Lời mở đầu:
1. Mục tiêu nghiên cứu
Tài sản thực sự của một quốc gia là con người và mục đích của phát triển là tạo môi trường cho phép người dân được hưởng thụ một cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe và sáng tạo. Phát triển con người vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tê. Các quôc gia đều đặt trọng tâm vào phát triển con người.
Chỉ số phát triển con người (HDI) là khái niệm do UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đưa ra, với một hệ thống cơ sở lý luận và phương pháp tính nhằm đánh giá và so sánh mức độ phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên phạm vi thế giới. Từ khi xuất hiện khái niệm HDI thì đây được xem là chỉ số để xếp hạng các nước theo trình độ phát triển kinh tế xã hội thay thế chỉ số GNP bình quân đầu người mà trước đó người ta vẫn thường coi là thành công hay thất bại của sự điều hành nền kinh tế.
HDI quan niệm, phát triển con người chính là và phải là sự phát triển mang tính nhân văn. Ðó là sự phát triển vì con người, của con người và do con người. Quan điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no. Năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là: Con người là trung tâm của sự phát triển; người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển; việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến); chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch .; tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa .
Thực tế trên cho thấy, HDI của nước ta đang ở tình trạng có các chỉ số thành phần vận động không đều: Chỉ số tuổi thọ và chỉ số kinh tế có tăng lên, song trong giai đoạn 2001-2005, chỉ số giáo dục giảm đi bằng 3/5 mức tăng của chỉ số kinh tế. Lấy giá trị HDI mà ta đang đạt năm 2005, đem so sánh với một số nước gần ta chothấy: Malaysia đạt giá trị này trước ta 17 năm, Philippines trước 17 năm, Thái Lan trước 14 năm, Trung Quốc trước 6 năm. Điều này cho thấy, trong khi ta cố gắng vươn lên thì các quốc gia khác cũng vươn lên với tốc độ không những không kém, mà còn có xu hướng nhanh hơn ta.
Với tầm quan trọng như vậy của phát triển con người, chúng ta phải nghiên cứu vấn đề này nhằm hiểu thêm và nắm rõ được các yếu tố phát triển con người cũng như tìm ra các giải pháp nâng cao chỉ số HDI, nâng cao trình độ phát triển con người ở Việt Nam.
2. Giới hạn nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến việc bảo đảm các nhu cầu cơ bản của Việt Nam thời gian qua (từ 1993 đến nay) theo các tiêu chí HDI, qua đó đánh giá trình độ phát triển con người của nước ta hiện nay. Đánh giá các chỉ số phát triển con người là một việc làm hết sức cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của một quốc gia văn hóa có những nét đặc thù độc đáo như Việt Nam. Trong nghiên cứu cũng như trong giải quyết những vấn đề thực tiễn, việc so sánh chỉ số phát triển con người của Việt Nam với các Quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, từ đó tìm ra những thế mạnh cần phát huy và những điểm yếu cần khắc phục, từng bước cải thiện chỉ số phát triển con người luôn là một công việc có ý nghĩa quan trọng.
3. Kết cấu nội dung nghiên cứu
Đáp ứng mục tiêu, nội dung nghiên cứu đã đặt ra, kết quả nghiên cứu của đề tài được trình bày trong 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về phát triển con người
Phần 2. Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát triển con người tại Việt Nam
từ năm 1993 đến nay
Phần 3: Kết luận về trình độ phát triển con người tại Việt Nam hiện nay và những
kiến nghị
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá việc đảm bảo các nhu cầu cơ bản của Việt Nam thời gian qua ( từ 1993 đến nay ) theo các chí HDI qua đó đánh giá trình độ phát triển con người Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thảo luận nhóm
Kinh tế phát triển
Đề tài: ĐÁNH GIÁ VIỆC ĐẢM BẢO CÁC NHU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA (TỪ 1993 ĐẾN NAY) THEO CÁC TIÊU CHÍ HDI, QUA ĐÓ ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện :
TS. Ngô Thắng Lợi
Chu Hoàng Ngọc Bích
Nguyễn Thọ Chung
Nguyễn Hồng Dương
Nguyễn Mai Hiền
Vũ Tùng Lâm
Trần Đức Trung Tiến
Nguyễn Anh Tuấn
Đề tài nhóm 3: Đánh giá việc bảo đảm các nhu cầu cơ bản của Việt Nam thời gian qua (từ 1993 đến nay) theo các tiêu chí HDI, qua đó đánh giá trình độ phát triển con người của Việt Nam hiện nay.
Lời mở đầu:
Mục tiêu nghiên cứu
Tài sản thực sự của một quốc gia là con người và mục đích của phát triển là tạo môi trường cho phép người dân được hưởng thụ một cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe và sáng tạo. Phát triển con người vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tê. Các quôc gia đều đặt trọng tâm vào phát triển con người.
Chỉ số phát triển con người (HDI) là khái niệm do UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đưa ra, với một hệ thống cơ sở lý luận và phương pháp tính nhằm đánh giá và so sánh mức độ phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên phạm vi thế giới. Từ khi xuất hiện khái niệm HDI thì đây được xem là chỉ số để xếp hạng các nước theo trình độ phát triển kinh tế xã hội thay thế chỉ số GNP bình quân đầu người mà trước đó người ta vẫn thường coi là thành công hay thất bại của sự điều hành nền kinh tế.
HDI quan niệm, phát triển con người chính là và phải là sự phát triển mang tính nhân văn. Ðó là sự phát triển vì con người, của con người và do con người. Quan điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no. Năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là: Con người là trung tâm của sự phát triển; người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển; việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến); chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch...; tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa...
Thực tế trên cho thấy, HDI của nước ta đang ở tình trạng có các chỉ số thành phần vận động không đều: Chỉ số tuổi thọ và chỉ số kinh tế có tăng lên, song trong giai đoạn 2001-2005, chỉ số giáo dục giảm đi bằng 3/5 mức tăng của chỉ số kinh tế. Lấy giá trị HDI mà ta đang đạt năm 2005, đem so sánh với một số nước gần ta chothấy: Malaysia đạt giá trị này trước ta 17 năm, Philippines trước 17 năm, Thái Lan trước 14 năm, Trung Quốc trước 6 năm. Điều này cho thấy, trong khi ta cố gắng vươn lên thì các quốc gia khác cũng vươn lên với tốc độ không những không kém, mà còn có xu hướng nhanh hơn ta.
Với tầm quan trọng như vậy của phát triển con người, chúng ta phải nghiên cứu vấn đề này nhằm hiểu thêm và nắm rõ được các yếu tố phát triển con người cũng như tìm ra các giải pháp nâng cao chỉ số HDI, nâng cao trình độ phát triển con người ở Việt Nam.
