Các doanh nghiệp thuộc da cần được khấu trừ đầu vào 5% đối với nguyên liệu da, do phải thu mua da trôi nổi trên thị trường tự do, nên không thể có đủ chứng từ để hoàn thuế. Thuế nhập khẩu da sơ chế nên được miễn. Thuế đánh vào nguyên vật liệu đã được làm thành phẩm mà bị khách hàng trả lại nên được hoàn thuế. Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại là 32% là quá nặng đối với doanh nghiệp giày dép và nên giảm xuống ở mức thấp hơn để tạo cơ hội cho ngành tích luỹ vốn tái đầu tư.
Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp : Ngành giày rất cần đến sự ưu đãi trong các chính sách đầu tư, cho phép sử dụng vốn ngân sách, vốn ODA, bố trí vốn đối ứng từ nguồn lãi suất ưu đãi để thực hiện các dự án này, bảo lãnh vốn vay cho các chương trình nhập khẩu thiết bị trả chậm. Chính phủ cũng nên hỗ trợ đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực thuộc da, sản xuất nguyên phụ liệu làm giày và xây dựng hạ tầng cơ sở như :
- Đối với đầu tư sản xuất lĩnh vực thuộc da và cơ khí da giày được vay tín dụng đầu tư thuộc kế hoạch nhà nước với lãi suất ưu đãi đặc biệt 3%/năm, thời hạn vay 12 năm, có 3 năm ân hạn.
107 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 884 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của giày dép Việt Nam trên thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nhân dân, tạo sự phát triển ổn định và lâu dài cho xã hội.
Qua số liệu các năm 1997 - 2000 được trình bày trong bảng 15 có thể thấy rằng : mức lương bình quân của ngành giày không cao bằng mức lương bình quân của toàn ngành công nghiệp, mức lương bình quân của ngành năm 2000 là 798.000đ/người/tháng35, kém bình quân thu nhập ngành công nghiệp 54.000đ/người/tháng nhưng so với mức lương bình quân của cả nước thì mức lương bình quân ngành giày cao hơn 35.000đ/người/tháng nên khả năng thu hút lao động đối với ngành giày khá lớn.
Bảng 15 : Thu nhập bình quân ngành giày so với
toàn ngành công nghiệp và cả nước
Đơn vị : 1000 đồng/người/tháng
1997
1998
1999
2000
Ngành CN da giày
744,0
742,0
770,0
798,0
Ngành công nghiệp
762,4
806,4
855,1
852,2
Cả nước
642,1
697,1
728,7
763,2
Thu nhập ngành giày so với toàn ngành CN (%)
97,6
92,0
90,1
93,64
Thu nhập ngành giày so với cả nước (%)
115,9
106,5
105,7
108,4
Nguồn : - Niên giám thống kê 2000
- Báo cáo hội nghị ngành giày năm 2000
4.4 Cải thiện cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất
Ngành da giày đã góp phần quan trọng vào việc tăng tỉ trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp nói chung trong GDP của Việt Nam. Với sự tăng trưởng mạnh, ngành da giày Việt Nam còn góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và cơ cấu mặt hàng của Việt Nam theo hướng gắn sản xuất với thị trường, đặc biệt là các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao.
Bên cạnh việc cải thiện cơ cấu kinh tế, ngành da giày Việt Nam còn đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm của mình và kéo theo một số ngành khác có liên quan khác như cơ khí, thương mại, dịch vụ, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước, hải quan, thuế, ngân hàng,... cùng phát triển, góp phần đáng kể trong tăng thu nộp ngân sách.
Bảng 16 : Đóng góp của ngành da giày đối với một số ngành khác
Đơn vị tính : 1000 USD
1997
1998
1999
2000
Điện
7.044
7.422
8.848
11.064
Nước
1.761
1.856
2.212
2.766
Bưu điện
5.283
5.567
6.636
8.298
Nguồn : Niên giám thống kê 2000
Bảng 16 đã trình bày đóng góp của ngành giày đối với 3 ngành công nghiệp là điện, nước và bưu điện. Theo đó thì ngành giày góp phần không nhỏ trong tăng trưởng của các ngành trên.
Ngoài ra, sự phát triển của ngành giày sẽ tạo điều kiện cho các làng nghề truyền thống, lao động thủ công kĩ xảo phát triển nhằm thực hiện tốt sụ phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất, tận dụng các dư liệu sản xuất của ngành, đáp ứng các nhu cầu đa dạng và phong phú của xã hội.
