Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

Tóm lại hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu,là sự lựa chọn duy nhấtcho tất cả các quốc gia trên thế giới không loại trừ nó là quốc gia lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Hội nhập vừa tạo ra những cơ hội lớn vừa đặt ra cho mỗi quốc gia những thách thức không nhỏ. Chính vì vậy việc nghiên cứuchủ động hội nhập kinh tế quốc tế đối với việt nam là rất quan trọng làm sao để việt nam có thể hội nhập với quốc tế mà không bị hoà tan không bị kéo theo vòng xoáy của toàn cầu hoá bị các quốc gia lớn chèn ép bóp nghẹt. để việt nam có thể tận dụng tốt những cơ hội đồng thời tránh những nguy cơ, ý đồ xấu của kẻ thù của quá trình hội nhập mang lại. Thế kỉ XXI chắc chắn là thế kỉ của hợp tác ,phát triển với những cuộc sát nhập lớn, các liên minh quốc gia ngày càng mở rộng đến những quốc gia nhỏ bé nhất. Chính vì vậy việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cần thực hiện tốt và đẩy nhanh tiến trình ngay từ bây gìơ bằng các công việc cụ thể như :có chiến lược chủ động hội nhập, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách bộ máy quản lý .

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Chúng ta đã ngặt háI được nhiều thành công trong việc hội nhập kinh tế quốc tế như việc trở thành viên chính thức của liên minh ASEAN(1996), tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA, ký kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ.Việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cho việt nam những thời cơ và thách thức lớn. Chính vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế là việc hết sức cần thiết để chúng ta có thể tận dụng chiệt để những cơ hội và vượt qua được những thách thức. để việt nam không chỉ chánh được nguy cơ tụt hậu so với quốc tế mà còn phát triển sánh vai cùng 5 châu. đề án đã được hoàn thành với sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của giảng viên PGS-PTS Mai hữu Thực. Em xin được nói lời cảm ơn chân thành tới thầy Do trình độ còn hạn chế và vấn đề là rộng lớn, phức tạp nên trong quá trình phân tích trình bầy còn nhiều thiếu sót và hạn chế nên em mong được sự chỉ dậy của các thầy cô trong bộ môn. đặT vấn đề Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan.trong hơn một thập kỷ lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự ra tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học-công nghệ; xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế giới chuyển sang thời kỳ mới - hoà bình,hợp tác và phát triển; sự gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số...Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu không mở cửa hội nhập. Tuy vậy, hội nhập, một mặt sẽ đón nhận được những cơ hội cho phát triển, song mặt khác cũng phải đối mặt với hàng loạt thách thức do chính xu thế toàn cầu hoá đặt ra. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là một nội dung, một khía cạnh quan trọng của công cuộc đổi mới hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Mặc dù hội nhập có cả tích cực và tiêu cực, song đối với việt nam để có thể thực hiện được quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, đòi hỏi chúng ta, nói như thủ tướng phan văn khải, cần phải”chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế “. Hội nhập chủ động sẽ là phương châm hợp lý bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với cộng đồng thế giới mà không bị hoà tan. B\ nội dung I/ tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế 1/ kháI quát về hội nhập kinh tế quốc tế hội nhập kinh tế quốc tế là sự gia tăng nhanh chóng của các Họat động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng sự vận động phát triển hướng tới nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn trên phạm vi toàn cầu. 2 .Tính tất yếu. Toàn cầu hoá kinh tế thế giới là một xu thế khách quan do tác động của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những thập niên cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, chuyển giao công nghệ trong phạm vi toàn cầu, xuất hiện nhiều hiện tượng mới như thương mại đIện tử, đồng tiền ảo,nền kinh tế số... kéo theo sự ra đời lý thuyết mới về kinh tế, đòi hỏi các dân tộc trên thế giới phảI có tư duy mới đối với thách thức và cơ hội trong quá trình phát triển. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra ở nhiều cấp độ, từ hợp tác song phương giữa hai nước, hình thành các tam giác, tứ giác, các tiểu vùng, tổ chức khu vực, liên khu vực, liên châu lục và các tổ chức toàn cầu với phương thức đa dạng như khu vực mậu dich tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, diễn đàn kinh tế, liên minh kinh tếTrên thế giới hiện đã có hơn 100 tổ chức như vậy. Toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; mỗi nước có thể tận dụng tối đa thế và lực của mình để đảm bảo lợi ích của dân tộc trong quan hệ đa phương và song phương với các nước khác. Các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới là những nước sáng lập ra các tổ chức kinh tế quốc tế như IMF, WB, WTO, cũng như nhiều tổ chức khu vực, đã và đang tìm mọi cách chi phối hoạt động của các tổ chức đó từ việc đề cử người của mình vào các chức vụ chủ chốt, đặt ra các định chế, chính sách, thao túng các hoạt động tác nghiệp của các tổ chức đó nhằm phục vụ cho lợi ích của họ. Các nước đang phát triển cũng như những nước đang chuyển đổi cơ chế kinh tế thường vào thế yếu trong quan hệ kinh tế quốc tế, đã và đang tìm tiếng nói chung trên các diễn đàn quốc tế, cũng như phối hợp các hoạt động chung trong các cơ quan quốc tế nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, kiềm chế sự thao túng của các nước lớn. Giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau, cũng như giữa các nước đang phát triển và đang chuyển đổi cơ chế kinh tế cũng thường xuất hiện những quan điểm khác nhau trong việc xử lý các vấn đề chung của thế giới, tranh chấp với nhau về thương mại, đầu tư, chu chuyển vốn, sở hữu trí tuệ, bản quyền, thậm chí dẫn đến các cuộc “chiến tranh thương mại” trong quan hệ một số nước như Nhật-Mỹ về ôtô, EU- Mỹ về chuối, Anh - một số nước EU khác về thịt bò. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế với thế giới là vấn đề chung cho tất cả các dân tộc; nước chiếm 1/4 tổng GDP toàn thế giới như Mỹ, cũng như nước chiếm hơn 1/5 dân số thế giới như Trung Quốc mặc dù có chế độ xã hội khác nhau, cũng không thể đứng ngoàI xu thế chung đó được. