Tóm lại để kinh doanh có hiệu quả tại thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả, mà còn phải có sự hiểu biết về hệ thống pháp luật của Mỹ, các chính sách thương mại, hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn của thương nhân Mỹ.
Muốn có được thành công, các doanh nghiệp Việt Nam không có cách nào khác ngoài sự chủ động sáng tạo và nỗ lực rất lớn. Hy vọng rằng với sự cố gắng của mình, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ vượt qua những rào cản đầy chông gai này và giành được những thành công trên thị trường Mỹ.
103 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách quản lý hàng nhập khẩu của Mỹ, một số điều cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với một loạt hàng hóa nhập từ Mỹ (khoảng 250 mặt hàng nông sản và công nghiệp).
- Bãi bỏ một số hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng hóa nhập từ Mỹ ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực và sau từ 3 đến 7 năm, sẽ bãi bỏ một loạt hạn ngạch đối với hàng hóa nhập từ thị trường này.
- Trong vòng 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, cho phép các công ty Mỹ đang tiến hành hoạt động sản xuất tại Việt Nam có quyền kinh doanh XNK mọi loại mặt hàng (trừ một số ngoại lệ) với số vốn góp tối đa của
công ty Mỹ không vượt quá 49%, 4 năm sau đó giới hạn sẽ là 100%.
- Mở cửa thị trường dần dần từng bước theo lịch trình cụ thể cho cá nhà cung cấp dịch vụ Mỹ trong các lĩnh vực : dịch vụ pháp luật, kế toán, xây dựng, tin học, quảng cáo, nghiên cứu thị trường, tư vấn quản trị, thu thanh thu hình, phân phối, giáo dục, bảo hiểm, tài chính, y tế, du lịch. Việt Nam sẽ cho phép thành lập các công ty dịch vụ 100% vốn nước ngoài, hay bãi bỏ các hạn chế phạm vi hoạt động của các công ty dịch vụ Mỹ theo các lịch trình riêng với mỗi loại hình dịch vụ trên.
- Từng bước thi hành các biện pháp nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam (trong vòng từ 2 năm đến 9 năm đối với từng lĩnh vực đầu tư, bãi bỏ chế độ cấp giấy phép đầu tư, nhà đầu tư chỉ cần đăng ký kinh doanh là sẽ được phép hoạt động; trong vòng 4 năm, bỏ mọi hình thức phân biệt giá đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Mỹ..)
Ngoài ra, Việt Nam còn cam kết trong vòng 2 năm sẽ áp dụng hệ thống tính thuế theo giá tri giao dịch của hàng hóa theo tiêu chuẩn của WTO, trong vòng 18 tháng thi hành hiệp định của WTO về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) và một số cam kết khác.
Hiệp đinh thương mại có hiệu lực trong thời hạn 3 năm. Hết thời hạn trên hiệp định sẽ tự động được gia hạn trừ khi một trong hai bên tuyên bố đình chỉ việc thực hiện Hiệp định ít nhất 30 ngày kể từ ngày hiệp định hết
hạn.
Đây là bản Hiệp định thương mại có tính lịch sử. Nó đánh dấu một bước phát triển vượt bậc trong quan hệ Việt Nam-Mỹ. Phạm vi ảnh hưởng của bản Hiệp định rất sâu rộng, không chỉ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam và các nhà đầu tư Mỹ, mà còn có ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ đến các nhà sản xuất trong nước của Việt Nam và các nhà đầu tư đến từ các nước khác. Bản Hiệp định còn được coi như là một cam kết chính thức của Việt Nam đối với thế giới trong việc sẽ tiếp tục và kiên trì đường lối mở cửa và hội
nhập. Và trên thực, Hiệp định này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam dễ dàng hơn trong việc gia nhập WTO.
Các cam kết trong Hiệp định đã đặt Việt Nam trước hàng loạt những thuận lợi cũng như những thách to lớn. Trong đó thách thức lớn nhất là làm thế nào để thực hiện thành công các cam kết đồng thời hỗ trợ các tiền đề cần thiết cho các doanh nghiệp trong nước trụ vững được khi thị trường trong nước đã mở cửa cho các hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài.
Thuận lợi và thách thức mà Hiệp định đặt ra có nhiều song có thể tổng kết ở một số điểm nổi bật sau:
* Thuận lợi:
- Hiệp định có hiệu lực đồng nghĩa với việc cánh cửa vào một thị trường trường lớn nhất thế giới đã được mở trước mắt các nhà xuất khẩu. Quan hệ thương mại bình thường (NTR) được thiết lập, các nhà xuất khẩu của ta không còn phải chịu mức thuế bảo hộ cao như trước đây, do đó họ có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ từ các nước khác trên thị trường Mỹ. Thực tiễn thương mại cho thấy với quy chê NTR, hầu hết các nước đều duy trì một thị phần nhất định tại Mỹ, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, tăng thu ngoại tệ. Phát triển thương mại với Mỹ sẽ giúp các dòng vốn có thêm cơ hội đầu tư, đa dạng hoá sản xuất và cơ cấu thị trường nhập khẩu, tăng cường khả năng giữ cân bằng và ổn định thị trường xuất khẩu và cán cân thương mại.
- Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng, nhất là một thị trường lớn và quan trọng như Mỹ sẽ là nhân tố thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài như huy động vốn đầu tư trong nước, xét cả về các nhà đầu tư mới cũng như việc mở rộng dự án đầu tư sẵn có. Khả năng tăng đầu tư từ các nước khác vào khai thác thị trường Mỹ là rất hiện hữu. Thông qua các đự án đầu tư, quá trình hiện đại hoá nền kinh tế Việt Nam sẽ được đẩy mạnh thông qua việc khai thác lợi thế vốn, công nghệ nguồn, công nghệ quản lý,
sản xuất của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt từ chính các nhà đầu tư
Mỹ.
- Quan trọng nhất là việc chấp nhận các luật chơi của kinh tế thế giới vốn vận động và biến chuyển từng ngày thông qua hệ thống quy tắc của WTO. Điều này sẽ làm thay đổi cơ bản nền kinh tế Việt Nam theo hướng tiến tới cơ cấu hợp lý hơn, cạnh tranh và thích nghi tốt hơn. Một nền kinh tế minh bạch và thống thoáng sẽ giúp đồng vốn nhanh chóng tìm ra nơi có lợi nhuận, và từ đó đạt được tính hiệu quả xã hội và kinh tế. Việc chủ động loại bỏ các hàng rào bảo hộ không thích hợp, các đặc quyền đặc lợi, phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế sẽ tạo cơ hội và buộc mỗi thành phần kinh tế, mỗi doanh nghiệp , mỗi công dân phải phát huy tối đa năng lực sẵn có và tiềm ẩn của mình. Giải phóng sức sáng tạo có thể coi là cách tốt nhất thu ngắn khoảng cách với các nước khác.