Giới hạn nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến việc bảo đảm các nhu cầu cơ bản của Việt Nam thời gian qua (từ 1993 đến nay) theo các tiêu chí HDI, qua đó đánh giá trình độ phát triển con người của nước ta hiện nay. Đánh giá các chỉ số phát triển con người là một việc làm hết sức cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của một quốc gia văn hóa có những nét đặc thù độc đáo như Việt Nam. Trong nghiên cứu cũng như trong giải quyết những vấn đề thực tiễn, việc so sánh chỉ số phát triển con người của Việt Nam với các Quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, từ đó tìm ra những thế mạnh cần phát huy và những điểm yếu cần khắc phục, từng bước cải thiện chỉ số phát triển con người… luôn là một công việc có ý nghĩa quan trọng.
Kết cấu nội dung nghiên cứu
Đáp ứng mục tiêu, nội dung nghiên cứu đã đặt ra, kết quả nghiên cứu của đề tài được trình bày trong 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về phát triển con người
Phần 2. Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát triển con người tại Việt Nam
từ năm 1993 đến nay
Phần 3: Kết luận về trình độ phát triển con người tại Việt Nam hiện nay và những
kiến nghị
Phần 1: Lý luận chung về phát triển con người
Định nghĩa phát triển con người
Con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm của phát triển xã hội. Theo nghĩa rộng, khái niệm phát triển con người bao trùm tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe tới sự tự do về kinh tế và chính trị. Báo cáo Phát triển con người năm 1990 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã nhấn mạnh "Phát triển con người là mục đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương tiện"; đồng thời chỉ rõ “Mục tiêu căn bản của phát triển là tạo ra một môi truờng khuyến khích con người được hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh và sáng tạo” và định nghĩa phát triển con người như là “một quá trình mở rộng phạm vi lựa chọn của người dân”.
Phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no.
Năm đặc trưng của phát triển con người là:
Con người là trung tâm của sự phát triển.
Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển.
Việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến).
Chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch...
Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa...
Thước đo phát triển con người HDI
Các chỉ số thước đo:
Sự phát triển con người có thể được thể hiện qua nhiều khía cạnh trong xã hội như là những yếu tố rời rạc hay bằng các chỉ số tổng hợp. Tuổi thọ trung bình, thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục là những phương diện thể hiện sự phát triển con người của mỗi quốc gia và cũng là những chỉ số thước đo.
Công thức tính các chỉ số thước đo
Để tính các chỉ số trên cần có các giá trị tối thiểu và tối đa (các giá trị biên) được chọn và quy định cho từng chỉ số. Mỗi chỉ số thước đo tính được cho một giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1 khi áp dụng công thức tính chung sau:
Chỉ số thước đo
=
Giá trị thực – giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất – giá trị nhỏ nhất
Các giá trị biên để tính chỉ số thước đo
Giới hạn trên
Giới hạn dưới
- Tuổi thọ (năm)
85
25
- Tỷ lệ người lớn biết chữ (%)
100
0
- Tỷ lệ nhập học của các cấp GD (%)
100
0
- GDP thực tế đầu người (PPP$)
40 000
100
- Chỉ số thu nhập
Chỉ số thu nhập tính được khi sử dụng số liệu GDP thực tế bình quân đầu người điều chỉnh theo phương pháp sức mua tương đương (PPP$) phản ánh mức sống hợp lý của con người.
Công thức tính:
Chỉ số thu nhập đầu người
=
log(GDP/người) – log(100)
log(40000) – log(100)
- Chỉ số tuổi thọ
Chỉ số tuổi thọ bình quân đo thành tựu tương đối về tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh của một quốc gia, giúp phản ánh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh.
Công thức tính:
Chỉ số tuổi thọ trung bình
=
Tuổi thọ trung bình – 25
85 – 25
- Chỉ số giáo dục
Chỉ số giáo dục đo thành tựu tương đối của một quốc gia trên cả hai thước đo về tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục: tiểu học, trung học và đại học.
Công thức tính:
Chỉ số giáo dục = 2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ + 1/3 tỉ lệ nhập học cấp giáo dục
HDI – Chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI) là thước đo tổng hợp về sự phát triển của con người phản ánh các thành tựu chung của một quốc gia theo 3 ba phương diện của sự phát triển con người:
- Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh.
- Kiến thức, được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ (với quyền số 2/3) và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3).
- Một mức sống hợp lý, được đo bằng GDP thực tế đầu người (PPP$).
Để tính được chỉ số HDI, cần phải tính từng chỉ số cho ba phương diện trên. Chỉ số HDI tính được là giá trị trung bình của các chỉ số thước đo:
HDI =
Trong đó:
: chỉ số đo tuổi thọ
: chỉ số đo giáo dục
: chỉ số đo thu nhập (mức sống)
HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 đến 1. Trong thực tế, giá trị HDI của một nước chỉ ra khoảng cách giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã đạt được với giá trị cao nhất có thể (là 1). Thách thức đặt ra đối với mỗi nước là tìm ra các giải pháp để rút ngắn khoảng cách đó.
HDI từ 0,8 – 1 được coi là cao, từ 0,5 – 0,8 được coi là trung bình và từ 0 – 0,5 được coi là thấp.
Phần 2. Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát triển con người tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay
Đánh giá các tiêu chí cấu thành HDI
Tiêu chí thu nhập
-Mức độ thu nhập:
GDP bình quân đầu người trên cơ sở cân bằng sức mua (PPP USD) và GDP bình quân đầu người thực tế (USD) từ năm 1990-2009
Năm
GDP bình quân đầu người (PPP USD)
GDP bình quân đầu người thực tế (USD)
1990
1.000
105
1993
1.100
-
1994
1.250
-
1995
1.010
288
1996
1.040
-
1997
1.208
-
1998
1.236
-
1999
1.630
-
2000
1.689
391
2001
1.860
413
2002
1.996
440
2003
2.070
492
2004
2.300
552
2005
2.490
636
2006
2.745
723
2007
3.071
835
2008
3.331
1.024
2009
3445
1.060
Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ ở mức cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người đạt 1.024 USD/người, với mức thu nhập này, VN lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có thu nhập thấp nhất: GDP/người dưới 935 USD). GDP trên đầu người năm 2009 đạt 1.060 USD, Việt Nam phấn đấu GDP trên đầu người năm 2010 đạt 1.200 USD.