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với nước ta hiện nay không phảI là có hội nhập hay không, mà là làm thế nào để đảm bảo được lợi ích dân tộc trong quá trình hội nhập về kinh tế với thế giới. Lợi ích dân tộc được thể hiện trong mục tiêu dàI hạn, như đã được xác định trong nhiều văn kiện của đảng và nhà nước, là dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,được cụ thể hoá trong mục tiêu từng giai đoạn trung hạn 5 năm và hàng năm. hội nhập kinh tế với thế giới góp phần thực hiện các mục tiêu đó bằng cánh mở rộng không ngừng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước và tổ chức quốc tế, tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoàI để bồi dưỡng nguồn lực trong nước, tạo thành một hợp lực nhằm đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa nước ta với các nước trong khu vực, từ đó lại tạo ra đIều kiện để cho việc hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xă hội chủ nghĩa, thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiện vụ nêu ra trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội năm 2001-2010 và kế hoạch 5năm 2001-2005. II/ thực trạng hội nhập kinh tế của việt nam. 1. thực trạng kinh tế của việt nam. a, Kết thúc năm 1999, năm thứ 9 của chiến lược 10 năm (1991-2000), thế và lực của nước ta được nâng lên rõ rệt: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, bình quân GDP hằng năm trong thời kỳ 1991- 1995 là 8,2%, hai năm 1996 và 1997 trên mức đó và hai năm tiếp theo 1998 và 1999 khoảng 5 %. Giá trị sản lượng công nghiệp tăng trên 10% và nông nghiệp tăng trên 4%. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao gấp 2 đến 3 lần tốc độ tăng GDP. Ngoại trừ năm 1991 do giảm sút trong quan hệ buôn bán với Liên Xô (cũ) nên kim ngạch xuất khẩu giảm 15,1%, từ 1992 đến 1997 tăng 25 đến 30% năm. Năm 1998 gần như không tăng, năm 1999 tăng khoảng 23%. Tình trạng nhập siêu đã được thu hẹp dần và từ 1998 về cơ bản đã cân bằng được cán cân thương mại quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 11,5 tỷ USD, bằng 5 lần năm 1991. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có biến đổi quan trọng theo hướng tăng dần giá trị gia tăng hàng xuất khẩu. Từ chỗ có ít mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, năm 1999 đã có nhiều mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD như dầu thô, gạo, hàng dệt, may, giày dép. Du lịch và dịch vụ quốc tế đã được phát triển nhanh chóng, hàng ngàn khách sạn, nhà hàng, trung tâm du lịch đã hình thành một mạng lưới có thể thu hút hàng năm nhiều triệu khách quốc tế. Các dịch vụ hàng không, hàng hảI, bưu chính, viễn thông, tàI chính, bảo hiểm, tín dụng quốc tế đã được phát triển nhanh và một số dịch vụ đã được tầm cỡ khu vực. - Đã thu hút được hơn 2400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoàI với vốn đăng ký 36 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện 15,5 tỷ USD, chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thời kỳ 1991-1999. Hàng ngàn công ty, trong đó có nhiều công ty đa quốc gia của gần 70 và vùng lãnh thổ đang hoạt động đầu tư và kinh doanh ở nước ta .Từ năm 1993, nước ta đã nối lại khoản viện trợ phát triển (ODA), bình quân mỗi năm khoảng 1 tỷ USD đã được đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển. Khi mà loàI người bước vào thiên niên kỷ mới thì nước ta cũng đã có thế và lực mạnh hơn, cũng như đã tích luỹ được những kinh nghiệm quý giá trong việc xây dựng nên kinh tế thị trường nhiều thành phần và trong quá trình hội nhập về kinh tế với thế giới b, Tuy vậy, thực trạng kinh tế nước ta nhìn dưới góc độ hội nhập kinh tế với thế giớ cũng bộc lộ những nhược đIúm đáng lưu ý: Thời kỳ 1991-1995 là lúc mà ở trong nước thì nguồn vốn vật chất còn hạn hẹp, kinh nghiêm quản lý nhà nước và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường còn chưa nhiều; ở ngoàI nước thì tình hình quốc tế nhìn chung là bất lợi, Liên Xô (cũ) tan rã làm giảm sút đột ngột quan hệ buôn bán chủ yếu của nước ta với thế giớ. Mỹ và đồng minh của Mỹ kéo dàI cuộc cấm vận về kinh tế với nước ta cho đến đầu năm 1994, nguồn ODA mới được nối lại từ 1993 và hết năm 1995 chỉ thực hiện được 1,73 tỷ USD. Trong bối cảnh đó, toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991-1995 đã được thực hiện vượt mức khá cao. Mức tăng thực tế bình quân hằng năm : GDP 8,2% (kế hoạch 5,5-6,5%), giá trị sản lượng công nghiệp 13,5% ( KH 7,5—8,5), giá trị sản lượng nông nghiệp 4,5%(KH 3,7-4,5%)... Thời kỳ 1996-2000 là thời kỳ có nhiều nhân tố thuận lợi hơn; ở trong nước thì nên kinh tế đang đà phát triển với tốc độ khá cao, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân nhìn chung được cảI thiện, hoạt động của thị trường nội địa khá sôI động, nền tàI chính tiền tệ đã được ổn định; ở ngoàI nước thì với việc gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, ký hiệp định khung với EU và bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào tháng 7-1995, cũng như là thành viên của APEC vào tháng 11-1998, vị thế nước ta trên trường quốc tế đã được cảI thiện rõ rệt. Trong bối cảnh đó, trừ chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp, các chỉ tiêu kinh tế khác của kế hoạch 1996-2000 đạt thấp hơn nhiều so với mức dự kiến. - Tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp dự kiến tăng 4,5- 5,5%/năm, có thể đạt 5,1-5,2%/năm. Sản lượng lương thực quy thóc năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn vượt mức dự kiến 30-32 triệu tấn của năm 2000. Tốc độ tăng GDP dự kiến 9-10%/năm nhưng chỉ đạt khoảng 6,8%/năm tương đương 2/3 mức dự kiến và thấp hơn nhiều so với mức tăng của 5 năm trước đó. 2.nhìn lại quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây. đIều cần nói là, không phảI chỉ có thập kỷ 90 vừa qua chúng ta mới tiến hành hội nhập quốc tế. Nhìn lại chặng đường phát triển của dân tộc ta, trên thực tế chưa bao giờ chúng ta tách khỏi nền kinh tế thế giới, chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục quá trình hội nhập. Trươc khi nhà nước việt nam (việt nam dân chủ cộng hoà nay là cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam) ra đời việc tham gia vào tiến trình kinh tế thế giới của chúng ta chịu sự chi phối của