Song, quá trình vươn lên để tận dụng những tác động tích cực trên và phát huy những tiềm năng của chúng ta đang và sẽ gặp không ít những khó khăn thách thức:
* Thách thức:
(a) Thách thức về các tiêu chuẩn đối với hàng hóa xuất khẩu sang thị
trường Mỹ
Thị trường Mỹ có nhu cầu lớn về lượng hàng hóa cung cấp nhưng đồng thời cũng có các đòi hỏi về tiêu chuẩn cao của một thị trường chuyên nghiệp. Ngoài các tiêu chuẩn tối thiểu như về thời hạn giao hàng nhanh, chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quy định, khối lượng lớn và khả năng cung cấp ổn định, đó còn là các yếu cầu đặc biệt liên quan đến chất lượng quản lý và quy trình sản xuất, các tiêu chuẩn về môi trường và quyền của người lao động, sự tuân thủ nghiêm ngặt về luật sở hữu trí tuệ.. Đây không chỉ là vấn đề mới mẻ mà còn khó thực hiện đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
(b) Thách thức đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam về hiểu biết và
thói quen kinh doanh tại một thị trường chuyên nghiệp như Mỹ
Hệ thống pháp luật thương mại Mỹ rất phức tạp, một mặt tạo không gian tối đa cho tự do thương mại với điều kiện phải có sự am hiểu và vận dụng nhuần nhuyễn, mặt khác sẽ trở thành thức thức và rủi ro cho những người không am hiểu và không biết bảo vận dụng. Điều này đòi hỏi cách thức ứng xử thích hợp và phải trở thành thói quen của các doanh nghiệp Việt Nam là cần phải tìm hiẻu pháp luật trước khi bán hàng vào một thị trường mới và cần sử dụng luật sư tư vấn cho công việc này.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần làm quen với việc sử dụng và chi phí cho dịch vụ quảng cáo và tiếp thị. Hai dịch vụ này là yêu cầu bắt buộc và đòi hỏi chi phí lớn tại thị trường Mỹ.
(c) Thách thức về gia tăng cạnh tranh tại thị trường nội địa và hậu quả xã hội
Với việc thực thi các cam kết về giảm thuế quan cũng như các biện pháp thuế quan tương ứng từ phía Việt Nam, các hàng hóa từ Mỹ cũng như các nước khác sẽ dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam với lợi thế cao hơn do giá cả rẻ hơn và, do vậy, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cải cách nhằm giảm giá để tồn tại hoặc phá sản. Trong trường hợp này, các biện pháp bảo hộ của chính phủ thông qua các biện pháp hành chính về phân biệt đối xử hoặc trợ giá sẽ dần dần không còn có thể áp dụng do yêu cầu phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia (NTR). Nguy cơ tăng tỷ lệ thất nghiệp do doanh nghiệp giãn thợ để giảm chi phí hoặc đóng cửa sẽ có thể trở thành vấn đề xã hội mà chính phủ phải đối phó.
(d) Thách thức đối với chính phủ trong việc nhanh chóng ban hành mới, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật nhằm thực thi Hiệp định thương mại và đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực có nghĩa là kể từ
thời điểm đó các cam kết của mỗi bên trở thành các ràng buộc pháp lý như
các quy định pháp luật thông thường của mỗi nước và có hiệu lực thực thi.
Mặc dù trên thực tế, đối với Việt Nam, Hiệp định không có yêu cầu bắt buộc phải sửa đổi các văn bản pháp luật cụ thể, song vì một mặt Hiệp định đề ra các tiêu chuẩn khá mới mẻ so với hệ thống pháp luật hiên hành, mặt khác Việt Nam đã xác định mục tiêu hội nhập quốc tế và đang nỗ lực để có thể sớm gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam buộc phải thực hiện các hành động và biện pháp ngay lập tức nhằm bảo đảm rằng các cam kết trong Hiệp định, trong trường hợp phải thi hành ngay, có hiệu lực áp dụng đối với các pháp nhân và công dân Mỹ, là các đối tượng chủ thể được hưởng lợi từ Hiệp định. Đây là một công việc không đơn giản do chưa có tiền lệ trong thực thi pháp luật tại Việt Nam.
2. Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ thời gian qua:
2.1. Tình hình xuất khẩu:
Một năm sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong năm 2001 đã có mức tăng trưởng khá cao, với kim ngạch đạt hơn 1,06 tỷ USD, tăng hơn 45% so với năm 2000. Sang năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sáng Mỹ đạt hơn 2,4 tỷ USD, tăng hơn 127% so với năm 2001. Đây là mức tăng trưởng cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng xuất khẩu nói chung của Việt Nam trong cùng thời gian (3,75% vào năm 2001 và 11,17% vào năm 2002) và cũng là mức tăng trưởng cao nhất (tính đến hết năm 2002) kể khi hai nước bình thường hoá quan hệ vào năm 1995. Nhờ mức tăng trưởng cao đó nền tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ trong tổng xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp đôi, từ khoảng 7% vào năm
2001 lên 14,5% vào năm 2002.
Bảng 7: Tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ
Đơn vị: triệu USD, %
TT
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
Giá trị
Giá trị
Tốc độ tăng
(%)
Giá trị
Tốc độ tăng
(%)
Giá trị
Tốc độ tăng
(%)
1.
2.
3.
Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
Tỷ trọng so với tổng kim ngạch
xuất khẩu (1:2)
601,9
11.541,4
5,21
733,44
14.482,7
5,06
21,85
25,48
1.065,33
15.027,0
7,09
45,25
3,75
2.421,13
16.706
14,49
127,26
11,17
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam
Xét về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong năm 2002 thì có thể thấy những mặt hàng chính có giá trị xuất khẩu lớn và tốc độ tăng trưởng cao là dệt may, thuỷ sản, giày dép. Ba mặt hàng này cộng lại chiếm tới hơn 76% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ. Năm 2002 đã chứng kiến sự tăng trưởng đột biến trong xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ, tăng gấp 20 lần so với năm 2001 và chiếm tới hơn 40% kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ. Với mức tăng này thì trong năm 2002 Mỹ đã vượt lên trên hai thị trường xuất khẩu hàng dệt may chính của Việt Nam trong những năm trước là Liên minh châu Âu (19,6%) và Nhạt Bản (17,7%) và trở thành thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam. Số liệu thống kê của Hải quan Mỹ cho thấy tính đến hết tháng 10/2002, Việt Nam chiếm
1,36% thị phần nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ, đứng thứ 22 trong số các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất vào Mỹ.
Sự tăng trưởng nhanh của hàng dệt may chủ yếu do tác động của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Hiệp định đã mở ra cơ hội cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ với lợi thế phi hạn ngạch và mức thuế suất
theo quy chế NTR (quy chế quan hệ thương mại bình thường). Đối với hàng dệt may Việt Nam thì mức thuế suất phi NTR là rất cao, mức cao nhất lên đến 90%, còn thấp nhất cũng đến 35%. Sau khi Hiệp định có hiệu lực, mức tuhế suất áp dụng đối với hàng dệt may của Việt Nam được giảm xuống ngang bằng với các nước xuất khẩu khác, với mức thấp nhất chỉ còn 0,6% và mức cao nhất là 28,1%. Ngoài ra, hàng dệt may của Việt Nam cũng tạo được uy tín nhất định về chất lượng nên thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nhập khẩu Mỹ.
Bảng 8: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ
Đơn vị: triệu USD, %
TT
Mặt hàng
2000
2001
2002
(1)
(2)
(3)
(1)
(2)
(3)
(1)
(2)
(3)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20
21.
22.
23.
