Chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp, Khu chế xuất, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia là việc mà mọi quốc gia trên thế giới đều thực hiện trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, đô thị hoá, là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển. Việt Nam ta cũng không thể đứng ngoài xu hướng đó. Việc Chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở nước ta được chú trọng từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, năm 1991, đặc biệt được đẩy mạnh từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, năm 1996, khi chúng ta đề ra mục tiêu tập trung đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
115 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả chuyển đổi đất nông nghiệp sang phát triển các khu công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển đổi đất nông nghiệp sang đất khu công nghiệp tại Trung tâm liên kết đầu tư và phát triển công nghệ cao HANAKA là không nhiều, có thể nói việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại đây là có hiệu quả về mặt môi trường.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CHUYỂN ĐỔI ĐẤT NÔNG NGHIÊP
SANG ĐẤT KHU CÔNG
3.1. Phương hướng phát triển các khu công nghiệp trong những năm tới.
Phát triển các KCN nhằm đáp ứng nhu cầu thu hút đầu tư, thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, đang là nhiệm vụ cấp bách hiện nay ở nước ta. Từ thực tiễn hoạt động của các KCN ở Việt Nam những năm qua cho thấy những ưu thế đặc biệt quan trọng của loại hình kinh tế này, minh chứng cho những quan điểm lý luận của Đảng về phát triển KCN, KCX ở Việt Nam.
Tuy đạt được một số thành tựu nhưng sự thành công của mô hình hoạt động các khu công nghiệp không đồng đều. Các khu công nghiệp ở miền Bắc, miền Trung gặp không ít khó khăn, các khu công nghiệp ở vùng trọng điểm phía Nam nhìn chung phát triển tốt, nhưng vẫn đang bộc lộ nhiều vấn đề phải tiếp tục được nghiên cứu hoàn thiện. Tính hợp tác liên kết giữa các tỉnh trong vùng nhằm phát triển các khu công nghiệp cũng còn rất yếu, nhiều tỉnh "xé rào" để xây dựng cơ chế ưu đãi riêng nhằm tạo ra các điều kiện cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp của tỉnh mình. Việc này thể hiện sự không nhất quán, thiếu ổn định của môi trường đầu tư chung.
Vấn đề quy hoạch các khu công nghiệp trên cả nước tại các vùng kinh tế ở các tỉnh chưa thật sự khoa học, còn thiếu tính thực tế và tính liên kết. Thiếu sự đồng bộ và quan tâm đúng mức giữa quy hoạch trong và ngoài khu công nghiệp.
Hành lang pháp lý cho sự phát triển các khu chế xuất và khu công nghiệp còn nhiều bất cập, mâu thuẫn. Phân cấp tổ chức quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp giữa trung ương địa phương chưa thật rõ ràng, còn chồng chéo. Cần thể chế hóa hơn nữa vấn đề thực hiện cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ" ở các khu công nghiệp.
Mười lăm năm qua, chúng ta chưa xác lập hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá chế độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động của Ban quản lý các khu công nghiệp. Tại thành phố Hồ Chí Minh, Ban quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp đã chủ động đề xuất và xây dựng cho mình những quy định về chế độ tự bảo đảm kinh phí gần 4 năm, nhưng cho đến nay vẫn chưa được tổng kết đánh giá.
Các chính sách về thuế, thuê đất, vay vốn ngân hàng, thủ tục xuất nhập khẩu... có nhiều điểm còn hạn chế gây trở ngại cho hoạt động của các khu chế xuất, khu công nghiệp và khu công nghệ cao.
Vấn đề quản lý và xử lý môi trường tại các khu công nghiệp còn là điểm yếu trong hoạt động tại các khu công nghiệp. Nhiều khu công nghiệp chưa có, hoặc chưa có đầy đủ hệ thống xử lý môi trường nhưng đã đi vào vận hành, đã làm cho môi trường sống ở nhiều vùng bị ô nhiễm. Đời sống công nhân chưa được quan tâm đúng mức. An ninh trật tự ở nhiều vùng công nghiệp phức tạp. Đình công, bãi công diễn ra ở nhiều nơi, tác động xấu đến môi trường đầu tư. Cơ chế chính sách có liên quan đến lao động, đến đình công, bãi công thiếu đồng bộ, chậm đổi mới... nhiều điểm lạc hậu, làm cho cơ chế chính sách được ban hành chậm đi vào thực tiễn. Lao động phổ thông cũng bị thiếu hụt ở hầu hết các khu công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm, đặc biệt ở phía Nam, làm giảm khả năng tăng quy mô và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp... Các khu công nghệ cao gặp nhiều khó khăn trong phát triển, do vướng cơ chế chính sách; thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao; công tác vận động xúc tiến đầu tư vào các khu công nghệ cao chưa có hiệu quả. Các vấn đề xã hội của quá trình phát triển các khu công nghiệp chưa có biện pháp để giải quyết tốt như vấn đề đền bù giải tỏa đất đai, vấn đề tái định cư, ổn định cuộc sống của nhân dân vùng bị giải tỏa...
Những vấn đề kể trên đang là những trở ngại cho sự phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp và khu công nghệ cao ở nước ta. Để các khu công nghiệp phát triển nhanh, đóng góp nhiều và có hiệu quả hơn nữa, cần tìm kiếm một hệ thống các giải pháp nhằm phát huy những thành tựu, khắc phục những tồn tại, tận dụng được các cơ hội, hạn chế các nguy cơ thách thức đối với quá trình phát triển các khu công nghiệp.
Trong những năm vừa qua chúng ta đã hết sức cố gắng đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhờ đó bộ mặt kinh tế - xã hội của nước ta đã có sự thay đổi hết sức căn bản so với trước. Nếu năm 1991 GDP cả nước mới đạt khoảng 15 tỷ USD thì nay là 55 tỷ USD, bình quân đầu người chỉ có 200 USD thì hiện nay bình quân đầu người là 600 USD, kim ngạch xuất khẩu của nước ta lúc đó mới đạt 2 tỷ USD, thì nay đã là khoảng 30 tỷ USD, tỷ lệ hộ đói nghèo từ 58% đã giảm xuống còn khoảng 21%, dân số sống ở khu vực thành thị đã tăng từ 19% lên 27,2%.
Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và thế giới, chúng ta còn thua họ rất xa. Bởi vậy, muốn thoát khỏi tụt hậu, và sớm trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 như nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra, chúng ta không còn con đường nào khác là phải tập trung đẩy nhanh hơn nữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá, đó là yêu cầu khách quan và cấp bách nhất của sự phát triển đất nước.
