Phát triển DNNVV là một nội dung rất quan trọng trong đường nối xây dựng và phát triển kinh tế nước ta, góp phần phát huy mọi khă năng của các tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Với những đổi mới quan trọng trong thể chế, chính sách kinh tế cũng như trong cải cách hành chính được đẩy mạnh theo Nghị Quyết Đại Hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001), tin rằng những khó khăn, trở ngại trên con đường phát triển của các DNNVV sẽ được tháo gỡ, tiếp tục giải phóng sức sản xuất, cởi trói cho kinh tế dân doanh, hàng vạn , hàng chục vạn DNNVV được nẩy nở và ngày càng ăn nên làm ra trên đất nước ta, góp phần quan trọng vào việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổng số các công ty TNHH, chiếm 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần và 65,88% trong tổng số các doanh nghiệp Nhà Nước. Trong tổng số doanh nghiệp được điều tra là 23.708, có tới 20.856 DNNVV.
Theo số liệu thống kê đến 30/6/1998, trong tổng số các doanh nghiệp dân doanh là 25.517, có 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.900 công ty TNHH, 153 công ty cổ phần và 2.900 hợp tác xã.
Xét về lĩnh vực kinh doanh, cũng theo số liệu của cuộc điều tra nói trên, trong số 20.856 DNNVV có 77,6% hoạt động trong các ngành thương nghiệp, sửa chữa và công nghiệp chế biến, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, sửa chữa chiếm 42,2% và các doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp chế biến chiếm 35,4%. Doanh nghiệp hoạt động trong xây dựng chiếm gần 10%; trong khách sạn, nhà hàng 44,4%; trong ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 3,3%; trong ngành kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn 2,1%; trong ngành khai thác mỏ 1,2%; còn lại dưới 1% là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác.
Về phân bố giữa các địa phương, DNNVV tập chung chủ yếu tập ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 55% tổng số DNNVV của cả nước, ngoài ra là Đồng bằng sông Hồng chiếm 18,1%, Duyên hải miền Trung 10,1%.
2.Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay DNNVV có vị trí đặc biệt quan trọng thể hiện qua các mặt dưới đây:
-Tạo việc làm cho người lao động. Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNNVV ở nước ta hiện nay.
Số liệu điều tra lao động và việc làm (7/2000) cho thấy ở Việt Nam, dân số trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55) là 46,2 triệu người chiếm 59,2% tổng dân số (năm 1989 mới chỉ là 55%). Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn cấu trúc dân số trẻ sang "cơ cấu dân số vàng", nghĩa là tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở mức cao trong khi tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm. Dự báo trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 (56 triệu người). Từ năm 1999 đến năm 2009 mỗi năm sẽ có thêm 1,8 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Đây là mức tăng nguồn nhân lực cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử dân số Việt Nam, là tiềm năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm.
Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút thêm lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo tài liệu "Một số chỉ tiêu chủ yếu về qui mô và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam " của Tổng Cục Thống Kê xuất bản năm 1997, lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại doanh nghiệp Nhà Nước là 87,5 triệu đồng. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông thôn tăng mỗi năm; đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp Nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai.
-Đóng góp tăng trưởng kinh tế. Mỗi năm DNNVV đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước. Năm 1995, DNNVV tạo ra 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng vận chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản lượng hàng hoá của một số ngành nghề như chiếu cói, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ ...
Xét về tương quan giá trị TSCĐ với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng đồng vốn, có thể thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn ở khu vực DNNVV đang rất khả quan: để tạo ra một đồng doanh thu, các doanh nghiệp Nhà nước thuộc Trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý chỉ đầu tư 0,220 đồng; doanh nghiệp tập thể 0,298 đồng; doanh nghiệp tư nhân 0,197 đồng; công ty TNHH 0,188 đồng. Nếu so sánh các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương quản lý số vốn cố định mà doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý sử dụng cho một đồng doanh thu chỉ bằng 39%; tương tự như vậy, các doanh nghiệp tập thể bằng 53%; các doanh nghiệp tư nhân băng 35%; còn công ty TNHH chỉ bằng 33%.
-Bảo đảm cho nền kinh tế năng động hơn. Do yêu cầu vốn ít, qui mô nhỏ, DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Một số nền kinh tế như Đài Loan vừa qua ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực, chủ yếu do dựa vào DNNVV. Đối với doanh nghiệp lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp vật tư đầu vào với giá rẻ hơn do đó góp phần hạ giá thành nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn.
-Tăng thu nhập cho dân cư. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp do kinh tế chậm phát triển; ngay trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh thì cũng chỉ đủ no, chứ không giầu được nếu không có công nghiệp chế biến. Phát triển DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các vùng trong nước. Việc phát triển DNNVV chế biến nông, lâm, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ truyền thống phân bố rộng khắp trong các vùng nông thôn sẽ tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần rất quan trọng thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
-Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lãnh thổ, phân bố dân cư... Việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ nhận thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt kinh tế, xã hội của nhiều vùng đã có thay đổi theo hướng đó: nhiều thị trấn, thị tứ, đông đúc hợn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành, đi đôi với giao thông nông thôn phát triển và nhiều đường dẫn toả ra nhiều vùng nông thôn...
-Và cuối cùng là góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường. Trong thực tế, có những DNNVV vẫn tiếp tục giữ tổ chức của mình là nhỏ hoặc vừa vì qui mô này phù hợp với khả năng kinh doanh ngành, nghề đang theo đuổi, nhưng cũng có những doanh nghiệp phát triển lên thành những doanh nghiệp có qui mô lớn. Đã có những gương doanh nhân thành đạt xuất thân từ những công việc rất đơn giản, do ý chí và quyết tâm rất đáng khích lệ, dù ở qui mô nào, DNNVV cũng vẫn là những vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
II.Hệ thống thể chế, chính sách khuyến khích trợ giúp DNNVV ở Việt Nam.
DNNVV ở nước ta hiện nay đang còn nhiều yếu kém, việc trợ giúp là hết sức cần thiết.
Đối với các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, từ những năm đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật để từng bước hình thành hệ thống thể chế, chính sách khuyến khích phát triển.
Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng nhất.
-Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo qui định của pháp luật; công nhận quyền được đối xử bình đẳng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
-Luật đất đai năm 1993, được sửa đổi hai lần bằng các luật sửa đổi, bổ xung một số điều của luật đất đai của năm 1998 và năm 2001, qui định các doanh nghiệp có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
-Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 qui định khung pháp luật cho các doanh nghiệp này hoạt động hoặc tham gia thị trường trong nước và nước ngoài.
-Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1994 được sửa đổi bằng các pháp lệnh năm 1997 và năm 2001.
-Luật dân sự năm 1995 qui định nhiều quyền dân sự, trong đó có quyền kinh doanh thông qua hợp đồng và quyền thực hiện hợp đồng thông qua tài sản cầm cố và thế chấp.
-Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997, đơn giản hoá và thực hiện thống nhất một sắc thuế thu nhập cho các loại hình doanh nghiệp trong nước.
-Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 thay thế luật thuế doanh thu bị coi là thuế chồng lên thuế bằng một sắc thuế đơn giản hơn, công bằng hơn.
-Luật thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp.
-Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và nghị định số 51 (tháng 7/1999) cụ thể hoá điều kiện luật đó đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng cho tất cả loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, kể cả cá nhân, nhằm kinh doanh theo nghị đinh 66-HĐBT ngày 2/3/1992.
-Nghị địng số 57 (7/1998) qui định tất cả các doanh nghiệp đã đăng ký có quyền xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng đã đăng ký kinh doanh (mà trước đây cần phải có giấy phép) trừ một số ít sản phẩm còn qui định hạn ngạch hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện.
-Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000) qui định tổ chức và hoạt động của 4 loại hình doanh nghiệp: công ty TNHH, đào tạo cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, trên cơ sở hợp nhất hai luật về công ty và doanh nghiệp tư nhân trước kia.
-Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính Phủ về xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một số cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây, giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế.
Rõ ràng là, trải qua 15 năm đổi mới theo đường lối của Đảng, thể chế kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ thống các văn bản pháp luật theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy chưa thật hoàn chỉnh; nhờ đó kinh tế dân doanh bước đầu bừng nở, mọi lực lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của kinh tế nước ta, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Thế nhưng, trên con đường kinh doanh, DNNVV đang còn gặp không ít khó khăn. Để khuyến khích phát triển mạnh hơn nữa nhiều DNNVV, việc tiếp tục đổi mới công tác quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng, mà trước hết là cải cách thể chế kinh tế. Trong khi các yếu tố của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang rất sơ khai, không đồng bộ, thể chế ấy phải bảo đảm hình thành, phát triển và hoàn thiện các loại thị trường, nhất là thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học- công nghệ. Điều quan trọng trong thể chế là phải dứt khoát xoá bỏ cơ chế "xin cho" tràn lan đã ăn sâu trong nếp nghĩ cũng như cung cách quản lý của không ít cơ quan và công chức, đôi khi lại còn vì cơ chế cũ đã đem lại cho họ những bổng lộc mà họ không sao dứt bỏ được.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra nhiệm vụ "trong 5 năm tới, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN, khắc phục những yếu kém, tháo gỡ những vướng mắc" và đến năm 2010, "thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phải được định hướng về cơ bản".
Như vậy, việc cần thiết là tiếp tục cụ thể hóa thêm thể chế, chính sách đó và vận dụng phù hợp với đặc điểm DNNVV trong tình hình hiện nay. Dưới đây là một số chính sách cụ thể nhất cần được quan tâm.
1.Chính sách khuyến khích đầu tư:
Lâu nay, phần lớn DNNVV tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ đời sống (chiếm tới 46,2% số doanh nghiệp), còn lĩnh vực công nghiệp thì quá ít. Điều đó thể hiện rõ tâm lý của người dân chưa thật sự tin tưởng vào kinh doanh dài hạn, nhiều rủi ro. Vì vậy, việc khuyến khích đầu tư vào công nghiệp, nhất là phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu rất cần được chú trọng. Công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản cần được đầu tư nhiều hơn nữa, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nghị định 51-CP ngày 8/7/1999 đã đề ra nhiều chính sách khuyến khích đầu tư phát triển doanh nghiệp trong nước, về ngành, nghề, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, thế nhưng hiệu lực thi hành nghị định này rất kém thể hiện ở hai mặt: một là, có những ngành (ví dụ thuế) không những không thực hiện đúng qui định trong nghị định 51 lại còn đòi hỏi những điều kiện trái với nghị định; hai là, còn nhiều thủ tục hành chính hạn chế doanh nghiệp dân doanh tiếp cận các chính sách ưu đãi. Vì vậy, rất cần kiểm điểm để đẩy mạnh việc thi hành Nghị định 51, bổ xung những qui định cần thiết.
Đồng thời, rất cần thiết rà soát lại toàn bộ thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp, xoá bỏ những trở ngại trong sản xuất kinh doanh, những bất bình đẳng, sửa đổi, bổ xung những qui định mới có tác dụng khuyến khích mạnh hơn nữa, tiến đến một cơ chế chung cho doanh nghiệp dân doanh với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Việc này cần có thời gian, tiến hành từng bước, trước mắt, cần sớm sửa đổi, bổ xung những cơ chế, chính sách đã rõ là không hợp lý, tiếp tục tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (kể cả DNNVV).
2. Chính sách về mặt bằng kinh doanh:
Hiện nay, hầu hết các DNNVV đều thiếu đất làm mặt bằng kinh doanh, để thiết lập cơ sở mới hoặc mở rộng cơ sở sản xuất. Đó là do các qui định về quyền sử dụng đất thường không rõ ràng, quyền mua bán, thế chấp chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa được thừa nhận. Khó khăn đang còn rất lớn. Một ví dụ: năm 1997 trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư mới, chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân; mặc dù các dự án này đã nộp đơn xin cấp quyền sử dụng đất hoặc thuê đất nhưng chỉ có duy nhất một dự án được thuê đất. Do những khó khăn trong việc xin quyền sử dụng đất, cho nên nhiều DNNVV thường phải dùng ngay nơi ở của mình để làm cơ sở sản xuất, gây ô nhiễm môi trường, cũng do đó thị trường ngầm về đất đai hoạt động khá nhộn nhịp, tuy bị coi là bất hợp pháp, nhưng DNNVV không thể không tiếp cận để có mặt bằng cho sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, các thủ tục về quyền chuyển nhượng sử dụng đất cho DNNVV, thủ tục thuê địa điểm lập doanh nghiệp cần được cải tiến, giảm bớt khó khăn về mặt bằng. Để giải quyết địa điểm cho các doanh nghiệp phải di chuyển từ nội thành, nội thị ra ngoại ô nhằm tránh ô nhiễm môi trường, đồng thời cũng để chuẩn bị mặt bằng cho doanh nghiệp mới, thực hiện qui hoạch đô thị hoá, tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn, một số địa phương như các thành phố: Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, đã hình thành những khu công nghiệp nhỏ và vừa, hoặc cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cho DNNVV. Khó khăn hiện nay là chi phí di chuyển quá sức chịu đựng của doanh nghiệp, giá thuê đất không phù hợp, chi phí đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp cũng còn cao.