-Các thành tựu đạt được:
Theo tính toán từ các số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP bình quân đầu người tính bằng USD, nếu năm 1995 nước ta mới đạt 288 USD, đứng thứ 10 khu vực, thứ 44 châu Á, thứ 177 thế giới, tức là còn là một trong hơn 20 nước có mức GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới, thì đến năm 2003 đã đạt 492 USD, tương ứng đứng thứ 7, thứ 39, thứ 142. Đến nay, với con số hơn 1.000 USD/người, năm 2008 đã đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế VN chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung bình dưới với GDP bình quân đầu người khoảng từ 936 đến 3.705 USD.
Ngày 14/4/2010, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố đánh giá của Nhóm đánh giá độc lập (IEG) của WB, trong đó cho rằng những thành tựu phát triển của Việt Nam trong nhiều năm qua là "rất ấn tượng". Năm 2009, Việt Nam đã chuyển từ nước nghèo sang nước có thu nhập trung bình. IEG cho rằng với tốc độ tăng trưởng trung bình 7,2%/năm trong thập kỷ trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009, khoảng 35 triệu người Việt Nam đã thoát nghèo.
-Những vấn đề còn tồn tại
Mặc dù, năm 2008 là năm đánh dấu Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo nhưng theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới tháng 10/2008 thì Việt Nam đứng hạng 170 về thu nhập bình quân đầu người tính theo tỷ giá VNĐ/USD, và đứng thứ 156 về thu nhập bình quân tính đầu người theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) trong tổng số 207 nước, vùng lãnh thổ. Quy mô GDP, qui mô xuất khẩu chiếm tỷ trọng tương ứng là 0,34% và 0,3% so với tổng giá trị nền kinh tế và xuất khẩu của toàn thế giới. Các chỉ số xếp hạng về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, tham nhũng và chỉ số phát triển giáo dục của Việt Nam đều có vị trí xếp hạng thấp trong các nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, do bị ảnh hưởng bởi lạm phát nên GDP trên đầu người tính theo sức mua tương đương ở Việt Nam còn cao hơn nhiều so với thực tế. Lạm phát đã làm giảm sức mua của người nghèo và làm tăng bất bình đẳng về thu nhập.
Số liệu về mức chêch lệch năm 1993 phản ánh phân bố thu nhập theo vùng là di sản từ nhiều năm nay. Tính lịch sử này có lẽ do phân bố tài nguyên thiên nhiên phục vụ nông nghiệp không đồng đều, và do nông nghiệp vẫn là nguồn thu nhập chính của các vùng cho đến nay. Hiện tượng đô thị hóa gia tăng, đặc biệt với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cũng rất đáng lưu tâm.
CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA CÁC VÙNG:
Phân bố thu nhập đầu người theo vùng – 1993
Vùng
Thu nhập đầu người
(1000 đồng)
Số dân thành thị
(100000 người)
Số dân nông thôn
(100000 người)
Tỉ số thu nhập đầu người nông thôn so với thành thị
1
1258
1576,5
10532,8
0,16
2
1811
2385,6
11429,2
0,15
3
1215
936,2
8580,7
0,17
4
1444
1704,9
5669,8
0,32
5
1364
671,5
2232,0
0,43
6
4524
4008,1
4684,8
0,18
7
1818
2364,5
13167,1
0,36
Cả nước
1949
13647,3
56296,4
0,20
Vùng 1 : Trung du Bắc bộ
Vùng 2 : Đồng bằng sông Hồng (gồm những thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định...)
Vùng 3 : Khu bốn cũ
Vùng 4 : Duyên hải miền Trung
Vùng 5 : Tây Nguyên
Vùng 6 : Đông Nam bộ (gồm TP Hồ chí Minh, Gia Định, Biên Hòa, Vũng Tàu...)
Vùng 7 : Đồng bằng sông Cửu Long
CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA THÀNH THỊ - NÔNG THÔN
Sự chêch lệch thu nhập thành thị và nông thôn cũng là một sự kiện thường thấy ở những nước nông nghiệp. Từ những thập niên vừa qua, giá quốc tế những mặt hàng nhóm một (nông, lâm sản, nguyên liệu thô, sơ chế) giảm đi so với giá những mặt hàng công nghiệp. Vì công nghiệp thường có địa bàn hoạt động trong thành thị và vùng lân cận, mức thu nhập của dân thành thị tăng lên so với dân ở nông thôn. Ngoài ra, những tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến khiến mức cầu lao động nông nghiệp giảm, lượng cung lao động vượt cầu, gây thêm tác động tiêu cực trên mức thu nhập của người dân ở nông thôn. Ngày nay, với sự phát triển của khâu dịch vụ cũng chủ yếu là ở thành thị, sự chêch lệch thu nhập này lại càng tăng thêm.
Thu nhập ở thành thị và nông thôn của các vùng - 1993
Vùng
Tổng thu nhập (tỉ đồng)
Thu nhập đầu người nông thôn
(nghìn đồng)
Tổng thu nhập nông thôn (tỉ đồng)
Thu nhập đầu người thành thị
(nghìn đồng)
Tổng thu nhập thành thị
(tỉ đồng)
1
15233533
747,25
7870700
4670,35
7363807
2
25008100
915,0
10452777
6100,00
14552160
3
11563155
820,8
7043039
4828,04
4519973
4
10649066
968,3
5490261
3025,8
5158989
5
3960374
1044,0
2330208
2427,8
1630268
6
39327132
1459,2
6836060
8106,4
32491261
7
28236450
1430,1
18830126
3972,5
9392976
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học vừa công bố tại Hội nghị cập nhật nghèo do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức cuối tháng 3 năm 2007: khoảng cách giữa các nhóm người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất đang bị nới rộng một cách liên tục và đáng kể. Cụ thể là: năm 1993, chi cho tiêu dùng bình quân đầu người của gia đình giàu nhất cao gấp 5 lần so với gia đình nghèo nhất thì tỷ lệ này tăng lên 6,3 lần vào năm 2004. Do vậy, tỷ lệ chi tiêu bình quân đầu người của nhóm giàu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ 41,8% lên 44,7%, trong khi đó nhóm nghèo nhất lại giảm từ 8,4% xuống còn 7,1% ở cùng thời kỳ. Mặc dù đời sống của người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm, nhưng chỉ số bất bình đẳng về thu nhập (Gini) ở Việt Nam còn cao, và tăng qua các năm (năm 2004 Gini là 0,423, năm 2006 hệ số này là 0,425). Hệ số Gini cao thể hiện phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo cao giữa các tầng lớp dân cư.
-Kết luận:
Khi thu nhập tăng, mức sống của dân cư được đảm bảo các mặt về thể lực, trí lực và tinh thần được quan tâm tích cực và ngược lại, khi thu nhập giảm mức độ chi tiêu của dân cư sẽ giảm tác động tiêu cực đến chất lượng dân số. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối thu nhập đang có xu hướng gia tăng, người giàu càng giàu thêm, các khu đô thị thành phố càng ngày càng phát triển trong khi người nghèo càng ngày càng khó thoát nghèo, và những vùng sâu vùng sa và những vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có khả năng phát triển, do thiếu vốn, thiếu lao động do đó chất lượng dân số vẫn ở mức thấp. Thu nhập tăng và phân phối thu nhập tiến đến sự hợp lí luôn luôn là cái hướng đến của toàn xã hội.