Ngày 21 tháng 8 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1107/QĐ - TTg về việc phê duyệt quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Theo đó, những nội dung chủ yếu đã được khẳng định tại Quyết định này là mục tiêu (mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể) và việc hình thành các KCN trên địa bàn lãnh thổ cùng với Danh mục các KCN dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015; Danh mục KCN dự kiến mở rộng.
Biểu 3.1: Diện tích KCN dự kiến thành lập đến năm 2015
(Theo Quyết định 1107/QĐ- TTg ng ày 21/08/2006)
Đơn vị tính: ha
Vùng
Diện tích KCN dự kiến thành lập mới từ 5/2008-2015
Diện tích KCN đã thành lập đến tháng 5/2008
Tổng cộng
Đồng bằng Sông Hồng
15.239
10.046
25.285
Trung du miền núi Bắc Bộ
1.837
2.801
4.638
Bắc Trung Bộ
1.649
779
2.428
Duyên hải Nam Trung Bộ
5.221
3.651
8.872
Tây Nguyên
724
463
1.187
Đông Nam Bộ
9.811
22.352
32.163
Đồng bằng Sông Cửu Long
5.979
5.027
11.006
Cả nước
40.460
45.042
85.502
Nguồn: Quyết định 1107/QĐ- TTg ng ày 21/08/2006
Mục tiêu phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các KCN có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp; đưa tỉ lệ đóng góp của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp lên khoảng 39 - 40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn tiếp theo; tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp của các KCN lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn vào giai đoạn tiếp theo.
Phát triển các khu công nghiệp phải có tầm nhìn dài hạn lấy hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường là mục tiêu cao nhất, phù hợp với định hướng phát triển và phân bố lực lượng sản xuất hợp lý của cả nước và các vùng lãnh thổ.
Phát triển các khu công nghiệp với nhiều hình thức hoạt động và đa dạng hóa các hình thức đầu tư tăng cường sự tham gia của các thành phần kinh tế và hợp tác quốc tế, đi liền với đổi mới, hoàn thiện các biện pháp quản lý, gắn liền với việc đảm bảo quốc phòng - an ninh.
Từ nay đến năm 2010 và 2015 chúng ta cần tiếp tục tập trung đầu tư cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, từ đó chuyển mạnh cơ cấu kinh tế của nước ta theo hướng hiện đại là dịch vụ - công nghiệp và nông nghiệp. Theo dự tính đến sau năm 2010 đất nước ta phải có khoảng 500 ngàn doanh nghiệp các loại, thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, trong giai đoạn này dự kiến chúng ta sẽ xây dựng thêm khoảng 350 khu công nghiệp, khu chế xuất nữa.
Sự nghiệp trên đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục làm và làm mạnh hơn việc phân bố lại nguồn lực đất đai và lao động trong cả nước, để sử dụng hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
3.2 Quan điểm đánh giá chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Trong những năm sắp tới việc chuyển đổi mục đích sử dụng sẽ tiếp tục diễn ra không những mạnh mẽ hơn, mà còn trên một phạm vi rộng rãi hơn, do đó việc đánh giá hiệu quả chuyển đổi mục đích sử dụng đất cần phải sát thực hơn.
3.2.1. Quan điểm phát triển
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, tặng vật của tự nhiên cho con người, là điều kiện của lao động; đất đai kết hợp với lao động là nguồn gốc sinh ra mọi thứ của cải vật chất của xã hội. William Petty đã từng nói: "đất đai là cha, còn lao động là mẹ của mọi của cải vật chất".
Như vậy, đất đai là cái nôi để cho con người và xã hội loài người tồn tại và phát triển. Con người sinh ra từ đất, lớn lên nhờ đất và khi mất đi lại trở về với đất.
Trong nền kinh tế thị trường đất đai là một trong 4 yếu tố chủ yếu hợp thành đầu vào của quá trình sản xuất (đất đai - lao động - vốn - công nghệ). Tuy nhiên, vai trò của đất đai trong từng ngành, từng lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có khác nhau.
Đất đai có hạn, không thể sản sinh thêm vì vậy cần phải tận dụng đặc điểm sức sản xuất không có giới hạn của đất đai và ưu thế của thời đại (sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ ) để nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, cân đối hợp lý nguồn lực đất đai cho các nhu cầu vừa giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm vừa giải quyết nhu cầu phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tức là phải dựa vào tiến bộ của khoa học - công nghệ để cải tạo, bồi dưỡng đất đai, làm cho độ phì nhiêu của nó không ngừng tăng, từ đó giúp tăng năng suất cây trồng, mặt khác cũng dựa vào tiến bộ của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học để tạo ra giống cây trồng, con vật nuôi mới có năng xuất cao hơn, cho sản phẩm có chất lượng hơn, nhờ đó trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp (1ha) chúng ta có thể tạo ra một khối lượng nông sản lớn hơn nhiều lần so với trước (cả về giá trị cũng vậy). Như vậy với diện tích đất nông nghiệp bằng 60-80% so với trước song chúng ta vẫn có thể tạo ra một khối lượng nông sản đủ nuôi sống một lượng dân số đông hơn hiện nay, với chất lượng tốt hơn. 20-30% diện tích đất nông nghiệp kia có thể chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ, là những lĩnh vực tạo ra được giá trị gấp hàng trăm, hàng nghìn lần so với đất làm nông nghiệp, tạo ra số việc làm nhiều hơn hàng chục lần so với để đất làm nông nghiệp, và cũng đem lại thu nhập cao hơn, ổn định hơn cho người lao động gấp nhiều lần.
Việc lựa chọn đất đai chuyển đổi cần chú ý lựa chọn đất xấu, ít màu mỡ để chuyển đổi, hạn chế tối đa việc lấy đất nông nghiệp màu mỡ chuyển đổi sang đất khu công nghiệp vì điều đó ảnh hưởng không tốt tới an ninh lương thực.
Việc lựa chọn đất đai chuyển đổi còn phải tính đến vị trí của khu vực chuyển đổi so với các đô thị. Để đảm bảo cho môi trường sống đông dân cư tại các đô thị được an toàn chúng ta nên lựa chọn khu vực chuyển đổi xa các khu đô thị để không ảnh hưởng tới sức khoẻ của dân cư.
Nguồn nguyên liệu là một nhân tố quan trọng trong việc lựa chọn xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất. Việc lựa chọn địa điểm gần nguồn nguyên liệu có ý nghĩa to lớn trong công tác vận chuyển, từ đó giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nói cách khác là, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, khoa học chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đất nước, cần mạnh dạn chuyển một bộ phận đất nông nghiệp sang làm công nghiệp và dịch vụ (xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, nhu cầu cộng đồng và lợi ích quốc gia). Đây thực chất là thực hiện việc phân bổ lại nguồn lực đất đai giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, để sử dụng hợp lý hơn, hiệu quả hơn nguồn lực quý giá này, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, sớm đưa nước ta thành một nước công nghiệp.