Ngành da giày thực sự giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Sự tăng trưởng của ngành trong những năm vừa qua đã ghi nhận nhiều thành tựu đáng kể song bên cạnh đó vẫn chưa hết những tồn tại. Làm thế nào để tiếp tục ổn định và phát triển, phát huy thế mạnh và khắc phục những mặt còn hạn chế của ngành, đó là nội dung những vấn đề được đề cập đến trong chương 3 của khoá luận.
Chương 3
đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao
khả năng cạnh tranh của giày dép
việt nam trên thị trường thế giới
1 triển vọng xuất khẩu của giày dép việt nam
1.1 Dự báo về xu hướng phát triển của ngành giày dép thế giới
Dự báo đến năm 2005 dân số toàn cầu có 7,078 tỉ người và sản lượng giày dép thế giới sẽ đạt 14,061 tỉ đôi. Sản xuất vẫn tiếp tục bị các nước châu á thống trị chiếm đến 75,6% tổng sản lượng giày thế giới với 10,62 tỉ đôi, tiếp theo là châu Âu chiếm 10,8% với 1,52 tỉ đôi, Mỹ La tinh 6,1% với 864 triệu đôi, Bắc và Trung Mỹ chiếm 4,8% với 670 triệu đôi và châu Phi và châu úc 2,7% với 387 triệu đôi36.
Châu á là khu vực thống trị thế giới về giày dép. Nói chung, nền kinh tế của các nước châu á có xu hướng hướng ra xuất khẩu. Sản xuất và xuất khẩu là các lĩnh vực được chính phủ các nước rất quan tâm nên dự kiến sản lượng giày dép của châu á vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản lượng thế giới và sẽ tiếp tục tăng nhưng với tốc độ chậm hơn trong thập kỉ tới.
Trung và Nam Mỹ : cũng là những khu vực dễ thay đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi nhanh chóng về tình hình chính trị và kinh tế. Braxin là nước sản xuất giày dép lớn và dự kiến vẫn duy trì trong nhóm 10 nước sản xuất dẫn đầu trong thập kỉ tới. Sự phát triển của ngành công nghiệp giày dép các nước Trung và Nam Mỹ sẽ được mở rộng bởi nhu cầu lớn của Mỹ. Các nhân tố tạo thuận lợi cho việc tăng trưởng trong thương mại đối với từng nước là sự gần gũi về vị trí địa lí với Mỹ, các hiệp định NAFTA sẵn có và việc mở rộng của các hiệp định này. Tuy nhiên, trái với sự thuận lợi trên thì hiện nay giá công lao động tại các nước Trung và Nam Mỹ cao hơn đáng kể so với Trung Quốc và một số nước ASEAN khác. Nhìn tổng quát, sự phát triển trong thập kỉ tới tại Trung và Nam Mỹ chỉ ở mức độ phải chăng.
Châu Âu : các vấn đề kinh tế chính trị tại Nga và các nước láng giềng đã ảnh hưởng trầm trọng đến nền sản xuất giày dép ở Đông Âu trong thập kỉ qua. Theo dự báo, sẽ có sự hồi phục chậm và từng phần trong thập kỉ tới, sản xuất sẽ tăng song vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với mức của thập kỉ trước. Tại Tây Âu, Italia đã và đang là nước thành công nhất trong việc mở rộng cả lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu giày dép trong những năm vừa qua, Tây Ban Nha có sự tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu và cùng với Italia đứng trong nhóm 10 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Hầu hết các nước khác ở Tây Âu bị suy thoái liên tục trong sản xuất giày dép và dự báo trong thập kỉ tới tổng sản lượng giày dép từ các nước châu Âu sẽ bị giảm.
Các nhà hoạch định chiến lược cũng dự báo rằng ngành giày dép ở các nước phát triển sẽ được tổ chức thành một hoạt động dịch vụ, phối hợp chặt chẽ giữa các nhà thiết kế - sản xuất và các khách hàng tiêu thụ. Sản xuất nội tại ở các nước phát triển sẽ giảm xuống mức tối thiểu dưới 20% tổng sản lượng giày dép, 60% được sản xuất tại những nhà máy đã chuyển ra ngoài biên giới, trên 20% được nhập khẩu từ các nước đang phát triển.
