Nhật Bản là một thành viên của WTO nên có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên các nguyên tắc của tổ chức này, các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều nhưng lại sử dụng nhiều hàng rào phi thuế quan do vậy sự cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường Nhật Bản là rất khó khăn về gía cả và chất lượng. Qua đó chúng ta cần có các biện pháp và chính sách để cải thiện cán cân thương mại của chúng ta với Nhật Bản.
27 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1658 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đất nước Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Toyotomi Hideyoshi đã khôi phục được trật tự vào năm 1590. Nhưng phải đến năm 1603 nước Nhật mới đi vào một giai đoạn mới đó là thời kỳ thống nhất trong cô lập của Ieyasu. Giai đoạn này kéo dài 265 năm tiếp theo.
Nhưng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII và XIX Nhật bản ngày càng chịu sức ép đòi mở cửa bờ biển cho thế giới bên ngoài mà cơ cấu chính trị cứng nhắc trong nước do Yeyasu tạo ra đã không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Điều này làm cho chế độ phong kiến của tướng quân Tokugawa sụp đổ vào năm 1867 và hoàng đế đã khôi phục lại được quyền lực trong cuộc phục hưng Minh trị năm 1868.
c. Thời kỳ hiện đại.
Được bắt đầu bằng kỷ nguyên Minh trị (1868 - 1912) trong giai đoạn này Nhật bản đã tạo ra một quốc gia hiện đại với các ngành công nghiệp hiện đại và thể chế chính trị hiện đại, một mô hình xã hội hiện đại mà một quốc gia phương tây có thể phải mất đến hàng thế kỷ mới có thể tạo lập được.
Năm 1926 Hoàng đế Hirohito mở ra kỷ nguyên Showa: kỷ nguyên này được mở ra trong một bầu không khí đầy hứa hẹn. Các ngành công nghiệp của quốc gia tiếp tục phát triển, đời sống chính trị của đất nước dựa vững chắc vào Chính phủ và Nghị viên. Nhưng cuộc suy thoái toàn thế giới đã làm đảo lộn đời sống kinh tế đất nước làm cho chức năng cuả Quốc hội giảm mạnh.
Tháng 8/1945 Nhật bản bị kiệt quệ vì chiến tranh do đó Nhật bản đã chấp nhận hạ vũ khí đầu hàng bắt tay vào khôi phục kinh tế và năm 1956 Nhật bản trở thành thành viên của Liên hợp quốc.
Từ những năm 70 đến nay Nhật bản đã được bước nhảy thần kỳ trong kinh tế, Nhật bản đã có nhiều biện pháp để tự do hoá các thị trường của mình là một thành viên quan trọng của tổ chức Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế cam kết duy trì mậu dịch tự do, Nhật bản hiện có vai trò đáng kể trong các lĩnh vực buôn bán, tài chính và viện trợ kinh tế kỹ thuật. Từ năm 1975 Nhật bản đã là một thành viên của Hội nghị kinh tế cấp cao hàng năm của bảy nước và được tổ chức ở Tokyo vào năm 1979 và 1986.
3. Con người và văn hoá.
Người Nhật có mức độ thuần nhất cao, hầu như chỉ sử dụng một loại ngôn ngữ. ở Nhật bản có rất nhiều loại tôn giáo khác nhau từ tôn giáo thực hành như đạo thần (Shinto) đến các tôn giáo dân gian truyền thống như đạo phật và đạo thiên chúa, song ảnh hưởng của những tôn giáo này đến đời sống hàng ngày của người dân Nhật bản rất nhỏ. Văn hoá và xã hội Nhật bản luôn tồn tại song song các yếu tố truyền thống và hiện đại. Người dân Nhật bản bị ảnh hưởng đáng kể của Khổng giáo, chính những giáo lý này đã khuyến khích người Nhật tiết kiệm hơn là tiêu dùng và nhờ đó đã góp phần đáng kể vào mức tiết kiệm cao của người Nhật. Người Nhật còn có tính hiếu kỳ và nhạy cảm với văn hoá nước ngoài nhưng họ vẫn luôn gìn giữ tài sản văn hoá riêng của họ, do đó người Nhật có một nền văn hoá khá đặc sắc.
Như chúng ta đã biết Nhật bản là một đất nước có địa hình khá phức tạp nên trong cuộc sống từ xưa họ luôn phải dựa vào nhau để sống, điều này đã hình thành một suy nghĩ và tập thể cho những người dân Nhật bản. Trong công việc người Nhật sẵn sàng gạt bỏ "cái tôi" của mình để hy sinh cho tập thể chính điều này đã góp phần tạo điều kiện cho Nhật bản phát triển thành một cường quốc kinh tế. Trên đây chỉ là một vài nét chủ đạo của người dân Nhật bản nhưng có thể nói rằng những điểm này đã góp phần thúc đẩy sự đi lên của quốc gia Nhật bản.
II. Tổng quan về nền kinh tế Nhật bản.
Nền kinh tế Nhật bản là một tổ hợp đang phát triển mạnh cho các ngành công nghiệp, thương mại, tài chính, nông nghiệp và tất cả các yếu tố khác của một cơ cấu kinh tế hiện đại. Nền kinh tế quốc dân đang ở giai đoạn công nghiệp hoá tiên tiến, được phục hồi bởi nhiều luồng thông tin đầy đủ và mạng lưới vận tải phát triển cao. Một đặc điểm của nền kinh tế Nhật bản là sự đóng góp to lớn của các ngành chế tạo và dịch vụ, như vận tải, thương nghiệp, bán buôn và bán lẻ và ngân hàng vào sản phẩm thuần nội địa cả nước, trong đó những ngày công nghiệp thứ nhất như nông nghiệp và ngư nghiệp hiện chiếm một phần rất nhỏ. Một đặc điểm khác là mối liên hệ to lớn của mậu dịch quốc tế đối với nền kinh tế Nhật bản.
Nhật bản là một nước đảo nhiều nghèo tài nguyên thiên nhiên và phải chu cấp cho một số dân trên 120 triệu người trên một diện tích tương đối nhỏ. Tuy nhiên bất chấp những điều kiện hạn chế này và việc cơ sở chế tạo của đất nước bị tàn phá trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật bản đã không những có thể xây dựng lại được nền kinh tế của mình mà còn trở thành một trong những quốc gia công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Tuy vậy, đồng thời quá trình mở rộng công nghiệp nhanh chóng này, cùng với những thay đổi cho những điều kiện kinh tế trong nứơc và quốc tế trong vài năm qua đã nảy sinh những vấn đề kinh tế khác nhau mà hiện nay quốc gia này đang phải đối phó.
* Sự phục hồi sau chiến tranh
Trong một vài năm sau khi Nhật bản bị thất bại trong chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế của quốc gia hầu như hoàn toàn bị tê liệt do sự tàn phá trong chiến tranh, với nạn thiếu lương thực gay gắt, lạm phát không thể kìm hãm và nạn buôn bán chợ đen lan tràn. Quốc gia này đã mất toàn bộ lãnh thổ của mình ở nước ngoài và dân số đã tăng quá 80 triệu người cộng với 6 triệu người hồi hương từ nước ngoài. Các nhà máy đã bị triệt phá trong các vụ ném bom. Nhu cầu trong nước giảm cùng với việc tạo nên nhu cầu làm hàng quân sự vào ngoại thương bị các lực lượng chiếm đóng hạn chế. Nhưng nhân dân Nhật bản đã bắt tay lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá của mình dưới sự giúp đỡ ban đầu của viện trợ tái thiết từ Mỹ. Năm 1951, TSPQD đã trở lại mức 1934 - 1936. Số nhân viên quân sự giải ngũ và số công chức không có việc làm đã gia nhập lực lượng lao động, tạo thành nguồn cung cấp công nhân dồi dào cho quá trình tái thiết kinh tế thời kỳ ngay sau chiến tranh.