3.2.2. Đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích
Để có sự phát triển, trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cần có chính sách để đảm bảo lợi ích thoả đáng. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp có liên quan đến nhiều mối quan hệ lợi ích: Lợi ích xã hội; Lợi ích của người sử dụng đất bị chuyển đổi và Lợi ích của các nhà đầu tư.
Về phía xã hội, chuyển đổi mục đích sử dụng đất sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng phát triển và nâng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá do đó phát triển kinh tế – xã hội tốt hơn, tăng trưởng kinh tế cao hơn, đưa đất nước tiến nhanh hơn trên con đường dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Về phía người dân có đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất vì lợi ích phát triển đất nước nhưng nó ảnh hưởng đến lợi ích cơ bản, trực tiếp đến đời sống và có thể nói là sống còn của mỗi người dân có đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Họ sẽ không còn ruộng đất để sản xuất, không có việc làm truyền thống mà họ quen thuộc. Do đó, nếu không đảm bảo cho họ được việc làm, có thu nhập thường xuyên và ổn định thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn. Chính vì thế, trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phục vụ khu công nghiệp giải quyết việc làm, thu nhập, đời sống cho người dân có đất bị thu hồi là vấn đề đặt ra hàng đầu. Việc đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá sẽ đi liền với việc mở rộng chuyển mục đích sử dụng đất của người dân để phục vụ quá trình phát triển đó. Điều này cũng có nghĩa là số người không có việc làm do mất đất sẽ mỗi năm một tăng và sẽ còn diễn ra trong một thời gian tương đối dài. Giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi để phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị,... vừa là nhiệm vụ cấp bách thường xuyên, vừa là nhiệm vụ lâu dài trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại ở nước ta, đòi hỏi phải quán triệt một cách đầy đủ và nghiêm túc. Đây chính là thực hiện một cách sinh động chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội theo nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là các vấn đề xã hội bức xúc trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại.
Về phía nhà đầu tư, do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của dân nên sẽ có đất để phát triển khu công nghiệp thu lợi nhuận cao hơn khi chưa vào khu công nghiệp.
Quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất diễn ra thành công hay không phụ thuộc vào việc giải quyết các mối quan hệ lợi ích này có đúng đắn hay không. Về mặt nguyên tắc, lợi ích xã hội là chủ đạo, nó đảm bảo cho sự phát triển chung của toàn xã hội, nhưng lợi ích của người dân có đất bị thu hồi là cơ sở, là nền tảng xuất phát. Bởi lẽ, người dân đang sinh sống yên ổn trên mảnh đất của họ, muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất đó để phục vụ lợi ích chung, phải đảm bảo cuộc sống bình thường cho họ, nếu như không nói là phải có được cuộc sống tốt hơn. Vì thế, để chuyển đổi mục đích sử dụng đất, trước hết phải giải quyết được lợi ích của người dân, coi đó là gốc rễ thắng lợi của chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay, chủ trương lấy đất để phát triển khu công nghiệp được nhiều người có đất chuyển đổi mục đích sử dụng ủng hộ và sẵn sàng vì lợi ích chung. Nguyên nhân là người dân ở những nơi này đã được giải quyết thoả đáng lợi ích, có được việc làm mới, có thu nhập ổn định, có đời sống đảm bảo như trước, thậm chí còn khang trang hơn trước khi chuyển đổi mục đích sử dụng. Tuy nhiên cũng có không ít trường hợp: bất bình, phản đối, khiếu nại không chuyển mục đích sử dụng đất do giải quyết chưa thoả đáng lợi ích của người có đất bị thu hồi. Đó là sự không công bằng giữa các dự án, giữa các loại đất, các loại hộ, …
Vì vậy điều quan trọng là cán bộ địa phương làm công tác liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải công tâm, trong sạch, liêm khiết và Nhà nước phải công khai, minh bạch xây dựng và thực hiện chính sách trên cơ sở quán triệt quan điểm kết hợp hài hoà các lợi ích.
3.2.3. Tuân theo nguyên tắc thị trường, đồng thời Nhà nước tạo môi trường và thực hiện điều tiết vĩ mô
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chuyển mục đích sử dụng đất phục vụ quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá phải được thực hiện cơ chế kinh tế thị trường, nguyên tắc pháp luật và chính sách phù hợp. Chính vì thế việc chuyển mục đích sử dụng đất phải đảm bảo tuân thủ hai yêu cầu tuân theo nguyên tắc thị trường và tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước
Phải tuân theo nguyên tắc thị trường để thực hiện việc bồi thường, đền bù, thu hồi đất, giải quyết việc làm thu nhập và đời sống của người dân có đất chuyển mục đích sử dụng đất. Điều này thể hiện trước hết ở giá cả đền bù giải toả và giá đất phải được hình thành trên nguyên tắc thoả thuận giữa nhà nước với người dân, giữa các doanh nghiệp với người dân.
Đồng thời, theo nguyên tắc thị trường, cũng đòi hỏi người lao động phải nâng cao tính chủ động trong việc tìm việc làm, sử dụng tiền đền bù để có thu nhập ổn định, cùng nhà nước để giải quyết những yêu cầu bức xúc về việc làm, thu nhập, và sớm ổn định đời sống của bản thân và gia đình.
Phải tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế, tạo nên sự đồng bộ, hợp lý của hệ thống chính sách giải quyết lợi ích cho người nông dân và các doanh nghiệp có liên quan.
3.2.3. Quan điểm bảo vệ môi trường và sử dụng đất có hiệu quả.
Ô nhiễm môi trường và suy thái đất đai đang là một vấn đề đang được toàn thế giới quan tâm. Chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất khu công nghiệp là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến môi trường. Đất nông nghiệp mất đi đồng nghĩa với việc mất đi một nguồn cung cấp cây xanh và không gian thoáng rộng. Đất công nghiệp hình thành gắn với nguồn nước, khí thải và nhiệt độ trong quá trình hoạt động của nhà máy. Những chất thải này sẽ tác động trực tiếp tới nguồn nước, bầu không khí và đất đai. Do vậy ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường. Do vậy cần phải có các biện pháp bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả sử dụng đất
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển đổi đất nông nghiệp sang phát triển các khu công nghiệp
3.3.1. Xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Việc quy hoạch sử dụng đất nói riêng và tổ chức lãnh thổ nói chung phải phù hợp với tầm nhìn tổng thể đặt trong mối quan hệ với khu vực, với cả nước, quốc tế. Việc quy hoạch sử dụng đất phải kết hợp cải tạo với xây dựng và mở rộng mới, đồng thời bảo đảm tốt điều kiện môi sinh, môi trường dựa trên quan điểm thâm dụng, tiết kiệm, hợp lý và bồi bổ đất.