Cà phê Cao su Chè
Dầu thô
Dây điện và dây cáp điện Đồ chơi trẻ em
Gạo
Giày dép Thuỷ sản Dệt may Hạt điều Hạt tiêu
Máy tính và linh kiện
Mỳ gói
Quế
Rau quả
Sản phẩm gỗ Sản phẩm nhựa Sản phẩm sữa Thủ công mỹ nghệ
Xe đạp và phụ tùng xe đạp Hàng hóa
khác
Tổng xuất khẩu sang Mỹ
69,92
1,56
0,37
91,37
-
-
10,57
87,97
304,36
49,57
44,70
7,08
0,45
-
-
2,18
-
-
-
13,09
-
-
733,44
9,5
0,2
0,05
12,5
-
-
1,5
11,9
41,5
6,8
6,1
0,96
0,006
-
-
0,3
-
-
-
1,8
-
-
100
18,08
-3,10
-35,08
-8,26
-
-
113,53
-14,50
142,34
42,81
111,04
-21,50
27,41
-
-
32,08
-
-
-
169,34
-
-
21,85
60,01
2,13
0,79
225,16
0,012
0,25
7,15
114,23
482,42
47,46
44,07
5,41
0,011
0,92
0,82
1,97
16,11
1,48
0,045
19,22
0,017
35,63
1065,33
5,63
0,19
0,07
21,13
0,001
0,02
0,67
10,72
45,28
4,45
4,13
0,50
0,001
0,08
0,07
0,18
1,51
0,14
0,004
1,80
0,001
3,34
100
-14,17
36,53
113,51
146,42
-
-
-32,,35
30,11
58,50
-4,25
-1,40
-23,58
-97,55
-
-
-9,63
-
-
-
46,82
-
-
45,25
39,51
10,10
1,74
147,12
0,11
1,28
5,69
196,55
673,75
975,77
71,51
16,82
5,31
0,54
0,71
5,94
44,70
4,61
0
33,83
1,38
184,13
2421,13
1,63
0,42
0,07
6,07
0,004
0,05
0,23
8,12
27,83
40,30
2,95
0,69
0,22
0,02
0,03
0,24
1,84
0,19
0
1,93
0,05
7,60
100
-34,16
374,18
120,25
-34,65
816,66
412,00
-20,41
72,06
39,66
1955,98
62,26
210,90
48172,72
-41,30
-13,41
201,52
177,46
211,48
-100,00
76,01
8017,64
416,77
127,26
(1) Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
(2) Tỷ trọng trong tổng xuất khẩu sang Mỹ (%) (3) Tốc độ tăng (%)
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam
Chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong năm 2002 là mặt hàng thuỷ sản (chiếm 27,8%). Trong năm này, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ đạt 673,75 triệu USD, tăng gần 40% so với năm
2001, và chiếm hơn 33% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Đứng thứ ba về tỷ trọng trong số các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ là giày dép, đạt khoảng 196 triệu USD, tăng 72% so với năm 2001. Tuy mức tăng này không phải là thấp, nhưng so với mức tăng xuất khẩu hàng dệt may thì con số này còn rất khiêm tốn. Sở dĩ xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào Mỹ không tăng mạnh là vì mức chênh lệch giữa thuế suất NTR và thuế suất phi NTR không lớn như đối với hàng dệt may. Hơn nữa, các nhà sản xuất Việt Nam chưa thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp Trung Quốc trên thị trường Mỹ về khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn với mức giá cạnh tranh và điều kiện giao hàng nhanh. Trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt Nam đều có quy mô nhỏ, hoạt động chủ yếu theo phương thức gia công và phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Chiếm vị trí thứ tư trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ là dầu thô, với tỷ trọng là 6,07%. Xuất khẩu dầu thô của Việt Nam vào Mỹ trong năm 2001 đạt 225 triệu USD, tăng hơn 146% so với năm
2000, và chiếm tới 21% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Tuy nhiên, sang năm 2002, do có sự giảm sút nhu cầu của thị trường Mỹ và những biến động bất lợi khác nên xuất khẩu dầu thô của Việt Nam sang Mỹ giảm đáng kể so với năm trước (-34,6%).
Trong nhóm hàng nông sản thì cà phê, hạt điều, hạt tiêu và cao su là những mặt hàng xuất khẩu chính sang thị trường Mỹ. Thị trường nông sản thế giới năm 2002 đã có dấu hiệu khởi sắc hơn đối với các nước xuất khẩu với việc giá các mặt hàng như cà phê, gạo, hạt tiêu, hạt điều, cao su, chè đã tăng dần trở lại sau thời kỳ sụt giảm mạnh vào các năm 2000 và 2001. Mặc dù
giá cà phê đã tăng tới 50% nhưng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ năm 2002 vẫn giảm tới hơn 34% so với năm 2001. Xuất khẩu hạt tiêu, hạt điều có sự tăng trưởng cao (tương ứng là 210% và 62%) trong năm 2002 nhờ giá cao hơn, đồng thời do các nước sản xuất chính khác giảm diện tích trồng và sản lượng vì bị thua lỗ ở các mùa vụ trước. Một số mặt hàng khác đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất cao như cao su tự nhiên (374%), rau quả (201%)nhưng mức tăng trưởng đó đạt được là do nhu cầu thị trường Mỹ gia tăng chứ không phải do Hiệp định thương mại song phương mang lại chênh lệch giữa các mức thuế suất NTR và phi NTR là rất nhỏ.
Trong số các mặt hàng còn lại, có nhiều mặt hàng đạt mức tăng trưởng xuất khẩu rất cao trong năm 2002 như máy tính và linh kiện (48172%), xe đạp và phụ tùng (8017%), dây điện và dây cáp điện (816%), đồ chơi trẻ em (412%), đồ gỗ(177%), đồ nhựa (211%). Những mặt hàng này có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao như vậy một phần do kim ngạch xuất khẩu ban đầu ở mức rất thấp. Đồng thời, đây cũng là kết quả của việc Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực- với mức thuế NTR thấp thì các mặt hàng này có thể thâm nhập mạnh vào thị trường Mỹ.
Bước sang năm 2003, tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ tiếp tục đạt ở mức rất cao. Theo đánh giá của uỷ ban ngân sách và kinh tế Quốc hội Việt Nam và nhóm chuyên gia tư vấn của dự án STAR của Mỹ thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2003 đã đạt mức 2,24 tỷ USD (gần đạt mức kim ngạch xuất khẩu của cả năm 2002 là 2,4 tỷ USD, bằng khoảng 90%). Và theo dự đoán giá trị xuất khẩu cả năm 2003 của nước ta sang Mỹ sẽ đạt 4,5 tỷ USD. Điều này cho thấy việc Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng như trên thị trường thế giới. Nếu xu hướng trên là khả quan, nó sẽ là điều kiện tốt cho việc gia nhập WTO của Việt Nam trong năm 2005.
2.2. Các thành tựu đạt được
Có thể nói thành tựu của hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ trong năm 2002 được thể hiện qua hai điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, xuất khẩu hàng hóa đạt được mức tăng trưởng liên tục và nhanh chóng. Nếu như năm 1994, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ đạt 50,4 triệu USD thì đến năm 2002, con số này đã lên tới 2,421 tỷ USD, tăng 48 lần trong 9 năm. Như vậy, trung bình một năm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng hơn 50%. Nhờ sự gia tăng đó của xuất khẩu sang Mỹ, nhất là trong 2 năm gần đây mà chúng ta cứu vãn được sự giảm sút của mức tăng trưởng thương mại tại các thị trường quan trọng khác như Liên minh Châu Âu (EU) và Nhật Bản. Có thể nói xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã thúc đẩy một số ngành kinh tế nước ta phát triển, đồng thời mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh tế-thương mại mới.
- Thứ hai, có sự chuyển đổi mạnh mẽ trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ theo hướng đa dạng hóa chủng loại, tăng mạnh tỷ trọng các mặt hàng chế biến sử dụng nhiều lao động và giảm bớt tỷ trọng các mặt hàng nguyên liệu thô, sơ chế. Trong số hàng chế biến thì mặt hàng dệt may đã có mức tăng trưởng nhảy vọt, tạo nền tảng chính cho hoạt động xuất khẩu sang Mỹ. Bên cạnh các mặt hàng truyền thống, nhiều mặt hàng mới cũng bước đầu thâm nhập và tìm được chỗ đứng trên thị trường Mỹ và có kim ngạch tăng nhanh như sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, dây điện và dây cáp điện, thiết bị điển tử tin học, ..
