Phần lớn địa hình Hải Dương có địa hình bằng phẳng trừ 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn có đồi núi. Hướng địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây bắc xuống Đông nam. Hải Dương có vị trí địa lý giáp với khu vực miền núi và đồng bằng đã phân địa hình thành 2 vùng rõ rệt:
- Vùng phía Đông Bắc là đồi núi, đây là rìa của cánh cung Đông Triều, chiếm 10% diện tích lãnh thổ, gồm 3 vùng nhỏ: vùng đồi núi thấp, vùng đồi bát úp lượn sóng và vùng núi đá vôi.
77 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nước ngoài tại Hải Dương - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tỉnh Hải Dương chưa thu hút được những dự án có trình độ công nghệ cao, các cơ sở thiết bị vẫn còn lạc hậu. Việc thu hút những dự án đầu tư nước ngoài có chiều sâu, sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, những dự án có công nghệ nguồn còn rất hạn chế. Nhiều cơ sở sản xuất chưa chú trọng đầu tư thiết bị công nghệ tiên tiến, có dự án vẫn còn mua máy móc thiết bị cũ của nước ngoài đưa vào sử dụng, chất lượng sản phẩm thấp, gây ô nhiễm môi trường.
2.2 Quy hoạch còn chậm, chồng chéo
Việc bố trí và triển khai lập quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, phát triển thị trấn, thị tứ, các khu dân cư còn chậm. Một số vùng quy hoạch chậm được lập và trình duyệt, hoặc chưa có quy hoạch, công tác bố trí mặt bằng cho các dự án đựoc chấp thuận đầu tư gặp nhiều khó khăn, tình trang các dự án phải chờ quy hoạch, vừa lập dự án vừa quy hoạch hoặc bố trí không theo quy hoạch còn nhiều.
Một số quy hoạch còn chồng chéo tính khả thi thấp, chưa tính hết các yếu tố về môi trường . Kết quả thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp còn thấp.
Các dự án nhà ở cho công nhân còn ít, hiện chỉ có 3 dự án nhà ở cho công nhân.
2.3 Kết quả thu hút vào các khu, cụm công nghiệp còn thấp
Mặc dù thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp đã tăng lên đáng kể trong thời gian gần đây nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm nằng của vùng. Các khu, cụm công nghiệp vẫn chưa được khai thác một cách triệt để. Hàng loạt vấn đề đang đặt ra với không ít khó khăn như: kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào các KCN (gồm điện, nước, giao thông...) đầu tư xây dựng chậm, thiếu đồng bộ để đón đầu trước khi các KCCN được 'lấp đầy'; vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiếu nghiêm trọng; số lượng doanh nghiệp đi vào hoạt động chưa nhiều; công tác giải phóng mặt bằng ở một số địa phương còn rất khó khăn; xử lý môi trường, nhất là xử lý nước thải, chất thỉa rắn, đang là vấn đề nổi cộm...làm giảm khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu vực này.
2.4 Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ còn ít
Các trường đào tạo và trung tâm dạy nghề chưa đáp ứng đưọc yêu cầu cung cấp nhân lực theo trình độ đòi hỏi của các doanh nghiệp. Việc hỗ trợ đào tạo nghề từ nguồn ngân sách cho các đổi tượng chính sách, gia đình khó khăn còn thấp
2.5 Tình trạng ô nhiễm môi trường báo động ở tỉnh Hải Dương
Chất thải, khói, bụi, tiếng ồn từ các khu, cụm công nghiệp, nhà máy đóng trên địa bàn tỉnh Hải Dương ngày đêm "đầu độc" bầu không khí nơi đây, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người dân. Dù UBND tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường đã ra các văn bản, chỉ đạo yêu cầu doanh nghiệp phải có biện pháp bảo vệ môi trường nhưng họ vẫn làm ngơ.
Hiện chỉ có 15% trong tổng số hơn 400 doanh nghiệp đóng trong các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động môi trường, còn lại đều tỏ ra khá coi thường, thậm chí vi phạm nghiêm trọng các quy định về bảo vệ môi trường.
Hiện có 6 trong số 7 KCN của Hải Dương chưa xây dựng được hệ thống xử lý nước thải tập trung, nước thải của các dự án trong khu công nghiệp do không được xử lý, lại có chứa chất độc hại đã tự chảy ngấm vào lòng đất.
Các cụm công nghiệp thì hoàn toàn không có quy hoạch mặt bằng cơ sở hạ tầng, không có hệ thống thu gom và thoát nước chung. Rác thải của các doanh nghiệp từ các khu, cụm công nghiệp thải ra đã không được thu gom và xử lý triệt để, không đúng kỹ thuật đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, mức độ ô nhiễm của các thành phần môi trường thường xuyên vượt quá rất nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Đây chính là lý do khiến hầu hết người dân sống xung quanh các khu công nghiệp quá bức xúc, dẫn đến những cuộc khiếu kiện đông người, vượt cấp trong thời gian qua.
Việc thanh, kiểm tra còn mang tính đối phó. Có một thực tế ở Hải Dương là không có một cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về quản lý sau cấp phép đầu tư. Hầu hết các dự án đầu tư khi triển khai xây dựng không có sự giám sát của cơ quan chức năng, không có báo cáo đánh giá tác động môi trường, giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường nhưng vẫn được cấp phép cho sản xuất. Mà việc thanh, kiểm tra doanh nghiệp với việc bảo vệ môi trường, còn mang tính đối phó. Hầu như các biện pháp, kiến nghị của đoàn thanh tra mang tính chất đối phó, chưa nghiêm với doanh nghiệp và còn lúng túng, không đủ sức răn đe. Thậm chí, Đoàn giám sát chuyên đề HĐND tỉnh vừa qua đã nhận xét: "Chính quyền các cấp thiếu kiên quyết trong chỉ đạo, điều hành; tâm lý e ngại ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của tỉnh".
CHƯƠNG II
Mét sè GIẢI PHÁP T¨ng cêng THU HÚT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI VÀO HẢI DƯƠNG
I. Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài ở Hải Dương giai đoạn 2006 – 2010
1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương
Những năm qua, nhờ biết phát huy cao độ những tiềm năng, huy động triệt để các nguồn lực cho đầu tư phát triển, Hải Dương đã và đang có những bước tiến nhanh, vững chắc, trở thành một trong những địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn nhất của vùng nói riêng và của cả nước nói chung.
Hải Dương nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), có nhiều điều kiện tham gia vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng Bắc Bộ, là tỉnh có tiềm năng to lớn để phát triển nông nghiệp với vùng đồng bằng chiếm 89% diện tích đất tự nhiên, đất đai màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm, có truyền thống văn hoá lâu đời, mảnh đất ''địa linh, nhân kiệt'' có nhiều nhân tài làm rạng danh non sông đất nước trên các lĩnh vực: là nơi có nhiều làng nghề truyền thống tạo ra các sản phẩm có giá trị cao như: Vàng bạc Châu Khê, sứ Cậy - Bình Giang, điêu khắc gỗ Lương Điền - Cẩm Giàng, gốm Chu Đậu - Nam Sách, thêu Tứ Kỳ ...