Phải tận dụng triệt để đất phi nông nghiệp và đất nông nghiệp có năng suất thấp, phải tính toán cân nhắc toàn diện lựa chọn bước đi hợp lý khi chuyển đổi đất nông nghiệp sang các mục đích khác, bảo đảm tính tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng đất.
Đối với khu vực đất nông nghiệp được quy hoạch cho các dự án xây dựng, việc sử dụng đất phải hết sức hợp lý. Cần phân đợt xây dựng rõ ràng để tránh tình trạng để hoang hóa đất đai, đồng thời duy trì việc sản xuất nông nghiệp tạm thời tại các khu vực này trong khi chờ đợi việc xây dựng. Quá trình thực hiện việc giao đất, thuê đất phải được theo dõi, quản lý chặt chẽ để phát hiện ra những trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích, để hoang hóa... sau đó phải thu hồi và chuyển sang sử dụng vào mục đích khác.
Về lâu dài, công nghiệp vẫn còn đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển trong những năm trước mắt (thể hiện qua tỷ lệ phần trăm đóng góp cho GDP khá cao). Từ kinh nghiệm bố trí các khu công nghiệp đã gây ra ô nhiễm đáng kể cho khu dân cư lân cận, việc quy hoạch phân bố các khu công nghiệp mới phải đưa ra khỏi khu dân cư tập trung quá đông đúc. Tùy theo tính chất ngành công nghiệp, việc bố trí khu công nghiệp phải được xem xét kỹ lưỡng để tránh tình trạng khắc phục các hậu quả của phát triển công nghiệp sau này, phải đưa các khái niệm về phát triển bền vững vào đề án quy hoạch. Số lượng khu công nghiệp phát triển chỉ nên ở mức độ vừa phải và cần tính toán dựa trên mối tương quan về phát triển công nghiệp trong vùng. Ưu tiên phát triển các ngành mũi nhọn, công nghiệp hiện đại và tiên tiến có qui mô phù hợp.
+ Loại công nghiệp sạch, công nghiệp gây ô nhiễm ở mức thấp có thể xử lý được, không chiếm nhiều đất, lượng vận chuyển nguyên liệu và sản lượng hàng hóa không lớn, vẫn cho tiếp tục tồn tại và phát triển có mức độ trong khu vực nội thành. Loại TTCN không gây ô nhiễm nên giữ lại ở nội thành nhằm tận dụng tay nghề và giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
+ Loại công nghiệp gây ô nhiễm môi trường về hơi độc, khói bụi, nước thải, tiếng ồn được quy hoạch từng bước chuyển ra ngoài vào các vùng ven và ngoại ô, cách ly khu dân cư theo đúng quy phạm. Các biện pháp xử lý ô nhiễm phải dựa vào chỉ tiêu bắt buộc khi cấp đất và cấp giấy phép xây dựng.
Việc bố trí các khu công nghiệp mới phải dựa trên quan điểm phát triển lâu dài và bền vững. Do vậy cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng các dự án phát triển, nhất là các đánh giá tác động của các dự án này đối với môi trường và xã hội, phát huy vai trò của quần chúng trong việc đánh giá các tác động này. Việc xét duyệt các dự án phát triển cần có sự tham gia đầy đủ các cơ quan ban, ngành có chức năng hoặc liên quan.
3.3.2. Các giải pháp tạo việc làm cho người nông dân bị mất đất
Để tạo việc làm cho nông dân bị chuyển đổi mục đích sử dụng nông nghiệp cần phải có các giải pháp đồng bộ:
Phát triển các khu công nghiệp ở từng địa phương phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và vùng kinh tế.
Trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, thì mới giải quyết tốt mối quan hệ giữa các khu dân cư với phát triển sản xuất công nghiệp và bảo vệ môi trường; kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội mới khai thác và sử dụng có hiệu quả; tiết kiệm đất đai; giảm chi phí sản xuất; nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh; tạo điều kiện cho cộng đồng dân cư làm dịch vụ phát triển công nghiệp.
Với đối tượng người lao động, khó có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi bị chuyển đổi mục đích sử dụng, Nhà nước cần có chính sách cấp một phần đất trong hoặc sát với khu công nghiệp để họ có thể tự tổ chức các hoạt động dịch vụ như xây nhà cho thuê, dịch vụ ăn uống, sửa chữa phương tiện xe đạp, xe máy... nhằm tăng mức thu nhập của người lao động.
Đẩy mạnh đào tạo, dạy nghề hoặc du nhập nghề mới cho lao động mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thu hút họ vào các khu công nghiệp và tự tạo việc làm.
Đẩy mạnh phổ cập giáo dục bậc trung học và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp không có việc làm khi bị chuyển đổi mục đích sử dụng nông nghiệp, nhất là lao động trẻ dưới 35 tuổi để họ có đủ trình độ cho các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tuyển dụng. Có cơ chế hỗ trợ các trung tâm dạy nghề tại địa phương để đào tạo nghề có địa chỉ và đạt chất lượng cao. Đào tạo và du nhập một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như dệt chiếu, đan mây tre, thêu, thảm... và các ngành dịch vụ phục vụ đời sống dân cư, để các tổ chức kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể tự sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm và ổn định đời sống.
Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về tuyển dụng lao động nông nghiệp của các dự án sử dụng đất nông nghiệp của địa phương.
Hầu hết các khu công nghiệp không chỉ có lao động kỹ thuật cao, mà còn có cả lao động giản đơn, nên doanh nghiệp phải có trách nhiệm tiếp nhận lao động nông nghiệp có trình độ văn hoá và chuyên môn thấp vào các vị trí thích hợp để vừa có lợi cho doanh nghiệp và có lợi cho địa phương. Các cơ quan quản lý Nhà nước tăng cường phối hợp kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng lao động nông nghiệp của địa phương trong, khu công nghiệp. Có cơ chế, chính sách khuyến khích về vật chất, tinh thần đối với cơ quan, doanh nghiệp thu hút nhiều lao động trên địa bàn.
Hội Nông dân các cấp thực sự phải là tổ chức nòng cốt, đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm việc làm và tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân.