Những thành tựu trên thể hiện nỗ lực của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc nhanh chóng thích ứng với điều kiện kinh doanh mới, chủ động sắp xếp lại hoạt động sản xuất- kinh doanh, tích cực đổi mới thiết bị công nghệ, đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh theo yêu cầu của quốc tế và thị trường Mỹ, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại và phát triển thị trường, xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm, mạnh dạn đẩy mạnh
xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Nhờ vậy, nhiều doanh nghiệp không chỉ thâm nhập được thị trường Mỹ, mà còn tạo được chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường này.
2.3. Các mặt còn tồn tại
Bên cạnh những thành công nổi bật nói trên thì xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang Mỹ còn bộc lộ nhiều nhiều mặt yếu kém như:
- Chất lượng hàng hóa thấp
- Chi phí sản xuất cao đã làm cho giá cả nhiều mặt hàng còn cao hơn nhiều so với giá của các đối thủ cạnh tranh, nhất là Trung Quốc.
- Các doanh nghiệp chưa chú trọng tới việc xác lập độc quyền sở hữu nhãn hiệu sản phẩm. Kết quả là hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không xuất khẩu được do những quy định pháp lý trên thị trường Mỹ.
- Mẫu mã sản phẩm đơn điệu, không phong phú ít phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
- Có nhiều mặt hàng xuất khẩu mà Việt Nam có tiềm năng lớn nhưng đạt kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ còn thấp, hoặc chưa tương xứng với những thuận lợi do Hiệp định tạo ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Những yếu kém này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan và đòi hỏi Chính phủ và các doanh nghiệp nước ta phải có những nỗ lực lớn để khắc phục.
II. Những thuận lợi và khó khăn khi thâm nhập thị trường Mỹ
Theo xu thế chung hiện nay thì xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ tiếp tục tăng do xuất phát điểm của quan hệ thương mại giữa hai nước còn thấp, trong khi đó tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tiếp tục thay đổi theo hướng đa dạng hơn. Các ngành hàng đã thâm nhập được thị trường Mỹ sẽ tiếp tục được duy trì và có khả năng gia tăng kim ngạch. Các mặt hàng mới sẽ tiếp tục có cơ hội
tiếp cận và thâm nhập sâu hơn thị trường Mỹ. Tuy nhiên, những triển vọng này chỉ có thể trở thành hiện thực nếu Việt Nam có những giải pháp và bước đi khéo léo, thích hợp để khai thác những nhân tố thuận lợi, đồng thời khắc phục hoặc hạn chế tối đa những nhân tố tác động tiêu cực đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ
1. Thuận lợi
* Những tác động tích cực của Hiệp định thương mại VIệt-Mỹ
Trong số các yếu tố tạo thuận lợi đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ thì Hiệp định Thương mại song phương Việt Mỹ là yếu tố đóng vai trò chủ chốt. Hiệp định đã và sẽ tiếp tục có những tác động tích cực trực tiếp và gián tiếp, cả trong ngắn hạn và dài hạn đến xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ.
Hiệp định Thương mại song phương Việt Mỹ có hiệu lực đã mở ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận và thâm nhập một thị trường lớn và quan trọng nhất thế giới với nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới trên 1000 tỷ USD. Thị trường này có nhu cầu nhập khẩu rất lớn đối với nhiều mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như dệt may, thuỷ sản, giày dép, cà phê, rau quả,đồ gỗ Thêm vào đó sự giảm mạnh của thuế suất nhập khẩu vào thị trường Mỹ do quy chế thương mại bình thường NTR đem lại (sau khi Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực) sẽ giúp cho hàng hóa Việt Nam có thể cạnh tranh được tốt hơn trên thị trường này.
* Tiềm năng của Việt kiều
Cộng đồng Việt kiều hình thành một thị trường quan trọng. Hiện có 1,5 triệu Việt kiều đang làm ăn và sinh sống tại Mỹ. Mặc dù đã định cư tại Mỹ
20-30 năm, song phần lớn các gia đình Việt vẫn giữ thói quen tiêu dùng các sản phẩm của Việt Nam. Vì thế, Việt kiều tạo ra một thị trường đáng kể cho các sản phẩm truyền thống của Việt Nam, chẳng hạn như: lụa tơ tằm, các loại trái cây, một số đồ ăn truyền thống như bánh đa nem, nước mắmNgoài nhu
cầu trực tiếp của người Việt, thông qua sự tiêu dùng của Việt kiều, các hàng hóa Việt Nam cũng được mở rộng để tiếp cận đến người dân Mỹ. Đó cũng là một cách để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp thị cho hàng hóa của mình.
Bên cạnh đó, với những ưu thế đặc biệt của mình, Việt kiều sẽ là cầu nối quan trọng giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập thị trường Mỹ một cách hiệu quả. Do họ ở trên đất Mỹ nên họ hiểu được văn hoá Mỹ, lối sống Mỹ, nhu cầu tiêu dùng, tính cách của người Mỹ, đặc điểm của thị trường Mỹ, vì vậy họ sẽ là những nhà tư vấn và môi giới rất tốt cho các doanh nghiệp nếu muốn xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này.
* Ngoài ra, chính sách mở cửa và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, chuyển từ nền kinh tế thay thế nhập khẩu sang nền kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam đang và sẽ góp phần gia tăng tiềm lực xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng. Cơ cấu xuất khẩu của đất nước đang có những biến chuyển tích cực theo hướng đa dạng hoá chủng loại các mặt hàng và gia tăng tỷ trọng hàng ché biến. Trên thế giới, Việt Nam ngày càng được biết đến như là một quốc gia xuất khẩu hàng đầu đối với một số mặt hàng.
2. Khó khăn
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Mỹ là một hệ thống pháp luật hết sức chặt chẽ nhưng vô cùng phức tạp. Bởi bên cạnh Hệ thống pháp luật Liên bang, các bang ở Mỹ đều có hệ thống luật pháp riêng với những quy định trong một số vấn đề khá khác biệt. Điều đó gây nên những cản trở không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi họ phải nắm bắt được những luật lệ kinh doanh và tập quán tiêu thụ ở Mỹ mới có thể có khả năng gặt hái được ít nhiều kết quả ở thị trường này.
Thứ hai, quan hệ chính trị Việt-Mỹ còn mang tính chất nhạy cảm. Chính phủ Mỹ chưa thực sự ủng hộ quan hệ thương mại với Việt Nam, chưa dành cho các doanh nghiệp Việt Nam những quan tâm cần thiết để tạo điều
kiện phát triển thương mại giữa hai nước. Chính sách của Mỹ thường mang tính áp đặt, chịu sự chi phối của các vận động hành lang của các doanh nghiệp Mỹ. Thái độ thiếu khách quan của Mỹ được thể hiện trong đánh giá của Bộ thương mại Mỹ coi Việt Nam là nước có “nền kinh tế phi thị trường”, một căn cứ để phía Mỹ có thể đưa ra những phán quyết bất lợi đối với Việt Nam trong vụ kiện cá tra và cá basa (trong khi hầu hết các công ty Mỹ làm ăn tại Việt Nam đều cho rằng Chính phủ Mỹ nên công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường). Và gần đây nhất, thái độ thiếu thiện chí của chính phủ Mỹ còn được thể hiện qua việc thông qua dự luật HR-1950 gây cản trở quá trình thực hiện Hiệp định thương mại song phương và quá trình phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ.