Chúng ta có thể thấy được rằng là thu nhập bình quân đầu người ở nước ta ngày càng gia tăng, điều này được thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người cũng như tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm dần theo các năm và mức sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt. Để đạt được những thành quả đó thì chúng ta phải kể đến các chính sách của Nhà nước, trong quá trình phát triển kinh tế có sự hài hòa giữa các vùng, giữa các nền kinh tế được chú trọng phát triển cũng như là các chính sách hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần phải chú trọng đến các chính sách phát triển toàn diện để tránh rơi vào những cái “bẫy” thu nhập trung bình như các nước Đông Nam Á khác.
Tiêu chí tuổi thọ
- Mức tuổi thọ
Có cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe là một tiêu chí để đánh giá về sự phát triển của con người. Và chỉ số tuổi thọ đã được chọn làm thước đo cho tiêu chí này. Chỉ số tuổi thọ được tính như sau:
Chỉ số tuổi thọ trung bình T =
(Với quy ước: 85 là giá trị cực đại và 25 là giá trị cực tiểu của tuổi thọ)
Gần 20 năm nay từ 1990, UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đều đặn công bố các Báo cáo phát triển con người HDR (Human Development Report). Các báo cáo HDR từ năm 1990 đến năm 2007 đã thống kê rằng:
Tuổi thọ bình quân trung bình của Việt Nam :
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tuổi thọ bình quân trung bình
62,7
63,4
66,0
66,4
67,4
67,8
67,8
68,2
68,6
69,0
70,5
70,8
73,7
- Việt Nam trong so sánh với một số nước ASEAN và châu Á
Nước
Tuổi thọ
T
Ghí chú
Singapore
79,4
0,907
> VN
Hàn Quốc
77,9
0,882
> VN
Brunây
76,7
0,862
> VN
Malayxia
73,7
0,812
= VN
Thái Lan
71,5
0,776
< VN
Trung Quốc
72,5
0,792
< VN
Philippin
71
0,767
< VN
Việt Nam
73,7
0,812
Inđônêxia
69,7
0,745
< VN
Ấn Độ
63,7
0,645
< VN
Mianma
60,8
0,596
< VN
Ở bảng này, Việt Nam hơn được Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Ấn Độ, Mianma.
- Những thành tựu đạt được :
Trong các chỉ số phát triển cấu tạo nên HDI, Việt Nam có chỉ số tuổi thọ tương đối có sự lạc quan. Tính ra trong 13 năm, từ năm 1993 đến năm 2005, ta đã nâng tuổi thọ bình quân lên 11 tuổi. Việt Nam cũng có thứ hạng cao về tuổi thọ trên thế giới (T = 0,812, tuổi thọ bình quân 73,7, xếp thứ 56/177 nước). Theo số liệu mới mà chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra trong báo cáo toàn cầu sáng ngày 5/10/2009 tại Bangkok, Thái Lan thì tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã là 74,3 đứng thứ 54 thế giới.
Đạt được thành tựu như vậy là do nước ta đã làm tốt công tác chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Cuộc khảo sát năm 2002 cho thấy: Cứ 1000 ca sinh ra ở Việt Nam chỉ có 39 trẻ bị tử vong (nhóm dân nghèo), có 14 trẻ bị tử vong (nhóm dân giàu). Chết dưới 5 tuổi thì trong số 1000 trẻ có 53 trẻ chết (nhóm dân nghèo) và 16 trẻ chết (nhóm dân giàu). Các con số tương ứng ở Inđonexia là: (78, 23, 109, 29). Đạt đến thành tựu này còn có sự tác động gián tiếp của kinh tế và giáo dục. Trình độ học vấn của bố mẹ tăng lên và điều kiện sinh hoạt vật chất được cải thiện cũng làm giảm tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi.
- Những vấn đề còn tồn tại :
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhưng hệ thống y tế nước ta vẫn có rất nhiều bất cập. Mạng lưới chăm sóc y tế ở nông thôn yếu kém. Các bệnh nhân ở khắp nơi đổ dồn về các thành phố lớn, dẫn đến tình trạng quá tải. Thủ tục khám chữa bệnh còn rườm rà, nhất là đối với những người sử dụng Bảo hiểm y tế, họ phải đến bệnh viện nhiều ngày mới hoàn tất một quy trình khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn đang là vấn đề nhức nhối trong thời gian qua. Về ngân sách cho ngành y tế, Việt Nam chúng ta hiện nay mới có 8 USD cho một người dân chăm sóc sức khỏe trong khi đó Singapore là 1.950 USD, Nhật là 2000 USD. Ngoài ra, sự quản lý của nước ta đối với mặt hàng thuốc còn lỏng lẻo. Các phòng khám chữa bệnh tư nhân cũng cần được kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Tất cả những vấn đề trên cần sớm được hoàn thiện và giải quyết trong thời gian tới.
- Kết luận về chỉ tiêu tuổi thọ:
Chỉ số tuổi thọ đo lường thành tựu tương đối về tuổi thọ ở một nước. Chỉ số này của Việt Nam là đáng lạc quan. Ta có thể thấy, Việt Nam chỉ có GDP tính theo đầu người xếp thứ 123 và HDI xếp thứ 105 trên thế giới nhưng lại có thứ hạng về tuổi thọ khá cao. Tuổi thọ trung bình năm 2005 của nước ta là 73,7 xếp hạng 56 và nay là 74,3 xếp hạng 54 trên thế giới. Chỉ số tuổi thọ T = 0,812 và nó đã có phần giúp cải thiện chỉ số và thứ hạng 105/177 của HDI. Đạt được những thành tựu như vậy là do nước ta đã làm tốt công tác chăm sóc y tế ban đầu, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp và tỷ lệ tử vong ở bà mẹ sau khi sinh nở cũng thấp. Trong thời gian tới, nước ta cần tiếp tục phát huy những điểm mạnh này, đồng thời khắc phục những bất cập còn đang tồn tại.
Tiêu chí giáo dục
Các chỉ tiêu giáo dục :
Giáo dục và chỉ số giáo dục là thành phần cơ bản trong HDI
Chỉ số giáo dục được tính từ hai nhân tố :
Nhấn tố a biểu thị cho số biết chữ của người lớn ( 15+ tuổi )
Nhân tố b biểu thị cho số đi học của thanh thiếu niên ( từ 16 – 24 tuổi )
a, b đều tính ra %.