Là một tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế thuận lợi, Hải Dương đã đặt ra mục tiêu kế hoạch 5 năm 2006-2010 có tính quyết định đến kết quả thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010. Xu thế hội nhập kinh tế vừa tạo ra cơ hội để mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá, thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ, mặt khác cũng tạo ra những khó khăn thách thức to lớn, sức ép cạnh tranh gay gắt.
Mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 2006-2010, tỉnh Hải Dương phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tăng bình quân 10-11%/năm; đến năm 2010 thu nhập bình quân đầu người gấp 2,5-2,6 lần năm 2000 và 1,5-1,6 lần năm 2005. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng CNH, HĐH, đến năm 2010 đạt tỷ trọng: Nông-lâm-ngư nghiệp 22%, Công nghiệp-xây dựng 46%, Dịch vụ 32%. Đến năm 2010, cơ cấu lao động nông nghiệp chiếm khoảng 60%, công nghiệp 25% và dịch vụ 15%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn trong 5 năm 2006-2010 phấn đấu tăng gấp 1,87 lần 5 năm trước, tăng bình quân 10,7%/năm, , trong đó thu nội địa chiếm 63,7%.
Quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành một số mô hình sản xuất công nghệ cao và phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với thị trường tiêu thụ; hình thành các vùng sản xuất tập trung phù hợp với lợi thế của từng địa phương, tạo ra hàng hoá nông sản thực phẩm và có hiệu quả kinh tế cao. Phát triển nhanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn đi đôi với đẩy mạnh đầu tư các công trình hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu phấn đấu tăng bình quân 17%/năm, đến năm 2010 đạt khoảng 220 triệu USD. Đưa các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thành một ngành hàng xuất khẩu quan trọng của tỉnh. Hình thành kho trung chuyển hàng hoá vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cùng với kho thông quan đặt tại TP Hải Dương; huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng chợ đầu mối cấp vùng, các chợ trung tâm mỗi huyện, các siêu thị tổng hợp và chuyên ngành ở TP Hải Dương.
Để có thể thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển đã đề ra, một trong những giải pháp quan trọng là tập trung khai thác các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả đầu tư. Tỉnh sẽ tích cực tháo gỡ mọi rào cản về thủ tục hành chính, thực hiện nhất quán chính sách về đầu tư, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư cải tạo, nâng cấp một bước cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, trước hết là hệ thống giao thông (đường bộ, đường thuỷ, đường sắt). Phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng qua địa phận Hải Dương. Quy hoạch phát triển hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh gắn liền với việc phát triển các khu cụm công nghiệp, các điểm du lịch.
Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006-2010 đặt ra rất nặng nề, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương quyết tâm thực hiện thắng lợi vượt mức nhiệm vụ kế hoạch đặt ra, đưa Hải Dương tiến nhanh trên con đường CNH-HĐH, trở thành tỉnh có nền công nghiệp và dịch vụ phát triển, giữ vị trí quan trọng trong vùng Đồng bằng sông Hồng.
2. Định hướng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực kinh tế-xã hội
Theo quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Hải Dương 5 năm 2006-2010, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 10-11%/năm trở lên, đảm bảo cơ cấu kinh tế nông nghiệp-công nghiệp-dịch vụ là 22% - 46% - 32% vào năm 2010, nhu cầu tổng vốn huy động cho cả giai đoạn phải đạt từ 36.000 tỷ đồng, trung bình mỗi năm huy động từ 7.200 tỷ đông. Định hướng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực kinh tế-xã hội là:
- Tiếp tục đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất ở nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, phù hợp với tiềm năng về đất đai, lao động và sinh thái từng vùng, xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, khôi phục và phát triển mạnh làng nghề sản xuất các loại hàng hoá xuất khẩu. Tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp - lâm nghiệp - thuỷ lợi khoảng 2.158 tỷ đồng; trong đó, vốn đầu tư xây dựng hạ tầng khoảng 1.558 tỷ đồng, vốn đầu tư phát triển cơ sở sản xuất khoảng 600 tỷ đồng.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, đầu tư chiều sâu, phát triển công nghệ mới, ngành nghề mới, đầu tư mới trên những mặt hàng có giá trị gia tăng, chất lượng sản phẩm cao và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp; chú trọng công nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất khẩu, hàng điện tử, sản xuất vật liệu mới, vật liệu xây dựng cao cấp – các ngành công nghiệp mà tỉnh có lợi thế về nguyên liệu, lao động. Tổng vốn đầu tư cho công nghiệp đạt 19.600 tỷ đồng, trong đó: công nghiệp Trung ương 8.000 tỷ đồng; công nghiệp địa phương 5.000 tỷ đồng; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 6.000 tỷ đồng.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội: Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, tập trung vào lĩnh vực giao thông, thông tin bưu điện, phát triển nguồn và lưới điện, phát triển mạng lưới thuỷ lợi, kênh mương, cấp thoát nước, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững. Phát triển ngành du lịch - dịch vụ, trong đó tiếp tục tập trung cho các khu du lịch trọng điểm như: Khu Côn Sơn-Kiếp Bạc, di tích An Phụ-Kính Chủ, các điểm du lịch sinh thái... Tổng vốn đầu tư cho giao thông khoảng 4.150 tỷ đồng; hệ thống điện-cấp thoát nước: 2440 tỷ đồng; các ngành dịch vụ 3.360 tỷ đồng; phát triển đô thị và nhà ở 2.260 tỷ đồng. Tập trung hoàn thiện hạ tầng khu đô thị và dân cư mới của thành phố Hải Dương phấn đấu đến năm 2007, thành phố đủ điều kiện là đô thị loại II...
- Đầu tư cho phát triển nguồn lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đặc biệt chú trọng trình độ nguồn nhân lực; các chương trình phát triển về văn hoá, xã hội, y tế, xoá giảm nghèo... ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Tổng vốn đầu tư cho 2 lĩnh vực y tế và giáo dục khoảng 1.077 tỷ đồng, phấn đấu đến 2010 có 21,2 giường bệnh và 4,5 bác sỹ/1 vạn dân...
- Đầu tư phát triển kinh tế đi đôi với củng cố, tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng đảm bảo giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chính quyền nhân dân. Đầu tư cho an ninh quốc phòng 15 tỷ đồng dbằng nguồn ngân sách địa phương, gắn liền phát triển kinh tế-xã hội với nhiệm vụ an ninh quốc phòng.
3. Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài ở Hải Dương giai đoạn 2006 – 2010
3.1 Quan điểm
Trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội nói trên, tỉnh Hải Dương sẽ tiếp tục coi trọng vai trò của ĐTNN và sẽ tiếp tục tạo môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi, để thu hút nhiều hơn, hiệu quả hơn nguồn vốn ĐTNN kể cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Dự kiến trong 5 năm 2006-2010 tỉnh Hải Dương sẽ phấn đấu thu hút được khoảng 11420 vốn ĐTNN đăng kí, 7340 vốn đầu tư nứơc ngoài thực hiện thực hiện, chiếm khoảng 25 – 26 % tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đó là mục tiêu rất cao, nhưng tin tưởng rằng với việc tiếp tục cải cách sâu rộng nhiều mặt đời sống kinh tế – xã hội theo đường lối đổi mới, với các giải pháp cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư với nhịp tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, có chế độ chính trị ổn định, xã hội an toàn cùng với những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, lợi thế địa kinh tế, Hải Dương đã và sẽ luôn là địa bàn đầu tư quan trọng trong khu vực miền Bắc và trên toàn quôc, một địa bàn đầu tư sinh lợi cho các nhà đầu tư quốc tế.