Những cải cách xã hội khác nhau sau chiến tranh đã tạo ra một khuôn khổ cơ bản cho sự phát triển kinh tế sau đó. Việc phi quân sự hoá sau chiến tranh và việc cấp tái vũ trang được ghi trong Hiến pháp đã loại bỏ việc chi phí quân sự to lớn làm cạn kiện các nguồn lực kinh tế của quốc gia, việc giải tán các Zaibatsu (các tổ hợp kinh doanh lớn) đã giải thoát cho các lực lượng cạnh tranh tự do, và quyền sở hữu đất canh tác đã được phân phối lại một cách rộng rãi cho các tá điền trước đây, đã khuyến khích họ hăng hái cải tạo đất đai. Những trở ngại cho việc hoạt động các công đoàn cũng được loại bỏ, do đó sự đảm bảo về việc làm của công nhân đã được bảo vệ tốt hơn và khả năng tăng lương đều đặn đã được mở ra.
Theo "chế độ sản xuất ưu tiên", việc tăng sản lượng than và thép, hai trụ cột của nền công nghiệp quốc gia đã được chú trọng. Sản xuất thép tăng đã tạo cơ sở cho cất cánh toàn diện của sản xuất thép, tiêu biểu là đầu tư tư bản tăng liên tục do sự phục hồi của tiêu dùng. Sau đó sản xuất tăng không chỉ trong các ngành công nghiệp then chốt, như thép và hoá chất mà cả trong các ngành công nghiệp mới sản xuất như hàng tiêu dùng, vô tuyến truyền hình và ô tô.
*Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.
Kinh tế Nhật bản liên tục phát triển nhanh từ giữa những năm 50 đến những năm 60, và chỉ phải chịu hai cuộc suy thoái ngắn vào năm 1962 và 1965. Tốc độ tăng trung bình hàng năm thực tế đạt 11% trong thập kỷ những năm 60, so với 4,6% của CHLB Đức và 4,3% của Mỹ trong thời kỳ từ 1960 - 1972. Và tốc độ đó gấp trên hai lần so với tốc độ tăng trung bình khoảng 4%/năm của chính Nhật bản trước chiến tranh.
Người ta nhất trí cho rằng sự phát triển nhanh của nền kinh tế Nhật bản từ cuối những năm 50 đến những năm 60 là do đầu tư mạnh mẽ của công nghiệp tư nhân vào nhà máy và thiết bị mới tạo ra. Mức tiết kiệm cao của các gia đình Nhật bản đã tạo cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác rất nhiều tiền vốn để đầu tư mạnh cho khu vực tư nhân. Việc tăng chi tiêu tư bản đi liền với việc áp dụng kỹ thuật mới, thường dưới hình thức bằng sáng chế của các công ty nước ngoài. Đầu tư để hiện đại hoá đã tạo cho các ngành công nghiệp Nhật bản có sức cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới, tạo ra được những sản phẩm mới, và mang lại cho các xí nghiệp Nhật bản những lợi ích của sản xuất hàng loạt và cải thiện được năng suất lao động của mỗi công nhân.
Một nhân tố khác hỗ trợ cho sự tăng trưởng kinh tế của Nhật bản trong suốt thời kỳ này là sẵn có một lực lượng lao động dồi dào có trình độ giáo dục cao. Hàng năm một lượng lớn hợp lý thanh niên tham gia vào lực lượng lao động và cũng có rất nhiều công nhân nông nghiệp di chuyển tới từ các vùng quê, kiếm được việc làm trong các ngành chế tạo và dịch vụ ở các thành phố lớn.
Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng được thể hiện rõ nhất là kế hoạch 10 năm làm tăng gấp đôi thu nhập quốc dân đề ra vào năm 1960, các chính sách kinh tế của chính phủ thời đó nhằm khuyến khích tiết kiệm, đẩy mạnh đầu tư, bảo vệ các ngành công nghiệp tăng trưởng và khuyến khích xuất khẩu. Nhật bản đã được lời nhờ môi trường kinh tế mở rộng và việc cung cấp dồi dào nguồn năng lượng tương đối rẻ từ nước ngoài suốt từ thời kỳ này.
Sau cuộc suy thoái năm 1965, nền kinh tế Nhật bản đã có một thời kỳ phồn vinh dài cho đến khoảng mùa hè năm 1970, với tốc độ tăng trưởng trong một thời kỳ này đạt trung bình xấp xỉ 12%. Nhân tố chủ yếu đằng sau sự tăng trưởng này là đầu tư tư bản tăng nhanh, nhằm tạo ra các nền kinh tế qui mô, xây dựng thêm các điều kiện để tăng khả năng xuất khẩu, và tạo được các thiết bị để đáp ứng được những thay đổi trong môi trường kinh tế và xã hội như những thiết bị tiết kiệm lao động và giảm ô nhiễm môi trường. Việc gia tăng xuất khẩu do sức cạnh tranh giá cả mạnh hơn của các sản phẩm Nhật bản cũng tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh liên tục phát triển.
* Nền kinh tế đi đến bước ngoặt.
Nhờ sự gia tăng nhanh chóng của TSPQD, năm 1968 Nhật bản đã đứng thứ hai chỉ sau có Mỹ trong số các nền kinh tế thị trường, xét về qui mô kinh tế quốc dân. Nhưng đồng thời, sự gia tăng nhanh chóng này đã làm nảy sinh những vấn đề và những mất cân đối khác nhau: như sự chậm trễ tương đối trong việc hiện đại hoá các lĩnh vực như nông nghiệp và kinh doanh nhỏ, giá cả tiêu dùng có xu hướng tăng, thiếu nhà ở và cơ sở hạ tầng như đường xá và những điều kiện thuận tiện hàng ngày khác, ô nhiễm môi trường và sự huỷ hoại thiên nhiên, và việc suy giảm dân số ở các vùng nông thôn và việc quá đông ở các thành phố.
Sự phồn vinh liên tục của Nhật bản đã nâng cao vị trí quốc tế của nó, nhưng việc xuất khẩu và dư thừa cán cân thanh toán tăng nhanh đã tạo chiều hướng chủ nghĩa bảo hộ ngày càng mạnh ở các nước khác. Những thay đổi trong hoàn cảnh quốc tế và trong nước xung quanh nền kinh tế Nhật bản vốn phát triển thầm lặng suốt nửa sau những năm 60 đã diễn ra một cách bất ngờ trong thời kỳ từ năm 1970 - 1975. Tháng 8/1971, Mỹ tuyên bố đình chỉ đổi đôla ra vàng, thực tế đã chấm dứt hệ thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods, vốn là một trong những trụ cột hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế của thế giới tự do trong thời kỳ sau chiến tranh. Tháng 2/1973, những nước lớn trên thế giới, kể cả Nhật Bản, đã chuyển sang chế độ tỉ giá hối đoái thả nổi. Sự rối loạn trong hoạt động tiền tệ quốc tế đã góp phần tạo ra một làn sóng lạm phát toàn thế giới. Trong phạm vi Nhật Bản, lạm phát có xu hướng trầm trọng hơn do các chính sách tiền tệ thả lỏng nhằm khuyến khích hoạt động kinh tế và giảm dư thừa tài khoản hiện hành của đất nước. Cú xốc dầu mỏ lần thứ nhất, vào mùa thu năm 1973, đã khiến ngọn lửa lạm phátl bốc cao hơn nữa làm giá cả tiêu dùng tăng 20% vào năm 1974.
Trước tình hình đó Chính phủ đã nâng lãi suất, giảm đầu tư công cộng, và áp dụng cả những biện pháp khác để kiềm chế tổng cầu, làm giảm mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng thực tế trong năm tài chính 1974 (từ tháng 4/1974 đến tháng 3/1975) đã giảm tới -0,2%, và đất nước rơi vào tình trạng kinh tế khó khăn nhất kể từ những năm đầu sau chiến tranh.Cú xốc dầu mỏ đã làm nổi rõ sự mong manh của nền kinh tế Nhật bản vốn dựa chủ yếu vào dầu mỏ nhập khẩu làm nguồn cung cấp năng lượng. Vào những năm tiếp sau, hoạt động kinh tế đã hồi phục chút ít, nhưng không bao giờ đạt được mức thời kỳ tăng trưởng nhanh. Và bước tranh tài chính có vẻ ảm đạm do thu nhập từ thuế giảm vì tình hình kinh tế trì trệ. Trong ngân sách bổ sung của năm tài chính 1975, lần đầu tiên từ sau chiến tranh chính phủ buộc phải dùng đến biện pháp tài chính thiếu hụt và cho tới năm tài chính 1990 ngân sách vẫn trong tình trạng thiếu hụt.