chủ nghĩa thực dân, đó thực chất là quá trình bị động. Sau khi nước việt nam dân chủ cộng hoà ra đời do đIều kiện chiến tranh nên việc phát triển kinh tế và tham gia vào quá trình kinh tế quốc tế rất hạn chế. Trên thực tế từ năm 1945 đến khi chúng ta thực hiện đổi mới, quan hệ việt nam với khu vực (đông nam á) có thể nói là bị ngừng chệ. Chúng ta chỉ tiến hành quan hệ hợp tác với các quốc gia XHCN mà đáng chú ý là việc tham gia vào Hội tương trợ kinh tế (SEV). Tham gia vào SEVphần nhiều cũng không phảI xuất phát từ yêu cầu tất yếu của phân công hợp tác về mặt kinh tế đối với Việt Nam. Như vậy có thể thấy thập kỷ 90 là thập kỷ hội nhập khởi đầu đúng nghĩa. Cũng vì vậy chúng tôI muốn đI sâu nhìn nhận lại quá trình hội nhập kinh tế của ta thời gian này, từ đó có cơ sở cho những đề xuất và gợi ý cho tương lai. Chúng ta biết rằng từ cuối thế kỷ 70, đất nước lâm vào tình trạng khó khăn, cơ chế kinh tế cũ tỏ ra không còn tác dụng, cơ chế mới chưa hình thành. Viện trợ ở bên ngoàI bắt đầu khó khăn, giảm sút, trong khi đó các thế lực thù địch trong và ngoàI chống phá dồn ép ta trên các phương diện. Gần suốt thập kỷ 80 chúng ta loay hoay tìm phương cách khắc phục song không những không hiệu quả mà còn làm cho tình trạng khó khăn, phức tạp thêm. Đại hội VI của Đảng đã mở ra phương cách mới, chúng ta đã tiến hành đổi mới chuyển sang cơ chế thị trường. Cùng với những đổi mới bên trong chúng ta thực hiện chuyển hướng chiến lược trong kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tiếp theo tinh thần đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII và VIII, cùng các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương trong các kỳ Đại hội đều có chú ý đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu như Đại hội VI Đảng ta nhấn mạnh phảI “gắn thị trường trong nước với thế giới, giảI quyết mối quan hệ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ thị trường nội địa”, thì tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã có bước tiến trong xác định cụ thể nội dung của hội nhập quốc tế, trong đó khẳng định phảI khai thông quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại tại Hội nghị Trung ương 7 khoá VII là “từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết cũng như làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hộ nhấn mạnh phảI “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. “ĐIều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thương mại thế giới, các diễn đàn,các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đI thích hợp”. Như vậy có thể nói chủ trương hội nhập của Đảng ta là nhất quán trong tiến trình đổi mới. Đây chính là cơ sở rất quan trọng để triển khai, thúc đẩy hội nhập trên thực tế. TrảI qua hơn một thập kỷ từng bước hội nhập chúng ta đã có được những kết quả bước đầu quan trọng trên các mặt thương mại, đầu tư, ngoại giao.. phá bỏ thế cô lập, tạo ra môI trường cùng hợp tác phát triển với các đối tác trên thế giới. Cụ thể về ngoại thương, chúng ta đã mở quan hệ kinh tế với 150 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Từ năm 1990 đến 1999 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,5 lần, khi đó tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần. Trên thực tế kết thúc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu gần như ngang bằng. Trong cơ cấu hàng hoá cũng có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng mặt hàng, tăng dần những hàng hoá qua chế biến. Trong lĩnh vực thu hút vốn nước ngoàI chúng ta cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tính đến tháng 9/1999 chúng ta đã thu hút 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp và xây dựng la gần 51%. Cùng với vôn FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn qua kênh ODA. Nguồn ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng và phần mềm đối với Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoàI hiện nay chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI trong GDP đều tăng lên qua các năm. Năm 1993 đạt 3,6%, đến năm 1998 đạt 9%; năm 1999 đạt khoảng 10,5%. Nguồn thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI đạt 370 triệu USD vào năm 1998. Cùng với mở cửa thu hút vốn nước ngoàI, gia tăng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoàI, kể cả vào những nước phát triển như Nhật Bản. Tính đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có 27 dự án đầu tư ra nước ngoàI với tổng số khoảng 8 triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương mại, dịch vụ và xây dựng v.v..Đồng thời trong những năm 90 chúng ta đã ký các hợp đồng đưa 7 vạn lao động ra nước ngoàI làm việc. Việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép ta thu được vốn, mà dựa vào đó chúng ta nắm bắt được những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo cho ta một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại trong thời đại ngày nay. Theo con số của vụ quản lý dự án, bộ kế hoạch và đầu tư, riêng trong khu vực có FDI đã thu hut 285,7 nghìn lao động(số liệu đến tháng 8/1999). Thực ra để đạt được những kết quả như trên trong những năm qua Việt Nam đã có những đổi mới cảI thiện môI trường đầu tư, đặc biệt là luật đầu tư, mặc dù còn có nhiều đIều cần đIều chỉnh, song đều được thừa nhận là luật cởi mở, có sức hút đối với FDI. Chúng ta cũng có nhiều đổi mới trong lĩnh vực tàI chính tiền tệ, đIều chỉnh các mức thuế theo hướng ngày càng tự do hơn. Kết quả của hội nhập còn thể hiện rõ ở việc hội nhập và tham gia vào những hoạt động của các tổ chức trong khu vực và toàn cầu. Chúng ta đã trở thành viên của APTA, APEC, có quan hệ chặt với các tổ chức chuyên môn của UN, IMF và WB cũng như ADB. Đặc biệt chúng ta ký hiệp định thương mại Việt –Mỹ và đang xúc tiến tham gia vào WTO. Với việc hội nhập tích cực, chủ động như trên đã góp phần quan trọng vào thành tựa kinh tế- xã hội trong hơn mười năm đổi mới vừa qua. Không những phá bỏ thế bao vây và cô lập và còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Tuy vậy, đIều cũng cần thấy là, bên cạnh những kết quả, tiến trình hội nhập của Việt Nam trong hơn mười năm qua cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cả ở tầm vĩ mô và vi mô cần suy nghĩ, giảI quyết để tiếp tục hội nhập ngày càng hiệu quả hơn. 3. Một số thuận lợi và khó khăn đặt ra đối với việc “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. a.Những thuận lợi cơ bản. Thứ nhất, Đảng cũng như nhà nước có những chủ trương và chính sách nhất quán cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá.Chúng ta còn nhớ khi bắt đầu bước vào cảI cách đổi mới việc mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu chưa phảI đã có tiếng nói chung.