G = 2*a/3 + 1*b/3
Việt Nam trong so sánh với một số nước ASEAN và châu Á
Nước
Giáo dục
Ghi chú
a (%)
b (%)
G
Singapore
92,5
87,3
0,908
> VN
Hàn Quốc
99
96
0,980
> VN
Brunây
92,7
77,7
0,877
> VN
Malayxia
88,7
74,3
0,839
> VN
Thái Lan
92,6
71,2
0,855
> VN
Trung Quốc
90,9
69,1
0,837
> VN
Philippin
92,6
81,3
0,888
> VN
Việt Nam
90,3
63,9
0,812
Inđônêxia
90,4
68,2
0,830
> VN
Ấn Độ
61
63,8
0,620
< VN
Mianma
89,8
49,5
0,764
< VN
- Những thành tựu đạt được :
Giáo dục ở nước ta xét về tỷ lệ người biết chữ chung (15 tuổi trở lên) có thứ hạng tương đối cao và giá trị không nhỏ (90,3%). Với giá trị này ta xếp thứ 56 trên bản đồ thế giới (Gruzia thứ nhất 100%). Indonexia đứng trên Việt Nam với 90,4% đứng thứ 55. Burkinafaso giá trị 23,6% xếp thứ 177 cuối bảng. Đây là kết quả những nỗ lực một thời gian dài của công tác xóa mù chứ và phổ cập tiểu học.
- Những vấn đề còn tồn tại: Nhìn tổng quát về GDP bình quân đầu người theo USD hoặc USD theo PPP, Việt Nam còn ở mức thấp và chi cho giáo dục từ GDP cũng chưa nhiều. Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước đều đặn tăng lên, hiện nay gần 15% nhưng tính từ GDP chỉ có 2,3% (theo số liệu UNDP). Nếu tính đầu tư cho giáo dục trên đầu người thì nước ta ở mức rất thấp.
Tuy nhiên giáo dục nước ta đã có sự thiểu phát và giảm phát trong những năm gần đây. Năm Việt Nam đạt được G cao nhất = 0.84 là năm 1999 và 2000. Sau thời điểm này, từ năm 2001, G không tăng lên được về giá trị mà giảm dần dần. Tỷ lệ đi học của thanh thiếu niên độ tuổi 6 – 24 tuổi nước ta mới đạt 63,9 %, điều có nghĩa là cứ 1000 em ở độ tưởi này mới có 639 em đi học, còn 371 em đang ở diện thiếu niên ngoài nhà trường. Có thể một bộ phận này được học bổ tức văn hóa ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, một số học đại học ở các trường ngoài công lập.
Hạng
Nước
USD
PPP
Chênh lệch so với Việt Nam tính theo GDP (lần)
1
Singapo
772.7
889.4
16.7
2
Hàn Quốc
363.8
610.4
13.5
3
Malaixia
208.4
720.48
11.5
4
Thái Lan
103.0
350.50
6.6
5
Phillipin
32.1
133.4
2.5
6
Ấn Độ
19.74
109.4
2.05
7
Trung Quôc
22.74
105.3
1.9
8
Việt Nam
10.02
53
Tuy vậy tỷ lệ 63,9 % học ở hệ chính quy là một tỷ lệ quá thấp. Với kết quả này Việt Nam đang đứng thứ 121/177 nước. Ta rơi vào vùng các nước chậm phát triển về giáo dục của khu vực châu Á trong tỷ lệ này. Đành rằng không thể huy động ra lớp ồ ạt rồi cho lên lớp bừa bãi. Điều này dẫn đến hiện tượng “Ngồi nhầm lớp “ và suy giảm chất lượng.
- Kết luận về chỉ tiêu giáo dục :
Thành tựu giáo dục nhìn chung là cao. Từ 1990 chỉ số G đạt 0.78 (báo cáo UNDP năm 1995). Sự tiến bộ của G không thật sự ổn định và có phần chậm chạp. Trong 7 năm đầu của thời kỳ 10 năm này G tăng từ 0.78 (năm 1993) lên tới 0.84 (năm 1999) tức là tăng 6% nhưng 3 năm tiếp theo (2000-2002) G giảm từ 0.84 xuống 0.82. Phấn đấu giữ vững được thành quả G khi đã có một mặt bằng nào đó (ở nước ta lấy ngưỡng là 0.84) và phát triển thành quả này có độ tăng tiến liên tục đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Giáo dục không có biện pháp mở rộng quy mô và tăng cường chất lượng, ngay lập tức đã có sự thiểu phát. Những biện pháp cần được thực hiện ngay, chứ không thể chờ đợi cho nền kinh tế phát triển mới lo tới vấn đề hết sức quan trọng này.
Tuy nhiên, chỉ số giáo dục của Việt Nam đã có những đóng góp nhất định vào chỉ số HDI. Ta có thể thấy với chỉ số G = 0,815 và thứ hạng 93 nó đã có phần nào đó giúp cải thiện chỉ số và thứ hạng của HDI với thứ hạng 105/177. Với việc thành công trong công tác xóa mù chữ cũng như cố gắng cải thiện chất lượng giáo dục, Việt Nam đã có những bước tiến từ năm 1993 tới nay.
Nói tóm lại, Việt Nam vẫn là vùng trũng về lĩnh vực giáo dục ở châu Á.
Đánh giá phát triển con người qua chỉ số HDI
Xu thế của HDI
Từ năm 1995 tới năm 2007, HDI của Việt Nam tăng 1.16% hàng năm từ 0.561 (1985) lên tới 0.733 (2007). Điều đáng mừng là các thành tố của HDI đều tăng.
Chỉ số HDI và các chỉ số thành phần của Việt Nam
Năm
Tính cho năm
Giá trị HDI
Thứ hạng
1990
1987
0,608
74*/130
1991
0,498
99/160
1992
0,464
102/160
1993
1991
0,472
115/160
1994
1992
0,514
116/160
1995
1992
0,539
120/174
1996
1993
0,540
121/174
1997
1994
0,557
121/175
1998
1995
0,560
122/174
1999
1997
0,644
110/174
2000
1998
0,671
108/174
2001
1999
0,682
101/162
2002
2000
0,688
109/173
2003
2001
0,688
109/175
2004
2002
0,691
112/177
2005
2003
0,704
108/177
2006
2004
0,709
109/177
2007
2005
0,733
105/177
PGS Đặng Quốc Bảo tổng hợp từ Báo cáo phát triển
con người các năm từ 1990 đến 2007 của UNDP
Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của LHQ cho thấy, Việt Nam hiện có chỉ số phát triển con người HDI ở hạng trung bình, với chỉ số là 0,733. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước đông Á trong khu vực thì Việt Nam vẫn còn khoảng cách quá xa để bắt kịp. Khoảng cách chỉ số HDI của Việt Nam với các nước phát triển còn rất lớn.