Trước mắt, các cấp Hội phải tiến hành điều tra, khảo sát từng hội viên để tìm ra nhu cầu và khả năng nghề nghiệp của người nông dân. Trên cơ sở khảo sát Hội Nông dân chủ trì và phối hợp với chính quyền các cấp để cùng các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp và đơn vị xuất khẩu lao động có uy tín tổ chức đào tạo và giải quyết việc làm, xúc tiến các đề án kinh tế dài hạn có tính khả thi cho hộ gia đình có đất bị thu hồi.
3.3.3. Cơ chế chính sách về đền bù và bồi thường thiệt hại
Vấn đề đền bù và bồi thường thiệt hại hiện đang còn nhiều bất cập. Những tranh chấp và khiếu kiện hiện nay liên quan rất nhiều đến việc đền bù và bồi thường thiệt hại của người dân có đất bị thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng. Giá đất đền bù chưa sát với giá thị trường, đặc biệt là giá đất nông nghiệp quá thấp. Đây là vấn đề phổ biến trong đền bù và bồi thường thiệt hại hiện nay. Giá đất đền bù chưa thể hiện được sự công bằng. Người dân bị thu hồi đất sau khi nhận tiền đền bù của nhà nước, không đủ mua lại một phần nhỏ đất mà họ vừa giao cho nhà nước ngay trên mảnh đất mà họ đã sinh sống. Hơn nữa, khoản chênh lệch này phần lớn rơi vào túi của các chủ dự án chứ không phải chủ yếu vào Ngân sách Nhà nước, dẫn đến sự bất bình trong dân cư. Quan hệ giao dịch đất đai còn mang nặng tính chất hành chính, nặng về ép buộc, thậm chí cưỡng chế mà không dựa trên cơ sở thoả thuận. Điều này thể hiện ở giá đất thu hồi không sát giá thị trường, Nhà nước ép giá đối với dân; tính công khai chưa được đảm bảo. Chính vì thế, trong cơ chế chính sách đền bù và bồi thường cho người dân bị thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, chính sách đền bù và bồi thường thiệt hại phải đảm bảo tính đủ giá trị quyền sử dụng đất cho người dân có đất bị thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng. Giá trị quyền sử dụng đất này phải được xây dựng trên cơ sở mặt bằng giá cả tính đến lợi ích thoả đáng cho người dân.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các luật và các chính sách nói chung cũng như luật đất đai và chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nói riêng được xây dựng và thực hiện đều trên cơ sở thực hiện các yêu cầu của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều 55 và 56 luật đất đai (năm 2003) nói rõ: giá đất do Nhà nước qui định trên cơ sở: đảm bảo "sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường". " Chính phủ qui định phương pháp xác định giá đất; khung giá các loại đất cho từng vùng, theo từng thời gian". "Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cơ sở phương pháp và khung giá đó xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương trình hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến trước khi quyết định".
Trong việc xác định giá quyền sử dụng đất để đền bù thiệt hại cho người dân, các địa phương cần quán triệt đầy đủ quy định này.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc địa tô chênh lệch hai đối với đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng và phần chênh lệch này phải tập trung vào ngân sách nhà nước.
Khi chuyển từ đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, rõ ràng giá đất có sự thay đổi. Do có san lấp, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, giao thông, điện, nước nên giá trị đất đai tăng lên. Chính vì thế, nhà nước cần có tính toán đầy đủ sự gia tăng này để bù đắp chi phí. Phần còn lại phải tập trung vào ngân sách nhà nước. Có sự điều tiết như thế mới đảm bảo được sự công bằng giữa người dân có đất bị thu hồi với các đơn vị được thu nhận đất, khắc phục được tình trạng bất hợp lý hiện nay giữa giá đất nông nghiệp thu hồi với giá đất, giá thuê nhà xưởng, mặt bằng sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng.
Để thực hiện được biện pháp này, các cơ quan nhà nước địa phương phải trực tiếp thu hồi đất, trên cơ sở đó thực hiện việc san lấp mặt bằng và giao đất cho chủ đầu tư theo giá cả hợp lý để khắc phục tình trạng chênh lệch giá quá mức không để các chủ dự án đầu tư thu hồi đất. Thực tiễn đã cho thấy, nếu để cho chủ dự án đầu tư giải phóng mặt bằng sẽ gây ra nhiều phức tạp. Phần vì để được việc, các chủ đã thoả thuận với dân, cùng một địa bàn, song có dự án trả giá đền bù cao, có dự án trả giá đến bù thấp. Điều này gây nên sự thắc mắc, khiếu kiện trong dân, vừa làm mất ổn định về xã hội vừa kéo dài thời gian giải phóng mặt bằng.
Mặt khác không ít chủ đầu tư hứa với dân nhưng không thực hiện. Trong khi đó, người dân không biết ai, cứ Nhà nước mà khiếu kiện.
Thứ ba, áp dụng nguyên tắc thoả thuận giá
Việc thu hồi đất là vì mục tiêu phát triển chung mà lợi ích cuối cùng là người dân được hưởng, song đối với những đối tượng trực tiếp có đất bị thu hồi phải chịu sự xáo trộn về việc làm, thu nhập và đời sống. Vì thế, để người dân thực hiện lợi ích chung, Nhà nước phải đảm bảo lợi ích trước mắt và thiết yếu của họ. Vì thế vấn đề giá cả đất thu hồi phải được xác lập trên nguyên tắc thoả thuận giữa người dân với các cơ quan thực thi của Nhà nước.
3.3.4. Cơ chế chính sách liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển khu công nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, các chủ đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất,... cần đề cao trách nhiệm trước dân. Trong các nghị định có liên quan đến vấn đề này cần quy định rõ:
Thứ nhất, những gì đã cam kết, đã hứa trước dân phải được chủ đầu tư và doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Xoá bỏ tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, gây mất lòng tin đối với người dân.
Thứ hai, cần quy định thời gian sử dụng lao động có đất bị thu hồi của địa phương làm việc trong các doanh nghiệp để khắc phục tình trạng thu hút lao động chỉ là hình thức để rồi sau một thời gian ngắn lại dãn thải lao động.
Thứ ba, khi xây dựng phương án đầu tư của từng dự án, phải ghi rõ các khoản chi phí đào tạo nghề cho người có đất bị thu hồi một cách cụ thể, rõ ràng, công khai để người dân biết và giám sát quá trình thực hiện.
Thứ tư, chủ động phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ sở đào tạo để tuyển sinh, tổ chức các lớp dạy nghề cho người dân có đất bị thu hồi tại doanh nghiệp.