ĐIều đó ảnh không nhỏ đến nhịp độ hội nhập. Nay với quan đIúm và nguyên tắc rõ ràng chúng ta đẩy nhanh qúa trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô, về “ xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển” của việc tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này, mà trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại noi riêng. Các chính sách này đều theo định hướng tự do, tất nhiên ở các tầng cấp khác nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực cụ thể. Thứ hai, tham gia toàn cầu hoá chính là tranh thủ những đIều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, phục vụ nâng cao đời sống nhân dân.Việt Nam là quốc gia có nguồn tàI nguyên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tàI nguyên phong phú không chỉ tạo đIều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức hút đối với các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tàI nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu các ngành kinh tế với các sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Về vị trí địa lý, nước ta là cửa ngõ đI TháI Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam á , là đIếm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng trên thế giới. Đáng chú ý với bờ biển dàI, trảI dàI từ bắc vào nam với nhiều hảI cảng, đặc biệt là cảng Cam Danh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hảI cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. NgoàI một số khoáng sản như Bôxit có trữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba trên thế giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng lớn đứng hai trên thế giới sau Trung Quốc, thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Trong thời gian qua việc khai thác còn hạn chế. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, thì việc sử dụng các nguồn lực đó thông qua hợp tác quốc tế là rất cần thiết. Với thực trạng nguồn tàI nguyên thiên nhiên cũng như xét trên hiệu quả phát triển kinh tế chúng ta không nên hình thành cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu tàI nguyên như một số có nguồn tàI nguyên lớn. Cần qua hợp tác cũng như phát huy năng lực bên trong đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng chế biến. Thực tế cho thấy, mặc dù những năm qua cơ cấu hàng xuất khẩu của ta cũng đã có cảI thiện, song về cơ bản vẫn là xuất khẩu tàI nguyên, trong đó có dầu, than đá. Trong đIều kiện giá cánh keo chúng ta càng xuất khẩu càng thua thiệt. Với nguồn lực tàI nguyên hiện có chúng ta cần tập trung phát triển các ngành vật liệu xây dựng, gốm sứ, du lịch, kết hợp phát triển các sản phẩm từ cây công nghiệp để tạo sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời chú ý phát triển các loại hình xí nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở liên doanh để tận dụng nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Thứ ba, Việt nam hiện nay tuy là quốc gia đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất của thế giới,song nước ta được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực. Với thị trường gần 80 triệu dân, trong đó người trong độ tuổi lao động cao (dân số trẻ ), có trình độ văn hoá, cần cù lao động và đặc biệt giá lao động rẻ. đó là lợi thế so sánh có ý nghĩa trong quá trình hội nhập. Trong đIều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học- công nghệ phát triển mạnh, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tri phối mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội, nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Trên thực tế nhiều công ty nước ngoàI vào Việt Nam, một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động dồi dào, dẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam. Thoe đánh giá của các công ty nhật khi phân tích lợi thế môI trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong số 10 quốc gia. Tuy vậy nếu xét riêng về yếu tố nguồn nhân lực, lợi thế của ta không thua kém TháI lan, thậm chí còn vượt cả Inđônêxia và Myanma. Chỉ số HDI của ta chưa cao so với thế giới, mới chỉ 0,56 song so với các quốc gia có thu nhập tương ứng thì ta lại ở nhóm cao. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giới bên ngoàI. Ta có thể qua hội nhập để xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. đồng thời tạo đIều kiện để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, công nghệ mới mà hiện nay ta đang rất cần. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập là đIều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động của Việt Nam. Thứ tư chúng ta đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong đIều kiện đất nước hòa bình, chính trị- xã hội ổn định. đây là cơ hội rất quan trọng để tập chung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại. Chính trị- xã hội ổn định theo một khuynh hướng nhất quán chính là bộ lọc quan trọng trong quá trình giao lưu hội nhập, hơn nữa nó đảm bảo vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế. Chúng ta biết rằng khi bắt đầu thực hiện đổi mới, gắn liền với bước chuyển cơ chế đã nẩy sinh không ít tiêu cực trong tư tưởng đạo đức, lối sống. Nhiều người lợi dụng chức quyền và sự chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý và pháp luật đã giầu nên nhanh chóng, trong khi đại bộ phận dân cư còn sống trong khó khăn. Nhìn chung tình hình kinh tế -xã hội còn khá gay gắt vào cuối những năm 1980. Trong bối cảnh đó, trên thế giới cũng đang có chuyển biến phức tạp, đáng chú ý nhất là sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu. đIều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội việt nam cũng như đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ nhân dân với CNXH, hoàI nghi vào khả năng mở của hội nhập phát triển. Phân tích tình hình thực tế, ngay từ hội nghị trung ương 7 khóa VI đảng ta đã khẳng định tính tất yếu của CNXH, khẳng định khách quan và phương hướng XHCN của quá trình cảI cách đổi mới. đại hội VII cũng khẳng định: ‘nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoàI con đường XHCN’. Trên thực tế gắn liền với sự vận động hiện thực của cuộc sống, đảng ta đã từng bước hoàn thiện, bổ sung cụ thể hóa thêm đường nối đổi mới, mở cửa hội nhập. Trong quá trình đó, đảng ta đã được củng cố về chính trị và tổ chức, vai trò lãnh đạo của đảng trong xã hội được tăng cường. a Trong quá trình đổi mới gắn liền với cảI cách hành chính,đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị- xã hội, chúng ta đã ban hành hiến pháp mới cùng nhiều luật lệ nhằm thể chế hóa quyền lực của nhân dân, thực tiễn quản lý xã hội có dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Cùng với chỉnh đốn đảng chúng ta chú trọng dân chủ hóa cơ sở thực sự mở ra khả năng tham gia đóng ngóp của mọi người vào các quyết sách phát triển liên quan đến lợi ích của chính người dân, của các địa phương cũng như của nhà nước. Với sự đổi mới phát triển hơn mười năm qua đất nước đã thu được kết quả rất đáng tự hào. sau một thập kỷ tăng trưởng,GDP đã tăng nên gấp hơn 2 lần, từ nước nhập lương thực trở thành không những là một quốc gia tự túc được lương thực mà còn là nước có mức xuất khẩu lớn, đứng 2-3 thế giới với 3,8 triệu tấn năm 1998 và 4,3 triệu tấn năm 1999. cùng với đó đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân được cảI thiện. Thành quả này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới, đưa lại sự ổn định về chính trị- xã hội theo một khuynh hướng đI lên CNXH. Sự ổn định chính trị- xã hội cho phép tập chung toàn thể sức lực của nhân dân cho phát triển đất nước. Trong những năm vừa qua không những phát huy tốt nguồn lực trong nước cho đổi mới mà còn thu hút được sự đóng ngóp không nhỏ của kiều bào ta ở nước ngoàI bên cạnh một lượng vốn lớn của nước ngoàI đổ vào Việt Nam. Sự ổn định về chính trị- xã hội thực sự là yếu tố quan trọng tạo ra môI trường kinh doanh lành mạnh tăng sức hút đối với đầu tư. Chúng ta thực hiện đổi mới đI nên CNXH. Hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới cũng chính là nhằm tranh thủ các đIều kiện về vốn , kỹ thuật v.v... cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế dân tộc theo hướng đã xác định : xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trong đó đảng lãnh đạo nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Với mục tiêu và đường nối hội nhập đó đã xác định những nguyên tắc trong quá trình tham gia hội nhập và quy định các chiều hướng giá trị vật chất và tinh thần khi tiếp nhận. đồng thời nó cũng quy định quan điểm chính thức của việt nam trong đấu tranh cho xu thế hội nhập bình đẳng vì sự phát triển chung của các dân tộc. Chúng ta hội nhập để xây dựng xã hội có dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, vì vậy chúng ta chỉ chấp nhận vào cuộc trơi khi mở ra các điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu đó. Về điều này quan điểm của Trung Quốc rất đáng tham khảo. họ quan niệm các luật trơi hiện nay có ba cấp độ :phù hợp, chưa phù hợp, không phù hợp và khi không phù hợp họ không chấp nhận, còn chưa phù hợp họ đấu tranh cho phù hợp dần. Thứ năm, mặc dù kinh tế ta chưa phát triển, nhưng chúng ta hội nhập không phải với hai bàn tay trắng, ngoài nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực cùng với sự ổn định về chính trị xã hội chúng ta cũng đã có kinh nghiệm nhất định sau hơn 10 năm đổi mới hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Với hơn 10 năm qua chúng ta tạo ra được đội ngũ cán bộ tiếp cận được cách thức làm ăn trên thương trường quốc tế, tất nhiên về trình độ đòi hỏi phải nâng cao hơn.thực tế chúng ta đã hoà vào nhịp độ chung của nền kinh tế thế giới. Hiện nay việt nam đã là thành viên của ASEAN đang có những đóng ngóp tích cực vào sự liên kết kinh tế trong hiệp hội. Thành công của cuộc gặp cuả các vị đứng đầu ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội1998 với việc ra tuyên bố Hà Nội và trương trình hành động Hà Nội thể hiện sự đóng ngóp đó. Chúng ta cũng đã trở thành thành viên của hội đồng hợp tác kinh tế tháI bình dương năm 1994 và theo hội nghị cấp cao APEC lần thứ 5 họp tại canada (1997) quyết định đơn xin gia nhập của Việt Nam, và theo quy định 11/ 1998 Việt Nam chính thức là thành viên của APEC. Trong những năm qua việt nam cũng gia tăng quan hệ với liên hợp quốc, IMF,WB. Cho đến nay đã hơn 20 năm Việt Nam tham gia vào liên hợp quốc. Sự tham gia này cho phép Việt Nam nhận được sự giúp đỡ của liên hợp quốc trong nhiều lĩnh vực, đồng thời qua đó việt nam cũng đóng ngóp vào sự phát triển của chính tổ chức này. ghi nhận sự đóng ngóp đó, năm 1997, lần đầu tiên việt nam đã được bầu vào hội đồng kinh tế- xã hội liên hợp quốc . đây là đIều kiện quan trọng cho phép mở rộng và phát triển quan hệ của Việt Nam với liên hợp quốc cũng như với các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác. ngày nay chúng ta đã tham gia khá tích cực vào các Họat động của liên hợp quốc. Các tổ chức thuộc liên hợp quốc như: UNDP, UNFPA, UNICEF,UNHCR,UNDCP.v.v.. việt nam đều có quan hệ chặt chẽ. đối với WB hiện tại Việt Nam là thành viên chính thức của một số tổ chức thuộc WB, đó là ngân hàng táI thiết và phát triển quốc tế,hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), tập đoàn tàI chính quốc tế (IFC) và công ty bảo hiểm đầu tư đa biên (MIGA). Tuy vậy quan hệ Việt Nam với WB thực chất mới chỉ là quan hệ tín dụng giữa Việt NamvớiIDAvàIFC. Sau một thời gian đình trệ trong quan hệ với WB cuối 1993 chúng ta đã khai thông quan hệ với IDA. Từ đó cho đến nay quan hệ với IDA phát triển khá tốt, trung bình hàng năm IDA cung cấp cho ta từ 300 đến 500 triệu USD. Năm 1995 WB đã đặt văn phòng đại diện tại Hà Nội. Cùng với WB chúng ta cũng có quan hệ hợp tác với IMF. đây là lĩnh vực hợp tác đòi hỏi sự nhạy bén và linh Họat của ta để vừa đạt được hiệu quả kinh tế mà lại đảm bảo chủ quyền an ninh quốc gia. NgoàI các tổ chức kinh tế có tính toàn cầu và khu vực trên, trong thời gian qua chúng ta cũng đã tham gia hội nhập khá tích cực dưới hình thức quan hệ song phương. Đáng chú ý là quan hệ của Việt Nam với Nhật, Mỹ và các quốc gia thuộc EU. Riêng Nhật Bản và các nước thành viên UE là những quốc gia có quan hệ tương đối thuận lợi với Việt Nam. Từ sau khi trở lại cung cấp viện trợ cho Việt Nam (1992) Nhật Bản luôn là nước cung cấp ODA lớn nhất,bạn hàng thương mại lớn nhất và là một