Thứ ba, đó là thách thức về cạnh tranh. Hiện nay, mặc dù thị trường Mỹ có nhu cầu nhập khẩu rất lớn các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh, nhưng việc thâm nhập thị trường này không dễ dàng vì có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước xuất khẩu về giá cả, chất lượng và số lượng. Đặc biệt, Trung Quốc là một trong những đối thủ cạnh tranh chính đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào Mỹ như dệt may, giày dép, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ. Việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và quan hệ thương mại gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ càng đặt ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, giá cả thế giới đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Mỹ có xu hướng giảm, dẫn đến kết quả là tuy tổng số lượng xuất khẩu tăng nhưng giá trị xuất khẩu lại tăng chậm, hoặc không tăng.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều yếu tố khác gây khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Mỹ như:
- Những yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh, quy mô đặt hàng (thường với số lượng lớn), thời gian giao hàng,của các nhà nhập khẩu Mỹ đối với hàng hoá của Việt Nam (đây cũng chính là những
điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam)
- Vấn đề bản quyền, nhãn mác thương hiệu (quy định hết sức chặt chẽ)
Về phía các doanh nghiệp Việt Nam, đa số bộc lộ những điểm yếu như: thiếu hiểu biết về pháp luật và thực tiễn kinh doanh quốc tế; thiếu thông tin về thị trường và thị hiếu khách hàng; năng lực về vốn thấp, công nghệ và thiết bị lạc hậu, trình độ nhân lực, quản lý còn yếu kém dẫn đến chi phí sản xuất cao, giá trị gia tăng thực tế của sản phẩm làm ra thấp, khả năng cạnh tranh thấp; chưa chú trọng xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu, hoạt động tiếp thị còn yếu; thiếu am hiểu thị trường; chất lượng hàng chưa cao, chưa ổn định, mẫu mã đơn điệu,
Tóm lại những khó khăn trên đang là những thách thức to lớn đối cho Việt Nam trong quá trình xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ nói riêng cũng như trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Tuy nhiên, điều đó là không thể tránh khỏi và nó đang tạo nên một sức ép to lớn cho sự phấn đấu của mỗi doanh nghiệp cũng như toàn xã hội vì mục tiêu đổi mới và phát triển.
III. Những vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa và thị trường Mỹ
1. Nghiên cứu toàn diện thị trường Mỹ
Khi bắt đầu kinh doanh tại một thị trường mới, điều trước tiên mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng không thể bỏ qua đó là tìm hiểu và nghiên cứu về thị trường đó. Bởi khi hiểu biết tường tận về thị trường đó, các doanh nghiệp mới có thể biết được là mình cần phải làm những gì và không nên làm những gì. Cũng như vậy, khi kinh doanh tại tại Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải được trang bị đầy đủ thông tin khi làm ăn với các đối tác Mỹ. Ở đây, các doanh nghiệp Việt Nam khi nghiên cứu thị trường Mỹ cần chú ý những vấn đề sau:- Hiểu được các quy đinh luật lệ có liên quan
- Xác định cụ thể khách hàng của doanh nghiệp là ai?
- Khách hàng đó có khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ như thế nào?
- Những yêu cầu của thị trường đối với sản phẩm của doanh nghiệp?
- Nhu cầu về sản phẩm như thế nào?
- Làm sao để mọi người biết về sản phẩm của mình?
- Mọi người sẽ chấp nhận mua sản phẩm ấy giá bao nhiêu?
- Mua ở đâu?
Việc thực hiện công tác nghiên cứu trên có thể thực hiện bằng nhiều cách như: qua mạng Internet, qua sách báo, tạp chí, các ấn phẩm trong và ngoài nước, qua Bộ thương mại Việt Nam ,..Cách tốt nhất hiện nay là sử dụng dịch vụ của các công ty môi giới của Mỹ. Tuy nhiên, giá cả dịch vụ của các công ty này rất cao, một công ty nhỏ có tiềm lực tài chính ít ỏi sẽ khó lòng đáp ứng nổi. Nhưng không vì thế mà chúng ta không khai thác nguồn thông tin quý gía này, bởi giá cả thường đi liền với chất lượng. Các công ty này với khả năng tiếp cận các nguồn thông tin quan trọng và chuyên sâu cùng với những phương pháp nghiên cứu hiện đại sẽ đánh giá sản phẩm của bạn và khả năng sống còn của nó ở thị trường đầy tính cạnh tranh của Mỹ. Sau đó, có thể trợ giúp trong việc sàng lọc hay triển khai những mục tiêu tiếp thị, xác định nhu cầu cho nghiên cứu sâu hơn và triển khai kế hoạch tiếp thị toàn diện. Do vậy, các doanh nghiệp có thể thông qua các Hiệp hội ngành hàng hay liên kết một số công ty lại để cùng thuê chung dịch vụ tư vấn. Một cách khác để có được thông tin là trực tiếp đến Mỹ để tìm hiểu thị trường. Cách này cũng rất tốn kém, nhưng không gì bằng tai nghe mắt thấy.Sự tiếp xúc trực tiếp với thị trường nhiều khi mang lại những phát kiến, những cơ hội làm ăn không ngờ. Tuy nhiê, để đảm bảo thành công, mỗi chuyến đi như vậy cần được chuẩn bị hết sức chu đáo.
Nói chung, Mỹ là một thị trường lớn và đa dạng, do đó dù đã có nhiều nhà cung cấp, nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường nhưng các cơ hội khai thác và kinh doanh không phải là ít nếu chúng ta biết tìm ra những lối đi riêng
cho hàng hóa của mình.
2. Tìm hiểu hệ thống pháp luật thương mại Mỹ
Trong quan hệ buôn bán với Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng tìm hiểu những vấn đề pháp luật sau, nhất là khi thực hiện xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ.
Thứ nhất, Luật Thuế và Hải quan. Điều quan trọng trong Luật thuế và Hải quan là cần hiểu rõ Hệ thống Danh mục thuế quan thống nhất của Mỹ, để biết được sản phẩm của mình xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế suất bao nhiêu. Vì Danh mục này thường thay đổi, các doanh nghiệp phải có bản mới nhất để nghiên cứu. Khi biết được mức thuế phải nộp đối với hàng hoá của mình, các doanh nghiệp cần biết mình phải cạnh tranh với những nhà sản xuất kinh doanh nào về mặt hàng đó tại Mỹ, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta, được hưởng chế độ ưu đãi Thuế quan phổ cập GSP. GSP là hệ thống phức tạp, trong đó nêu đầy đủ những yêu cầu để được hưởng GSP, trường hợp nào sẽ bị đưa ra khỏi danh sách được hưởng GSP. Tiếp theo, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ cũng cần phải biết rõ cách xác định giá trị hàng hóa để thu thuế của Hải quan Mỹ. Hiện nay, Mỹ dùng phương pháp định giá theo “giá trị giao dịch” để làm cơ sở chính cho việc định giá hàng nhập khẩu để tính thuế.
Trong Luật Thuế và Hải quan, các doanh nghiệp cũng cần phải chú ý
đến Phí thủ tục Hải quan.
Những quy định về mác, mã là những quy định mà các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ cần hết sức lưu ý: mọi hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá được, ở chỗ dễ nhìn thấy trên bao bì xuất nhập khẩu tên người mua cuối cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hóa đó.