Cuối năm 1978, từ lúc nền kinh tế Nhật Bản có những dấu hiệu phục hồi từ những ảnh hưởng của cú xốc dầu mỏ lần thứ nhất thì cuộc cách mạng ở Iran đã lại gây ra đợt tăng giá dầu mỏ lần thứ hai. Rút kinh nghiệm từ cú xốc lần thứ nhất, chính phủ đã nhanh chóng phản ứng bằng cách thặt chặt tiền tệ và bằng các biện pháp khác để kiểm soát lạm phát vào mùa hè năm 1980 giá cả đã ít nhiều được ổn định. Nhưng nền kinh tế đã ít nhiều bước vào giai đoạn suy thoái do các cơ sở kinh doanh cắt giảm mức hàng tồn kho và giảm chi tiêu cơ bản và do các cá nhân giảm chi tiêu vào tiêu dùng và đầu tư nhà cửa. Lãi suất cao ở Mỹ đã làm kéo dài hơn sự suy thoái ở Nhật Bản.
Sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai vào đầu những 80 thì đến những năm 90 kinh tế Nhật Bản lại lâm vào một cuộc khủng hoảng do nạn đầu cơ và buôn bán bất động sản, một lần nữa kinh tế Nhật Bản lại lâm vào tình trạng suy thoái đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính. Những khó khăn trong lĩnh vực tài chính đã tác động đến mọi mặt của nền kinh tế Nhật Bản cụ thể là: Để ổn định và phát triển nền kinh tế nước này Chính phủ Nhật Bản đã phải thực hiện chính sách mạnh mẽ, chấp nhận phá sản một loạt công ty làm ăn yếu kém.Theo công ty dữ liệu Teikoku Databank một số vụ phá sản ở Nhật Bản trong tháng 2 năm 2000 tăng 51% so với cùng kỳ năm trước. Các công ty của Nhật Bản đang phải đối phó với tình trạng giá tài sản giảm mạnh và doanh số bán hàng trì trệ đang bị sức ép cải cách, cắt giảm quan hệ kinh doanh thông thường không hiệu quả. Số vụ phá sản trong tháng 2/2000 là 1.441 công ty. Theo AP ngày 14/4 năm 2000 số vụ phá sản công ty trong tháng 3/2000 là 1770 công ty. Năm tài chính 1999 kết thúc vào 31/3/2000 số công ty đã phá sản là 16.887 công ty giảm 3,5% so với năm tài chính trước đó. Các công ty phá sản làm thất nghiệp tăng cao, giám đốc điều hành hãng sản xuất ô tô lớn thứ hai của Nhật Bản đã tuyên bố sẽ đóng cửa 5 nhà máy cắt giảm quan hệ với hàng trăm nhà cung cấp và sa thải 21.000 công nhân. Hai ngân hàng lớn ở Nhật Bản là Sakura và Sumitomo đã hợp nhất để tồn tại và cắt giảm 9.300 nhân viên. Ngân hàng Đaiichi Kangyo và ngân hàng Fuji cùng ngân hàng công nghiệp Nhật Bản dự tính sẽ cắt giảm 6000 nhân viên. Sony và hãng viễn thông NTT bắt đầu cải tổ cơ cấu cũng có xu hướng cắt giảm nhân viên, hãng Toshiba đang giải tán nhiều chi nhánh không sinh lợi. Quan niệm truyền thống thiếng liêng có việc làm suốt đời cho mọi công dân Nhật Bản đang bị rạn nứt.
Không chỉ thất nghiệp tăng nhanh mà Nhật Bản còn bị giảm xuất khẩu do nhu cầu bên ngoài giảm gây trở ngại cho phục hồi kinh tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản năm 1996 chỉ đạt 43.496, tỷ yên tăng 0,9% so với năm 1994 và 0,5% so với năm 1995. Chủng loại hàng hoá xuất khẩu cũng giảm cùng với việc đình trệ trong địa bàn xuất khẩu ở những thị trường xuất khẩu chính như Mỹ và EU, thậm chí cả khu vực Châu á. Trong năm tài chính 2000 nền kinh tế Nhật Bản có thể sẽ tăng hơn 1% đây là chỉ tiêu của chính phủ Nhật Bản đề ra và nền kinh tế Nhật Bản đang tiến tới sự khôi phục và bền vững hơn do những nỗ lực của chính phủ Nhật Bản trong mấy năm qua. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế trong năm 1999 kết thúc vào 31/3/2000 đạt được chỉ tiêu 0,6%. Những nguy cơ về tình hình tài chính đang xấu đi sau khi chính phủ Nhật Bản đã phát hành một số lớn trái phiếu nợ để tài trợ một loạt các biện pháp kích thích phát triển sẽ có thể làm cho nền kinh tế của Nhật Bản lại rơi vào khủng hoảng. Chính phủ Nhật Bản đã thông qua một ngân sách kỷ lục trị giá84.990 tỷ yên cho năm tài chính 2000 để đạt được một sự phục hồi thực sự bền vững nền kinh tế vẫn còn mong manh.
III. Các chính sách về kinh tế của Nhật Bản.
1. Những xu hướng kinh tế vĩ mô
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số được Nhật Bản duy trì trong suốt những năm 60 và đầu những năm 70 đã kết thúc cùng với cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai (1979 - 1980) tốc độ tăng phổ biến chỉ đạt chưa đầy 4%. Đứng trước sự gia tăng cả chi phí năng lượng lẫn lao động do các cuộc khủng hoảng dầu mỏ công nghiệp Nhật Bản đã hết sức cố gắng để giảm nhu cầu về năng lượng lao động, áp dụng kỹ thuật mới những cố gắng này đã thực sự tạo cho Nhật Bản có sức cạnh tranh quốc tế mạnh hơn so với thời kỳ trước khủng hoảng dầu mỏ.
Vào đầu những năm 80, suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến cho tiêu dùng dầu mỏ giảm mạnh và làm yếu đáng kể tình đoàn kết của tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). OPEC đã tuyên bố giảm giá dầu vào tháng 3/1983, và điều này đã đánh dấu sự mở đầu một thời kỳ giá dầu rẻ hơn. Sự thay đổi này cùng với việc yếu đi của đồng Yên và sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ đã có tác động tích cực đến nền kinh tế Nhật Bản vào đầu những năm 80. Việc tăng mạnh đầu tư tư bản tư nhân vào xuất khẩu cuối cùng đã đưa nền kinh tế thoát khỏi đường hầm suy thoái. Tốc độ tăng trưởng thực tế đã lên tới 4,5% vào năm tài chính 1984 và 4,3% trong năm tài chính 1985.
Tháng 9/1985, năm quốc gia công nghiệp lớn đã nhất trí cùng hành động để giảm giá đồng đôla đang tăng cao, trong 12 tháng sau đó đồng đôla đã giảm mạnh từ trên 240 yên xuống dưới 160 yên. Điều này đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản bị suy thoái. Do đó, năm 1987 chính phủ và ngân hàng Nhật Bản đã có những biện pháp tài chính và tiền tệ để tăng nhu cầu trong nứơc, nhằm khuyến khích sự phục hồi kinh tế giảm dư thừa tài khoản hiện hành. Quan trọng nhất trong những biện pháp này gồm có việc hạ thấp tỉ suất chiết khấu chính thức xuống còn 2,5%, đầu tư thêm 5.000 tỷ yên cho các công trình công cộng và giảm tới trên 1000 tỷ yên thuế thu nhập. Đáp lại, khu vực chế tạo đã có những chính sách nhằm đẩy mạnh nhu cầu trong nước. Do đó suy thoái đã chấm dứt năm 1986, mở đầu một thời kỳ phục hồi nhờ nhu cầu trong nước và nền kinh tế đã duy trì được sức mạnh của mình bằng tốc độ tăng thực tế trung bình 5,3% từ năm tài chính 1987 đến năm 1990. Những mất cân đối đối ngoại cũng bắt đầu có những dấu hiệu thay đổi. Dư thừa tài khoản hiện hành, đạt mức cao nhất 4,4% TSPQD vào năm tài chính 1986, đã giảm còn 1,1% vào năm tài chính 1990.