Nước
1995
2000
2005
2007
Xếp hạng
Việt Nam
0,672
0,711
0.704
0.733
116
Inđônêxia
0,670
0,692
0,728
0.734
111
Trung Quốc
0,691
0,732
0,777
0.772
92
Thái Lan
0,745
0,761
0,781
0.783
87
Malaixia
0,763
0,790
0,811
0.829
66
Hàn Quốc
0,801
0,892
0,921
0.937
26
Singapore
0,865
x
0,922
0.944
25
So sánh tương quan HDI Việt Nam với các quốc gia Đông Á
Chỉ số
Thứ hạng
Tuổi thọ
(năm)
Biết chữ người lớn (15+ tuổi) (%)
Đi học từ 6 -
24 tuổi
(%)
GDP bình quân
PPP (USD)
HDI
Nước
đứng đầu bảng xếp hạng
Nhật thứ nhất
(82,3 tuổi)
0,954
Gruzia thứ nhất
(100%)
Australia thứ nhất (113%)
Luxembourg thứ nhất (60.228)
Iceland
thứ nhất Băng đảo (0,968)
Nước
đừng trên Việt Nam
Macedonia thứ 55 (73,8 tuổi)
0,817
Inđônêxia thứ 56 (90,4%)
Nambia thứ 120 (64,7%)
Vanuatu thứ
121 (3225)
Ensanvado thứ 104 (0,735)
Thứ
hạng và giá
trị của Việt Nam
Việt Nam thứ 56 (73,7 tuổi)
0,812
Việt Nam thứ 57 (90,3%)
Việt
Nam thứ
121 (63,9%)
Việt Nam thứ 122 (3071)
Việt Nam thứ 105 (0,733) (*)
Nước
đứng cuốibảng xếp hạng
Zămbia
thứ 177
(40,5 tuổi)
Burkinafaso
thứ 177
(23,6%)
Niger
thứ 177
(22,7%)
Côngo
thứ 177
(714)
Siera Leon
thứ 177
(0,336)
Thứ hạng HDI và các chỉ số thành phần HDI của Việt Nam trong so sánh thế giới
*) Việt Nam đồng hạng với Angiêri.
Hiện trạng Việt nam và Angiêri như sau:
Nước
HDI
Tuổi thọ
Biết chữ (%)
Đi học(%)
GDP
bình quân sức mua
Việt Nam
0,733
73,7
90,3
63,9
3.071
Angiêri
0,733
71,7
69,9
73,7
7.062
PGS Đặng Quốc Bảo tổng hợp từ Báo cáo phát triển con người các năm từ 1990 đến 2007 của UNDP
Còn theo số liệu của UNDP năm 2009
Như vậy, ta có thể thấy Việt Nam là một trong những nước rất chú trọng vào việc ưu tiên phát triển con người. Mặc dù GDP bình quân đầu người thấp (2 lần so với Angiêri) nhưng vẫn đạt được chỉ số phát triển con người tương đương. Đây có thể coi là một trong những thành tựu đáng kể trong việc phát triển con người tại Việt Nam hiện nay. Điều đó chứng tỏ, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã hướng vào sự phát triển con người - vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Tuy nhiên cũng có nhiều vấn đề còn tồn tại
Tuy Việt Nam nằm trong số 100 nước luôn cải thiện được chỉ số HDI trong suốt thời gian từ 1990 đến nay nhưng tốc độ tăng HDI của ta có chiều hướng sụt giảm tương đối. Nếu trong thời kỳ 1990-1995, Việt Nam đứng hàng thứ 15 trong bảng xếp hạng các nước xét về tốc độ cải thiện chỉ số HDI thì trong giai đoạn 1995-2003, Việt Nam chỉ xếp thứ 37 theo tiêu thức này với mức tăng là 6.7%. Các nước như Lào, Trung quốc, Ấn độ đều có mức tăng trên 10%. Nhiều nước có nền kinh tế chuyển đổi đã vượt lên trên Việt Nam xét về thành tích cải thiện HDI trong thời kỳ này. Đây chính là điều chúng ta cần lưu tâm về tính bền vững của quá trình phát triển của Việt Nam.
Thứ bậc HDI của nước ta trên thế giới, ở châu Á và trong khu vực vẫn còn ở mức thấp. HDI của Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình 0,741 của thế giới, mức 0,768 của các nước châu Á - Thái Bình Dương, thấp hơn mức trung bình 0,716 của các nước phát triển con người trung bình. Một trong những yếu tố làm cho HDI của Việt Nam còn ở mức thấp là do chỉ số GDP bình quân đầu người còn quá thấp. Đó chính là điều cần được quan tâm bởi nó là tiền đề để thực hiện chăm sóc sức khỏe và nâng cao chỉ số giáo dục. Hơn nữa, thứ bậc HDI của Việt Nam tăng lên cũng chủ yếu là nhờ sự tăng lên của chỉ số GDP bình quân đầu người. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế để sớm đưa nước ta ra khỏi nước kém phát triển được coi là mục tiêu hàng đầu. Mặt khác, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cũng còn nhiều hạn chế. Nhiều mục tiêu như số giường bệnh, số cơ sở y tế, số cán bộ y tế... tính trên 1 vạn dân tăng chậm; có loại, có năm còn bị giảm. Sản xuất thuốc trong nước mấy năm bị giảm; việc quản lý giá thuốc còn yếu kém nên giá thuốc mấy năm nay tăng cao hơn nhiều so với giá tiêu dùng. Việc xã hội hóa y tế còn chậm; chậm khắc phục sự phân biệt đối xử trong khám, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế với khám, chữa bệnh có nộp phí dịch vụ, dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trái với y đức. Bên cạnh đó, chỉ số giáo dục cao, nhưng chủ yếu là xét trên số lượng (tỷ lệ biết chữ...), trong khi chất lượng giáo dục từ phổ thông đến đại học còn thấp, chạy theo số lượng nhiều hơn là chất lượng...