Thứ hai, những loại luật lệ cần biết tiếp theo là Luật khắc phục những bất lợi trong thương mại của Mỹ. Có hai luật quan trọng là luật thuế bù giá và
luật thuế chống phá giá.
Một điều luật nữa cần chú ý đó là: Quyền tự vệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Mỹ được quyền áp dụng quyền tự vệ theo điều 19 của Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), có nghĩa là tuy đã cho các nước hưởng ưu đãi về thuế và phi thuế quan, nhưng nếu xét thấy sản xuất trong nước bị phương hại, Mỹ sẽ dành quyền đơn phương huỷ bỏ các ưu đãi đó và áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu các loại hàng hóa đó vào Mỹ.
Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Mỹ có quy chế nghiêm cấm việc sử dụng bất hợp pháp quyền tác giả, mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp. Trường hợp vi phạm bản quyền, làm giả mạo mẫu mã, nhãn hiệu sẽ bị trừng phạt
nặng.
Bên cạnh những quy định trên, Mỹ có quy định trách nhiệm đối với sản phẩm để bảo vệ người tiêu dùng như sau: người sản xuất phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa đối với sức khoẻ người tiêu dùng. Nếu sản xuất sai quy chế về chất lượng quốc gia sẽ bị phạt.
Có thể nói rằng, những khó khăn về mặt luật pháp đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tiến vào thị trường Mỹ là rất lớn và chúng xuất phát từ những khía cạnh và kinh doanh của Việt Nam đã có, nhưng có thể chưa đủ, còn chung chung, chưa có hệ thống các luật gia tư vấn cho các nhà sản xuất kinh doanh xuất khẩu, nhất là sang Mỹ; trong khi đó hệ thống pháp luật thương mại Mỹ là rất phức tạp; nhưng các nhà sản xuất kinh doanh của Việt Nam và cả nhiều luật gia Việt Nam lại có hiểu biết ít về hệ thống pháp luật thương mại Mỹ. Như vậy, có thế thấy rõ rằng , nếu chỉ biết sản xuất mà chưa biết kỹ càng luật chơi buôn bán nơi mình đưa hàng đến bán thì kết quả sẽ là hiệu quả kinh doanh thấp. Tác hại của hiệu qua kinh doanh thấp không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp xuất khẩu mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung.
3. Tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
Một trong những khó khăn trong quá trình xuất khẩu sang thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam là năng lực cạnh tranh còn rất thấp. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, các doanh nghiệp cần giải quyết các vấn đề sau:
* Về chất lượng sản phẩm:
Các doanh nghiệp nhất thiết phải áp dụng các phương pháp quản lý chặt chẽ về quản lý doanh nghiệp, quản lý quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm theo các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 9002, GMP, HACCP,..và các quy định của các cơ quan kiểm soát chất lượng sản phẩm của Mỹ đối với những mặt hàng mà mình tham gia kinh doanh. (ví dụ như những hàng hóa là lương thực thực phẩm cần phải tuân thủ những quy định của cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm FDA).
* Về giá cả:
Để ngâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng hóa xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tận dụng đến mức tối đa các nguyên phụ liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể (Việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng trong quá trình sản xuất một cách chặt chẽ cũng là một biện pháp quan trọng để giảm tối đa những lãng phí không cần thiết). Mặt khác, hiện nay Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các doanh nghiệp Mỹ, điều này sẽ làm tăng giá sản phẩm ở khâu bán hàng tới người tiêu dùng cuối cùng. Do vậy, cần từng bước chuyển việc xuất khẩu gián tiếp sang xuất khẩu trực tiếp cho phù hợp với thông lệ buôn bán của thị trường Mỹ.
* Về cấu hàng xuất khẩu: Các doanh nghiệp nên giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, đồng thời làm gia tăng giá trị hàng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
* Về nhãn hiệu sản phẩm:
Đây là một vấn đề hết sức nóng bỏng đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những nhà xuất khẩu đang có chiến lược thâm nhập thị trường nước ngoài. Bởi hiện nay có khá nhiều các nhãn hiệu sản phẩm của Việt Nam đã bị mất thương hiệu trên thị trường nước ngoài, ví dụ như bánh phồng tôm Sa Giang, Saigon exort, Vĩnh Hảo, bia Sài Gòn, cà phê Trung Nguyên.Hậu quả của việc mất thương hiệu là nguy cơ mất thị trường tiêu thụ đối với sản phẩm đã bị “mất thương hiệu”. Lý do đơn giản là người sở hữu thương hiệu đã được đăng ký sẽ được độc quyền sử dụng thương hiệu này tại lãnh thổ đăng ký. Như vậy, việc tiêu thụ sản phẩm mang thương hiệu này sẽ bị ngăn cấm. Vì vậy để tự bảo vệ mình trước, các doanh nghiệp cần sớm có kế hoạch đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm của mình tại một số thị trường mà sản phẩm của mình có thể phát triển được. Tại Mỹ, thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hóa được thực hiện như sau:
1.Cơ sở nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại Mỹ:
1.1.Nhãn hiệu đã sử dụng tại Mỹ
1.2.Nhãn hiệu có dự định sử dụng tại Mỹ
1.3.Nhãn hiệu đã nộp đơn đăng ký tại một nước khác (là thành viên của Công
ước Paris hoặc của thoả ước về nhãn hiệu hàng hóa mà Mỹ công nhận)
1.4.Nhãn hiệu đã đăng ký tại một nước khác (là thành viên của Công ước
Paris hoặ của thoả ước về nhãn hiệu hàng hóa mà Mỹ công nhận).
2. Quy trình xét nghiêm
2.1. Đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa sẽ được xét nghiệm trong vòng 6 tháng kể từ ngày nộp đơn. Nếu không có bất kỳ sửa đổi, bổ sung hay phản đối nào của xét nghiệm viên đưa ra trong thời hạn xét nghiệm, đơn sẽ được chuyển sang công bố sở hữu công nghiệp để bất kỳ bên thứ ba nào có quyền lợi và lợi ích liên quan có thể phản đối việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa
2.2.Nếu không có đơn phản đối, nhãn hiệu nộp đơn trên cơ sở đã sử dụng (1.1) hoặc đã đăng ký tại một nước khác (1.4) sẽ được cấp giấy chứng nhận. Những đơn nộp trên cơ sở đã nộp tại một nước khác (1.3) sẽ được cấp văn bằng khi và chỉ khi đơn đó đã được cấp giấy chứng nhận tại nước nộp đơn cơ sở. Nếu đơn nộp trên cơ sở dự định sử dụng tại Mỹ(1.2), cơ quan đăng ký Mỹ sẽ ra một thông báo về việc chấp nhận đơn. Người nộp đơn theo đó sẽ có thời hạn tối đa là 3 năm để nộp bằng chứng sử dụng nhãn hiệu tại Mỹ. Một khi bằng chứng sử dụng nhãn hiệu được nộp và được cơ quan đăng ký chấp thuận trong thời hạn nộp đăng ký, nhãn hiệu đó sẽ được cấp bằng.
2.3. Như vậy, thời gian đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại Mỹ kể từ khi nộp đơn
đến khi cấp bằng phụ thuộc vào cơ sở nộp đơn và xét nghiệm đơn.
