các biện pháp bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm, hội trợ...
Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế - chính trị Mác - Lênin( Nhà xuất bản giáo dục-1998 ).
Kinh tế – chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản.
Giáo trình triết học Mác-Lênin.
Bàn về thuế lương thực( Lênin ).
Bàn về chế độ hợp tác( Lênin ).
Bản thảĐi hội IX ( Nhà xuất bản chính trị quốc gia ).
Báo nhân dân ngày 22,23 tháng 4 năm 2001.
Tạp chí triết học 1997,1998,1999.
Thời báo phát triển kinh tế 35.
V.I.Lênin toàn tập 2,6,30,42 (Nhà xuất bản Tiến bộ, Maxcơva 1980).
Hồ Chí Minh toàn tập (Nhà xuất bản sự thật Hà nội 1989, tập 10).
Tư bản ( Mác ) quyển 1 tập 3.
Bài giảng môn học Kinh tế - chính trị.
Mục lục
Trang
Phần nhất: lời mở đầu
1
Phần hai: cơ sở của đề tài
3
Chương I
Cơ sở lý luận
3
A. Hoàn cảnh ra đời của chính sách kinh tế mới
3
B. Nội dung và các biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới (NEP ).
8
C. ý nghĩa của NEP và bài học thành công
16
Chương II
Việt Nam hội nhâp vào nền kinh tế của thế giới.
18
Phần ba: Vận dụng NEP trong điều kiện nước ta
20
Chương I
Thực trạng đất nước.
Tình hình đất nước 5 năm qua và những thành tựu trong 15 năm đổi mới
20
Chương II
Vận dụng sáng tạo NEP vào nước ta
23
A. Sự phân tích những tồn tại và nguyên nhân
23
B. Sự vận dụng NEP
24
C. Phương hướng - nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005
28
Tài liệu tham khảo
34
Mục lục
35
Phần bốn
Kết luận
Để tồn tại và phát triển trong thời đại ngày nay mỗi quốc gia đều phải lựa chọn cho mình một chính sách đúng đắn và thích hợp. NEP là kiểu mẫu hoàn thiện nhất của sự kết hợp giữa những tính quy luật chung với những đặc điểm lịc sử cụ thể của mỗi nước ở mỗi giai đoạn. Chỉ trong thời gian ngắn, Đảng cộng sản Liên Xô, với sự lãnh đạo của Lênin đã xác định được kế hoạch thực sự khoa học để xây dựng một nước XHCN đầu tiên trên thế giới và đã giải quyết thành công những vấn đề cơ bản nhất trong trong thời kì quá độ.
CNXH từ lý luận đến thực tiễn là một bước ngoặt, ở đó diễn ra cuộc sát hạch đối với sự trưởng thành của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó. Nắm vững NEP, với tư cách là chiến lược xây dựng XHCN là bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của giai cấp công nhân và Đảng của nó trong cuộc sát hạch ấy. Điều đó cũng có tầm quan trọng quyết định đối với những nước quá độ lê XHCN từ một nền kinh tế lạc hậu, mà không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
Với nhận thức hết sức rõ ràng và đúng đắn về ý nghĩa quốc tế và tính thời sự của chính sách kinh tế mơí, Đảng ta đã khẳng định việc vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, nhất là quan niệm của ông về CNTB, Nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc sáng tạo ra những hình thức quá độ, những nấc thang trung phù hợp với bối cảnh của công cuộc đổi mới nước ta hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8926.doc