Quốc hội khoá X trong kỳ họp thứ 9 ( tháng 5 năm 2001) đă thông qua một số điều sửa đổi luật đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dân doanh trong việc thuê đất, giải phóng mặt bằng. Tuy vậy vẫn là những sửa đổi chưa thật cơ bản, hy vọng rằng trong những năm tới, sẽ có những đổi mới mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực đất đai, giải quyết cơ bản yêu cầu của DNNVV trong lĩnh vực mặt bằng cho sản xuất kinh doanh.
3.Chính sách về vốn
Hiện nay, 75% số DNNVV có số vốn dưới 50 triệu đồng, thiếu vốn đang là khó khăn phổ biến, nhưng số DNNVV được vay vốn của ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng từ quĩ trợ giúp đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước từ ngày 1/12/1999 đến ngày 30/6/2000, đã có 164 dự án với tổng số vốn vay ưu đãi trên 424 tỷ đồng, trong đó 61 dự án thuộc khu vực dân doanh (39% tổng số dự án) được vay 294 tỷ đồng (69% tổng giá trị khoản tín dụng ưu đãi). Chỉ có 103 dự án thuộc khu vực dân doanh được vay ưu đãi 130 tỷ đồng, tính trung bình 1,2 tỷ đồng cho một dự án. Nếu nghiên cứu sâu hơn nữa có thể thấy phần lớn tín dụng tập trung vào các doanh nghiệp tư nhân lớn, chứ không phải các DNNVV.
Do vậy, phần lớn DNNVV huy động vốn của các tổ chức phi tài chính, cụ thể là trong gia đình, bạn bè hoặc dựa vào nhau với lãi suất cao hơn gấp 3-6 lần so với lãi suất chính thức. DNNVV còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn cũng như dài hạn từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng chính thức khác; các khoản vay có bảo lãnh cũng thường không đến với các DNNVV. Đối với ngân hàng, dù đã được ưu đãi cũng không dễ, nhiều doanh nghiệp cho biết: tuy lãi suất vay ngân hàng là thấp nhưng các thủ tục vay rất phức tạp, nếu tính cả các lệ phí tiêu cực thì thực chất chi phi giao dịch là quá cao; việc phải hoa hồng 10% là phổ biến (tuy đây là hiện tượng có thật nhưng khó phát hiện). Những qui định khắt khe về tài sản thế chấp và việc xem xét tính khả thi của dự án đầu tư cũng làm cho nhiều DNNVV không thể đáp ứng được, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước lại được vay mà không cần thế chấp. Hiện nay, đã có qui định cho rằng ngân hàng chủ động xem xét dự án của doanh nghiệp, có thể cho doanh nghiệp vay không cần thế chấp, nhưng việc thực hiện rất khó khăn. Vì vậy, để doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng còn nhiều vấn đề giải quyết về thủ tục vay.
Để giải quyết vấn đề tài sản thế chấp cho DNNVV, mấy năm gần đây tại Bắc Giang đã tiến hành thí điểm Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Trên cơ sở kinh nghiệm của Bắc Giang, một Nghị định về Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV cũng đang được các cơ quan hữu quan nghiên cứu để ban hành, thi hành trong cả nước. Quỹ này phải là một tổ chức do các DNNVV cũng ngân hàng thành lập, có sự trợ giúp ban đầu của Nhà Nước để cùng chia sẻ rủi ro với ngân hàng trong quá trình cho DNNVV vay vốn, mà thiết thực nhất là cùng trợ giúp trực tiếp cho DNNVV trong quá trình chuẩn bị dự án sản xuất kinh doanh, bảo đảm tính khả thi của dự án.
Hiện đang có tình trạng thừa vốn, thiếu dự án khả thi. Vì vậy, điều quan trọng là giúp cho doanh nghiệp xây dựng được dự án khả thi và về phía mình ngân hàng cần tăng cường năng lực thẩm định dự án, nâng cao trách nhiệm và chủ động hơn trong việc cho vay. Cũng nên khuyến khích việc ngân hàng cùng đầu tư với doanh nghiệp để kinh doanh, ngân hàng không nên chỉ đơn thuần là tổ chức tín dụng.
4.Chính sách thị trường:
Tiếp cận thị trường đang là khó khăn chung cho các doanh nghiệp, DNNVV lại càng khó khăn hơn. Vì vậy, phải có nỗ lực của cả hai phía doanh nghiệp và các cơ quan tư vấn, xúc tiến của các tổ chức xã hội hoặc của cơ quan Nhà nước. Việc bảo hộ cũng chỉ có điều kiện và có thời gian, DNNVV cũng vẫn rất cần thiết tìm mọi biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá do doanh nghiệp mình sản xuất. Thời gian gần đây, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đang có nhiều triển vọng mới (năm 1999 đạt 169 triệu USD) là một hướng cần được trợ giúp để có thể tăng nhanh kim nghạch.
Vừa qua, Quyết định số 46 ngày 4-4-2001 của Thủ Tướng Chính Phủ đã đề ra những qui định mới hết sức thuận lợi cho việc xuất khẩu: Có những chủ trương chính sách cho từ nay đến năm 2005, tạo cho doanh nghiệp bức tranh dài hạn để bố trí công việc làm ăn, các cơ quan Nhà nước quản lý cũng có định hướng rõ ràng tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Điểm mới rất quan trọng là quyết định 46 đã giảm bớt phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế, giảm bớt các mặt hàng cấm nhập khẩu, giảm bớt qui chế xin- cho, xoá bỏ mạnh mẽ đầu mối. Đặc biệt, đã đề ra lộ trình rõ ràng: Năm nào bỏ cái gì, cái gì bảo hộ và bảo hộ đến bao giờ, bằng biện pháp gì.... Điều quan trọng là đưa những Quyết định mới vào cuộc sống, thiết thực giúp đỡ DNNVV trong các thủ tục để tiếp cận thị trường ngoài nước theo tinh thần mới của Quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ.
Cần thực hiện rộng rãi các chính sách để DNNVV tiếp cận thị trường, tham gia các hội trợ, triển lãm ở nước ngoài, thuê gian hàng triển lãm, chính sách hưởng xuất khẩu, kể cả sử dụng quĩ trợ giúp xuất khẩu, nhằm khuyến khích mạnh hơn nữa việc thu hút ngoại tệ về cho dất nước. Riêng đối với DNNVV, lại càng khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, dù khối lượng và số ngoại tệ thu về ban đầu có thể chưa nhiều. Thời gian gần đây một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ đã tìm được thị trường, tăng được kim nghạch xuất khẩu quá nhanh, cần tạo thêm điều kiện để có thể xuất khẩu thêm nhiều sản phẩm loại này, khai thác tốt tiềm năng của các nghành, nghề truyền thống.