Như vậy, trong tương lai, ngành công nghiệp giày thế giới sẽ định hình hai khu vực rõ rệt : Các nước công nghiệp phát triển Bắc Mỹ và EU với công nghệ tinh xảo chuyên sản xuất những loại giày thời trang chất lượng cao và giày chuyên dụng. Các nước khác mà phần lớn là các nước ở châu á và Nam Mỹ sẽ tập trung sản xuất các loại giày có phẩm cấp thấp hơn và châu á là khu vực thị trường tiềm năng lớn nhất thế giới.
Bảng 17 : Xu hướng tiêu dùng trên các thị trường
Thị trường
Dân số và
sức tiêu thụ
Xu hướng
Đặc điểm
EU
360 triệu dân
6 - 7 đôi
/người/năm
- Tiêu dùng giày da nhiều hơn
- Là thị trường tốt cho thuộc da
- Thị phần của EU trên thị trường thế giới có xu hướng giảm
- Nhu cầu nhập khẩu giày dép với khối lượng lớn
- 65% tiêu dùng giày mẫu mốt thời trang
- Yêu cầu cao về chất lượng và mẫu mã
- Hàng xuất khẩu của Italia chiếm từ 40-90% (tuỳ loại) doanh số của EU
SNG
và
Đông Âu
Trên 300 triệu dân
5 - 6 đôi
/người/năm
- Tiêu dùng các loại giày dép phổ thông
- Triển vọng hợp tác theo phương thức đổi hàng
- Sức tiêu thụ lớn về giày dép chất lượng không quá cao
- Không cần hạn ngạch
- Nhu cầu nhập khẩu lớn
Nhật Bản
Trên 120 triệu dân
- Tăng nhu cầu nhập khẩu
- Tiêu dùng các loại giày dép mang tính quốc tế cao, nhãn mác chuẩn
Mỹ
và
Bắc
Mỹ
260 triệu dân
6 - 7 đôi
/người/năm
- Các chủng loại giày mang tính quốc tế cao, kiểu dáng đẹp, mang nhãn mác của các hãng nổi tiếng
- Nhu cầu về giày da ngày càng cao
- 30% giày dép tiêu dùng cho bảo vệ chân, còn lại là giày dép thời trang
- Tiêu thụ nhiều giày da của Italia, Braxin, Philippin, Hongkong... da thuộc và các loại giày khác của Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan ...
Các nước NICs
- Tiêu dùng các loại giày có chất lượng đảm bảo, mẫu mã phù hợp
- Điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển sản xuất giày dép hướng xuất khẩu và tiếp nhận sự chuyển dịch từ khu vực này
Các nước ASEAN
- Khu vực sản xuất giày dép chủ yếu của thế giới hiện tại và tương lai
- Mức tiêu dùng chỉ ở lượng dư thừa của hàng xuất khẩu, có khả năng cung cấp giày ngày càng tăng.
(Nguồn : Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da Giày đến 2010)
1.2 Các thị trường xuất khẩu mục tiêu của giày dép Việt Nam
Thời gian qua, các doanh nghiệp phần lớn thực hiện hợp đồng gia công với đối tác nước ngoài, sản xuất theo đơn đặt hàng do đối tác cung cấp, chưa đủ năng lực để tìm kiếm thị trường mới. Các doanh nghiệp còn hiểu vấn đề thị trường một cách đơn giản là tìm được đối tác, đơn hàng là giải quyết được vấn đề thị trường mà đó là cả một qui trình hỗn hợp từ khâu tạo được sản phẩm tốt, thích ứng với yêu cầu thị trường, có giá cạnh tranh, cung cấp cho các thị trường mục tiêu đã lựa chọn theo kênh phân phối đúng và có phương thức xúc tiến xuất khẩu đúng. Qua nghiên cứu và đánh giá, có thể đưa ra xu hướng của một số thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép Việt Nam như sau :
Châu Âu, trong đó chủ yếu là các nước thuộc liên minh châu Âu chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam. Trong những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu giày dép của EU tăng lên nhanh chóng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng này là sản xuất giày dép trong các nước EU ngày càng giảm trong khi các nước EU có mức sống và sức tiêu thụ cao, vì vậy nhập khẩu giày dép từ các nước ngoài cộng đồng rất lớn. Theo số liệu thống kê nhiều năm, nhập khẩu hàng năm vào EU tăng bình quân 10%. Trong thời gian tới, EU vẫn áp dụng qui chế ưu đãi thuế quan phổ cập cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, vì vậy, EU vẫn được coi là khu vực thị trường xuất khẩu mục tiêu của giày dép Việt Nam. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu sang EU trong giai đoạn tới vẫn là giày thể thao, giày vải, giày da nam nữ, dép đi trong nhà và phát triển sản phẩm mới : giầy bảo hộ lao động, để phù hợp với xu hướng dịch chuyển sản xuất trong những năm tới.