Trong khi đó, cái gọi nền kinh tế bong bóng đã xuất hiện từ năm 1988, với việc giá đất và chứng khoán tăng nhanh để khắc phục hiện tượng này và ngăn ngừa lạm phát có thể xuất hiện do cuộc khủng hoảng vùng vịnh nổ ra vào tháng 8/1990 chính phủ và ngân hàng Nhật Bản đã chuyển sang chính sách thắt chặt dây lưng. Từ khoảng năm 1991 nền kinh tế đã bị suy thoái nặng nề do vậy chính phủ và ngân hàng Nhật Bản laị một lần nữa áp dụng những chính sách ít chặt chẽ hơn. Đặc biệt đáng lưu ý chương trình kinh tế toàn diện tháng 8/1992 bao gồm chi tiêu phụ thêm cho các công trình công cộng và nhằm phục hồi kinh tế nhờ nhu cầu trong nước. Số tiền chi cho các biện pháp này đạt tổng công 10.700 tỷ yên.
Trong suốt thời gian này, Nhật Bản đã duy trì được vị trí của mình như là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Theo báo cáo các tài khoản quốc gia của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và những thống kê của Cục kế hoạch kinh tế Nhật Bản, TSPQD của Nhật Bản năm 1990 là 3000 tỷ USD đứng thứ hai sau Mỹ là 5400 tỷ USD. Tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người của Nhật Bản đứng thứ ba trong số 24 thành viên của OECD năm 1988 và 1989. Nhưng năm 1990 tụt xuống vị trí thứ bảy với 24.184 đô la, tuy nhiên Nhật Bản tiếp tục có tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người cao nhất trong các nước thuộc nhóm 7 nước công nghiệp (G7) từ năm 1986. Về tài sản thuần ở nước ngoài, Nhật Bản đứng thứ nhất vào cuối năm 1985, Nhật Bản đã bị Đức vượt vào cuối năm 1990 song đã giành lại vị trí đứng đầu của mình vào cuối năm 1991 vào 383 tỷ USD.
2. Chính sách tài chính
Năm tài chính của Nhật Bản kéo dài từ mùng 1/4 đến 31/3 hàng năm vì người Nhật cho rằng vào tháng 4 Hoa Anh Đào nở đẹp nhất nên nếu bắt đầu 1 năm tài chính vào tháng 4 lúc Hoa Anh Đào đang nở đẹp như vậy thì sẽ hy vọng trong năm tài chính mới này sẽ thu được nhiều kết quả tốt đẹp như Hoa Anh Đào đang nở. Vào đầu năm tài chính ,các bộ và các cục khác nhau trình yêu cầu về ngân sách của mình cho năm tài chính sắp tới lên Bộ Tài Chính vào cuối tháng 8. Bộ Tài Chính sẽ cấn đối những yêu cầu này với các khoản thu dự tính và thường hoàn thành dự thảo ngân sách vào cuối tháng 12 đề trình lên nội các. Sau khi được nội các phê chuẩn, Chính phủ sẽ trình ra Quốc hội vào tháng 1 và tìm cách để được thông qua trước khi bắt đầu năm tài chính mới.
Luật Tài Chính Nhật Bản năm 1947 chỉ cho phép Chính phủ phát hành công trái dưới dạng "công trái xây dựng" để gây quỹ đầu tư vào các dự án công trình công cộng; luật này không có điều khoản nào về phát hành công trái để cấp tiền cho việc chi tiêu thông thươngf. Vì vậy Chính phủ đa kìm chế không phát hành công trái tài trợ thiếu hụt suốt cho đến hết năm tài chính 1974. Nhưng vào năm 1975, thu nhập từ thuế giảm do khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất đã buộc Chính phủ phải có một đạo luật đặc biệt cho phép phát hành thêm gần 2000 tỷ yên (khoảng 14 tỷ đôla theo tỷ giá 135 yên một đôla) công trái bù thiếu hụt như là một phần của ngân sách bổ sung của năm đó.
Chi tiêu tiếp tục do chi phí hệ thống phúc lợi xã hội của Nhật Bản tăng lên, đặc biệt tiền hưu trí và dịch vụ y tế. Do đó, công trái bù thiếu hụt đã được phát hành hàng năm từ năm 1975 đến năm 1990.
Chính phủ đã tăng chi tiêu cho các công trình công cộng suốt thời gian cuối những năm 70 để kéo nền kinh tế trong nước ra khỏi cuộc suy thoái sau khủng hoảng dầu mỏ, đồng thời đóng góp vào sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Công trái xây dựng đã tạo được nhiều quỹ cho hoạt động này, và vào cuối năm tài chính 1978, tổng nợ quốc gia, kể cả công trái bù thiếu hụt, đã vượt mức 10.000 tỷ yên (71,4 tỷ đôla). Vào năm tài chính 1979, công trái mới phát hành của Chính phủ đã chiếm tới 34.7% các khoản chi tài khoản chung.
Việc tăng phát hành khối lượng công trái Chính phủ loại này đã làm thay đổi trò truyền thống của chính sách tài chính - phân bổ các nguồn tài nguyên và điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Điều đó có khả năng làm giảm đầu tư nhân dân, gây ra lạm phát và đặt gánh nặng lên vai thế hệ tương lai. Những lo ngại lúc này đã thúc đẩy chính phủ nhanh chóng tiến hành xây dựng một chương trình xây dựng lại nền tài chính. Cải cách tài chính đã là chủ để trung tâm trong chính sách đối nội những năm 80, đặc biệt trong suốt nhiệm kỳ của Thủ tướng Nakasone yasuhiro từ tháng 11/1982 đến tháng 10/1987. Mục tiêu xây dựng lại nền tài chính của chính phủ là chấm dứt phát hành công trái bù thiếu hụt vào năm tài chính 1990. Do những nỗ lực này, nên mục tiêu công trái bù thiếu hụt bằng 0 đã đạt được trong ngân sách năm 1991. Sự phụ thuộc vào công trái chính phủ đã giảm còn 10,1% tài khoản chung trong ngân sách năm 1992.
Năm 1987 - 1988, hệ thống thuế đã được xét lại một cách căn bản nhằm tạo ra sự cân đối tốt hơn giữa các loại thuế thu nhập và thuế thu nhập, tiêu dùng và thuế tài sản. Thuế thu nhập có 15 hạng thuế từ 10,5% - 70%, đã được đơn giản hoá còn 5 hạng từ 10% - 50%. Đồng thời, chế độ miễn thuế cho lợi tức của các tài khoản tiết kiệm nhỏ đã được bãi bỏ. Tỷ suất thuế thu nhâp công ty đã được giảm từ 42% xuống còn 37,5%. Về thuế gián tiếp, các thuế gián tiếp cá nhân như thuế hàng hoá đã được thay thế bằng thuế tiêu dùng. Tỷ suất thuế chỉ có 3%, nhưng nó được áp dụng rộng rãi cho toàn bộ các sản phẩm tiêu dùng. Khoản chi lớn nhất trong ngân sách của chính phủ là chi phí cho các dịch vụ công trái của chính phủ, mặc dù có những nỗ lực nhằm phát hành thêm công trái bù thiếu hụt, Nhật Bản vẫn có tỷ lệ nợ so với TSPQD cao so với các quốc gia công nghiệp khác.
Chính trong hoàn cảnh này chính phủ Nhật Bản đã phải đương đầu với sức ép ngày càng tăng và ở trong nước lẫn nước ngoài đòi mở rộng nhu cầu trong nước như một cách để đẩy mạnh sự tăng trưởng liên tục, không có lạm phát của nền kinh tế thế giới và sửa chữa những mất cân đối đối ngoại của nền kinh tế Nhật Bản. Trong suốt năm tài chính 1992, chính phủ đã đáp lại bằng cách đưa ra một ngân sách bổ sung lớn nhất chưa từng có, phản ánh những điều khoản của chương trình kinh tế khẩn cấp đựơc công bố vào tháng 8. Mục đích của nỗ lực này là dùng chính sách tài chính để thúc đẩy mở rộng nhu cầu trong nước.