Đối với các DNNVV, việc hội nhập với kinh tế thế giới vừa qua là cơ hội, vừa là thách thức không nhỏ, nhưng nhiều DNNVV chưa sẵn sàng. đây là trách nhiệm của cả hai phía: các cơ quan chức năng cần giúp DNNVV nắm được thông tin, nâng cao hiểu biết và luật lệ thương mại quốc tế, khai thác thị trường phù hợp; các doanh nghiệp cần có trương trình đổi mới công nghệ, giảm thiểu chi phí ,nâng cao chất lượng hàng hoá, trong đó chú trọng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000, điều quan trọng là mỗi doanh nghiệp tự đánh giá nâng cao sức cạnh tranh bằng sự vươn lên của chính mình, tránh một chiều trông chờ ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước.
Trong thực tế, đã có nhiều mô hình DNNVV tự mình hoặc tự liên kết với nhau thành các tổ, nhóm, hoặc dựa vào các doanh nghiệp lớn chủ động ra thị trường nước ngoài, tìm được chỗ đứng của mình. Ví dụ như kẹo dừa Bến Tre, nước mắn Phú Quốc và riêng nón lá Phú Mỹ (Quốc Oai , Hà Tây) đã mở rộng được thị trường Trung Quốc, qua "tổ tiêu thụ nón lá đi Trung Quốc" của xã, từ năm 1997 đến nay, phải hàng năm xuất 60-70 vạn nón lá các loại, doanh thu 3-4 tỷ đồng, năm 2000 đã xuất được 80 vạn nón mũ các loại. Những kinh nghiệp phát triển thị trường từ nhỏ đến lớn rất cần được tổng kết và nhân rộng.
5. Chính sách thuế
Kinh nghiệm đã cho thấy, thuế xuất hợp lý thì thu được thuế cao cho ngân sách, ngược lại thuế xuất quá cao thì người dân sẽ tìm mọi cách để tránh thuế, kết quả là Nhà nước thất thu, doanh nghiệp chịu thiệt, còn người được lợi là những cán bộ thuế mất phẩm chất.
Riêng về thuế giá trị gia tăng được ban hành năm 1997 và thi hành từ 1-1-1999 thay thế cho thuế doanh thu là loại thuế đánh vào người tiêu dùng, tránh được tình trạng " thuế chồng thuế", bằng cách khấu trừ số thuế đã nộp, người tiêu dùng phải chịu thuế sẽ chỉ trả thuế cho phần " Giá trị gia tăng" ở mỗi giai đoạn sản xuất không phải chịu thuế doanh thu chồng chéo. Tuy vậy, thuế giá trị gia tăng còn tới 4 loại thuế suất 6%, 5%, 10% và 20% và nhiều trường hợp được miễn trừ, cho nên việc thu thuế giá trị gia tăng vẫn gây ra nhiều khó khăn cho người nộp cũng như người thu thuế. Nhiều DNNVV cho rằng, mức thuế còn cao, chia làm 4 loại quá phức tạp chỉ nên thống nhất một loại thuế suất.
Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng vậy, được áp dụng để thay thế thuế lợi tức có thuế suất 32% (Dù chưa có thu nhập, doanh nghiệp vẫn phải nộp theo từng quý). Tuy vậy, nhiều DNNVV vẫn cho rằng mức thuế suất đó là cao; hơn nữa lại còn thuế thu nhập bổ xung (Đối với các cơ sở kinh doanh được coi là có địa điểm kinh doanh thuận lợi; nghành, nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh, thu nhập cao) là một thứ thuế bất hợp lý, triệt tiêu động lực kinh doanh, kìm hãm sản xuất. Doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo thuế xuất chung là 32% mà phần thu nhập còn lại so với vốn chủ sở hữu hiện có cao hơn 12% thì phần vượt đó phải nộp thuế thu nhập bổ xung (thuế suất là 25%). Từ phần thu nhập còn lại phải chịu thêm thuế thu nhập không phải là cao hơn 12%, mà là phần cao hơn 20% so với vốn chủ sở hữu hiện có.
Một loại thuế khác cũng được doanh nhân trong các DNNVV đăc biệt quan tâm, đó là thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao. Thuế này đã nhiều lần sửa đổi, từ 1- 7- 2001 đã áp dụng biểu thức mới: Khởi điểm chịu thuế được nâng từ 2 triệu đồng lên 3 triệu đồng và hạ mức thuế xuất cao nhất xuống còn 50%
(Trước đây là 60%). Tuy vậy, doanh nhân trong DNNVV vẫn cho rằng mức này không động viên được những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, hơn nữa điều không hợp lý là thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở nước ta đánh đơn thuần vào thu nhập, không tính đến gia cảnh như ở các nước khác. Theo giải thích của cơ quan có trách nhiệm thì đó là tình hình thực tế của nước ta hiện nay; sau này, khi có luật thuế thu nhập cá nhân, mọi người đều có trách nhiệm nộp thuế, thì việc tính thuế sẽ phải tính đến việc miễn trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế, cho người ăn theo, còn lại mới tính thuế.
Tóm lại, về thuế hiện đang tồn tại nhiều bất cập, hệ thống thuế quá phức tạp, thuế suất có phần cao, khuyến khích những hành vi trốn thuế và tham nhũng; rất cần có sự nghiên cứu nghiêm túc, sửa đổi cơ bản để có hệ thống thuế đơn giản, xoá bỏ những trường hợp miễn giảm thuế và những khẽ hở trong chính sách thuế; chỉ có như vậy mới hạn chế được tình trạng trốn thuế và hơn nữa, tạo thêm động lực khuyến khích nhân dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nhất là phát triển thêm nhiều DNNVV. Cung cách thuế cũng cần được sửa đổi tránh gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, nhất là các DNNVV đang chịu việc khoán thuế, chủ doanh nghiệp thường bị áp đặt về số thuế phải nộp.
6. Chính sách về công nghệ
Phần lớn doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 3-4 thế hệ. Nhiều DNNVV lại còn đang sử dụng những máy móc thiết bị cũ kỹ mà Doanh nghiệp Nhà nước đã loại bỏ. Trong tình hình cạnh tranh đang gay gắt, đây là một vấn đề hết sức khó khăn đối với DNNVV.
Trong thực tế, đối với các DNNVV, cùng với việc tạo nguồn vốn để đầu tư công nghệ hiện đại, điều phù hợp với khả năng thực tế của doanh nghiệp là chọn lựa và ứng dụng công nghệ thích hợp với khả năng về vốn, trình độ công nhân cũng như trình độ quản lý hiện đại của chủ doanh nghiệp, sau đó sẽ tiến lên dần. Hiện nay, vấn đề lớn nhất là trình độ công nghệ thấp dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh kém. Cần sửa đổi các cơ chế để khuyến khích và tạo dễ dàng cho doanh nghiệp tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới, kể cả trong việc xuất khẩu công nghệ có công nghệ nguồn, chuyển giao công nghệv.v…
ứng dụng công nghệ mới không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, mà một nội dung có ý nghĩa cấp bách khác là để chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường đối với một số làng nghề (Ví dụ: làm giấy, nấu rượu ở Bắc Ninh, sản xuất nước mắm, làm hàng thủ công mỹ nghệ ở Đà Nẵng.v.v..).