Để thu hút mạnh nguồn lực đầu tư nước ngoài, tỉnh Hải Dương luôn coi doanh nghiệp ĐTNN là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, được bình đẳng như doanh nghiệp trong nước trong kinh doanh và sẽ tạo điều kiện để ĐTNN tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng phù hợp với các cam kết quốc tế.
Bên canh đó, tỉnh sẽ đa dạng hoá hình thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh các nhà ĐTNN vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nhất là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cũng như có những chính sách ưu đãi phù hợp để khuyến khích đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
3.2 Định hướng huy động vốn
3.2.1 Vốn đăng kí mới
Nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn 2006 – 2010 là tăng cường hội nhập quốc tế để kêu gọi và thu hút các dự án đầu tư mới với vốn đăng kí trên 44.040 tỷ đồng cho đâù tư phát triển, bình quân mỗi năm thực hiện khoảng 8800 tỷ đồng trong đó
+ Vốn đăng kí của các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng : 21440 tỷ đồng, tăng 49,6 % so với vốn đăng kí của giai đoạn 2001 – 2005( 14333 tỷ đồng). Trong đó :
-Vốn trong nước 20320 tỷ đồng , tăng 45,6 % so với vốn đăng kí giai đoạn 2001 – 2005 (13.958 tỷ đồng)
- Vốn nước ngoài 1120 tỷ đồng tăng 198 % so với vốn đăng kí của giai đoạn 2001 – 2005 (375.7 tỷ đồng)
+ Thu hút vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh 22600 tỷ đồng tăng 42,6 % so với vốn đăng kí của giai đoạn 2001-2005 (15.845 tỷ đồng) trong đó
Vốn trong nước 12600 tỷ đồng tăng 7,6% so với vốn đăng kí của giai đoạn 2001-2005 (11705 tỷ đồng).
Vốn nước ngoài 10000 tỷ đồng tăng 141,5% so vơi vốn đăng kí của giai đoạn 2001 – 2005 (4140 tỷ đồng)
3.2.2 Vốn thu hút
3.2.2.1 Vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng 16950 tỷ đồng tăng 55% so với giai đoạn 2001 – 2005; bao gồm đường giao thông, thuỷ lợi, đê điều, trường học công, bệnh viện công, công sơ, trong đó:
Vốn trung ương 3340 tỷ đồng tăng 36 % so với giai đoạn 2001-2005
Vốn ngân sách địa phương 2208 tỷ đồng tăng 11 % so với giai đoạn 2001-2005
Vốn đầu tư nước ngoài ( FDI, ODA, NGO) : 1040 tỷ đồng tăng 177 % so với giai đoạn 2001 – 2005
Vốn tín dụng 6800 tỷ đồng , tăng 116 % so với giai đoạn 2001-2005
Vốn dân doanh 3562 tỷ đồng , tăng 20 % so với giai đoạn 2001 - 2005
3.2.2.2 Vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thực hiện từ 19600 tỷ đồng tăng 68 % so với giai đoạn 2001-2005 trong đó:
+ Vốn đầu tư trong nước 13.600 tỷ đồng tăng 79,1 % so với giai đoạn 2001 - 2005
Vốn TW 3000 tỷ đồng, tăng 500% so với giai đoạn 2001-2005
Tín dụng 8200 tỷ đồng, tăng 32,5 % so với giai đoạn 2001 -2005
Dân doanh 2100 tỷ đồng tăng 135 % so với giai đoạn 2001 -2005
+ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) 6300 tỷ đồng, tăng 54,4 % so với giai đoạn 2001-2005
II. Các giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài ở Hải Dương
Phát triển cơ sở hạ tầng
Để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, tỉnh Hải Dương phải tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương và các bộ, ngành để đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ. Tích cực tăng tỉ trọng chi cho cơ sỏ hạ tầng: Giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, đầu tư xây dựng khu dân cư, nâng cấp hệ thống khách sạn du lịch,
* Về điện
Để đáp ứng nhu cầu điện phục vụ phát triến kinh tế - xã hội, trong những năm qua, Công ty Điện lực Hải Dương đã đầu tư hàng chục tỷ đồng cải tạo nâng cấp, hệ thống lưới điện. Dự án cải tạo lưới điện TP Hải Dương lên cấp điện áp 22kv được tập trung triển khai để khai thác có hiệu quả các máy biến áp tại trạm Đồng Niên và chống quá tải cho TP Hải Dương. Đây là một dự án lớn với tổng chiều dài đường dây lắp đặt là 104km, bao gồm đường đây trên không và đường cáp ngầm. Tổng vốn đầu tư của dự án là 108 đồng, trong đó vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB) là 75 tỷ đồng, còn lại là vốn đối ứng của Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN). Đến nay, dự án đã thực hiện được 60% kế hoạch, một số tuyến đường dây đã được đưa vào sử dựng. Công ty Điện lực Hải Dương cũng đã hoàn thành việc xây dựng đường dây 35 kv Hải Dương - Quán Gỏi, đáp ứng nhu cầu điện phục vụ các doanh nghiệp dọc theo trục quốc lộ 5; tránh được việc phải cắt điện các phụ tải công nghiệp thuộc khu vực này khi thiếu điện. Tiếp tục khảo sát để xây dựng đường dây 35kv từ trạm 110kv Lai Khê cấp điện cho khu công nghiệp Phú Thái. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường dây 22kv mạch kép cấp điện cho khu công nghiệp Nam Sách, tiến tới xây dựng đường dây 22kv mạch kép từ trạm 110kv Tiền Trung về TP Hải Dương để bảo đảm cấp điện cho TP Hải Dương và ngược lại.
Ngành điện Hải Dương cần phải phấn đấu đi trước một bước để phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội địa phương.
* Về giao thông vận tải :
Giao thông vận tải đường bộ là phương thức vận tải quan trọng, cơ động, có tính xã hội hoá rất cao, cần đi trước một bước để tạo tiền đề, làm động lực phát triển kinh tế - xã hội. mở mang, phát triển cơ sở hạ tầng GTVT đường thuỷ nội địa trong phạm vi cả nước, thu hút đầu tư nước ngoài.
Đường bộ: Trên cơ sở tận dụng tối đa năng lực cơ sở hạ tầng đường bộ hiện có, coi trọng việc duy tu, củng cố, nâng cấp mạng đường bộ hiện tại. đa dạng hoá các nguồn vốn, các hình thức đầu tư , ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật , vật liệu công nghệ mới để phát triển giao thông vận tải đường bộ một cách thống nhất, cân đối, đồng bộ. Phát triển giao thông nông thôn, vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa. Phát triển giao thông vận tải đường bộ trong hệ thống giao thông đối ngoại, phục vụ việc hội nhập khu vực và quốc tế.