3.3.5 Công tác đào tạo và công tác cán bộ
Giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để phát triển các khu công nghiệp... là việc làm phức tạp, nhạy cảm. Do đó cần phải có đội ngũ cán bộ có chất lượng cao thực hiện. Vì thế, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ để đảm bảo người thực thi công vụ có tính chất quyết định cho sự thắng lợi. Công tác đào tạo, lựa chọn, bố trí cán bộ để thực hiện nhiệm vụ này cần chú ý những yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, lựa chọn những cán bộ có đủ phẩm chất đạo đức để thi hành công vụ. Thực tiễn hiện nay cho thấy, những sai phạm về quản lý đất đai, triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng,....đều xuất phát từ chỗ cán bộ không giữ được phẩm chất đạo đức, lợi dụng chức quyền, chiếm đoạt đất công và tham nhũng sinh ra. Do đó, cần phải có biện pháp giáo dục và cơ chế xử lý nghiêm minh để giáo dục cán bộ giữ vững phẩm chất đạo đức.
Thứ hai, cần giáo dục tinh thần trách nhiệm của cán bộ trong việc đảm bảo đời sống, thu nhập, việc làm của người dân có đất bị thu hồi. Trong việc thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, giải quyết việc làm, đảm bảo thu nhập và đời sống cho người dân có đất bị thu hồi để chuyển đổi mục đích sử dụng hiện đang có nhiều điều bất hợp lý, đưa người dân đến những khó khăn trong đời sống. Những khó khăn này chỉ được phát hiện và xử lý kịp thời khi đội ngũ cán bộ có liên quan tới công tác này thật sự quan tâm tới tình cảnh của người dân, coi việc giải quyết việc làm, thu nhập, đời sống của họ như của chính gia đình mình.
Thứ ba, cần nâng cao năng lực công tác của đội ngũ cán bộ các cấp, cả ở tầm vĩ mô và cơ sở. Đối với cấp vĩ mô, cần bồi dưỡng và lựa chọn được những cán bộ có năng lực và hiểu biết để hoạch định chính sách, sửa đổi bổ sung và hoàn thiện những điểm còn chưa hợp lý. Đối với cán bộ cơ sở, cần nắm được nghiệp vụ xây dựng và thi hành các văn bản pháp luật quản lý đất đai, xây dựng và quản lý hệ thống thông tin đất đai rõ ràng, cập nhật, minh bạch, nắm chắc được chế độ chính sách của nhà nước và những quy định trong việc giải phóng mặt bằng, đền bù để tổ chức thực hiện đảm bảo sự công minh và công bằng, vì lợi ích của người dân có đất bị thu hồi.
3.3.6. Công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục
Trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, vấn đề chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp là tất yếu. Việc thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng dẫn đến nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp. Do chưa có nhiều kinh nghiệm, cho nên có lúc, có nơi xử lý vấn đề này còn những hạn chế, thiếu sót trong tổ chức đời sống, đảm bảo thu nhập và giải quyết việc làm cho người dân, đặc biệt là nông dân nông thôn, vùng ven đô thị. Từ đó làm cho quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá diễn ra ở nhiều địa phương gặp khó khăn, gây ra những mâu thuẫn giữa người dân có đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng với Nhà nước, với các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp... Trước tình trạng đó, nhiều xu hướng tư tưởng phức tạp nảy sinh, ảnh hưởng tới tiến độ đẩy nhanh công nghiệp hoá, đô thị hoá trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương. Vì thế, việc giáo dục, nâng cao nhận thức cho người dân cũng như đội ngũ cán bộ công chức và các doanh nghiệp có liên quan tới vấn đề này là yêu cầu vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính thường xuyên và lâu dài.
Trước hết, cần làm cho người dân hiểu rõ sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp
Cần làm cho người dân hiểu rõ, từ nước nông nghiệp truyền thống muốn trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì phải đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước và chỉ có thế thì mới đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân mới được nâng cao.
Những năm đẩy nhanh công nghiệp hoá vừa qua cho thấy việc thu hồi đất để phục vụ công nghiệp hoá đã xây dựng trên đất nước ta hàng trăm khu công nghiệp góp phần làm thay đổi diện mạo các vùng nông thôn, vùng ven đô thị, đem lại cho đất nước những nguồn thu lớn, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.
Việc thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị những năm qua đã có tác động rất tích cực đối với quá trình công nghiệp hoá. Nó mang lại lợi ích quốc gia nói chung, từng địa phương cũng như từng gia đình nói riêng. Vì thế cần làm cho người dân thấy rõ tác động này và có thái độ thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc thu hồi đất để phục vụ cho phát triển công nghiệp hoá... ở nước ta.
Thứ hai, cần sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân hiểu rõ mục tiêu, các bước tiến hành, các thủ tục phải thực hiện và chính sách của nhà nước trong việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Trong vấn đề này, vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng, trước hết là phát thanh và truyền hình từ trung ương đến địa phương có vai trò cực kỳ quan trọng. Cần có một chương trình phát thanh truyền hình tuyên truyền cho người dân về vấn đề này để cung cấp cho người dân những thông tin về quy hoạch các khu công nghiệp về tiến độ thời gian thực hiện, về cơ hội nghề nghiệp cho người dân,...
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục từ các cơ quan đoàn thể để hỗ trợ
Cần phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội liên hiệp Phụ nữ các cấp và các tổ chức đoàn thể khác trong việc phối hợp với chính quyền động viên thuyết phục và hướng dẫn người dân có đất bị thu hồi thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước.
3.3.7. Cải tiến quy trình thực hiện
Trong quy trình thực hiện như hiện nay, nhiều khâu phải xem xét lại.
Thứ nhất, trong quy hoạch, cần gắn quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, quy hoạch xây dựng khu công nghiệp... với quy hoạch về phát triển nguồn nhân lực, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân ở vùng có đất bị thu hồi.
Thứ hai, phải thực hiện đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, chuẩn bị lao động trước và xây dựng các khu công nghiệp
Thứ ba, thực hiện công khai hoá quy hoạch phát triển khu công nghiệp công khai hoá giá đất thu hồi, công khai hoá giá cả thuê đất, giao đất,..
Thứ tư, thực hiện sự giám sát của Nhà nước và của dân đối với công việc trên.
3.3.8. Công tác tổ chức thực hiện
Thứ nhất, về tổ chức, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về đất đai và hệ thống chế tài, lập hồ sơ quản lý địa chính, quản lý hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Các giao dịch hợp pháp về đất đai phải thông qua hệ thống hồ sơ có đủ cơ sở pháp lý. Hệ thống hồ sơ này phải do các cấp có thẩm quyền lập, lưu trữ và cung cấp khi phát sinh các giao dịch về đất đai. Thông qua việc lập hồ sơ địa chính, Nhà nước nắm chắc nguồn tài nguyên này làm cơ sở cho công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai và chuyển đổi quyền sử dụng đất.