Đáng chú ý là cho đến nay, lĩnh vực chuyển giao công nghệ là lĩnh vực mà các DNNVV quan tâm vẫn chưa đủ mức khuyến khích DNNVV ứng dụng công nghệ mới cho mình, kể cả các thủ tục phiền hà trong việc tiếp thu công nghệ mới qua con đường chuyển giao công nghệ cũng như các thủ tục để được ưu đãi về tài chính khi áp dụng công nghệ mới. Để khuyến khích DNNVV đầu tư cho máy móc thiết bị mới, thuế thu nhập doanh nghiệp nên cho phép khấu hao nhanh máy móc và thiết bị mới, đây cũng là một trong những biện pháp ưu đãi thuế thành công nhất được sử dụng để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, tạo điều kiện nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Gần đây, đã hình thành mô hình vườn ươm công nghệ trong khu vực công nghệ cao Hoà Lạc, vườn ươm các doanh nghiệp sản xuất phầm mềm Quang Trung tại Thành phố Hồ Chí Minh là những hình thức tổ chức rất đáng khuyến khích để giúp các DNNVV phát triển kinh doanh dựa vào công nghệ, nhất là trong bước đầu DNNVV khởi sự kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ.
7. Chính sách về lao động
Trong các DNNVV, trình độ tay nghề của người lao động càng kém, chủ yếu là lao động phổ thông, trình độ văn hoá thấp, thiếu kỹ năng lao động. Thời gian tới, các trường đào tạo nghề chính qui của Nhà nước sẽ chỉ đảm nhận 15-20% số chỉ tiêu đào tạo nghề hàng năm, còn lại sẽ do các doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nghề tư nhân, các trung tâm đào tạo nghề của các địa phương, đoàn thể xã hội đảm nhận. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải tạo thuận lợi, khuyến khích phát triển và giúp đỡ nâng cao cơ sở dạy nghề dân doanh; khuyến khích các doanh nghiệp lớn liên kết các DNNVV đào tạo công nhân lành nghề.
Về tiền lương các DNNVV thuộc khu vực dân doanh, Bộ luật lao động (năm 1994) đã quyết định các vấn đề về tiền lương tối thiểu, thang lương, bảng lương, Nghị Định số 197 CP ngày 31-12-1994 đã qui định chỉ tiêu các điều nói trên. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là đối với các DNNVV trong khu vực dân doanh, việc xác định thang lương, bậc lương, mức lương trong doanh nghiệp là quyền của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích người lao động, Nhà nước chỉ nên kiểm soát việc trả lương tối thiểu nhằm bảo vệ quyền của người lao động thông qua việc công bố mức lương tối thiểu cho từng vùng, trong từng thời điểm, đó là mức lương để trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất (thông qua đào tạo ) với điều kiện lao động và môi trường lao động bình thường. Luật lao động đã qui định rõ: "tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng xuất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc" ( Điều 55). Mỗi doanh nghiệp có trách nhiệm xây dựng thang bảng lương của mình với mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố, đăng ký mức lương, thang lương, bảng lương của doanh nghiệp đối với cơ quan thuế, lao động địa phương (chỉ cần đăng ký, chứ không phải xin duyệt); đồng thời tuân thủ các chế độ trong luật lao động. Trên cơ sở mức lương tối thiểu đó doanh nghiệp có quyền đề bạt nâng bậc lương, trả lương cao hơn cho những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Một vấn đề đang gây nhức nhối trong nhiều DNNVV là vấn đề xác định chi phí tiền lương, tiền công để tính thuế thu nhập doanh nghiệp thường bị cơ quan thuế xác định thấp hơn từ 30-50%, có nơi đến 100% so với mức chi phí thực tế mà doanh nghiệp trả cho người lao động; phần chênh lệch này bị xác định là thu nhập chịu thuế mà chủ doanh nghiệp phải chịu, do đó ảnh hưởng đến nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lý do họ thường nêu ra là tránh tình trạng doanh nghiệp khai tiền lương cao hơn để trốn thuế. Tuy vậy, việc làm này trái với quyền tự chủ của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường; cơ quan thuế chỉ có quyền kiểm tra việc thi hành thang lương, bảng lương mà doanh nghiệp đã công bố và đăng ký, nếu doanh nghiệp trả lương cho người lao động đúng như họ đã đăng ký thì cơ quan thuế không thể không công nhận thực tế đó.
Những việc nêu trên đây chỉ là phác qua một số định hướng cần suy nghĩ trong quy định các điều khoản cụ thể về các chính sách khuyến khích DNNVV. Trong nội dung các chính sách rất cần chú trọng khuyến khích, tạo điều kiện cho các chủ DNNVV là nữ, do những đặc điểm của giới nữ. Theo kết quả cuộc điều tra do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cùng phối hợp với tổ chức JICA (Nhật Bản) tiến hành năm 2000 đối với 481 doanh nghiệp dân doanh thì tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp chiếm tới 21%; đó là một tỷ lệ khá cao so với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này chứng tỏ sức vươn lên mạnh mẽ của phụ nữ nước ta và trong thực tế đã có nhiều nữ doanh nhân thành đạt. Tuy vậy, sự trợ giúp cho doanh nhân chưa được nhiều, ngoài một số dự án riêng cho hội viên Hội Liên Hiệp Phụ Nữ, đáng quan tâm nhất là những chính sách đối với lao động nữ trong doanh nghiệp cũng hầu như chưa được thực hiện.
Phần 3
hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ và thúc đấy phát triển DNNVV ở nước ta
I.chính sách phát triển DNNVV trong giai đoạn 2001- 2010.
Nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010, một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược là phát triển DNNVV. Hỗ trợ cho khu vực DNNVV phải hướng vào mục tiêu: nâng cao chất lượng và hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong nước và quốc tế, thu hút vốn đầu tư cho phát triển, tạo nhiều việc làm, góp phần cải thiện đời sống của đại bộ phận lao động, giảm bớt chênh lệch phát triển kinh tế giữa các vùng trong cả nước. Tạo môi trường thúc đẩy phát triển DNNVV sẽ tạo thêm động lực cho việc cải cách đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước.
Qua phân tích bối cảnh tình hình quốc tế, cũng như xem xét tình hình cụ thể ở Việt Nam có liên quan đến khung khổ luật pháp và chính sách phát triển doanh nghiệp ở trong nước có thể thấy một số quan điểm và định hướng phát triển DNNVV ở Việt Nam cho thời kỳ tới, đó là:
-Hỗ trợ phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
-Ưu tiên phát triển DNNVV trong hoạt động sản xuất công nghiệp đối với một số lĩnh vực, nghành có lựa chọn, đồng thời tạo ra mối liên kết công nghiệp bền vững vừa liên kết vừa cạnh tranh trong quá trình phát triển. Chú trọng yếu tố công nghiệp trong phát triển DNNVV.