Đường thuỷ: Từ nhiều năm nay khai thác vận tải thuỷ của ta chủ yếu dựa vào các luồng sông tự nhiên 70% , không được đầu tư thích đáng, không được quan tâm đầu tư so với các ngành vận tải khác, vì vậy, để vận tải thuỷ phát triển đáp ứng được nhu cầu vận chuyển của xã hội, và để hoà nhập với các nước trong khu vực. cần phải mở mang, phát triển cơ sở hạ tầng GTVT đường thuỷ nội địa trong phạm vi cả nước.
Củng cố và phát triển thêm các cảng sông, từng bước cơ giới hoá công tác xếp dỡ hàng hoá ở các cảng song song vơí việc mở mang phát triển cơ sở hạ tầng đường thuỷ. Đầu tư kỹ thuật thoả đáng và đồng bộ cho ngành đường thuỷ, cụ thể là kỹ thuật trong đóng mới phương tiện, kĩ thật trang thiết bị cho điều hành tàu, kĩ thuật cho xếp dỡ.
Vận tải: Vận tải luôn luôn phải đảm bảo vận chuyển phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế hàng năm. Căn cứ vào tốc độ phát triển kinh tế của từng thời kỳ, mức độ vận chuyển cũng tăng. Kết cấu đường giao thông đã và đang được cải thiện đáng kể tạo điều kiện năng suất vận tải cao hơn.
* Về công nghệ thông tin
Trong thời đại bùng nổ của khoa học và công nghệ, việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (CNTT) được xem là con đường ngắn nhất đẫn tới thành công và phát triển. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương, 5 năm qua, kể từ khi thực hiện Chỉ thị số 58/CT-TW của Bộ Chính trị, việc ứng dụng và phát triển CNTT đã thu được nhiều kết quả đáng mừng.
Toàn tỉnh đã bước đầu có được một cơ sở hạ tầng CNTT và truyền thông vào loại khá so với các tỉnh, thành trong cả nước. Hiện tại, toàn tỉnh có 11 mạng máy tính diện rộng (WAN), 900 mạng cục bộ (LAN), với hơn 500 máy chủ và gần 14 nghìn máy trạm, phân bố rộng khắp từ thành thị đến nông thôn với mật độ trung bình đạt 0,82 máy/100 dân.
Tỉnh đã quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực ứng dụng và phát triển CNTT. Đến nay, bằng việc liên kết với các trường đại học, tỉnh đã đào tạo được 300 cử nhân CNTT; gần 3.000 lượt cán bộ, công chức được đào tạo sử dụng máy tính, quản trị mạng và hàng nghìn người được đào tạo tin học trình độ A, B, tin học văn phòng...
Theo thống kê chưa đầy đủ, nguồn vốn đầu tư cho CNTT trên địa bàn tỉnh 5 năm qua đạt hơn 130 tỷ đồng. trong đó vốn ngân sách Nhà nước khoảng 30 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, việc ứng dụng và phát triển CNTT của tỉnh ta chưa ngang tầm khu vực. Mật độ máy tính, mật độ thuê bao in-tơ-nét còn thấp so với bình quân chung của khu vực trọng điểm kinh tế phía bắc. Đầu tư cho đào tao nguồn nhân lực CNTT còn chấp vá, chưa mang tính ổn định lâu dài.
Nhận thức rõ vai trò của CNTT, UBND tỉnh vừa phê duyệt ''Quy hoạch tổng thể phát triển bưu chính, viễn thông và ứng dụng CNTT Hải Dương giai đoạn 2006- 2010 và định hướng phát triển đến 2020''.
Thực hiện quy hoạch này sẽ thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển CNTT trên địa bàn. Nhưng trước hết các cơ quan Đảng, chính quyền cấp tỉnh, thành phố và huyện cần được đầu tư nhiều hơn nữa để 100% số cơ quan, đơn vị trực thuộc kết nối được mạng LAN toàn thiện; chú trọng đến việc xây dựng mạng WAN, để từ đó có điều kiện thu thập thông tin, chỉ đạo công việc nhất quán với hiệu quả nhanh nhất, chính xác nhất.
Khuyến khích các doanh nghiệp, các gia đình đầu tư mua sắm máy tính, nối mạng in-tơ-nét, phấn đấu đến 2010 đạt mật độ 3 máy tính, 10 thuê bao in-tơ-nét /100 dân.
Đặc biệt, tỉnh cần có những đầu tư căn bản xây dựng cổng thông tin điện tử, kết nối với cổng thông tin dùng chung của vùng kinh tế trọng điểm phía bắc và của Chính phủ. Từ đó yêu cầu các sở' ngành, các doanh nghiệp xây dựng các trang web của cơ quan, doanh nghiệp mình cung cấp thông tin cho nhân dân, quảng bá thương hiệu và sản phẩm.
Song song với quan tâm đào tạo nguồn nhân lực CNTT, tỉnh cần có những hướng dẫn cụ thể cho các cơ quan, ngành có năng lực liên kết với các doanh nghiệp mạnh về CNTT trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các dự án sản xuất phần mềm, sản phẩm thông tin, thiết bị điện tử, viễn thông... Đội ngũ những nhà quản lý CNTT trên địa bàn tỉnh phải là những chuyên gia đi đầu trong việc ứng dụng thành thạo các phần mềm chuyên ngành, biết cách tổ chức, triển khai việc ứng dụng CNTT ở đơn vị, cơ sở mình, coi đây là vũ khí để tác nghiệp giành thắng lợi cao. Tỉnh cần hỗ trợ và có cơ chế để đẩy mạnh triển khai giảng dạy tin học ở các trường phổ thông.
Thực hiện tốt các giải pháp trên, hy vọng tỉnh ta sẽ tạo bước đột phá về phát triển, chủ động cùng cả nước hội nhập thành công, đưa Hải Dương sớm trở thành tỉnh công nghiệp phát triển.
2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến, vận động đầu tư
Bên cạnh việc thông tin giới thiệu tìêm năng cơ hội đầu tư vào tỉnh Hải Dương ở các tập san, chuyên đề, tờ rơi, trong các năm 2002,2005 tỉnh đã tổ chức các Đoàn công tác xúc tiến vận động đầu tư ở nước ngoài; tham gia nhiều hội thảo về môi trường đầu tư ở Việt Nam và giới thiệu tiềm năng cơ hội đầu tư vào Hải Dương do Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Bộ Thương Mại, Bộ Công nghiệp, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Văn phòng xúc tiến thương mại Hàn Quốc tại Hà Nội, Văn phòng kinh tế Đài Bắc tại Hà Nội tổ chức.
Tổ chức gặp mặt các nhà đầu tư và đại diện các tổ chức quốc tế nhân các dịp Quốc khánh, đầu xuân của Việt Nam; tổ chức gặp mặt đại diện bộ Ngoại giao và các đại sứ quán Việt Nam trước khi ra nước ngoài công tác; tổ chức “ Gặp gỡ xúc tiến đầu tư các tổng công ty 90,91”; thông qua các đoàn, các cán bộ của tỉnh đi công tác ở nước ngoài để trao đổi, cung cấp thêm thông tin nhằm thu hút, vận động đầu tư vào địa phương . Đặc biệt, là thông qua chính các nhà đầu tư nước ngoài đang có dự án hoạt động tại Hải Dương để họ thông tin quảng bá về cơ hội đầu tư cho bạn bè, đối tác của họ và các nhà đầu tư tiềm năng khác.