trong ba nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Đối với UE, Việt Nam cũng là một trong những người nhận tàI trợ chính từ EU. Tháng 7/1995 Việt Nam và EU đã ký hiệp định khung về hợp tác. Nhiều quốc gia trong EU có quan hệ khá chặt chẽ với Việt Nam chẳng hạn như Pháp. Việc gia tăng quan hệ với các quốc gia tư bản phát triển có ý nghĩa lớn đối với chúng ta trong việc đáp ứng nguồn vốn và kỹ thuật, có thể xem đây là những đầu nguồn về dòng vốn đầu tư mà chúng ta cần có chiến lược tranh thủ thu hút. Trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam luôn tỏ ra thiện chí. Năm 1994 Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam và nhất là vào tháng 7 vừa qua Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết góp phần mở ra đIều kiện gia tăng quan hệ Việt - Mỹ cũng như quan hệ của Việt Nam với thế giới. Tuy vậy quan hệ hai bên vẫn còn chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố lịch sử và vẫn cón có thời gian để giảm bớt bất đồng. Nói tóm lại hơn 10 năm đổi mới vừa qua, nếu như nhìn dưới góc độ kinh tế đối ngoại thì đúng là thập kỷ của hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Thời gian đó tuy chưa dàI, cùng với những kết quả đạt được là những trả giá không nhỏ cho những yếu kém, ít hiểu biết trong quan hệ quốc tế hiện đại. Nói cách khác đó là những bàI học kinh nghiệm cả thành công và thất bại trên bước đường hội nhập, đó là hành trang cho ta vững bước đI vào giai đoại mới- đẩy nhanh hơn nữa hội nhập quốc tế. Thứ sáu việc thúc đẩy hội nhập trong tương lai ngoàI những nhân tố thuận lợi cơ bản trên còn một nhân tố quan trọng giúp ta nhanh chóng hoà nhập vào sự phát triển chung, đó là xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đã và đang là chủ đề chính của thời đại ngày nay. Có thể nói ngày nay sự phát triển kinh tế trở thành mục tiêu chiến lược của mỗi quốc gia, trong đó hợp tác là cách thức chủ yếu và ổn định là đIều kiện cần thiết cho phát triển. Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế dưới tác động khoa học kỹ thuật đã làm cho phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các quôc gia ngày một gắn bó, tuỳ thuộc vào nhau. Đồng thời do sự chạy đua vũ trang, nhất là vũ trang vũ khí hạt nhân trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã đẩy nhân loại đến một thảm họa khó lường và nguy cơ huỷ diệt của tất cả các bên khó tránh khỏi. Những đIều đó đã buộc các quốc gia phảI hợp tác với nhau để đảm bảo sự tồn tại, phát triển của mình. Tuy vậy hợp tác đI liền với cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh diễn ra trong sự ràng buộc, xâm nhập lẫn nhau, các quốc gia không thể phát triển nếu đứng tách riêng trong đIều kiện toàn cầu hóa ngày nay. Với xu hướng trên các quốc gia, trong đó có Việt Nam có đIều kiện tập trung phát triển kinh tế, hội nhập, hợp tác và cạnh tranh với nhau để cùng tồn tại và phát triển. b.Những khó khăn, thách thúc chủ yếu đặt ra cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập. Thứ nhất, về mặt kinh tế, trình độ phát trỉên của ta so với quốc tế còn thấp, lạc hậu. Hiện nay 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho đến năm 1999 nền kinh tế nước ta thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trong đó khu vực nông nghiệp chiếm 25,4% GDP, công nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh, chỉ còn khoảng 3%GDP, công nghiệp cũng giảm chỉ scòn 20%, và khu vực dịch vụ thì đặc biệt phát triển, nhất là lĩnh vực thông tin. Chính vì vậy năng suất lao động của ta thấp, sản phẩm làm ra giá thành cao, không có sức cạnh tranh. Ví dụ đường RS của Việt Nam giá Nhìn chung trong nền kinh tế của Việt Nam, về công nghệ hiện nay vô cùng lạc hậu, so với thế giơi chậm từ 50- 100 năm, hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình hiện nay của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4- 5 thế hệ. xuất xưởng năm 1999 là 340-400 USD/tấn nhưng giá nhập khẩu lại rẻ hơn từ 20-30%, tức ở mức 260-300 USD/tấn, giá sắt thép trong nước sản xuất bình quân 300 USD/tấn ,nhưng giá nhập khẩu chỉ 285USD/tấn v.v.. Sự yếu kém của ta không chỉ ở chất lượng và giá cả, mà còn ở cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng không có tính cạnh tranh cao. Hiện nay chúng ta chủ yếu xuất khẩu nguyên nhiên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cao su, chè, cà phê v.v.. các sản phẩm công nghiệp, nhất là những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao còn ít, sức cạnh tranh yếu. Chúng ta biết rằng chủ thể tham gia thực sự vào hội nhập là các doanh nghiệp. Trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ, yếu, yếu cả về khả năng quản lý doanh nghiệp lẫn khả năng, năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp của ta sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá chuyển sang phương thức kinh doanh mới còn lúng túng, nhất là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Hiện nay trong 6000 doanh nghiệp nhà nước chỉ có 5%làm ăn thực sự có hiệu quả. Rất nhiều xí nghiệp không có chiến lược phát triển dài hạn, công tác đầu tư nghiên cứu thị trường, sáng tạo mẫu mã mới theo yêu cầu người tiêu dùng chưa được đặt ra đúng mức. Các doanh nghiệp tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn, nhưng phần tuyệt đại bộ phận cũng là những doanh nghiệp vừa và nhỏ khả năng vốn và công nghệ cũng còn rất hạn chế, trong khi đó cơ chế chính sách khuyến khích bộ phận kinh tế này phát triển cũng chưa phải đã tạo ra cho họ môi trường thuận lợi. đó là chưa kể hệ thống thuế của ta, nhiều doanh nghiệp còn kêu quá cao.