Ngân hàng Trung ương của Nhật Bản có trách nhiệm giống như các ngân hàng Trung ương ở các nước khác là duy trì giá trị đồng tiền quốc gia thông qua những biện pháp như điều chỉnh tỷ suất chiết khấu chính thực, cân đối các nhu cầu dự trữ của các ngân hàng và các hoạt động trên thị trường trái phiếu. Gần đây người ta đã nhấn mạnh đến việc phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô với các ngân hàng Trung ương cuả các quốc gia khác để ổn định tỷ suất ngoại hối và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính quốc tế được phát triển.
Một đặc điểm của khu vực tài chính Nhật Bản là phân loại các ngân hàng theo các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Các loại này gồm có ngân hàng tín dụng dài hạn, các ngân hàng thành phố và khu vực, các ngân hàng uỷ thác, và các ngân hàng tiết kiệm và cho vay lẫn nhau, các hiệp hội tín dụng.
Trong lĩnh vực tài chính quốc tế, luật ngoại hối được sửa đổi vào năm 1980 đã loại bỏ hầu hết những hạn chế đối với những giao dịch tư bản quốc tế. Từ khoảng thời gian này, các tổ chức tài chính Nhật Bản đã bắt đầu mở rộng và tăng cường năng lực của họ trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, các ngân hàng và các công ty chứng khoán đều tích cực tham gia vào thị trường tài chính nước ngoài.
Việc mở rộng ra nước ngoài của các tổ chức tài chính Nhật Bản và việc gia tăng những giao dịch tư bản quốc tế của họ đã ngày càng tập trung được sự chú ý vào Tokyo như là một trung tâm tài chính thế giới. Việc này đã khiến các nước khác ngày càng đòi hỏi Nhật Bản phải xóa bỏ các qui định có tính chất kiềm chế và phải quốc tế hoá các thị trường tiền tệ và tư bản của mình. Suốt trong năm 1984 chính phủ đã đáp lại đòi hỏi này bằng cách bãi bỏ những hạn chế đối với việc chuyển ngoại tệ thành đồng yên, thiết lập một thị trường nhận thanh toán bằng đồng yên của các ngân hàng và nới lỏng những hạn chế về lãi suất của các khoản tiền gửi lớn có kỳ hạn. Hơn nữa, tư cách hội viên của Sở giao dịch chứng khoán Tokyo đã được mở cho các công ty chứng khoán nước ngoài và các ngân hàng nước ngoài được phép tham gia vào các hoạt động ngân hàng uỷ thác. Từ đó đã có thêm nhiều biện pháp kể cả việc nới lỏng những hạn chế đối với những giao dịch đồng yên Châu Âu. Chính phủ đang tiến hành tự do hoá hơn nữa các dịch vụ tài chính. Việc nới lỏng những hạn chế về lãi suất của các khoản tiền gửi có kỳ hạn dự kiến sẽ đựơc hoàn thành tháng 6/1993, trong khi tất cả lãi suất tiền gửi, kể cả tiền gửi bằng tiền mặt sẽ đựơc nới lỏng hoàn toàn vào năm 1994. Đồng thời, những trở ngại phân chia hoạt động kinh doanh ngân hàng và chứng khoán sẽ được giảm bớt. Do vậy các chi nhánh của các ngân hàng dự kiến sẽ được phép hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và các nhánh của các công ty chứng khoán cũng sẽ có thể tham gia vào các hoạt động ngân hàng từ năm 1993.
Khi nền kinh tế bong bóng của Nhật Bản bùng nổ kèm theo là khủng hoảng ngân hàng trong những năm 90, Nhật Bản đã thi hành chương trình tự do hoá thị trường tài chính Nhật Bản - Big Bang - gồm 8 điểm sau đây:
- Thả nổi hoàn toàn giá cả các dịch vụ tài chính
- Mở cửa thị trường hối đoái cho mọi người.
- Xoá bỏ biên giới phân chia 3 ngành nghề: Ngân hàng, bảo hiểm, và mua bán chứng khoán.
- Cho phép vốn liếng tự do luân chuyển trong cũng như ngoài nứơc.
- Buộc các cơ quan tài chính phải công bố những dữ liệu chính xác về hoạt động ngân hàng của mình dù lời hay lỗ.
- Giảm bớt hoặc xoá hẳn các loại thuế có tác dụng giới hạn việc mua bán sang nhượng địa ốc chứng khoán.
- Củng cố tính độc lập của ngân hàng quốc gia trước đây bị nhà nước khống chế
- Cho phép nước ngoài tự do cạnh tranh trên thị trường nội địa không phân biệt đối xử.
Chương trình này sẽ dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trong thị trường cung cấp tài chính của Nhật Bản. Do vậy để trụ vững trong giai đoạn này ở Nhật Bản đã diễn ra một làn sóng sát nhập, đây cũng là điểm báo kết thúc của các Keiretru đó là những tập đoàn kinh doanh lớn gồm nhiều hãng có quan hệ lỏng lẻo với nhau mà theo truyền thống một Keiretru phải có một ngân hàng. Vào đầu thế kỷ 21 Nhật Bản đã có 4 ngân hàng được xếp vào 10 ngân hàng lớn nhất thế giới trong đó có 3 ngân hàng của Nhật Bản được xếp vào những vị trí đầu.
STT
Tên ngân hàng
Giá trị tài sản (Tỷ USD)
1
IBJ + DKB + Fuji (Nhật Bản)
1300
2
Sanwa + A sahi + Tokai (Nhật Bản)
1010
3
Sumitomo + Sakura (Nhật Bản)
943
4
Deutseho (Đức)
880
5
BTM - Mitsubishi Trust + Nipon Trust + Tokyo Trust (Nhật Bản)
866
6
BNP + Pari bas (Pháp)
721
7
Tập đoàn ngân hàng UBS (Thụy điển)
686
8
Citigroup
667
9
Tập đoàn ngân hàng America (Mỹ)
656
10
HSBC. PLC (Anh)569
Theo hãng thông tấn AFP (Pháp)
Chú thích:
IBJ: Industrial Bank of Japan
DKB: Daiichi Kangyo Bank
BTM: Bank of Tokyo - Mitsubishi
Trong hội nghị các Bộ trưởng tài chính G7 họp ngày 15/4/2000 đã nhận định nền kinh tế Nhật Bản còn cần phải đẩy nhanh tốc độ cải cách cơ cấu để tăng nhu cầu trong nước và tiếp tục duy trì chính sách lãi suất 0% để tránh sức ép lạm phát. Nhưng trong khi đó lãi suất chiết khấu ở Mỹ đã đựơc tăng lên đến 5,5% chính điều này làm cho đồng yên của Nhật Bản bị sụt giá tương đối so với đồng USD. Ngoài ra, khả năng thường xuyên của ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) vào thị trường tiền tệ cũng là một nhân tố làm cho đồng yên giảm giá. Các nhà kinh tế Nhật Bản cho rằng đồng yên sẽ tiếp tục ở mức thấp là 105 đến 110 yên/1USD. Sự mất giá của đồng yên làm giảm thiểu nền kinh tế gây khó khăn trong phục hồi kinh tế của Nhật Bản nhưng ngân hàng Trung ương Nhật Bản vẫn sẵn sàng can thiệp để giữ cho đồng yên ở mức thấp so với đồng đô la để khuyến khích xuất khẩu, do đó tính đến cuối quí I năm 2000 Nhật Bản đã đạt được mức dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới khoảng 258,2 tỷ USD.
3. Chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản
Do TSPQD của Nhật Bản hiện chiếm trên 10% của toàn thế giới, nên Nhật Bản ý thức được rõ hơn về trách nhiệm và vai trò của mình đối với sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thế giới và đã hết sức cố gắng để chuyển cơ cấu kinh tế của mình từ phụ thuộc vào xuất khẩu sang dựa vào nhu cấu trong nước và giảm dư thừa tài khoản hiện hành. Những nỗ lực để khuyến khích nhu cầu trong nước, mở rộng hơn nữa các thị trường Nhật Bản và đẩy mạnh nhập khẩu này cùng với việc đồng yên lên giá và đồng đô la giảm giá góp phần làm giảm sự mất cân đối buôn bán Nhật - Mỹ và mở rộng việc nhập khẩu các hàng chế tạo và Nhật Bản từ các Nies Châu á, các nước ASEAN và các bạn hàng khác. Nhật Bản phải tiếp tục những nỗ lực này để đóng góp vào sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thế giới. Chế độ buôn bán tự do nhiều lên là cơ sở phát triển kinh tế không chỉ ở Nhật Bản mà toàn thế giới, và việc duy trì và tăng cường điều đó là rất quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Do đó Nhật Bản phải đóng góp mạnh mẽ vào sự thành công của những thương lượng buôn bán nhiều bên đang được tiến hành dưới sự bảo hộ của tổ chức Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT).