Trung bình hàng năm có từ 80 – 100 lượt các nhà đầu tư nứoc ngoài bằng cách tiếp xúc trao đổi trực tiếp với cãc cơ quan, đơn vị trong tỉnh hoặc qua các kênh thông tin khác : Fax, e-mail, điện thoại, để tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Hải Dương.
Các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh: Đài phát thanh và truyền hình, Báo Hải Dương cũng đã dành thời lượng đáng kể đăng bài, tin giới thiệu, phản ánh tình hình hoạt động đầu tư nứoc ngoài tại địa phương, nhằm nâng cao nhận thức; giúp mọi người dân hiểu rõ hơn về lĩnh vực kinh tế quan trọng này.
Tuy nhiên công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài cũng còn bộc lộ những hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra cho công tác này. Việc hỗ trợ các nhà đầu tư đang có dự án tại địa phương để thúc đẩy mở rộng đầu tư, giải quyết những vấn đề phát sinh ( ví dụ: xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết đường vào cho doanh nghiệp ) nhằm giữ chân các nhà đầu tư và thúc đẩy các nhà đầu tư tiềm năng ( những nhà đầu tư chưa có dự án/ chưa chuẩn bị đầu tư ) cũng còn gặp nhiều khó khăn. Việc xúc tiến, vận động đầu tư ở các quốc gia mạnh về đầu tư còn yếu do phải có kinh phí lớn và cấn phải có cơ quan chuyên môn đủ mạnh để làm công tác này
3. Ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư
Tỉnh liên tục ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của tỉnh về ưu đãi đầu tư , nhằm thu hút các dự án đầu tư vào các KCN, cụm công nghiệp.
Ưu tiên các dự án sử dụng nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ, có giá trị gia tăng cao, các dự án có quy mô lớn, trình độ công nghệ hiện đại, các dự án sản xuất hàng xuất khẩu.
Sớm ban hành cơ chế quản lý, huy động vốn đầu tư xây dựng hạ tầng các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Kiên quyết xử lý đối với các chủ đầu tư không triển khai thực hiện dự án theo đúng tiến độ và quy định của pháp luật.
Trên cơ sở điều kiện thực tế của địa phương, tỉnh sẽ hoàn thiện những chính sách, như ưu đãi hỗ trợ bồi thường giải phóng mặt bằng và thu hồi đất cho các dự án.
4. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
Tỉnh Hải Dương thực hiện cải Cách thủ tục hành chính (TTHC) theo cơ chế "một cửa" trên một số lĩnh vực, Sở Kế hoạch đầu tư công khai hoá TTHC và rút ngắn thời gian tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ các dự án đầu tư
Thông qua tổ tiếp nhận và trả hồ sơ tại văn phòng Sở KH- ĐT, các nhà đầu tư được hướng dẫn đầy đủ và cụ thể các TTHC có liên quan. Các phòng chuyên môn phối hợp thực hiện chặt chẽ, trả hồ sơ tương đối đúng hẹn. Trong lĩnh vực thẩm định dự án đầu tư thuộc nguồn vốn xây dựng cơ bản, sở đã niêm yết công khai các quy trình, thủ tục tại phòng tiếp nhận hồ sơ. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ thường trực tất cả các ngày làm việc trong tuần. Số lượng và giá trị dự án đầu tư khá lớn, từ năm 2003 đến nay đã thẩm định 460 dự án với tổng mức đầu tư 920 tỷ đồng; đồng thời thẩm định, theo dõi, hướng dẫn thực hiện các dự án đầu tư có nhu cầu thuê đất.
Thời gian thẩm định và trình UBND tỉnh sớm hơn so với quy định khoảng 3 ngày. Trong lĩnh vực cấp phép các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, việc tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ các dự án được thực hiện tốt, rút ngắn thời gian so với quy định. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài hài lòng với cung cách làm việc nhiệt tình, hiệu quả. Năm 2003, tỉnh cấp giấy phép cho 23 dự án mới, điều chỉnh vốn đầu tư cho 4 dự án với tổng vốn đầu tư 83,4 triệu USD. Năm 2006, tỉnh thu hút 44 dự án có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký gần 646 triệu USD. Đến nay, tỉnh đã có 140 dự án FDI đến từ 21 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1.565 triệu USD. Trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD), các TTHC quy định về lệ phí, thời gian giải quyết công việc được công khai hóa; Mẫu hóa cụ thể các loại giấy tờ trong hồ sơ đăng ký. Nhà đầu tư có nhu cầu ĐKKD không mất nhiều thời gian đi lại. Thời gian làm thủ tục đăng ký thành lập mới doanh nghiệp được thực hiện trong vòng từ 3 đến 5 ngày. Có trường hợp hoàn thành thủ tục ngay trong ngày. Việc đăng ký thay đổi nội dung ĐKKD thực hiện từ 2 đến 3 ngày. Thời gian giải quyết như vậy đã giảm một nửa so với quy định tại đề án cải cách TTHC.
Để tiếp tục giảm thiểu các phiền hà trong cấp giấy phép ĐKKD, UBND tỉnh đã thành lập bộ phận ĐKKD, cấp dấu và mã số thuế liên thông ''một cửa" tại Sở KH-ĐT. Thay vì trước đây, doanh nghiệp phải đến cả 3 cơ quan là Sở KH-ĐT, Công an và Cục Thuế tỉnh, thì nay chỉ cần đến một nơi duy nhất là bộ phận "một cửa liên thông" tại Sở KH-ĐT. Kết quả sau 1 tháng hoạt động, số lượng doanh nghiệp đến ĐKKD mới và đăng ký thay đổi ĐKKD tăng so với cùng kỳ năm trước. Bộ phận ĐKKD liên thông đã nhận 101 hồ sơ, trong đó có 47 doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện đăng ký mới; 52 đơn vị đăng ký thay đổi và 2 doanh nghiệp giải thể.
Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, thực hiện cơ chế "một cửa" hiện nay tại Sở KH-ĐT mới thực hiện đến khâu trình dự án, các khâu sau đó sở không đủ chức năng để quản lý. Lĩnh vực thẩm định dự án đầu tư, hồ sơ của một số dự án chỉ đưa ra được một phương án, chưa có các phương án so sánh để tìm ra phương án tối ưu. Thuyết minh về khảo sát địa chất chưa thực hiện được do phải chờ sau khi có kết luận của hội nghị thẩm định. Nội dung thuyết minh về cơ sở đầu tư còn sơ sài, chưa đủ tính thuyết phục trước hội nghị thẩm định...
Để từng bước khắc phục hạn chế trong cải cách TTHC, Sở KH- ĐT dự kiến sớm bố trí lại cán bộ có đủ trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức để thực hiện tại tiếp nhận hồ sơ. Hoàn thiện nguồn lực, cơ sở vật chất để thực hiện cải cách TTHC. Công khai hoá TTHC bằng nhiều hình thức phù hợp. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các sở, ngành liên quan và nhà đầu tư nhằm rút ngắn thời gian thực hiện công việc, giảm phiền hà cho tổ chức và cá nhân. Cấp có thẩm quyền cẩn quy định rõ giới hạn thới gian thực hiện "một cửa" cho việc thẩm định và tổ chức thực hiện dự án có nhu cầu thuê đất, bởi hiện nay, Sở KH-ĐT chỉ thực hiện đến khâu lập tờ trình đề nghị UBND tỉnh chấp thuận dư án đầu tư. Các khâu sau là văn bản chấp thuận dự án do Văn phòng UBND tỉnh trình duyệt; thu hồi thu hồi đất do Sở Tài nguyên và Môi trường; tính toán đền bù giải phóng mặt bằng do Sở Tài chính, quy hoạch do Sở Xây dựng... xây dựng và trình duyệt.