-Ưu tiên phát triển DNNVV ở nông thôn là bộ phận quan trọng của chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
-Trước tiên tập trung hoá DNNVV ở một số địa bàn trọng điểm, một số thành phố để vừa khắc phục được sự yếu kém về hạ tầng vừa tạo ra thuận lợi cho hỗ trợ quản lý Nhà Nước, tạo giá trị nhanh và phát triển lan rộng.
-Phấn đấu đạt một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển DNNVV đến năm 2010:
+Nâng tỷ trọng trong GDP cả nước từ 25% năm 2000 lên 28% vào năm 2010.
+Tỷ trọng trong lao động cả nước từ 26% năm 2000 lên 29% năm 2010.
+DNNVV công nghiệp trong giá trị sản xuất toàn nghành công nghiệp từ 32% năm 2000 lên 34% năm 2010.
1. Chính sách thương mại
Chủ động xây dựng quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, xây dựng nền kinh tế mở với kinh tế nhiều thành phần, tiến tới hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới, đã và đang được Việt Nam áp dụng trong những năm qua. Các qui định về xuất nhập khẩu ngày càng được nới lỏng mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu cũng như nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều khúc mắc gây cản trở đến quá trình này như: chỉ cho phép một số các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các đầu mối đối với một số mặt hàng danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu hay thay đổi thuế xuất nhập khẩu cao…
Ngoài ra những chính sách ưu tiên đặc thù nhằm hỗ trợ lâu dài cho hoạt động xuất nhập khẩu cho các DNNVV chưa có như: trợ giá xuất nhập khẩu, cấp tín dụng làm hàng xuất khẩu, hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ quốc tế…
2.Chính sách công nghiệp
Chính sách bảo hộ hiện nay đã làm biến dạng thị trường trong nước. đặc biệt, việc đánh thuế cao vào các mặt hàng nhập khẩu đã làm cho một số các DNNVV phải nhập khẩu nguyên vật liệu với giá cao, từ đó làm ra các sản phẩm có giá thành cao và không thể cạnh tranh với các công ty lớn. Ngoài ra các DNNVV hoạt động trong các nghành công nghiệp- tác nhân tạo ra sản phẩm cho xã hội- nhưng khả năng thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp, chưa nhận được sự ưu đãi hợp lý về các vấn đề như: thuê đất, vay vốn tín dụng… Bên cạnh đó, DNNVV khu vực ngoài quốc doanh còn chịu sức ép của hàng nhập lậu và phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp Nhà nước.
3.Chính sách tài chính tiền tệ
a.Chính sách huy động vốn:
Việc huy động vốn trong nước đã được thực hiện khá mạnh mẽ trong những năm qua thông qua các công cụ như : thuế, lãi suất, khuyến khích đầu tư …Nhờ đó trong những năm qua, sản xuất trong nước phát triển mạnh, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng nhanh. Trong 5 năm (1995- 1999) vốn đầu tư của toàn xã hội đạt 444.585,6 tỷ đồng. Trong đó khu vực tư nhân chủ yếu là các DNNVV, chiếm trung bình khoảng 23,54% , tức khoảng 102.273 tỷ đồng. Riêng năm 1999, theo ước tính trong số vốn đầu tư toàn xã hội là 103.900 tỷ đồng thì khu vực ngoài quốc doanh chiếm khoảng 21.000 tỷ đồng (20,2%).
Trở ngại của chính sách huy động vốn là chưa tạo được điều kiện thông thoáng trong huy động vốn cho các DNNVV : mặc dù tính đến thời điểm hiện tại Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể vay vốn theo hình thức tín chấp,nhưng trong thực tế hầu hết các DNNVV không thể vay vốn theo hình thức này vì không có tổ chức đứng ra bảo lãnh. Còn vay theo hình thức thế chấp thì các DNNVV lại không đủ tài sản thế chấp cho ngân hàng, trong khi đó lại chưa có một tổ chức tín dụng nào chuyên doanh cho các DNNVV ở nước ta, cộng với sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh trong thể lệ cho vay. Ngoài ra, việc chưa có hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng cho các DNNVV không thể tiếp cận được với các khoản tín dụng trung và dài hạn từ hệ thống tài chính chính thức.
b.chính sách thuế
Đã có nhiều sửa đổi trong chính sách thuế trong những năm qua, đặc biệt là thực hiện thành công luật thuế giá trị gia tăng. Tuy vậy, vẫn còn những vướng mắc ảnh hưởng lớn đến DNNVV, thậm chí có doanh nghiệp còn cho rằng nếu thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế thì chắc chắn lợi nhuận sẽ âm hoặc không có lời. Chính vì vậy tình trạng trốn thuế xẩy ra khá nhiều và đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh.
Các qui định về thuế rất rườm rà, rắc rối, phức tạp,thuế suất nhiều khi trùng lặp hoặc thậm chí bất bình đẳng, đơn cử như luật thuế thu nhập doanh nghiệp, tuỳ từng mức độ ưu đãi cho từng nghành nghề mà doanh nghiệp dầu tư nước ngoài hưởng thuế suất 20%, 15%, 10%, trong khi đó doanh nghiệp trong nước chịu thuế suất 32%, 25%, 20% và 15%.
Trong khi đó lại chưa có cơ chế chính sách động viên và tạo nguồn thu. Nhiều khi các doanh nghiệp được miễn giảm thuế nhưng vẫn có xu hướng tìm cách trốn thuế hơn là xin được hưởng chế độ miễn giảm thuế. Tình hình này một phần nói lên chính sách miễn giảm thuế ít có tác dụng hấp dẫn các nhà đầu tư.
c. chính sách tiền tệ
Đã thực hiện được lãi suất bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, còn một số vấn đề như: trần lãi suất do Ngân hàng Nhà nước định ra chưa sát với quan hệ cung cầu vốn, riêng trong năm 1999 lãi suất cho vay giảm liên tục có tác động tiêu cực tới hệ thống ngân hàng do khoảng cách giữa hai lần điều chỉnh quá ngắn làm cho số vốn huy động với lãi suất cao của các ngân hàng chưa kịp cho vay đã phải cho vay theo lãi suất giảm, dẫn tới thua lỗ. Đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất và tăng trưởng kinh tế nhưng kết quả vẫn tồn đọng hàng nghìn tỷ đồng vốn trong các ngân hàng thương mại. Thêm nữa, lãi suất cho vay bằng ngoại tệ không được điều chỉnh giảm, vẫn ở mức cao: 7,5%- 8%/năm. Dẫn đến ngoại tệ dồn ứ vào hệ thống ngân hàng. Sự thiếu ổn định giá cả trong một vài năm trở lại đây có tác động tiêu cực đối với đầu tư và sản xuất kinh doanh.