Mỹ là thị trường nhập khẩu và tiêu thụ giày dép lớn nhất thế giới. Trong những năm vừa qua, bắt đầu từ năm 1995, giày dép Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ, song với số lượng rất nhỏ bé chiếm khoảng 0,4% tổng khối lượng nhập khẩu của Mỹ. Theo Hải quan Mỹ, năm 1997 giày dép Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đạt 85 triệu USD, năm 1998 đạt 114,9 triệu USD, năm 1999 đạt 145,8 triệu USD và năm 2000 giảm một chút đạt 124,5 triệu USD37. Đó là trước khi Mỹ dành cho Việt Nam qui chế tối huệ quốc vì vậy thuế nhập khẩu cao và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam kém hẳn so với các nước khác trong khu vực như Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc. Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực từ 12/2001, tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng quan hệ kinh tế thương mại trong đó có ngành công nghiệp giày Việt Nam. Dự kiến xuất khẩu giày dép từ Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng, các sản phẩm xuất khẩu chính vào thị trường Mỹ sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà, dép đi biển.
Một khối lượng lớn giày dép Việt Nam được xuất khẩu sang các nước Đông á như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hongkong,... Tuy nhiên, giày dép xuất khẩu sang Đài Loan, Hàn Quốc, Hongkong chủ yếu là gia công để tái xuất sang các nước khác, chỉ có Nhật nhập khẩu để tiêu thụ trong nước. Nhật trước đây hai thập kỉ là một trong những vương quốc sản xuất và xuất khẩu giày dép, thập kỉ gần đây, Nhật Bản tập trung phát triển các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, do giá nhân công cao, sức cạnh tranh ngày càng giảm, ngành công nghiệp giày dép của Nhật bị thu hẹp và hiện nay Nhật Bản trở thành quốc gia nhập khẩu giày dép lớn trên thế giới, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 400 triệu đôi giày dép các loại. Dự kiến đến năm 2010 giày dép Việt Nam sẽ tăng tỉ lệ xuất khẩu vào Nhật và các nước Đông á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà.
Ngoài các thị trường xuất khẩu chủ lực của sản phẩm giày dép Việt Nam như EU, Mỹ, Nhật Bản... giày dép Việt Nam còn được xuất khẩu sang một số thị trường khác như liên bang Nga, các nước Đông Âu, Australia,... tuy nhiên đến nay số lượng xuất khẩu sang các thị trường này còn nhỏ bé
2 định hướng và mục tiêu phát triển ngành da giày
2.1 Định hướng phát triển
Với quan điểm vươn lên, trụ vững, phát triển, hoà nhập quốc tế và khu vực, ngành da giày Việt Nam tập trung phát triển theo định hướng sau38:
- Ngành da giày định hướng phát triển trên cơ sở mục tiêu chung của nền công nghiệp là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển của ngành da giày trong tương lai và việc phân bố lại lực lượng sản xuất của ngành cũng cần phải hướng và đạt đến mục tiêu của phát triển công nghiệp.
- Khẳng định quan điểm hướng ra xuất khẩu với phương hướng chuyển mạnh từ gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm, đảm bảo nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu và tăng nhanh tích luỹ.
- Ưu tiên phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu, hoá chất, phụ tùng... phục vụ cho ngành nhằm tiết kiệm ngoại tệ, hạn chế sự phụ thuộc và tạo thế chủ động trong sản xuất kinh doanh. Trước mắt vẫn có thể kêu gọi đầu tư nước ngoài (100%) vào lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành giày, những loại mà hiện nay ta chưa thể tự sản xuất được.
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa công nghiệp thuộc da, sản xuất các phụ liệu với sản xuất giày dép và các sản phẩm từ da thuộc, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển. Tăng cường liên doanh liên kết giữa các ngành và các thành phần kinh tế trong lĩnh vực sản xuất da thuộc và sản phẩm giày, đồ da nhằm thực hiện tốt mục tiêu hàng xuất khẩu.