5. Hỗ trợ doanh nghiệp
Xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, xây dựng các khu đô thị mới tại thành phố Hải Dương và các huyện tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư và đảm bảo phát triển theo hướng hiện đại, bền vững.
- Đẩy nhanh cung ứng nguồn nhân lực, giải phóng mặt bằng và giao đất cho các doanh nghiệp triển khai đầu tư, giải quyết nhiều vướng mắc trong phát sinh hoạt động của các doanh nghiệp
- Kiên trì và tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới, đảm bảo và khuyến khích hoạt động đầu tư trong và ngoài nước, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn để tiếp tục mở rộng đầu tư mở rộng sản xuẩt và kinh doanh phát triển tại địa phương.
6. Đào tạo nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của Hải Dương dồi dào nhưng số lao động có trình độ cao còn rất thấp.
Do đó tỉnh Hải Dương phải tạo được chuyển biến cơ bản về giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH, chú trọng nhân lực có trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ, tạo động lực đẩy nhanh CNH – HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong từng ngành và lĩnh vực của nền kinh tế; nâng cao ý thức chấp hành thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Các trường dạy học và các trung tâm dạy nghề của Hải Dương phải đước mở rộng hơn nũa về số lượng và loại hình đào tạo, chất lượng của các trung tâm dạy nghề phải được nâng cao hơn mới có thể đáp ứng đựoc những yêu cầu tuyển dụng ngày càng cao của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này phụ thuộc rất lớn vào chính sách giáo dục của các cơ quan, ban nghành lãnh đạo của tỉnh.
Phát triển các trung tâm kỹ thuật tổng hợp -hướng nghiệp-dạy nghề
Việc UBND tỉnh phê duyệt đề án phát triển các trung tâm KTTH-HN-DN giai đoạn 2006-2010 thể hiện đã đi trước, đón đầu được yêu cẩu cấp thiết về hướng nghiệp, dạy nghề. Các mục tiêu, giải pháp của đề án được hoạch định vừa phù hợp với điều kiện cụ thể trước mặt còn rất khó khăn của tỉnh, đồng thời cũng vừa đáp ứng được yêu cầu, xu hướng phát triển sau này. Theo đề án, giai đoạn 2006-2007, tỉnh tiếp tục nâng cấp các trung tâm hiện có (Thanh Hà, Nam Sách, Hải Dương, Tứ Kỳ), phấn đấu đến năm 2010 có 2 trung tâm đạt chuẩn quốc gia, nếu điều kiện cho phép sẽ thành lập thêm 1-3 trung tâm mới...
Trong những năm tiếp theo, căn cứ điều kiện cụ thể và kinh phí cho phép, xây dựng mới trung tâm KTTH-HN-DN ở những huyện chưa có. Các trung tâm phải được xây dựng theo hướng đủ điều kiện để đạt chuẩn quốc gia, dạy được các nghề theo quy định và tư vấn hướng nghiệp cho học sinh; quy mô mới trung tâm là 130 lớp, dạy tối thiểu 13 nghề trong 5 nhóm nghề quy định. Với xuất phát ban đầu chỉ có 4 trung tâm, trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu, việc thực hiện các mục tiêu của đề án phải hết sức khẩn trương mới có thể bảo đảm được tiến độ. Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tạo nhận thức đúng đắn về việc phát triển các trung tâm KTTH-HN-DN, từ đó thu hút được sự quan tâm của các cấp uỷ, chính quyền địa phương chăm lo, đầu tư cho phát triển các trung tâm. Đồng thời các trung tâm cần thực hiện tốt thu hút các nguồn lực, tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ và chất lượng dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp để dần thay đổi cách nhìn nhận của các cấp, các ngành về vai trò của mình; thay đổi tâm lý học sinh và nhân dân trong việc học nghề, lựa chọn nghề nghiệp. Các phòng giáo dục huyện, thành phố cần tích cực, chủ động tham mưu với lãnh đạo địa phương để xây dựng đề án với lộ trình phù hợp và sớm có quy hoạch diện tích xây dựng các trung tâm.
Không ngừng nâng cao chất lượng dạy nghề
Nếu như năm 2000 trên địa bàn tỉnh Hải Dương chỉ có 13 cơ sở dạy nghề thì đến nay đã có hơn 30 cơ sở dạy nghề, đào tạo nghề cho hơn 70000 người.
Thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hoạt động dạy nghề, năm 2000 Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương quyết định thành lập Trường công nhân kỹ thuật với quy mô đào tạo 500 học sinh hệ dài hạn/năm, 300 học sinh hệ ngắn hạn/năm, đồng thời không ngừng đầu tư nâng cấp các trung tâm Dịch vụ việc làm, củng cố hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến huyện. Tháng 4/2002 thành lập quỹ khuyến nông tỉnh, cho phép thành lập các cơ sở dạy nghề thuộc các thành phần kinh tế, khôi phục và phát triển làng nghề, truyền nghề cho người lao động nhằm tạo việc làm cho người lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến các huyện, thành phố được cũng cố, tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng và từng bước hoạt động có hiểu quả. Sau 4 năm đã phối hợp với các tổ chức đoàn thể mở 3.784 lớp tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 340.000 lượt nông dân. Quỹ khuyến công được thành lập từ tháng 4/2002 đã hỗ trợ 794,6 triệu đồng cho các cơ sở sản xuất, các hợp tác xã khôi phục và phát triển làng nghề, tổ chức dạy nghề, tạo việc làm cho 2.320 lao động nông nghiệp nông thôn.
Do làm tốt công tác nâng cao số lượng và chất lượng lao động trong đào tạo nghề nên trong thời gian qua tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo nghề đạt trên 80% ; 100% lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài được đào tạo giáo dục định hướng chất lượng cao. Kết quả đã giải quyết việc làm cho 87.764 người, trong đó lao động có thời hạn ở nước ngoài là có 11.067 người.
Bên cạnh nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác dạy nghề, các cơ sở dạy nghề dân lập, cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và người học cũng đóng góp một phần không nhỏ. Qua 4 năm người học nghề và các cơ sở cử lao động đi học nghề đã đóng 14.632,467 tỷ đồng học phí (chiếm 29,32% tổng chi cho dạy nghề 4 năm là 49.908,882 tỷ đồng).
Từ năm 2001 đến nay, tỉnh đã hỗ trợ 952 triệu đồng để miễn, giảm chi phí học nghề ngắn hạn cho 1.190 học sinh thuộc các đối tượng con thương binh, liệt sỹ, học sinh có hộ khẩu miền núi...;hỗ trợ 50% kinh phí học nghề cho các cơ sở dạy nghề cho các doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp và làng nghề. Chỉ riêng năm 2004 tỉnh đã hỗ trợ 20 triệu đồng cho dạy nghề, tạo việc làm cho 20 lao động ở phường Thanh Bình.