Phần 3: Kết luận về trình độ phát triển con người tại Việt Nam hiện nay và những kiến nghị
Trình độ phát triển con người của Việt Nam hiện nay
Báo cáo
Tuổi thọ
GDP
Giáo dục
HDI
Năm
Tính cho năm
Tuổi thọ bình quân trung bình (năm)
Chỉ số
GDP bình quân đầu người (PPP USD)
Chỉ số
Tỷ lệ biết chữ của người lớn (%)
Số năm
học tr.bình hoặc tỷ lệ đi học
6 - 24 tuổi (%)
Chỉ số
Giá trị chỉ số phát triển con người
Thứ hạng so với các nước có trong báo cáo
Theo
%
Theo số thập phân
1990
1987
62,0
0,62
1.000
0,38
80,0
-
-
0,608
74*/130
1991
62,7
0,63
1.000
0,38
84,4
3,2 năm
57,3
-
0,498
99/160
1992
62,7
0,63
1.000
0,38
87,6
4,6 năm
59,9
-
0,464
102/160
1993
1991
62,7
0,63
1.100
0,40
87,6
4,6 năm
59,9
-
0,472
115/160
1994
1992
63,4
0,62
1.250
0,42
88,6
4,9 năm
60,7
-
0,514
116/160
1995
1992
65,2
0,63
1.010
0,38
91,9
49
0,78
0,539
120/174
1996
1993
65,5
0,63
1.040
0,39
92,5
51
0,79
0,540
121/174
1997
1994
66,0
0,63
1.208
0,42
93,0
55
0,80
0,557
121/175
1998
1995
66,4
0,64
1.236
0,42
93,7
55
0,81
0,560
122/174
1999
1997
67,4
0,71
1.630
0,47
91,9
62
0,82
0,644
110/174
2000
1998
67,8
0,71
1.689
0,47
92,2
63
0,83
0,671
108/174
2001
1999
67,8
0,71
1.860
0,49
93,1
67
0,84
0,682
101/162
2002
2000
68,2
0,72
1.996
0,50
93,4
67
0,84
0,688
109/173
2003
2001
68,6
0,73
2.070
0,51
92,7
64
0,83
0,688
109/175
2004
2002
69,0
0,73
2.300
0,52
90,3
64
0,82
0,691
112/177
2005
2003
70,5
0,76
2.490
0,54
90,3
64
0,82
0,704
108/177
2006
2004
70,8
0,76
2.745
0,55
90,3
63
0,81
0,709
109/177
2007
2005
73,7
0,812
3.071
0,572
90,3
63,9
0,815
0,733
105/177
Chỉ số HDI và các chỉ số thành phần của Việt Nam
Trong những năm qua, chất lượng dân số ở nước ta được nâng lên không ngừng. Theo báo cáo phát triển con người của UNDP, Việt Nam được coi như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm các nước đang phát triển về khả năng tương tác cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển con người. Với nhiều nỗ lực thì chỉ số phát triển con người của nước ta đã liên tục tăng, tuy nhiên vẫn chưa cao. Với HDI = 0.733, nước ta xếp thứ 105 trong 177 quốc gia được so sánh. Tóm lại, Việt Nam hiện nay vẫn là một nước có trình độ phát triển con người trung bình trên thế giới.
Kiến nghị giải pháp nâng cao trình độ phát triển con người ở Việt Nam trong thời gian tới
Để nâng cao trình độ phát triển con người Việt Nam, nhóm dựa vào việc phân tích tháp nhu cầu của Maslow. Tháp nhu cầu gồm 8 bậc:
- Nhu cầu cơ bản (basic needs)- Nhu cầu về an toàn (safety needs)- Nhu cầu về xã hội (social needs)- Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)- Nhu cầu về nhận thức (cognitive needs)- Nhu cầu về thẩm mỹ (aesthetic needs)- Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)- Sự siêu nghiệm (transcendence)
Để nâng cao trình độ phát triển con người nhóm chú trọng vào 3 nhóm nhân tố sau đây:
Nâng cao thu nhập đầu người
Nâng cao chất lượng y tế
Nâng cao chất lượng giáo dục
Những đề xuất này giải quyết được theo trình tự các nấc thang của Maslow. Nâng cao thu nhập và chất lượng y tế ta giải quyết được bậc 1 (nhu cầu sinh lý của con người). Nhóm bỏ đi bậc 2, vì nhận thấy luật pháp và việc thi hành luật tại Việt Nam về đảm bào an toàn cho cá nhân rất tốt. Với bậc 3, 4, 5 trong mô hình được giải quyết bằng tổng thể các giải pháp nâng cao thu nhập, y tế và chất lượng giáo dục.
Bên cạnh đó, nhóm cũng đưa ra một mô hình để phân tích, đối chứng giữa các chỉ số giáo dục trong mối tương quan với tăng trưởng. Mô hình này được phân tích ở phần “Nâng cao chất lượng giáo dục".
Sau đây là các giải pháp cụ thể.
Các giải pháp tăng thu nhập đầu người:
Trong chính sách tăng GDP, Việt Nam phải nỗ lực nhiều hơn, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật của các quốc gia tiên tiến.
Lạm phát làm giảm sức mua của người nghèo và làm tăng bất bình đẳng về thu nhập. Vì vậy, để hạn chế ảnh hưởng tăng giá đến đời sống người dân có thu nhập thấp thì Chính phủ cần đề ra một loạt giải pháp như cấp dầu, hỗ trợ tiền điện cho người dân vùng sâu, xa, dân tộc, hỗ trợ ngư dân đóng tàu lớn, sử dụng ít nguyên liệu để đánh bắt xa bờ, nghiên cứu hỗ trợ về đào tạo, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thuyền viên. Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư xây dựng cảng cá, khu neo đậu…
Muốn thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, cần có các chính sách ưu tiên củng cố hệ thống an sinh xã hội theo hướng mở rộng diện bao phủ phổ cập đến mọi người dân, để nhiều hộ nghèo có mức thu nhập chi cho tiêu dùng ở ngay sát trên chuẩn nghèo được bảo vệ trước tác động của các cú sốc trong bối cảnh hội nhập; cần phải có giải pháp đồng bộ, quy định chặt chẽ cho người có thu nhập thấp trong vấn đề nhà ở như chính sách bán trả góp với thời gian dài hạn không tính lãi suất…
Trong việc giảm sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, cần thúc đẩy việc đa dạng hoá thu nhập trong nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm bớt việc làm nông nghiệp và tăng việc làm phi nông nghiệp ở những vùng này. Tuy nhiên, Việt Nam cũng sẽ gặp phải một thách thức là sự xuất hiện của nhóm nghèo mới do đất nông nghiệp bị thu hồi để chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác. Vì thế, tác động xã hội của quá trình đô thị hoá phải được đánh giá cẩn thận và cân nhắc đầy đủ trong quy hoạch đô thị, để có thể thiết kế kèm theo những giải pháp phù hợp.
Trước những khó khăn và thách thức của "bẫy thu nhập trung bình", Việt Nam cần có các chính sách đa dạng hoá loại hình bảo hiểm nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của các nhóm dân số, thúc đẩy các hình thức hoạt động kinh tế cho người cao tuổi nhằm đảm bảo thu nhập và các điều kiện về đời sống…
Nâng cao chất lượng y tế
Nâng cao chất lượng cho các bệnh viện cơ sở bằng việc củng cố cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, đội ngũ thầy thuốc.