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật gần đây đã có ảnh hưởng quan trọng đến thế giới theo nhiều cách và đã nảy sinh những vấn đề khác nhau có liên quan đến khoa học và kỹ thuật kể cả luồng kỹ thuật tiên tiến phương Tây chảy sang phương Đông và việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy Nhật Bản với tư cách là thành viên chủ chốt của cộng đồng phương Tây và một quốc gia Châu á - Thái Bình Dương, phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và giữ vai trò tích cực trong việc tìm ra những giải pháp cho các vấn đề này.
a. Chính sách thương mại của Nhật Bản:
Chính sách thương mại của Nhật Bản cũng trải qua nhiều thời kỳ mà điểm khởi đầu của nó là thời kỳ Minh Trị.
* Thời kỳ Minh Trị 1868 - 1911:
Trong thời kỳ này Nhật Bản tăng cường quan hệ với các nứơc phương Tây, tiếp thu những tư tưởng mới và kinh nghiệm phục vụ cho qúa trình CNH - HĐH đất nước. Không chỉ có vậy Nhật Bản còn loại bỏ những đạo luật hạn chế hoạt động ngoại thương, mở rộng hoạt động tham quan du lịch để học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế của những nước phương Tây. Nhờ những cải cách như vậy trong giai đoạn này Nhật Bản đã tăng kim ngạch ngoại thương hình thành được kiểu tư duy kinh tế để phát triển đất nứơc theo hướng phương Tây.
* Thời kỳ trước chiến tranh thế giới thứ hai 1912 - 1945.
Tiếp tục những cải cách của thời kỳ Minh Trị, trong giai đoạn này chính phủ Nhật Bản tiếp tục mở rộng ngoại thương và chuyển hướng thương mại từ Châu Âu sang Châu á. Nhưng đến cuối thế kỷ này nền kinh tế bị chiến tranh chi phối các ngành công nghiệp phát triển chủ yêú để phục vụ cho chiến tranh, nhập khẩu chủ yếu là trang thiết bị cho quân đội nên trong giai đoạn này ngoại thương hầu như không tồn tại.
* Thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai
ã Giai đoạn sau chiến tranh đến năm 1973:
Trong giai đoạn này nền kinh tế đang được phục hồi dần dần sau chiến tranh do đó nền kinh tế còn non yếu tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu còn thấp. Chính vì vậy trong giai đoạn này chính phủ Nhật Bản đặc biệt chú trọng tới hoạt động ngoại thương để tăng thặng dư thương mại và tích luỹ vốn. Để đạt được điều này Nhật Bản đã tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới như: GATT - WB, xây dựng một chương trình tự do hoá thương mại một cách thận trọng với các bước đi phù hợp với đất nước mình, giảm quản lý bằng hạn ngạch và biện pháp hành chính không bảo hộ hàng hoá trong nước. Nhật Bản thúc đẩy xuất khẩu để tăng tích luỹ ngoại tệ trong nước, để xuất khẩu tăng Nhật Bản đã tích cực áp dụng hàng loạt các biện pháp ưu đãi cho xuất khẩu như miễn giảm thuế xuất khẩu cho các doanh nghiệp làm xuất khẩu, thành lập các cơ quan hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu như: ngân hàng cấp tín dụng, cơ quan kiểm tra chất lượng...
ã Giai đoạn 1974 - 1985.
Trong giai đoạn này phần nào Nhật Bản đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng nhưng để phát triển nền kinh tế Nhật Bản ngày càng ổn định, Nhật Bản vẫn phải tích cực áp dụng các chính sách thương mại bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu không phải trong phạm vi khu vực mà là toàn thế giới hơn nữa Nhật Bản còn phải chú trọng việc nhập khẩu công nghệ thiết bị chế biến để tiến tới xuất khẩu công nghệ.
ã Giai đoạn từ 1985 đến nay.
Tài khoản hiện hành của Nhật Bản bị thiếu hụt đáng kể trong vài năm sau mỗi cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Nhưng cán cân thanh toán đã chuyển sang dư thừa vào năm 1981, và từ năm 1983 phần dư thừa đã tăng nhanh đặc biệt, đây là kết quả của sức cạnh tranh quốc tế về chất lượng ngày càng tăng của các mặt hàng chế tạo Nhật Bản cộng với việc đồng yên có giá tương đối thấp so với đồng đô la và sự mở rộng của nền kinh tế Mỹ trong suốt thời kỳ này. Bàng nhiều cách khác nhau, chính phủ Nhật bản đã cố gắng sự mất cân đối đối ngoại này. Tháng 7/1985 Nhật Bản đã đề ra một chương trình hành động nhằm cải thiện việc thâm nhập thị trường bằng cách sửa đổi hệ thống tiêu chuẩn và cấp phép của Nhật Bản và bãi bỏ hoặc giảm thuế quan đánh vào các hàng chế tạo, đơn giản các hàng rào phi thuế quan tăng hạn ngạch nhập khẩu khuyến khích các cơ quan nhà nước thu mua và tiêu dùng hàng nhập khẩu. Nhật Bản còn tổ chức nhiều cuộc triển lãm và nhiều điểm bán hàng nước ngoài tại Nhật Bản, cử các chuyên gia ra giúp các công ty nước ngoài cũng như mời các công ty nứơc ngoài sang tham quan tìm hiểu thực tế kinh doanh, buôn bán cũng như sinh hoạt ở Nhật Bản. Hơn nữa, Nhật Bản còn nghiên cứu cải cách các luật phân phối và buôn bán theo hướng đơn giản và gọn nhẹ tạo dễ dàng cho sự thâm nhập của các hàng nứơc ngoài vào Nhật Bản. Về mặt xuất khẩu xu hướng đi lên mạnh liên tục của khối lượng xuất khẩu từ nửa cuối những năm 70 đã bị đảo lôn trở thành giảm sút hoặc tăng không đáng kể.
1986
1987
1988
1989
1990
- Xuất khẩu (tr USD)
209,151
229,221
264,867
268,100
283,500
- Khối lượng (tính % so với năm trước)
- 0,6
+0,3
5,1
3,0
5,0
- Nhập khẩu (tr.USD)
126,400
149,515
187,475
198,100
229,100
- Khối lượng
9,5
9,3
16,7
7,8
5,8
Nguồn:The Developing Economies No 4 Dec 1988 IDE Tokyo Japan
Vào cuối những năm 80, trong hoạt động ngoại thương của Nhật Bản còn xuất hiện tình trạng "tái nhập hàng hoá" do các cơ sở của Nhật Bản ở nước ngoài sản xuất. Đây là biểu hiện cụ thể của việc gia tăng nhanh hơn mậu dịch nội bộ ngành công nghiệp, nội bộ công ty trên phạm vi toàn cầu và khu vực trước sự tác động của đồng yên lên giá.
Do đồng yên tăng giá hơn 40% so với đồng đô la trong vòng chỉ có vài tháng làm cho dư thừa thực tế đã lên tới 94,1 tỷ USD vào năm tài chính 1986, do ảnh hưởng của "đường cong J nghịch". Tuy vậy một năm sau, những điều chỉnh tỷ suất hối đoái này cũng đã bắt đầu làm giảm dư thừa tài sản hiện hành. Những điều chỉnh do đồng yên lên giá và những nỗ lực đẩy mạnh nhập khẩu của Nhật Bản đã bắt đầu sớm thể hiện rõ vào năm tài chính 1987. Dư thừa tài khoản đã làm giảm hàng hoá từ năm 1987 cho đến năm tài chính 1990 chỉ còn 33,7 tỷ đô la bằng khoảng 1/3 mức cao nhất năm 1986. Bản thân công nghiệp Nhật bản, do nhận thức được yêu cầu giảm bớt xung đột buôn bán và tránh giảm lợi nhuận do đồng yên tăng giá, cũng đã có những sáng kiến riêng nhằm giảm dần sự phụ thuộc truyền thống và xuất khẩu những chiến lược chủ yếu đựơc tiến hành trong hoàn cảnh này gồm có chuyển sang sản xuất mua phụ tùng ở nước ngoài và đẩy mạnh phân công lao động quốc tế trong phạm vi các ngành công nghiệp.