d.Chính sách đầu tư
Sau một số năm cải, cách nền kinh tế đã có tích luỹ nội bộ: tỷ lệ tích luỹ nội bộ tăng từ 7,4% GDP năm 1990 lên 20,1% năm 1997 nhưng lại giảm xuống 18% năm 1999 trong đó khu vực tư nhân chiếm 11,9% so với 5,2% của Nhà nước, tuy vậy, tiết kiệm và đầu tư trong nước còn thấp. Các DNNVV khu vực ngoài quốc doanh ít có điều kiện tiếp cận với các nguồn lực trong và ngoài nước, cơ hội tập trung chủ yếu vào khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
e.Chính sách công nghệ đào tạo
Mặc dù có rất nhiều tổ chức hỗ trợ DNNVV trong và ngoài nước nhưng đa số các tổ chức này hoạt động vì lợi ích riêng và hiệu quả không cao. Chính vì vậy có rất ít DNNVV muốn tham gia, hoặc nhận sự tư vấn, hướng dẫn của các tổ chức này. Trong khi đó nhu cầu về thông tin, chuyển giao công nghệ phổ biến kiến thức là rất lớn và cần có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước.
Bên cạnh đó, chưa có những chính sách riêng cho các doanh nghiệp này về đào tạo nâng cao năng lực quản lý, kỹ thuật, công nghệ thiết bị…Chưa có những biện pháp hữu hiệu, cụ thể, rõ ràng để trợ giúp kinh phí cho các DNNVV hiện đại hoá trang thiết bị tiên tiến.
II. một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách.
1.Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp
Để phát huy khả năng và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV phát triển mạnh mẽ, ổn định và đúng hướng, cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, có chính sách ưu đãi hợp lý và công bằng đối với mọi hình thức doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ hai, có chính sách trợ giá xuất khẩu cho các DNNVV để ổn định sản xuất trong thời gian đầu tìm kiếm, thâm nhập thị trường mới.
Thứ ba, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước cần đảm bảo tính hợp lý, tạo điều kiện cho các DNNVV góp phần tích cực vào việc chiếm lĩnh thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu tiến tới xuất khẩu. Đặc biệt không để các doanh nghiệp Nhà Nước độc quyền bóp méo thị trường trong nước như hiện nay. Kiên quyết đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, nhập lậu, chống hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu, mẫu mã.
Thứ tư, Chính Phủ cần tích cực và hỗ trợ một phần kinh phí tài trợ trong việc hình thành và phát triển các vườn ươm doanh nghiệp (Incubator). Trước hết là các vườn ươm doanh nghiệp chung và tiến tới hình thành vườn ươm doanh nghiệp chuyên ngành và kỹ thuật nhằm cung cấp cho các DNNVV cơ sở hạ tầng, dịch vụ khi khởi sự và tăng cường khả năng kinh doanh cho các DNNVV.
Trước hết cần xây dựng thí điểm ở một vài thành phố lớn (như thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội) và dần dần tiến hành mở rộng dàn trải trên những phạm vi cả nước.
Thứ năm, khuyến khích các hình thức hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu giữa các DNNVV trong nước và với các DNNVV trong các nước khu vực APEC, ASEAN và các khu vực khác trên thế giới hỗ trợ chi phí trong việc tham dự các hội trợ thương mại ở nước ngoài.
2.Hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng
Thứ nhất, bảo đảm các DNNVV khu vực tư nhân được thực sự bình đẳng như các DNNN trong vay vốn ngân hàng. Bãi bỏ đối xử ưu đãi về vay nợ, xóa nợ, giãn nợ đối với khoản nợ quá hạn, gia hạn nợ với khoản vay gặp rủi ro.
Thứ hai, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua và cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các DNNVV mới khởi sự hoặc đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Thứ ba, Chính Phủ lập hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng cho các DNNVV, trong đó chủ yếu là vốn ngân sách và đóng góp của các tổ chức trong và ngoài nước bao gồm cả các DNNVV, mục đích của Quỹ là giúp các doanh nghiệp có các dự án khả thi cần vốn tín dụng đầu tư, song thiếu một phần thế chấp, bảo lãnh theo hợp đồng vốn vay.
Thứ tư, đơn giản hoá thủ tục ngân hàng trong việc cho vay tín dụng, đặc biệt là các khoản vay trung và dài hạn bị qui định bởi các thủ tục rất rườm rà, phức tạp làm cho chi phí giao dịch tăng cao.
3. Hoàn thiện chính sách thuế
Thứ nhất, tránh sự trùng lặp về thuế, các văn bản về thuế cần phải rõ ràng, nhất quán và ổn định, giải quyết sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các loại hình doanh nghiệp.
Thứ hai, những ưu đãi về thuế cần phải nhằm vào các tiêu thức như: theo qui mô doanh nghiệp, theo nghành nghề, theo vùng, theo quá trình tổ chức kinh doanh, theo sự tác động tới việc giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội (sử dụng nhiều lao động nữ, thu hút các đối tượng chính sách, ...). Như vậy, sự ưu đãi về thuế hoàn toàn không được xác định theo thành phần kinh tế-xã hội và nguồn gốc đầu tư.
Thứ ba, có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập (có thể miễn thuế ) cho các ngân hàng khi cho các DNNVV vay vốn, cho phép lập quĩ dự phòng rủi ro trích từ lợi nguận thu được do được hưởng ưu đãi về thuế mang lại.
4. Hoàn thiện chính sách công nghệ và đào tạo
Chính Phủ cần có các biện pháp khuyến khích để hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các DNNVV. Cần tăng thời hạn được xét miễn, giảm thuế cho các dự án đổi mới công nghệ. Về lâu dài, cần có các chương trình trợ chi phí cho các DNNVV có dự án khả thi về đổi mới công nghệ tiên tiến.
Đối với hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV cần xúc tiến, hỗ trợ liên kết các DNNVV với các viện kinh tế, trường đại học trong và ngoài nước nhằm đào tạo những nhà quản lý giỏi và công nhân có trình độ tay nghề cao.
Chính Phủ cần tích cực đầu tư thêm, mở rộng các trung tâm đào tạo, đội ngũ quản lý và người lao động, có sự liên kết chặt chẽ với các trường đại học và các DNNVV.
Về lâu dài cần phải cải tổ lại hệ thống giáo dục sẵn có nhằm mục đích đào tạo, đáp ứng được các nhu cầu của các trong quá trình tham gia vào thị trường thế giới.
5. Hoàn thiện chính sách đầu tư
Về khuyến khích đầu tư phát triển, Nhà nước cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu: đường, điện, cấp thoát nước... Đặc biệt đầu tư vào thiết bị công nghệ xử lý chất thải bảo vệ môi trường sinh thái mà các DNNVV do hạn chế về vốn không thể đầu tư.