Nâng cao chất lượng điều trị các bệnh viện tuyến tỉnh cũng như tuyến Trung ưong nhằm rút ngắn ngày điều trị hợp lý, tăng cường điệu trị ngoại trú chăm sóc sức khỏe tại nhà như Bệnh viên Phụ sản Trung ương vừa triển khai nhằm giảm mật độ khám chữa bệnh nội trú. Các nước tiên tiến thường tỉ lệ điều trị nội trú và ngoại trú là 1/4. Chúng ta cũng cần phấn đấu đạt đến tỉ lệ này.
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực thiết bị y tế theo hướng đào tạo theo nhu cầu: xác định nhu cầu, xây dựng định biên, chuẩn hóa cán bộ chuyên trách về trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế trong toàn ngành, ... rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy định về lệ phí cấp giấy phép nhập khẩu; lệ phí kiểm chuẩn, phí thử nghiệm chất lượng, phí thử nghiệm lâm sàng trang thiết bị y tế, đáp ứng yêu cầu thực tế, phù hợp với quy định hiện hành.
Bộ Y tế cần phối hợp làm việc với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính để sớm đưa ra giải pháp hỗ trợ cho các đơn vị nghiên cứu, chế tạo và sản xuất, cơ chế ưu đãi về thuế nhập khẩu linh kiện để lắp ráp, sản xuất trang thiết bị y tế trong nước.
Cải cách thủ tục trong khám chữa bệnh cho bớt rườm rà, đồng thời hoàn thiện luật Bảo hiểm y tế.
Chính phủ cần tăng chi cho ngành y tế kết hợp huy động nguồn lực kinh tế, xã hội hóa công tác phòng và khám chữa bệnh nhằm chia sẻ với nhà nước tăng thêm dịch vụ khám chữa bệnh cho nhân dân.
Nâng cao chất lượng giáo dục
Phải có các biện pháp vừa tinh tế, vừa khẩn trương cho vấn đề số lượng cần huy động được nhiều hơn số đi học tại các trường tiểu học, trung học, cao đẳng đại học ở hai hệ chính quy và không chính quy.
Phải có các chương trình đa dạng để các em "được đi học", "học được", "được phát triển năng lực" theo tố chất và hoàn cảnh của các em.
Với các lớp thuộc chính sách phổ cập (tiểu học vào THCS) phải có sự đầu tư kinh tế giúp cho các em học bằng được chương trình đã ban hành (hoặc theo mục tiêu giảm tải), tránh việc "chống ngồi nhầm lớp" một cách lạnh lùng dẫn đến việc bỏ học hàng loạt.
Dù nước ta còn nghèo song khi đã tuyên bố chủ trương phổ cập 9 năm thì các chính sách sư phạm kinh tế phải gắn bó và thực hiện đồng bộ.
"Thất bại học đường", "loại bỏ học đường" ở lứa tuổi phổ cấp là điều rất nguy hiểm cho sự ổn định xã hội vì thế cần tạo điều kiện cho các em được theo hết chương trình phổ cập.
Nâng cao chất lượng dạy và học bằng cách đổi mới phương thức dạy và học, để học sinh nhận thức nhanh hơn, sáng tạo và có tính tự giác chủ động hơn trong quá trình tham gia bài học. Ngoài ra còn tăng cường tập huấn mở các lớp bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên để tăng hiệu quả giảng dạy và nghiệp vụ sư phạm.
Đối với các đối tượng đã quá tuổi đi học và các đối tượng ở độ tuổi vàng (16-24 tuổi) nên mở thêm các lớp bổ túc cho họ và tạo điều kiện để họ có thể hoàn thành hết bậc học của mình cũng như phổ cập cho các đối tượng chưa biết chữ (đặc biệt với các đối tượng ở vùng đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu vùng xa và người dân tộc thiểu số).
Ngoài ra chính phủ cần tăng ngân sách cho giáo dục nhằm cải thiện cơ sở vật chất và hỗ trợ những đối tượng khó khăn cũng như nâng cao chất lượng hơn trong giảng dạy. Hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài để nâng cao chất lượng giáo dục cũng như đào tạo thêm các đội ngũ tri thức chất lượng cao như thạc sĩ, tiến sĩ tuy nhiên không nên ồ ạt mà phải đề cao vấn đề chất lượng.
Sau đây nhóm sẽ trình bày mô hình thể hiện sự tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và việc tăng trưởng trong giáo dục.
Như trên đã trình bày, nhân chỉ số kinh tế là K, chỉ số giáo dục là G. Gán cho mỗi nhân tố kinh tế và giáo dục một ngưỡng giá trị (Gt, Kt). Như vậy G sẽ chia thành 2 miền, Ga ≥ Gt gọi là miền trên gưỡng, Gb ≤ Gt gọi là miền dưới ngưỡng. Tương tự ta cũng có 2 miền đối với K. Kết hợp 2 hệ số giữa K và G (chỉ số K trên trục tung và G trên trục hoành) ta thu được 4 vùng. Gt và Kt được lấy lần lượt là 0,84 và 0,5
Vùng 2: K trên ngưỡng, G dưới ngưỡng
Không có sự tương thích K và G
Kt=0.5
Gt=0.84
Mở rộng quy mô với nhiều tầng chất lượng, khai thác các lợi thế của K cho G
Vùng 4: K và G dưới ngưỡng
Lấy ổn định vĩ mô làm chính, tranh thủ nguồn lực phát triển và cải tiến chất lượng
Vùng 1: K và G cùng trên ngưỡng
Có tác động tích cực giữa 2 yếu tố
Phát triển mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, khai thác lợi thế kinh tế cho phát triển giáo dục
Vùng 3: K dưới ngưỡng, G trên ngưỡng. G bất cập so với K
Ổn định quy mô giáo dục, thúc đẩy giáo dục phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.
Qua mô hình trên cũng đặt ra các bài toán hóc búa sau:
Việc xác định chính xác các tỷ số Kt và Gt là quan trọng. Nó tùy thuộc vào mục tiêu của chính phủ tới các vùng, tuy nhiên bên cạnh đó nó còn là tỷ số tồn tại khách quan tùy thuộc vào trình độ phát triển của vùng.
Việc phân tích và tính toán các chỉ số G và K cũng phải được thực hiện một cách nghiêm túc. Nếu đánh giá sai sẽ dẫn tới sai lầm trong các chính sách.
Các biện pháp được thực hiện với các vùng phải có độ linh hoạt và phải tùy thuộc vào trình độ phát triển của vùng đó.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ktpt_hoan_chinh_658.doc