Trong năm 1999, kinh tế Nhật Bản đã phần nào khôi phục đựơc sau khủng hoảng tài chính, thặng dư thương mại của Nhật Bản với các nước Châu á đã ở mức hàng năm là 23,7% trong tháng 10/1999 do sự hồi phục kinh tế và nhu cầu nhập khẩu này tăng nhanh. Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết thặng dư thương mại của Nhật Bản đạt 391,1 tỷ yên tăng 9,3% và kim ngạch nhập khẩu đạt 1.189,8 tỷ yên tăng 5,3%. Các nước láng giềng Châu á của Nhật Bản mua nhiều hàng của Nhật Bản hơn nhưng cũng xuất khẩu nhiều sản phẩm hơn khi nền kinh tế phục hồi. Thặng dư thương mại của Nhật Bản với Hàn Quốc tăng nhanh tới 127% trong đó xuất khẩu tăng 43,5% và nhập khẩu tăng 220%, giá trị thặng dư thương mại với Đài Loan tăng 5,6% do xuất khẩu tăng 8,3% và nhập khẩu tăng 13%. Thặng dư buôn bán với Hồng Kông tăng 0,7% trong đó xuất khẩu tăng 0,8% còn nhập khẩu tăng 1,3%. Trong tháng 10/1999 xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước Đông Nam á cũng tăng, thặng dư thương mại của Nhật Bản với Thái Lan tăng 307% xuất khẩu tăng 17,7% nhưng nhập khẩu giảm 5,6% thặng dư thương mại của Nhật Bản với Singapo tăng 6% xuất khẩu tăng 3,1% nhưng nhập khẩu lại giảm 3,6%. Viện nghiên cứu Nhật bản cho rằng "Nhật Bản đang góp phần rất lớn vào những nỗ lực phục hồi kinh tế của các nước Châu á bằng việc tiêu thụ hàng hoá của các nước trong khu vực". Quan hệ buôn bán Nhật Bản với các nước Châu Mỹ cũng có nhiều hứa hẹn như Cu Ba kim ngạch thương mại của Nhật Bản với Cu Ba hiện tại ở mức 125 triệu USD mặc dù trước đây đã đạt tới mức 500 - 600 triệu USD và sắp tới đây tổ chức Jetro (Tổ chức xúc tiến thương mại của Nhật Bản cho biết) sẽ ký với Bộ thương mại và phát triển công nghiệp Mêhicô hiệp định tự do thương mại (FTA) nhằm mở rộng thêm quan hệ thương mại trên toàn cầu.
b. Chính sách đầu tư nứơc ngoài.
Trong giai đoạn 1985 đến nay, Nhật Bản đã chuyển hướng từ thương mại sang đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài và quốc tế hoá đồng yên do sức ép của các nứơc bắt buộc phải nâng giá đồng yên và loại bỏ các cơ sở không sinh lợi trong nước chuyển ra nước ngoài, tập trung vào các hàng công nghệ cao và các hàng hoá có tỷ trọng gia tăng lớn, chính phủ Nhật Bản còn cho rằng đầu tư trực tiếp là cách có hiệu quả nhất để loại bỏ những nguyên nhân xung đột căn bản với các bạn hàng của Nhật Bản, nó cũng phản ánh một nhận thức qua hệ thống phân công lao động bổ sung lẫn nhau trong phạm vi các ngành công nghiệp sẽ có lợi cho tất cả các bên tham gia. Bằng cách chuyển một số hoạt động sản xuất sang các nước khác kể cả các nước đang phát triển, Nhật Bản có thể tập trung vào những lĩnh vực mà nó có ưu thế đặc biệt phát triển những lĩnh vực mới có kỹ thuật cao.
Những nỗ lực này của công nghiệp đã đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản lên tới 10,2 tỷ USD trong năm tài chính 1984 tăng 25% so với năm trước khiến Nhật Bản trở thành nước đứng đầu thế giới về mặt này. Từ đó, đầu tư trực tiếp tiếp tục tăng nhanh vào năm tài chính 1989 đạt 67,6 tỷ USD bằng hơn 6 lần lượng đầu tư của 5 năm trước. Năm tài chính 1990, đầu tư trực tiếp giảm , một phần do nền kinh tế thế giới bị suy thoái tuy vậy nó vẫn duy trì ở mức cao 56,9 tỷ USD. Xu hướng đầu tư ra nước ngoài được thể hiện rõ nhất trong ngành ô tô, 8 nhà chế tạo ô tô Nhật Bản hiện đã lập nhà máy ở Bắc Mỹ. Cũng như vậy, các công ty trong ngành công nghiệp máy điện đã lập các công ty con ở nước ngoài đang tạo việc làm cho các nước được đầu tư cũng như tạo điều kiện cho việc chuyển giao kỹ thuật.
Như trên đã nói đầu tư nước ngoài được Nhật Bản sử dụng coi là hướng căn bản để đối phó với việc các nước bắt buộc Nhật Bản phải nâng giá đồng yên. Vì khi đồng yên tăng giá tự nhiên làm cho khả năng thanh toán và sức hấp dẫn của nó trên thị trường quốc tế lớn hơn nhiều làm cho người Nhật dễ dàng xây dựng các nhà máy ở nước ngoài. Trước đây Nhật Bản chỉ chú trọng đầu tư vào các nước Phương Tây thì những năm 80 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ra nước ngoài đã hướng vào các nước ở khu vực Đông Nam á nhằm thu hút lao động sống dư thừa ở các nước Đông Nam á. Sự đầu tư mạnh mẽ này đã tạo xu hướng đi tới một sự phân công lao động mới giữa Nhật Bản và các nước Nies và ASEAN đó là sự phân công lao động theo chiều ngang, sự phân công lao động nội bộ ngành, nội bộ công ty trên cơ sở tận dụng những lợi thế so sánh tổng hành dinh và bộ phận, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật cũng như những khâu then chốt, những bí quyết kỹ thuật sẽ giữ lại ở Nhật Bản, những máy móc thiết bị và phụ tùng có trình độ kỹ thuật trung bình sẽ được chế tạo các nước Nies Châu á còn những bộ phận có trình độ kỹ thuật thấp và cần nhiều lao động được thực hiện ở các nước ASEAN để cung cấp cho thế giới các nước sở tại và tái nhập khẩu trở lại Nhật Bản.
Để khuyến khích đầu tư nước ngoài Nhật Bản đã áp dụng một số chính sách sau:
- Cho vay vốn trực tiếp đối với các liên doanh với nước ngoài
- Miễn một phần thuế lợi tức cho doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
- Các công ty của Nhật Bản đầu tư ra nước ngoài được miễn nghĩa vụ báo cáo với Bộ Tài chính.
- Quá trình đầu tư của Nhật Bản ra nước ngoài được thực thi theo các khu vực khác nhau.
+ Đối với các nước phát triển duy trì thị trường và đối phó với các chính sách bảo hộ.
+ Đối với các nước đang phát triển khai thác các lợi thế so sánh hình thành phân công lao động theo chiều sâu.
4. Chính sách khoa học - kỹ thuật
Lịch sử khoa học và kỹ thuật hiện đại ở Nhật Bản có từ nửa sau thế kỷ 19, khi đất nước mở cửa, bắt đầu tích cực tìm kiếm những tri thức do Châu Âu cung cấp. Nước Nhật thời kỳ đó rất nghèo tài nguyên vật chất, và cách duy nhất để có thể tiến bộ về kinh tế và xã hội là thông qua những tiến bộ kỹ thuật do nhân dân Nhật Bản - nguồn tài nguyên hiện thực duy nhất - thực hiện.