* Về dịch vụ sau bán hàng:
Theo các nhà kinh doanh Mỹ, hàng hóa đến tay người tiêu dùng có nghĩa là người bán hàng mới chỉ hoàn thành một nửa công đoạn của quá trình bán hàng, còn một nửa sau đó là những dịch vụ phục vụ người tiêu dùng sau bán hàng. Đây là một điều rất đặc trưng của hoạt động kinh doanh tại Mỹ mà các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú ý nếu muốn kinh doanh thành công tại đây. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm tới những vấn đề dich vụ sau bán hàng như: bảo hành, sửa chữa, bảo dưỡng, hướng dẫn sử dụng
Tóm lại, phải luôn tâm niệm một điều là “khách hàng là thượng đế”. Có như vậy mới bán được hàng và mới thu được lợi nhuận.
4. Tìm hiểu về đàm phán ký kết hợp đồng với doanh nhân Mỹ và những quy định pháp lý về hợp đồng.
* Về đàm phán, thương lượng ký kết hợp đồng người Mỹ thường có tính cách mạnh mẽ, thẳng thắn, luôn tự tin và đề cao vai trò cá nhân. Trong đàm phán, theo kinh nghiệm truyền thống, sau vài câu xã giáo ngắn gọn, người Mỹ lập tức diồn trí tuệ vào những phút đàm phán đầu tiên. Nếu họ bắt
đúng mạch, hàng loạt vấn đề được đưa ra xem xét ngay sau đó. Ngược lại, nếu họ có vẻ đăm chiêu hay bàng quan - đây là dấu hiệu của thương lượng bất thành. Nếu cuộc đối thoại trải qua một khoảng thời gian mà vẫn chậm chạp ở chuyện ngoài lề thì mọi cố gắng lôi cuôn thương nhân Mỹ vào chủ đề chính sẽ rất vất vả mà gần như nắm chắc thất bại.
Người Mỹ không tốn sức để tham gia vào một thương vụ mà không tiên liệu được lợi nhuận. Thương lượng với người Mỹ không chỉ khó về xác định số lượng (vì cách làm ăn nhỏ không cho phép đảm bảo chắc chắn khối lượng hàng giao đúng thời hạn) mà còn khó về chất lượng. Chất lượng hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải được đảm bảo bàng giấy xác nhận của các tổ chức quản lý chất lượng có tiếng tăm trên thế giới hoặc ít ra là của các công ty lớn thuộc nước thứ ba.
Thương lượng nhanh chóng không có nghĩa là người Mỹ quá giỏi tính toán đề đưa ra các quyết định chính xác mà đơn giản là phong cách của người Mỹ như vậy. Dĩ nhiên đã nhanh chóng thường hay sơ hở và để giảm bớt rủi ro kinh doanh, thương nhân Mỹ có bí quyết là soạn thảo sẵn hợp đồng với các diều khoản ràng buộc chặt chẽ về số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng, và những chi tiết có tính chất thủ thuật để khi cần có thể buộc đối tác nước ngoài ra toà mà tại đó thương nhân Mỹ dễ dàng thắng kiện. Đó là một cách tự bảo vệ bằng các thủ đoạn pháp lý. Nếu doanh nghiệp bắt tay vào giao dịch với đối tác Mỹ, sẽ có cả một núi các mẫu in sẵn phải ký. Đó là một cách tự bảo vệ của phía đối tác Mỹ để buộc doanh nghiệp phải cam đoan từ bỏ các quyền lợi của mình. Vì vậy, doanh nghiệp phải đọc kỹ các giấy tờ này. Nên nhớ rằng trừ các văn bản pháp luật của nhà nước hay tiểu bang, khi đàm phán doanh nghiệp hoàn toàn có quyền phản đối bất kỳ điều gì mà đối tác Mỹ đưa ra trong hợp đồng, hoặc các giấy tờ của công ty. Đó chỉ là cách để họ hù doạ.
Nước Mỹ luôn chiếm ưu thế về mặt kỹ thuật. Vì vậy, phải lưu ý hai diểm đầu tiên là:
Phải có chính sách giá linh hoạt, vì giá cả sẽ là ưu thế duy nhất của doanh nghiệp tại nơi người ta có thể lấy làm tất cả.
Phải đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, cả trên thực tế chứ không phải chỉ
trên giấy tờ. Vì họ chắc chắn đòi hỏi phải giữ lời hứa.
Đó là những cơ sở đầu tiên để doanh nghiệp có thể bước vào giao dịch với một công ty Mỹ.
* Những quy định pháp lý về hợp đồng:
Các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa giữa thương nhân Việt Nam và Mỹ có thể trực tiếp điều chỉnh bởi luật thương mại Việt Nam hoặc Bộ luật thương mại thống nhất của Mỹ (UCC). Giữa luật thương mại Việt Nam và Bộ luật thương mại thống nhất của Mỹ có nhiều điểm khác biệt, nhất là các quy định về hình thức và nội dung của hợp đồng. Luật thương mại Việt Nam quy định nội dung hợp đồng bắt buộc phải có đủ các điều khoản chủ yêu như tên hàng, số lượng, quy cách, phẩm chất, giá cả, thanh toán, thời gian, địa điểm pương thức giao hàng. Trong khi đó, Bộ luật thương mại thống nhất Mỹ quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng chỉ bao gồm: tên hàng, số lượng và quy cách phẩm chất hàng hóa.
Trong các hợp đồng xuất nhập khẩu có thể vận dụng cả các tập quán thương mại hình thành ở Mỹ, đặc biệt là những tập quán có nội dung trái ngược với tập quan thương mại quốc tế thông thường. Ví dụ các điều kiện cơ sở giao hàng FOB của Mỹ khác so với điều kiện cơ sở giao hàng FOB quy đinh trong Incoterms. Vì vậy, các nhà kinh doanh Việt Nam phải chú ý tới các nội dung này để tránh các tranh chấp phát sinh khi ký kết và thực hiện hợp đồng.
5. Các vấn đề về Hải quan:
* Để giải quyết nhanh chóng thủ tục Hải quan, nhà xuất khẩu cần lưu ý một số điểm sau:
- Cung cấp tất cả các thông tin được yêu cầu trong tờ khai Hải quan và hoá đơn
- Chuẩn bị thật cẩn thận các tờ khai. Đánh máy, in một cách rõ ràng, chừa
khoảng trống đủ rộng giữa các dòng, cung cấp các số liệu theo đúng cột
- Đảm bảo rằng các chứng từ đã ghi đầy đủ những thông tin đã được thể
hiện trong phiếu đóng gói hợp thức.
- Đánh dấu và đánh số từng kiện hàng sao cho chúng có thể dễ dàng được nhận biết qua các ký hiệu và số hiệu tương ứng thể hiện trong chứng từ .
- Mô tả chi tiết từng loại hàng hóa trong từng kiện hàng trong hoá đơn chứng từ.
- Ghi tên nước xuất xứ lên hàng hóa một cách rõ ràng và dễ thấy, cộng thêm các quy định khác theo pháp luật Mỹ về nhãn hiệu hàng hóa và xuất xứ, trừ trường hợp hàng hóa đó được miễn trừ khỏi các quy định về ghi tên nước xuất xứ.
- Tuân thủ các điều khoản của những đạo luật riêng biệt của Mỹ áp dụng cho hàng hóa của nhà nhập khẩu, ví dụ các quy dịnh liên quan tới thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ uống có cồn, chất phóng xạ,
- Tuân thủ nghiêm ngặt những hướng dẫn về cách lập hoá đơn, đóng gói, tên mác, nhãn hiệu.. mà khách hàng Mỹ yêu cầu.