Năm 2004 thực hiện Đề án thí điểm dạy nghề cho nông dân ở 6 huyện, thành phố, với nguồn kinh phí 1.000 triệu đồng từ ngân sách Trung ương, các cơ sở dạy nghề đã tổ chức dạy nghề cho 1.258 nông dân, tập trung vào các nghề: mây giang xiên, móc, sửa chữa xe máy, may, tin học cơ sở, kỹ thuật chăn nuôi thú y, kỹ thuật trồng trọt. Kết quả, hầu hết số lao động học nghề tiểu thủ công nghiệp đều việc làm; học viên học nghề chăn nuôi, thú y và kỹ thuật trồng trọt sau khoá học đã thành lập được các hội trồng cây, chăn nuôi giúp nhau phát triển ngành nghề, tiêu thụ sản phẩm.
Phát huy các kết quả đạt được, năm 2007 tỉnh Hải Dương dạy nghề cho 17.170 người; mở 1400 lớp khuyến nông tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho 100.000 lượt nông dân và 12 lớp khuyến công dạy nghề và tạo việc làm cho 1.800 lao động. Phấn đấu tạo việc làm cho 33.000 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 25%.
7. Đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp của tỉnh
Khu, cụm công nghiệp (KCCN) là khu vực tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Mặt khác, KCCN còn là công cụ của chính sách công nghiệp nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đồng thời cũng là địa bàn để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nền kinh tế của địa phương.
Như vậy, đầu tư phát triển các KCCN sẽ tạo ra nền tảng kinh tế - xã hội tác động mạnh đến đầu tư cả trong và ngoài nước, thúc đẩy sản xuất công nghiệp để sản xuất hàng xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu và các mặt hàng tiêu dùng trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, nguồn lực trong và ngoài nước, nhất là nguồn lực tại chỗ để phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, tạo ra thu nhập cho người lao động, từng bước nâng cao trình độ, kỹ thuật, tay nghề, bậc thợ, tiếp nhận các công nghệ sản xuất tiên tiến và hình thành tác phong công nghiệp.
Mô hình KCCN đối với tỉnh ta vẫn còn là vấn đề mới mẻ, nhưng qua mấy năm xây dựng và phát triển, bước đầu nó đã trở thành nhân tố rất quan trọng góp phần đẩy mạnh thực hiện mục tiêu CNH, HĐH hiện nay. Ở tỉnh ta, ngoài các tiềm năng và lợi thế về địa lý, tỉnh đã sớm có chính sách mềm dẻo trong việc mời gọi đầu tư với phương châm 'trải thảm đỏ' thông qua giá thuê đất rẻ, giá đền bù thấp, chi phí san lấp, giải phóng mặt bằng thuận lợi, giá thuê nhân công hấp dẫn hơn so với một số tỉnh. Những chính sách đó cùng với thủ tục hành chính đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện đã tạo ra sức hấp dẫn để các nhà đầu tư đến với tỉnh ta thời gian qua.
Các KCCN ở tỉnh đã thu hút được 122 dự án, trong đó thu hút vào khu công nghiệp 20 dự án, vào cụm công nghiệp là 102 dự án. Hiện đã có 28 dự án trong các KCCN đi vào sản xuất, nâng tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh đã đi vào hoạt động là 39 dự án, với số vốn hoạt động gần 350 triệu USD.
Một số KCCN do triển khai nhanh việc đầu tư cơ sở hạ tầng, đã cho các doanh nghiệp thuê tới 80-90% diện tích đất, như KCN Nam Sách, các cụm công nghiệp thuộc địa bàn TP Hải Dương, huyện Bình Giang... Một số KCCN do làm tốt việc xúc tiến đầu tư, có nhiều dự án thuê đất nên sớm 'lấp đầy', đang xin được mở rộng diện tích để thu hút đầu tư.
Nhờ có đầu tư của các doanh nghiệp vào KCCN với quy trình sản xuất tiên tiến, trình độ kỹ thuật công nghệ cao, nhất là các dự án đầu tư nước ngoài, đã làm bộ mặt sản xuất công nghiệp của tỉnh thay đổi, đồng thời giúp các ngành dịch vụ cũng phát triển theo. Hàng năm, ngoài việc thu hút trực tiếp hàng vạn lao động vào các KCCN làm việc, còn gián tiếp tạo thêm nhiều việc làm mới trong các lĩnh vực như dịch vụ, xây dựng, cung cấp lương thực, thực phẩm, nhà ở, bốc dỡ hàng hoá... Mặt khác, việc xuất hiện các KCCN và nhu cầu thu hút lao động vào làm việc còn thúc đẩy mạnh lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật, tay nghề cho người lao động, đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong các KCCN.
Do quan tâm phát triển các KCCN mấy năm gần đây, mức tăng trưởng kinh tế của tỉnh từng bước phát triển theo chiều sâu, gắn nông nghiệp với công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch thoe hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, tạo ra sự biến đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và của vùng, địa phương trực tiếp co các KCCN nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh những cố gắng và thành công, việc phát triển các KCCN của tỉnh còn là vấn đề mới mẻ, kinh nghiệm tích luỹ chưa được nhiều và kết quả chưa được như mong muốn. Hàng loạt vấn đề đang đặt ra với không ít khó khăn như: kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào các KCN (gồm điện, nước, giao thông...) đầu tư xây dựng chậm, thiếu đồng bộ để đón đầu trước khi các KCCN được 'lấp đầy'; vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiếu nghiêm trọng; số lượng doanh nghiệp đi vào hoạt động chưa nhiều; công tác giải phóng mặt bằng ở một số địa phương còn rất khó khăn; xử lý môi trường, nhất là xử lý nước thải, chất thỉa rắn, đang là vấn đề nổi cộm...
Để các KCCN của tỉnh ta phát triển mạnh, bền vững, thu hút nhanh các doanh nghiệp vào đầu tư mở rộng sản xuất, làm đòn bẩy đẩy nhanh CNH, HĐH, đô thị hoá kinh tế - xã hội của tỉnh, các cấp, các ngành cần đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân, nhất là nhân dân vùng quy hoạch để mọi người dân hiểu rõ và tự giác ủng hộ chủ trương phát triển KCCN của tỉnh là nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Trước hết cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể nhân dân ngay tại các cơ sở và các huyện, thành phố có dự án.
Đi đôi với xây dựng quy hoạch phát triển các KCCN cần đồng thời triển khai lập các dự án về đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, quy hoạch lại đồng ruộng, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu sản xuất... cho nơi có dự án KCCN. Tác động mạnh để các nhà đầu tư kinh doanh các KCCN đẩy nhanh đầu tư xây dựng theo hướng đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở các KCN với chất lượng cao và phối hợp chặt chẽ với các ngành hữu quan để đồng bộ hoá việc cung cấp điện năng, cấp thoát nước, giao thông và hệ thống thông tin liên lạc..., tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vào đầu tư. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng KCCN được thế chấp diện tích đất chưa thuê được đất phải thanh toán với ngân hàng; đồng thời sớm thành lập Công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN để trực tiếp làm nhiệm vụ kinh doanh, đầu tư và xúc tiến kêu gọi đầu tư vào KCCN. Đặt các chi nhánh của ngân hàng tại các KCCN để các doanh nghiệp thuận tiện trong hoạt động dịch vụ, giao dịch tài chính. Lập quy hoạch phát triển các khu dân cư ở khu vực có các KCCN và có chính sách ưu đãi để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân KCCN.