Những năm qua, nhà nước ta đã có nhiều chủ trương để thúc đẩy việc lập, quản lý hồ sơ địa chính, tăng cường quản lý sử dụng đất đai, ngăn chặn hiện tượng mua bán, chuyển nhượng, sử dụng đất trái phép. Tuy nhiên, cho đến nay, hồ sơ địa chính, sổ sách thống kê đất đai, quản lý hợp đồng sử dụng đất đai còn nhiều bất cập; việc đo đạc, kiểm tra, sao chép,... còn nhiều sai sót gây nên những khiếu kiện, tranh chấp, cản trở việc thu hồi đất đai cho việc xây dựng khu công nghiệp. Nhiều địa phương, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sử dụng nhà ở,... chưa thực hiện được.
Xuất phát từ đó, những năm tới, nhà nước cần có biện pháp kiên quyết để các địa phương tổ chức hoàn thiện cơ sở pháp lý về đất đai và hệ thống chế tài, lập quản lý hồ sơ địa chính, quản lý hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ hai, về tổ chức thực hiện, cần huy động và có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng, giải quyết việc làm thu nhập và đời sống cho người dân.
Việc thu hồi đất để phục vụ công nghiệp hoá và giải quyết việc làm thu nhập và đời sống cho người dân có đất bị thu hồi là hai mặt của một vấn đề thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì thế, đây là trách nhiệm của tất cả các ban ngành, các tổ chức có liên quan, không chỉ các cơ quan quản lý đất đai, mà cả các cơ quan pháp luật, các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, các cơ quan tài chính, ngân hàng, đào tạo, khoa học nữa... Vì thế cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trên phạm vi cả nước và trong từng địa phương.
Thứ ba, tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai
Những năm gần đây, khối lượng quy mô thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất tăng lên nhanh chóng. Điều này liên quan tới việc lập, duyệt các quy hoạch chi tiết, quy hoạch mặt bằng, các thủ tục duyệt, thẩm định, thiết kế kỹ thuật dự toán, đấu thầu, cân đối tài chính, tổ chức tái định cư, giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống của dân cư tăng lên rất nhanh, làm cho công tác này trở nên quá tải đối với bộ máy và cán bộ có liên quan, đặc biệt là cán bộ cấp huyện, quận và xã phường. Hiện nay, đội ngũ này phần lớn là kiêm nhiệm, chế độ đãi ngộ chưa rõ ràng, chuyên môn chưa cao, lại hay thay đổi do biến động tổ chức cán bộ. Cần cố định biên chế cho các cơ sở làm công tác này, xuất phát từ dự báo quy mô thu hồi để xác định cho đủ số lượng làm cán bộ chuyên trách. Cần có các lớp đào tạo ngắn ngày, bồi dưỡng nghiệp vụ có liên quan cho đội ngũ này. Đặc biệt nhà nước cần có cơ chế chính sách về tiền lương, thu nhập cho đội ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác này, cũng như có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Sao cho tiền lương của họ đảm bảo được cuộc sống bình thường theo mặt bằng giá cả để họ yên tâm công tác, đồng thời khuyến khích họ hăng hái nhiệt tình, có trách nhiệm cao trong công việc và có đủ điều kiện để giữ phẩm chất của người cán bộ.
Kiên quyết thu hồi diện tích đất của các tổ chức cá nhân đã được giao hoặc cho thuê nhưng quá thời hạn theo luật mà chưa sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích.
Một trong những việc cần làm ngay là phải xây dựng quy hoạch sử dụng đất theo nguyên tắc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực của đất nước trong thời gian trước mắt và lâu dài. Phải xác định cho rõ tổng số đất nông nghiệp cần và đủ để đảm bảo cho an ninh lương thực trước mắt và lâu dài là bao nhiêu, được phân bố theo địa bàn như thế nào để đảm bảo sự phát triển cân đối của các vùng miền, trong đó có tính đến nhu cầu phát triển và vai trò động lực của các vùng kinh tế trọng điểm. Cũng cần phải nhận thức rằng, người ta có thể tăng sản lượng lương thực không chỉ bằng cách tăng diện tích trồng trọt, mà có thể là bằng cách tăng năng suất cây trồng.
- Hỗ trợ nông dân tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng các tiến bộ khoa học mới tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích. Quy hoạch khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung, đẩy mạnh dồn điền, đổi thửa, phát triển hình thức kinh tế trang trại, đổi mới loại hình hợp tác xã, doanh nghiêp nông thôn; đào tạo người dân có kiến thức sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, hiện đại, mang lại thu nhập từ thuần nông có chất lượng và giá trị. Tăng cường đầu tư ngân sách cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, phát triển dịch vụ công, tài chính công, các loại hình tín dụng để giải quyết vấn đề vốn.
- Thay vì cách sử dụng nguồn tiền bồi thường thông thường, có thể hướng dẫn người dân sử dụng bằng những cách hiệu quả hơn như: Trích một khoản tiền được bồi thường góp vốn vào dự án khu công nghiệp hoặc doanh nghiệp trong khu công nghiệp, trở thành các cổ đông. Các cổ đông cá nhân không chỉ hưởng cổ tức, mà còn tập hợp cổ phần, cử người đại diện của mình (hoặc thuê chuyên gia) tham gia quản lý trong công ty. Thay vì phân tán ở mỗi cá nhân, sử dụng nguồn tiền làm kinh tế hộ gia đình hoặc thành lập hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thông qua các hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, dịch vụ... tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn. Gửi tiết kiệm ngân hàng, mua tín phiếu kho bạc với lãi suất ngang bằng với lãi suất cho vay bình quân hằng năm, có quy định về số lượng tiền gửi, thời gian và lượng tiền được rút nhằm bảo vệ những người già, phụ nữ, trẻ em..., đồng thời là nguồn vốn để người dân học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp. Như vậy, người dân giao đất sẽ được hưởng các nguồn lợi ổn định từ: cổ phần cá nhân, cổ phần tập thể; tiền mặt để đầu tư kinh tế hộ, thành lập hợp tác xã, doanh nghiệp; 10% diện tích đất để lại làm dịch vụ; tiền gửi lãi suất cao; đào tạo nghề. Những giải pháp giải quyết vấn đề trên đa dạng, song quan trọng hơn cả chính là nỗ lực vào cuộc và hiệu quả thực hiện của các đơn vị có liên quan.