Điều này cũng làm cho giá thành của họ tăng, giảm năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế là nguy cơ lớn khi đẩy nhanh nhịp độ hội nhập. để hội nhập có hiệu quả vấn đề làm sao phải nâng cao được sức cạnh tranh thì các xí nghiệp mới có thể đứng vững trước sự xâm nhập của hàng hoá bên ngoài và từ đó mới có thể vươn mạnh ra thị trường thế giới. Vì vậy nhà nước cũng như doanh nghiệp cần có chính sách để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lực cạnh tranh, xem đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay nếu không sẽ không chạy kịp với lịch trình hội nhập vào AFTA. Thứ hai nền kinh tế thị trường hiện nay đã phát triển trong khi đó chúng ta mới chuyển sang kinh tế thị trường, vì vậy các yếu tố của thị trường cũng chỉ mới hình thành ở bước đầu, chưa phát triển. Hơn nữa nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đang nằm dưới sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập, chúng ta phải tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Các luật chơi chúng ta chưa thông thạo, thậm chí kiến thức kinh tế thị trường còn bất cập. đó là chưa kể chúng ta hội nhập để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tất yếu vấp phải sự chống đối, thù địch chứ không phải là sự cạnh tranh kinh tế đơn thuần. Thách thức này bộc lộ khá rõ trong quá trình hội nhập vừa qua. Do mới chuyển sang kinh tế thị trường trình độ cán bộ quản lý, nhất là các cán bộ làm công tác hội nhập còn mỏng và yếu vì vậy trong thực thi nhiệm vụ không chánh khỏi những sai lệch làm ảnh hưởng đến tiến trình chung. Hội nhập đặt ra yêu cầu cao đối với các nhà quản lý doanh nghịêp, bên cạnh kiến thức, năng lực kinh doanh phải hiểu biết về kinh tế quốc tế, nhất là thị trường quốc tế, tổ chức và hoạt động của các thể chế kinh tế quốc tế, các cam kết mà Việt Nam và các quốc gia khác đã thoả thuận.v.v.. Có thể nói nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được điều này. vì vậy trên thực tế đã có doanh nghiệp tuỳ tiện phá bỏ hợp đồng gây mất lòng tin với khách hàng quốc tế, tạo tâm lý e ngại khi làm ăn ở Việt Nam. Thứ ba, muốn hội nhập tốt một trong những điều kiện quan trọng là có bộ máy điều hành có hiệu quả. Tình trạng tham nhũng trong xã hội hiện nay đang trở thành quốc nạn, thực sự đang là vấn đề nan giải, nguy cơ lớn không những đối với thúc đẩy nói riêng mà còn đối với sự phát triển kinh tế nói chung. Nếu không cải cách bộ máy điều hành càng hội nhập chúng ta càng thua thiệt. Riêng trong lĩnh vực nhập khẩu công nghệ, theo bộ khoa học công nghệ, qua kiểm tra thử ở 42 cơ sở công nghệ cho thấy số công nghệ nhập về có tới 60-70% tân trang lại . Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu thì sự phối kết hợp giữa các bộ phận ban nghành, địa phương và các doanh nghịêp trong quá trình hội nhập chưa thực sự chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ. Chính phủ đã có chủ trương và chỉ đạo tích cực hội nhập, nhưng các doanh nghiệp còn chần chừ, thậm chí thờ ơ do quen với cách làm, cách kinh doanh cũ. Việc phối hợp giữa các bộ phận trong các loại hình đàm phán quốc tế hoặc tham gia vào các Họat động cụ thể ở các cấp hội nghị khác nhau chưa gắn bó, thậm chí còn hiện tượng ganh đua gây ra chồng chéo. Thực tế, nói không quá uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế chưa tạo thành bộ máy vận hành đồng bộ. Rõ ràng để nhanh hội nhập cần hoàn thiện khâu tổ chức đIều hành, tạo ra cơ chế phối hợp tốt giữa các cơ quan,các ngành,trong cả Họat động nghiệp vụ lẫn trong lĩnh vực thông tin tuyên truyền. Tình trạng tham nhũng, không hiệu quả của bộ máy đIều hành trên thực tế đã làm nản lòng các nhà kinh doanh nước ngoài.Riêng trong lĩnh vực tiếp nhận đầu tư nước ngoàI theo ông Shunzo osawa thuộc công ty Vinakyoei đã phảI chờ 3 năm mới nhận được giấy phép đầu tư.Rõ ràng để hội nhập có hiệu quả,bộ máy hành chính của ta cần được cảI cách tích cực. Thứ tư, cùng với cảI cách bộ máy hành chính,chúng ta cần phảI có hệ thống luật lệ,chính sách thống nhất phù hợp với thông lệ quốc tế mà vẫn đảm bảo được chủ quyền quốc gia.Đây là cáI khó của ta trong việc tham gia toàn cầu hoá.Có thể nói rằng cho đến nay tuy chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong công tác soạn thảo xây dựng ban hành pháp luật,nhưng hệ thống luật lệ,chính sách của Việt Nam liên quan đến hội nhập quốc tế vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập so với các quy chuẩn quốc tế.Trong lĩnh vực thương mại hệ thống các quy định về thuế quan và phi thuế quan của ta quá phức tạp lại hay đIều chỉnh bổ sung thậm chí thay đổi làm cho các đối tác giảm nhiệt tình kinh doanh.Chúng ta vẫn còn áp dụng nhiều quy định riêng trong hợp tác kinh tế quốc tế và ngược lại cũng còn không ít kẽ hở về pháp luật, về các chính sách,quy định để phía đối tác lợi dụng gây thiệt hại cho phía Việt Nam cũng như thất thoát nguồn thu nhà nước. Trong lĩnh vực liên quan đến đầu tư nước ngoàI cũng có nhiều ý kiến phàn nàn về hệ thống luật thể hiện ở 3 đIúm: -Việc áp dụng luật ở nhiều nơI, nhiều lúc còn tuỳ tiện.Các luật rất nhiều,song vẫn không đủ,không đồng bộ,lại vênh nhau.Các ngôn từ trong luật không rõ ràng gây ra kẽ hở và khó khăn cho người đIều hành. -Việc hiểu biết về luật,tôn trọng pháp luật còn nhiều bất cập.Thiếu tổ chức công khai văn bản luật và phán quyết của toà án hay quyết định của trọng tàI đã dẫn đến những hiện tượng thiếu lành mạnh trong vận dụng và thực thi pháp luật. Sự hạn chế trong hệ thống luật lệ như trên rõ ràng rất khó khăn cho việc đẩy nhanh qua trình hội nhập.Hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phảI tuân thủ các quy chế chung,mà trên thực tế nhiều quy định của ta không phù hợp thậm chí tráI ngược, cho nên các Họat động trong thực tiễn thường bị ách tắc,làm chậm tiến độ cho hợp đồng.Vấn đề đặt ra rõ ràng phảI kiện toàn, hiện đại xhoá hệ thống luật lệ cho phù hợp với việc xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại. Thứ năm,để đẩy nhanh hội nhập, vấn đề đặt ra phảI có chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội.Chúng ta thấy các quốc gia láng giêng đều có chiến lược phát triển hợp tác kinh tế quốc tế với các cam kết về lộ trình tự do hoá .Hàn Quốc đưa ra hẳn một chiến lược toàn cầu hoá nhằm chuẩn bị cho đất nước đương đầu với những thách thức của thế kỷ XXI. Chúng ta trong những năm qua vừa hội nhập vừa nghe ngóng để đIều chỉnh các cam kết.Đành rằng ta chưa có kinh nghiệm cùng với nhiều ràng buộc khác về an ninh chính trị, song cũng cần phảI có chiến lược tổng thể về hội nhập để các cấp, các ngành,các doanh nghiệp có phương hướng xác định,chủ động tham gia hội nhập.Do chưa có chiến lược mà thực tế có lúc chúng ta muốn đẩy nhanh nhưng có lúc lại có những chính sách biện pháp còn do dự. Thứ sáu,muốn đẩy nhanh hội nhập phảI có sự đồng tâm nhất trí của toàn dân.Tuy vậy phảI thấy rằng trong quá trình hội nhập vừa qua không phảI mọi người đều đã thấu hiểu,nhận thức được yêu cầu phảI mở cửa hội nhập.Những hiện tượng kéo theo hội nhập quốc tế đã nảy sinh ý kiến cho rằng toàn cầu hóa sẽ “ngoại hóa” đất nước.Trong những năm qua hàng hoá nước ngoàI tràn vào Việt Nam đã phần nào kéo theo cả nếp sống sùng ngoại.Khoảng cách phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng đI liền với các tệ nạn xã hội nổi lên chưa từng thấy làm ảnh hưởng sâu sắc đến thuần phong mỹ tục,đến bản sắc dân tộc.Có thể thấy những hậu quả kéo theo quá trình hội nhập đang là thách thức lớn của ta hiện nay.Nếu đẩy nhanh hội nhập mà không có cơ chế chính sách đI kèm để giảI quyết các hiện tượng này,thì hộ nhập không hẳn đã hiệu quả,đã thành công. III.Những quan đIểm và giảI pháp thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả . 1. Những quan đIểm chỉ đạo trong chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội IX:”Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích dân tộc,an ninh quốc gia,giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc ,bảo vệ môI trường” . -Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân;trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế ,của toàn xã hội,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. -Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác,vừa đấu tranh và cạnh tranh,vừa có nhiều cơ hội,vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo,khôn khéo và linh Họat trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng,vấn đề trường hợp cụ thể;vừa phảI đề phòng tư tưởng trì trệ,thụ động vừa phảI chống tư tưởng giản đơn ,nôn nóng. -Nhận thức đầy đủ đặc đIểm nền kinh tế nước ta,từ đó ra kế Họach và lộ trình hợp lý vừa phù hợp với trình độ phát triển đất nước,vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia;tranh thủ những ưu đãI dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. -Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu gĩư vững an ninh quốc phòng thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia,nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” đối với nước ta 2.Giải pháp chủ động hội nhập có hiệu quả. - Chủ động và khẩn trương chuyển dich cơ cấu kinh tế,đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh,phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta,ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng,hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới tạo ra những ngành,những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trong các nước cũng như trên thế giới,đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:thúc đẩy sự hình thành,phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hoá,dịch vụ,lao động,khoa học công nghệ,vốn,bất động sản... tạo môI trường kinh doanh thông thoáng bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế,tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý nền kinh tế ,đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tàI chính, ngân hàng. -Kết hợp chặt chẽ Họat động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại,trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ thực hiện đa phương hoá đa dạng hoá thị trường và đối tác tham gia rộng rãI các tổ chức quốc tế.Các Họat động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế quốc đối ngoại. -Tích cực đàm phán để ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO theo các phương án và lộ trình hợp lý,phù hợp với hoàn cảnh của nước ta là một nước đang phát trỉên ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới mọi mặt Họat động kinh tế ở trong nước. -Có kế Họach cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực vững vàng đồng thời cần có chính sách thu hút,bảo vệ và sử dụng nhân tài. -căn cứ vào nghị quyết của đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2001-2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với nộ trình cụ thể để các nghành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao khả năng cao cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. -kiện toàn uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền giúp thủ tướng chính phủ tổ chức ,chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế . c: kết thúc vấn đề Tóm lại hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu,là sự lựa chọn duy nhấtcho tất cả các quốc gia trên thế giới không loại trừ nó là quốc gia lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Hội nhập vừa tạo ra những cơ hội lớn vừa đặt ra cho mỗi quốc gia những thách thức không nhỏ. Chính vì vậy việc nghiên cứu’chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ‘ đối với việt nam là rất quan trọng làm sao để việt nam có thể hội nhập với quốc tế mà không bị hoà tan không bị kéo theo vòng xoáy của toàn cầu hoá bị các quốc gia lớn chèn ép bóp nghẹt. để việt nam có thể tận dụng tốt những cơ hội đồng thời tránh những nguy cơ, ý đồ xấu của kẻ thù của quá trình hội nhập mang lại. Thế kỉ XXI chắc chắn là thế kỉ của hợp tác ,phát triển với những cuộc sát nhập lớn, các liên minh quốc gia ngày càng mở rộng đến những quốc gia nhỏ bé nhất. Chính vì vậy việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cần thực hiện tốt và đẩy nhanh tiến trình ngay từ bây gìơ bằng các công việc cụ thể như :có chiến lược chủ động hội nhập, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách bộ máy quản lý . Qua việc nghiên cứu đề tài em đã thấy rõ được tình hình hội nhập của Việt Nam với những cơ hội và thách thức lớn . em tin rằng với sự sáng suốt của đảng của chính phủ và sự nỗ lực của tất cả các doanh nghiệp, các đoàn thể và sự ủng hộ của toàn dân thì chắc chắn việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thu được những thắng lợi lớn. Các tài liệu tham khảo chính 1. Văn kiện đại hội đảng VIII,IX. 2.trần văn hiển(kinh tế châu á-tbd số 3) :Đổi mới doanh nghiệp nhà nước- nâng cao khả năng hội nhập thị trường quốc tế của việt nam 3. võ văn lược-kim ngọc :các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới, Nxb chính tri quốc gia 4. Tạp chí cộng sản số4 tháng 2/2002. 5. Viện thông tin KHXH:toàn cầu hoá và khu vực hoá : cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển . 6. GS.TS dương phú hiệp- ts vũ văn hà:Toàn cầu hoá kinh tế . 7. nguyễN mại(tạp chí nghiên cứu- trao đổi): hội nhập kinh tế với thế giới vấn đề và giải pháp. 8.phạm thị tuý: toàn cầu hoá và những tác động (kinh tế thế giới ) 9. gs ts đỗ thế tùng:xu thế toàn cầu hoá kinh tế và vấn đề hội nhập quốc tế(nghiên cứu lý luận số 8)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10222.doc
Tài liệu liên quan