Các cơ sở đào tạo nghề cần có biện pháp phối hợp chặt với các KCCN để có kế hoạch đồng bộ trong việc tuyển chọn, đào tạo, cung cấp lao động phù hợp cho các DN trong các KCCN. Đi đôi với Nhà nước hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề, cần vanạ động người dân tham gia tạo quỹ học nghề, giúp người lao động có điều kiện kinh phí để học nghề, cơ hội tìm việc làm trong các KCCN.
Công bố công khai danh mục những ngành nghề, lĩnh vực, những vùng và địa phương mà tỉnh đang khuyến khích đầu tư, theo quy định rõ những chính sách ưu đãi về thuế, vốn vay, hỗ trợ... Tiếp tục đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, mà trọng tâm là đội ngũ trực tiếp tiếp nhận, thẩm định, giải quyết các thủ tục triển khai dự án của các nhà đầu tư.
Gắn phát triển các KCCN với việc kiểm soát chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài của địa phương và đất nước.
Đẩy mạnh phát triển các KCCN, cùng với kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội phát triển theo quy hoạch, sẽ góp phần hình thành các đô thị vệ tinh mới, thu hẹp sự chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nền kinh tế theo định hướng của tỉnh.
8. Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân
Các doanh nghiệp Nhà nước là chủ thể cơ bản tham gia hợp tác đầu tư với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng theo chủ trương tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp ở Hải Dương sẽ tiến hành cổ phần hoá, chia tách, sáp nhập, giải thể ... Do đó, có xu hướng tăng dần các doang nghiệp tư nhân hoặc là cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp giảm xuống. Khi quyền lợi gắn liền với trách nhiệm thì họ sẽ làm việc có hiệu quả hơn, không phụ thuộc vào sự trợ giúp của Nhà nước. Bản thân các doanh nghiệp cũng tự đi tìm đối tác đầu tư cho mình nên họ chính là lực lượng quan trọng để quảng bá môi trường đầu tư của Hải Dương với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp tư nhân phát triển là một yêu cầu tất yếu đặt ra.
9. Đa dạng hoá các hình thức và lĩnh vực đầu tư
Việc đa dạng hoá hình thức đầu tư và mở rộng lĩnh vực đầu tư làm tăng lối vào cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay trên địa bàn tỉnh mới chỉ có 3 hình thức đầu tư là : Liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước . Tỉnh Hải Dương cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án dưới hình thức BOT, BTO, BT và từng bước thí điểm cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư nhiều hơn nữa. Hiện nay, luật pháp của ta cúng đã quy định doanh nghiệp Việt nam được quyền mua cổ phần của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài quan trọng. Chính phủ cúng đã có chủ trương thực hiện thí điểm cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tỉnh cúng nên có những ưu đãi đặc biệt hơn đối với những ngành nghề mà Hải Dương có tiềm năng nhưng chưa phát triển hoặc đối với những lĩnh vực còn mới và nằm trong danh mục khuyến khích đầu tư của Tỉnh. Trên cơ sở đó mà thu hút được nhiều nhà đầu tư đang còn e ngại khi tiến hành đầu tư vào Hải Dương
10. Phát triển các dịch vụ tư vấn
Thời gian qua, các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước bị vấp phải những khó khăn về thị trường và thông tin. Do vậy, đi liền với công tác xúc tiến đầu tư thì Hải Dương cần phát triển hơn nữa các dich vụ tư vấn. Dịch vụ tư vấn không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư mà cần phát triển lên mức độ cao hơn là giúp các đối tác đầu tư nước ngoài và Việt nam gặp gỡ nhau và cùng nhau hợp tác. Nói cách khác, dịch vụ tư cần đạt đến trình độ môi giới đầu tư. Các đơn vị tư vấn cần phải hướng các nhà đầu tư tập trung vào thị trường lớn có tiềm năng về vốn và công nghệ nguồn. Khuyến khích thu hút vốn FDI vào những ngành sử dụng nhiều nhân tố sản xuất mà Hải Dương sẵn có nhằm mục đích phục vụ xuất khẩu chứ không chỉ thay thế hàng nhập khẩu. Dịch vụ tư vấn có thể tư vấn cho chủ đầu tư các vấn đề như thị trường, thương mại, tài chính, quản lý doanh nghiệp, xây dựng các dự án ( tiền khả thi và khả thi).... Dịch vụ tư vấn càng phát triển, càng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi có những vướng mắc trong quá trình đầu tư thì làm cho khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của tỉnh càng thuận lợi.
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một xu hướng tất yếu trong giai đoạn toàn cầu hoá như hiện nay. Những lý thuyết và thực tiến về đầu tư đã giúp chúng ta có những khái quát chung về hoạt động này và cùng với những kết quả đã đạt được trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Hải Dương thì có thể thấy được những đóng góp to lớn của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của cả nước nói chung và Hải Dương nói riêng như tạo nguồn vốn, tăng thu ngân sách, góp phần chuyện dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì FDI có không ít những hạn chế và nó cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nhất định đối với nền kinh tế.
Tình hình trong nước và thế giới đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với việc thu hút FDI của Việt Nam nói chung và Hải Dương nói riêng nhưng do nhiều nguyên nhân chủ quan và vị thế của tỉnh.
Với những lý do đó mà đề tài này được lựa chọn để đánh giá lại tình hình đầu tư nước ngoài nói chung và trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vay vốn này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế đầu tư – Từ Quang Phương, Nguyễn Bạch Nguyệt. ĐH KTQD. NXB Thống kê 2003.
2. Bài giảng kinh tế đầu tư – Bộ môn kinh tế đầu tư, ĐH KTQD.
3. Giáo trình kinh tế phát triển. Tập 1 – Bộ môn kinh tế phát triển, ĐH KTQD. NXB Thống kê 1999.
4. Văn kiện đại hội Đảng 7,8. NXB Chính Trị 2001.
5. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010 tỉnh Hải Dương. UBND tỉnh Hải Dương.
6. Các tài liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng về Đầu tư nước ngoài.
7. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hải Dương.
8. Số liệu vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương phân theo các lĩnh vực và đơn vị quản lý từ 2000 – 2004 (Nguồn sở kế hoạch đầu tư tỉnh Hải Dương).
9. Số liệu định hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2005 và 5 năm 2005 – 2010 các vùng kinh tế. Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
10. Định hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2005 và 5 năm 2005 – 2010 các vùng kinh tế. Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
11. Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Thành quả và những hạn chế cần khắc phục – Trần Hoàng Long – Công nghiệp số 8/2002.
12. Cần có một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn – Anh Trung – Công nghiệp số Tết năm 2002.
13. Thời báo kinh tế Việt Nam.
14. Niên giám thống kê.
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4900.doc