Một số kiến nghị:
Kiến nghị đối với Nhà nước
Nhà nước có một vai trò rất quan trọng trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Để việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang đất khu công nghiệp đem lại hiệu quả cao, tác giả xin đưa ra một vài kiến nghị như sau:
Cần tạo ra một khung pháp lý phù hợp trong quy hoạch, sử dụng đất, như: Luật cần chặt chẽ, những quy định về bồi thường, định giá đền bù đất cần rõ ràng, minh bạch
Hỗ trợ các địa phương trong việc ổn định đời sống, công ăn việc làm cho người dân có đất bị thu hồi
Kiến nghị đối với các cơ quan chức năng
Để việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất khu công nghiệp đạt hiệu quả cao xin được kiến nghị với cơ quan chức năng các địa phương như sau:
Cần có quy hoạch cụ thể, rõ ràng về khu vực chuyển đổi
Giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa các bên liên quan
Có phương hướng cụ thể tạo công ăn việc làm cho người dân mất đất sản xuất sau khi chuyển đổi.
KẾT LUẬN
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp, Khu chế xuất, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia là việc mà mọi quốc gia trên thế giới đều thực hiện trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, đô thị hoá, là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển. Việt Nam ta cũng không thể đứng ngoài xu hướng đó. Việc Chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở nước ta được chú trọng từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, năm 1991, đặc biệt được đẩy mạnh từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, năm 1996, khi chúng ta đề ra mục tiêu tập trung đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm vừa qua, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã có những tác động rất tích cực đối với nền kinh tế: góp phần đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; giải quyết được vấn đề lao động việc làm ổn định cho nhiều lao động nông nghiệp; chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã được chú trọng tới chiều sâu, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả chuyển đổi mục đích sử dụng. Bên cạnh đó việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục, có nơi, có lúc làm chưa tốt, thậm chí một số nơi còn tạo ra sự bất bình trong dân chúng, dẫn đến xô xát, chống đối, khiếu kiện, làm ảnh hưởng đến ổn định chính trị, xã hội, gây mất lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất còn thể hiện: sự thiếu đồng bộ, thiếu rõ ràng, minh bạch trong các chủ trương, chính sách (của các cấp, các ngành); sự thiếu phối hợp về quy hoạch, về kế hoạch giữa thu hồi đất với tổ chức đền bù, tái định cư và đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, chưa gắn việc chuyển dịch cơ cấu đất đai với chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ; Gía cả đền bù chưa thoả đáng, chưa gắn với giá thị trường. Phương thức đền bù, tái định cư, đào tạo nghề, giải quyết việc làm có chỗ chưa hợp lý, dễ cho cơ quan Nhà nước, khó cho dân, đẩy trách nhiệm về cho người dân là chính; Trong tổ chức thực hiện một số nơi thiếu dân chủ, thiếu rõ ràng minh bạch, không ít địa phương đội ngũ cán bộ làm công việc này, số lượng không đủ, song quan trọng hơn là về trình độ chuyên môn quá hạn chế, trong đó một số không nhỏ phẩm chất và đạo đức quá kém: cửa quyền, hách dịch, tham nhũng; thiếu sự phối hợp giữa Đảng, chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức quần chúng. ở một số địa phương công việc phức tạp này dường như để mặc chính quyền tự lo liệu.
Để đến năm 2020 về cơ bản biến nước ta thành một nước công nghiệp như đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra, trong những năm sắp tới chúng ta còn phải đẩy nhanh hơn, mạnh hơn nhịp độ công nghiệp hoá và đô thị hoá. Điều này có nghĩa là việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sẽ còn diễn ra mạnh mẽ hơn, trên phạm vi rộng hơn. Chính vì thế rất cần có sự nghiên cứu để đưa ra được các chính sách, các giải pháp đồng bộ, sát thực tế và có tính khả thi để nâng cao hơn nữa hiệu quả chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Qua quá trình nghiên cứu tác giả đưa ra một số giải pháp: Xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Các giải pháp tạo việc làm cho người nông dân bị mất đất; Cơ chế chính sách về đền bù và bồi thường thiệt hại; Cơ chế chính sách liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển khu công nghiệp; Công tác đào tạo và công tác cán bộ; Công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục; Cải tiến quy trình thực hiện; Công tác tổ chức thực hiện. Tác giả hy vọng các giải pháp này có thể nâng cao được hiệu quả khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chính phủ (1997), Nghị định 36 - CP ngày 24/4/1997 về Đại hội Đảng lần thứ IX, Hà Nội.
Chính phủ (!998), Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 quy định việc hỗ trợ nông dân khi chuyển đổi mục đích sử dụng nông nghiệp được hỗ trợ trực tiếp kinh phí dạy nghề để chuyển nghề, Hà Nội.
Chính phủ (2000), Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Hà Nội.
Chính phủ (2004), Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ), song do nhận thức và trình độ của đội ngũ, Hà Nội.
Chính phủ (2004), Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước chuyển đổi mục đích sử dụng, Hà Nội.
Đại học kinh tế quốc dân (2000), Giáo trình Kinh tế tài nguyên đất, Nhà Xuất bản nông nghiệp, Hà Nội.
Đại học kinh tế quốc dân (2000), Giáo trình quản lý nhà nước về đất đai nhà ở , Nhà Xuất bản nông nghiệp, Hà Nội.
Hội nghị Ban chấp hành TW 5 (khoá IX) (2002), Nghị quyết 14-NQ/TW 18/3/2002 về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010, Hà Nội.
Quốc hội (1993), Luật đất đai 1993 ngày 14 tháng 7 năm 1993.
Quốc hội (2003), Luật đất đai 2003 ngày 26 tháng 11 năm 2003 .
Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 032/2000/QĐ-TTg của ngày 24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 126/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27/9/ về phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xoá đói giảm nghèo và Việc làm giai đoạn 2001 – 2005, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, Hà Nội.
Thủ tướng chính phủ (2006), Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN của Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến 2020, Hà Nội.
GS.TSKH.Đặng Hùng Võ và Ths. Đỗ Đức Đôi, Một số giải pháp nâng cao hiệu qủa sử dụng đất trong các khu công nghiệp ở Việt Nam, Hà Nội.
Website Bà Rịa Vũng Tàu, Nan giải bài toán ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp.
http,//khucongnghiep.com.vn, Khu công nghiệp và cụm công nghiệp, Mười năm nhìn lại.
http,//www.khucongnghiep.com.vn, Đánh giá hiệu quả sử dụng đất trong quá trình phát triển KCN ngày 04/04/2009.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31445.doc