- Liên hệ với Hải quan Mỹ để triển khai các tiêu chuẩn về bao gói cho hàng hóa của nhà xuất khẩu
- Tổ chức kiểm tra an ninh chặt chẽ ở doanh nghiệp cũng như quá trình vận chuyền hàng hóa tới nơi gửi hàng hóa – không được để những kẻ buôn lậu thuốc phiện lợi dụng các kiện hàng của nhà xuất khẩu.
- Cân nhắc khả năng sử dụng dịch vụ của những hãng vận tải có tham gia hệ
thống kê khai hàng hóa tự động.
* Lưu ý về sự khác nhau về thủ tục giữa Hải quan Việt Nam với Hải quan Mỹ
- Ở Mỹ đa số việc thông quan do các công ty dịch vụ Hải quan thực hiện trong khi ở Việt Nam thường là các doanh nghiệp tự thực hiện.
- Chứng từ thông quan ở Mỹ thể ở dạng giấy như ở Việt Nam hoặc ở dạng thư điện tử.
- Hải quan Mỹ yêu cầu về nhãn hiệu hàng hóa khắt khe và cụ thể hơn ở Việt
Nam
- Hải quan Mỹ yêu cầu về đóng gói hàng hóa phải đồng nhất chủng loại hàng, ngoài bao bì phải thể hiện rõ số lượng, trọng lượng hàng, nếu nhiều loại hàng xếp lẫn lộn khó kiểm tra thì toàn bộ số hàng đó sẽ bị đánh mức thuế của loại hàng có thuế suất cao nhất.
- Hải quan Mỹ yêu cầu hoá đơn thương mại ghi chi tiết hơn ở Việt Nam.
6. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm
Trong thế giới bùng nổ thông tin và tiếp thị, quảng cáo hiện đại, các doanh nghiệp nước ta không thể chỉ ngồi chờ các cơ hội kinh doanh tự nhiên đến mà cần phải chủ động tìm kiếm thông tin và giới thiệu mình một cách phù hợp. Có hàng tốt, nhưng không biết giới thiệu, quảng cáo phù hợp sẽ rất khó bán hàng ở Mỹ. Do đó các doanh nghiệp cần giới thiệu hàng hóa ở Mỹ thông qua các hoạt động quảng cáo xúc tiến bán hàng, ví dụ như tham gia các hội chợ triểm lãm để giới thiệu công ty và hàng hóa của mình, liên hệ trực tiếp với các hiệp hội ở Mỹ hoặc cơ quan xúc tiến thương mại của Việt Nam ở Mỹ để nhờ họ giúp cung cấp thông tin về doanh nghiệp cho các khách hàng Mỹ, mở các trang Web của riêng công ty để khách hàng có thể truy cập tìm kiếm những thông tin cần thiết.
7. Một số lưu ý về trách nhiệm sản phẩm trên thị trường Mỹ
Ngoài những quy định về thuế quan và hải quan khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần quan tâm tới luật về “trách nhiệm sản phẩm”. Theo luật này, người sản xuất hoặc bán hàng phải chịu trách nhiệm đối với người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm bán ra trên thị trường
Mỹ.
Trên thực tế, những vụ kiện cáo về trách nhiệm sản phẩm do người tiêu dùng khởi kiện thường làm cho các doanh nghiệp tốn kém rất nhiều thời gian và tiền bạc. Chính vì vậy, kinh nghiệm của các nhà xuất khẩu thành công trên thị trường Mỹ khẳng định rằng mua bảo hiểm về thương mại đối với hàng hoá
tại các công ty bảo hiểm là một biện pháp khôn ngoan.
Để tránh phiền phức và tốn kém do kiện cáo của người tiêu dùng Mỹ, nhà xuất khẩu nên mua bảo hiểm rui ro khi xuất hàng sang Mỹ. Những công ty cung cấp loại hình bảo hiểm này thường là các công ty bảo hiểm quốc tế lớn. Nếu không, khi bị thua kiện, đây sẽ là thiệt hại lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong trường hợp không bồi thường thanh toán cùng với lãi suất theo phán quyết của toà án thì tài sản mà doanh nghiệp Việt Nam có ở Mỹ đều có khả năng bị tịch biên. Thậm chí, tài sản của người xuất khẩu nước thứ ba cũng có thể bị tịch biên, theo thoả thuận mà toà án Mỹ nhờ nước kia trợ giúp tư pháp.
Tuy nhiên, nếu có xảy ra kiện cáo về trách nhiệm sản phẩm, các doanh nghiệp cần lưu ý một điểm là ở các tiểu bang Mỹ, một nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài chỉ phải hầu toà nếu có mối liên hệ tối thiểu với tiểu bang- nới người tiêu dùng Mỹ khởi kiện. Nghĩa là, nếu doanh nghiệp Việt Nam không có mối quan hệ đầy đủ với tiểu bang đó thì toà án tiểu bang không có quyền bắt ra hầu toà để phán quyết. Với lí do đó, các nhà xuất khẩu Việt Nam khi đưa hàng vào Mỹ nên hạn chế các quan hệ có tính thủ tục hay hợp đồng pháp lý riêng rẽ với tiểu bang nhỏ. Bởi vì ở Mỹ, các toà án tiểu bang thường hay thiên tư đối với người tiêu dùng Mỹ, không khách quan như toà án liên bang.
8. Một số điều cần lưu ý khác:
* Về vấn đề thanh toán:
Hiện nay, phương thức thanh toán chủ yếu cho các hợp đồng xuất khẩu sang Mỹ là phương thức dùng thư tín dụng (L/C). Để đảm bảo rằng phía Việt Nam có thể được ngân hàng thanh toán đầy đủ thì các doanh nghiệp nên chú ý tới những vấn đề sau:
- Thu thập đầy đủ các chứng từ mà L/C đã quy định. Bộ chứng từ này có thể
bao gồm giấy chứng nhận chất lượng, giấy chứng nhận trọng lượng, giấy
chứng nhận kiểm dịch, giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận xuất xứ,.. và có thể thu thập được trước khi giao hàng
- Lập hoá đơn, hối phiếu căn cứ vào tình hình giao hàng thực tế theo các nguyền tắc:
+ Khẩn trương, nhanh chóng. Trên nguyên tắc lập chứng từ càng nhanh thì người xuất khẩu càng có thể thu được tiền nhanh. Mặt khác, theo quy định chung thì chứng từ phải được giao cho ngân hàng trong vòng 21 ngày kể từ khi nhận được vận đơn.
+ Chứng từ phải đồng bộ. L/C quy định chứng từ nào thì phải có đầy đủ
chứng từ đó.
+ Chứng từ phải phù hợp với L/C về mặt hình thức
+ Chứng từ phải phù hợp với quy định của ngân hàng thanh toán.
* Sử dụng các loại hình dịch vụ tư vấn như: tư vấn nghiên cứu thị trường, tư vấn kinh doanh, tư vấn pháp lý, tư vấn về sở hữu trí tuệ..Sự tư vấn đúng lúc sẽ rất có lợi cho doanh nghiệp kinh doanh trên đất Mỹ và cũng để doanh nghiệp tránh được những rắc rối, tổn hại về uy tín hay những tổn hại về tiền của.
Tóm lại để kinh doanh có hiệu quả tại thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả, mà còn phải có sự hiểu biết về hệ thống pháp luật của Mỹ, các chính sách thương mại, hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn của thương nhân Mỹ.
Muốn có được thành công, các doanh nghiệp Việt Nam không có cách nào khác ngoài sự chủ động sáng tạo và nỗ lực rất lớn. Hy vọng rằng với sự cố gắng của mình, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ vượt qua những rào cản đầy chông gai này và giành được những thành công trên thị trường Mỹ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8344.doc