6.Hoàn thiện chính sách thị trường:
Mọi nỗ lực hỗ trợ nêu trên hoặc hỗ trợ nào khác cũng sẽ bằng thừa nếu cuối cùng các DNNVV không có thị trường tiêu thụ vững chắc. Vì thế, song song với cuộc vận động " Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam ", Nhà nước- với tư cách người tiêu dùng- cần khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước phải ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam. Bên cạnh đó, cần triển khai mạnh mẽ hai biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, trước hết Nhà nước cần tích cực hỗ trợ bằng biện pháp ngoại giao, thông qua các cơ quan xúc tiến thương mại với các nước nhằm mở cửa thị trường hơn nữa cho các hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng có thể thâm nhập vào thị trường các nước khác nhau trên thế giới. Cung cấp thông tin miễn phí cho các DNNVV về khách hàng, thị trường nước ngoài.
Thứ hai, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách. Việc tạo điều kiện cho các DNNVV tham gia đấu thầu xây dựng các công trình xây dựng cũng không nằm ngoài chủ trương bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Hơn nữa, đây sẽ là cơ sở để các DNNVV có thể hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn thông qua các hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, gia công. Tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp lớn và DNNVV, vừa có tác dụng bảo đảm thị trường, công ăn việc làm, vừa tạo điều kiện thuận lợi để chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý từ doanh nghiệp lớn sang các DNNVV.
Tóm lại, trong khi Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong chính sách cải cánh kinh tế, chúng ta cần có một biện pháp toàn diện hơn, cả trước mắt và lâu dài đối với loại hình DNNVV. Hoàn thiện cơ chế quản lý và thiết lập các biện pháp hỗ trợ DNNVV là cần thiết và đã được thực hiện ở nhiều nước khác nhau. Vì vậy, trước mắt cần có những cơ sở pháp lý riêng cho các DNNVV và những chính sách phù hợp liên quan đến môi trường đầu tư, chính sách kinh thương, cải tạo cơ sở hạ tầng... Đáp ứng đòi hỏi của môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng theo trình độ hiện nay theo lộ trình AFTA và WTO tiếp tục con đường cải cách và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Về lâu dài, một số chiến lược phát triển kinh tế tổng thể đối với các DNNVV có sự phối hợp triển khai giữa các bộ, ngành là trọng yếu trong quá trình cải cách mà Việt Nam cần tập trung để tạo một nền tảng cho sự phát triển bền vững đối với các DNNVV. Điều quan trọng là ngoài những nỗ lực của Chính Phủ , các DNNVV cũng cần phải tích cực chủ động và sáng tạo trong sản xuất kinh doanh và tìm kiếm thị trường. Tuy nhiên, đổi mới cơ chế quản lý và thiết lập hệ thống các biện pháp hỗ trợ không phải là giải pháp thực hiện một sớm một chiều, mà cần cân nhắc và thực hiện dần dần tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất định như một số nước ASEAN đã làm.
Kết luận
Phát triển DNNVV là một nội dung rất quan trọng trong đường nối xây dựng và phát triển kinh tế nước ta, góp phần phát huy mọi khă năng của các tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Với những đổi mới quan trọng trong thể chế, chính sách kinh tế cũng như trong cải cách hành chính được đẩy mạnh theo Nghị Quyết Đại Hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001), tin rằng những khó khăn, trở ngại trên con đường phát triển của các DNNVV sẽ được tháo gỡ, tiếp tục giải phóng sức sản xuất, cởi trói cho kinh tế dân doanh, hàng vạn , hàng chục vạn DNNVV được nẩy nở và ngày càng ăn nên làm ra trên đất nước ta, góp phần quan trọng vào việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình chính sách kinh tế xã hội. Khoa Học Quản Lý, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân- NXB khoa học & kỹ thuật.
2.Văn kiện Đại Hội IX- NXB chính trị Quốc Gia- 2001.
3.Phát triển DNNVV kinh nghiệp nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt Nam- NXB thống kê- Hà Nội- 2001.
4.Việt Nam vượt lên thử thách- Báo cáo kinh tế của Ngân Hàng thế giới, Hội Nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 7-8/12/1998.
5.Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Viện chiến lược phát triển NXB chính trị Quốc Gia- 2001.
6.Tạp chí nghiên cứu kinh tế 4/96, 6/96.
7.Tạp chi kinh tế và dự báo 7/98, 9/98.
8.Tạp chí kinh tế thế giới 3/97.
9.Tạp chí tài chính 5/97.
10.Tạp chí kinh tế Châu á Thái Bình Dương 1/97.
11. Và một số tài liệu khác.
Mục Lục
Trang
Mở đầu 3
Phần 1:Lý luận chung về DNNVV 4
I.Các vấn đề cơ bản 4
1.Tiêu chuẩn về DNNVV 4
2.Vai trò của DNNVV 8
3.Quan hệ giữa DNNVV với Doanh nghiệp lớn 11
II . Chính sách phát triển hệ thống DNNVV 12
1.Khái niệm chính sắch và chính sách phát triển các DNNVV 12
2.Nội dung của chính sách 13
3.Chính sách phát triển DNNVV ở một số nước 14
Phần 2:Chính sách phát triển và vai trò hiện nay của các DNNVV ở Việt Nam 22
I.Tình hình phát triển và vai trò hiện nay của các DNNVV ở Việt Nam 22
1.Vài nét về tình hình phát triển các DNNVV ở Việt Nam 22
2.Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam 22
II.Hệ thống thể chế,chính sách khuyến khích trợ giúp DNNVV ở Việt Nam 24
1.Chính sách khuyến khích đầu tư 26
2.Chính sách về mặt bằng kinh doanh 27
3.Chính sách về vốn 27
4.Chính sách thị trường 28
5.Chính sách về thuế 29
6.Chính sách về công nghệ 31
7.Chính sách về lao động 31
Phần 3:Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy phát
triển DNNVV ở nước ta 33
I.Chính sách phát triển DNNVV trong giai đoạn 2001-2010 33
1.Chính sách thương mại 34
2.Chính sách công nghiệp 34
3.Chính sách tiền tệ 34
a.Chính sách huy động vốn 34
b.Chính sách thuế 35
c.Chính sách tiền tệ 35
d.Chính sách đầu tư 35
e.Chính sách công nghệ đào tạo 36
II.Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách 36
1.Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp 36
2.Hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng 37
3.Hoàn thiện chính sách thuế 37
4.Hoàn thiện chính sách công nghệ và đào tạo 37
5.Hoàn thiện chính sách đầu tư 38
6.Hoàn thiện chính sách thị trường 38
Kết luận 39
Tài liệu tham khảo 40
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28827.doc