Sự phụ thuộc về căn bản của Nhật Bản vào tiến bộ kỹ t huật ngày nay không hề khác so với một thế kỷ trước đây. Điều đã thay đổi là vị trí của Nhật Bản trong cộng đồng Quốc tế, hiện nay được xếp vào hàng những nước công nghiệp lớn của thế giới. Do vị trí của mình, nên Nhật Bản phải đẩy mạnh việc nghiên cứu để đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Lập trường cơ bản này được ghi rõ trong bảng nguyên tắc chỉ đạo chung về chính sách khoa học và kỹ thuật, đã được chính phủ thông qua vào tháng 4/1992. Ba mục chủ yếu của chương trình này đòi hỏi Nhật Bản phải:
- Cố gắng tìm ra một giải pháp cho các vấn đề về môi trường, năng lượng và các vấn đề toàn cầu khác.
Tiến hành một cách cân đối giữa nghiên cứu cơ bản khoa học và kỹ thuật tiên tiến khác.
- Phát triển một cuộc sống giàu có và hạnh phúc trong khi giải quyết việc lão hoá dân số Nhật Bản và các vấn đề xã hội khác.
* Ngân sách và nhân sự dành cho việc nghiên cứu và phát triển
Năm tài chính 1995 tổng chi tiêu của Nhật Bản cho việc nghiên cứu và phát triển là 40 tỉ yên trong tổng sản phẩm quốc dân phần tổng sản phẩm quốc dân này còn nhỏ hơn con số của CHLB Đức, Pháp, Liên xô cũ, Anh và Mỹ, lượng tiền chi tiêu đó chỉ chiếm có 1% tổng chi tiêu của 5 nước này cộng với Nhật Bản. Tuy nhiên vào năm tài chính 1990 ngân sách chi cho việc nghiên cứu và phát triển lên đến 12.100 tỷ yên. Tỷ lệ này lớn hơn của Đức, Pháp, Mỹ, Anh.
Phần lớn chi cho nghiên cứu và phát triển ở Nhật Bản là do khu vực tư nhân, một đặc điểm gần đây là các nhà kinh doanh tiếp tục tăng chi cho nghiên cứu và phát triển ngay cả những thời kỳ doanh số bán ra giảm. Họ cũng tích cực tiến hành các hoạt động nghiên cứu cơ bản nhằm tăng hàm lượng kỹ thuật cao trong sản xuất của mình.
Một điểm khác so với các nước chủ yếu khác là phần lớn các sinh viên tốt nghiệp ngành cơ khí, chiếm khoảng một nửa tổng số các nhà nghiên cứu và một phần tương đối nhỏ tốt nghiệp các ngành nghiên cứu khoa học cơ bản khác.
* Hợp tác quốc tế.
Tiến bộ trong khoa học và kỹ thuật và qui mô ngày càng lớn của một số dự án nghiên cứu đã làm cho việc hợp tác quốc tế trở thành cần thiết trong nhiều lĩnh vực. Những ví dụ về việc này gồm những dự án khổng lồ như nghiên cứu vật liệu tổng hợp và phát triển vũ trụ, những lĩnh vực cần có sự phối hợp hành động trên qui mô toàn cầu, như bảo vệ môi trường; nghiên cứu cơ bản nhằm sáng tạo ra những tài sản tri thức mới cho tất cả các dân tộc trên thế giới và các loại khoa học khác có liên quan tới những lĩnh vực và những vấn đề chung như việc khắc phục bệnh tật.
Nhật Bản đã tham gia vào 19 hiệp định hợp tác khoa học với 18 nước khác và cũng đang mở rộng việc tham gia vào những nỗ lực hợp tác quốc tế, khu vực hoặc thông qua các tổ chức quốc tế. Nhật Bản đang mở rộng viện trợ kỹ thuật cho các nước phát triển bằng cách mở rộng viện trợ phát triển chính thức, cung cấp thiết bị, phái chuyên gia ra nước ngoài và nhận người từ nước ngoài vào đào tạo.
* Những dự án qui mô lớn mà Nhật Bản đang tiến hành nghiên cứu và thực hiện.
- Năng lượng hạt nhân
- Phát triển vũ trụ
- Hàng không
- Phát triển nghiên cứu biển
- Các ngành khoa học về đời sống
- Chất siêu dẫn
- Tàu đệm từ
- Mạng lưới thông tin sợi quang
- Vô tuyến truyền hình có độ nét cao
- Các ngành khoa học máy tính.
IV. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản được thiết lập sau chiến tranh thế giới thứ hai nhưng phải đến những năm 80 quan hệ này mới được phát triển do xu hướng của Nhật Bản là tăng cường khai thác thị trường của các nước thuộc khu vực Đông Nam á. Hơn nữa trong những năm gần đây do chúng ta đã mở cửa thị trường để thu hút vốn từ bên ngoài vào điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đầu tư vào nước ta. Trong những năm 90 do khủng hoảng tài chính tiền tệ nhưng Nhật Bản đã phần nào phải rút vốn đầu tư vào Việt Nam, nhưng đến năm 2000 Bộ ngoại giao của Nhật Bản đã lập song một danh sách các dự án ODA trung hạn và Việt Nam là nước đứng đầu danh sách đó với 55 dự án có khả năng được tài trợ, trong đó chủ yếu là các dự án về cơ sở hạ tầng và hỗ trợ các xí nghiệp vừa và nhỏ. Kim ngạch đầu tư trực tiếp vào Việt Nam trong năm 2000 sẽ lên đến 8 tỷ USD. Điều này đã chứng tỏ thị trường Việt Nam khá hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tính đến nay ở Việt Nam đã có gần đến 100 doanh nghiệp liên doanh với Nhật Bản, đặc biệt là các tập đoàn lớn của Nhật Bản như Sumitomo, Mitsui, Mitsubishi... đã có mặt tại Việt Nam. Nhưng thị trường Việt Nam vẫn còn gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư Nhật Bản khi đầu tư vào Việt Nam như khả năng cung cấp nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế tại chỗ còn yếu kém thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, tỷ giá chuyển đổi giữa VNĐ và ngoại tệ không ổn định. Và khi so sánh chi phí đầu tư nước ngoài tại 24 thành phố lớn thuộc 14 nước Châu á thì nhận thấy rằng chi phí đầu tư vào Việt Nam còn qúa cao so với các nước trong khu vực cụ thể là lương công nhân tại Việt Nam cao gấp 1,6 lần so với Inđônêsia và cước phí điện thoại quốc tế tại Việt Nam cao gấp đôi so với các nước khác giá điện dùng cho sản xuất cũng cao gấp đôi so với Trung quốc và Thái Lan, thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam cao nhất trong khu vực (50%). Chính vì vậy để thu hút thêm vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam thì chúng ta phải có một số biện pháp cải thiện môi trường đầu tư như mở thị trường chứng khoán sửa đổi luật đầu tư sao cho phù hợp với thị trường quốc tế.
Còn về phía Việt Nam cũng nhận thấy rằng thị trường Nhật Bản là một thị trường có nhiều tiềm năng đối với các hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản liên tục tăng đặc biệt từ năm 1991 đến năm 1997. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản thường chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ từ năm 1997 nên tỷ trọng này giảm xuống còn 15,8% và năm 1998, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản năm 1999 ước tính đạt khoảng 1680 triệu USD chiếm 14,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Những mặt hàng mà ta xuất sang Nhật Bản chủ yếu là hàng đông lạnh, hàng thủ công mỹ nghệ, nguyên liệu thô, may mặc... Như ta đã biết kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Nhật Bản là 25% nhưng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản đối với hàng hoá của Việt Nam chỉ có 6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, điều này chứng tỏ chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa để ngày càng xâm nhập vào thị trường Nhật Bản - một thị trường khó tính. Nhật Bản là một thành viên của WTO nên có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên các nguyên tắc của tổ chức này, các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều nhưng lại sử dụng nhiều hàng rào phi thuế quan do vậy sự cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường Nhật Bản là rất khó khăn về gía cả và chất lượng. Qua đó chúng ta cần có các biện pháp và chính sách để cải thiện cán cân thương mại của chúng ta với Nhật Bản.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0165.doc