- Coi trọng thị trường nội địa, khai thác tối đa năng lực nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước về các mặt hàng thông dụng, trang phục, nhu cầu bảo hộ lao động và đáp ứng các nhu cầu sản phẩm công nghiệp khác.
- Chú trọng khâu thiết kế và triển khai mẫu mới vào sản xuất. ứng dụng các công nghệ tiên tiến, đổi mới thiết bị và đồng bộ hoá tạo thế chủ động trong sản xuất kinh doanh, giảm dần sự phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành cũng như mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước sau năm 2020.
- Quan tâm bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề của ngành đảm bảo tiếp thu nhanh chóng sự chuyển dịch sản xuất, sự chuyển giao kĩ thuật, công nghệ... từ các nước đã phát triển, phấn đấu làm chủ trong sản xuất.
- Chú trọng đầu tư chiều sâu để cân đối lại các dây chuyền sản xuất cho đồng bộ, bổ sung thiết bị lẻ thay thế các máy móc cũ đã quá lạc hậu, cải tạo, nâng cấp một số trang thiết bị, đổi mới công nghệ nhằm tăng sản lượng, tăng năng suất thiết bị và năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng mặt hàng, mở rộng thị trường, khắc phục ô nhiễm môi trường,...
- Ưu tiên các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư mới nhằm gia tăng công suất, đảm bảo đạt trình độ công nghệ, đáp ứng các mục tiêu trong chiến lược phát triển toàn ngành đến năm 2010.
- Trong giai đoạn tới, ngành da giày tiếp tục tham gia vào tiến trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, chịu sự phân công sản xuất, chịu sự phân công lao động, góp phần tạo ra một thị trường giày dép thế giới rộng lớn thông qua sự hợp tác chặt chẽ và cạnh tranh gay gắt. Đồng thời, các thành phần kinh tế trong ngành được khuyến khích chú trọng vào việc làm cho nhãn hiệu các loại da thuộc giày, đồ da có xuất xứ từ Việt Nam có hàm lượng kĩ thuật và hàm lượng chế biến cao (ngành quan tâm tới ứng dụng hệ thống quản lí theo tiêu chuẩn ISO - 9002), tạo cho ngành da giày có vị trí xứng đáng trên thị trường quốc tế.
2.2 Mục tiêu phát triển
Cùng với quan điểm và định hướng trên, ngành da giày cũng xác định các mục tiêu tổng quát và cụ thể như sau :
2.2.1 Mục tiêu tổng quát
- Từ năm 2001 - 2005
Giai đoạn này, trên cơ sở các mặt hàng trọng yếu của các doanh nghiệp, cần tập trung đầu tư thiết bị và công nghệ hiện đại nhằm chuyển đổi cơ bản về chất lượng, vươn lên ngang tầm khu vực và quốc tế với các hàm lượng kĩ thuật, số lượng và chất lượng ngày càng cao và đa dạng về chủng loại. Mặt khác, cần lựa chọn các mặt hàng mà Việt Nam có khả năng chiếm lĩnh thị trường. Cần tập trung đầu tư thiết kế, nghiên cứu chế thử ở các doanh nghiệp để sau 2005 ngành có thể chủ động trong sản xuất các mẫu chào hàng. Đây cũng là giai đoạn ngành cần quan tâm đầu tư bổ sung thiết bị cho các dây chuyền sản xuất giày da hiện có, để sản phẩm có thể tham gia mạnh vào thị trường xuất khẩu.
- Từ năm 2005 - 2010
ở giai đoạn này sản phẩm sản xuất phải mang tính quốc tế cao mới đáp ứng tiến trình hoà nhập. Các doanh nghiệp cần tập trung đầu tư chiều sâu tổng thể, ổn định và đưa dần các phần mềm ứng dụng vào sản xuất (ở phần thiết kế, phần may mũ giày và ở công đoạn gò ráp, công đoạn trau chuốt thuộc da... ). Tổ chức quản lí sản xuất ở các doanh nghiệp phải ứng dụng hệ thống quản lí theo tiêu chuẩn ISO - 9000. Đồng thời, chú trọng đầu tư mở rộng để có nhiều mặt hàng mới đáp ứng các mục tiêu đề ra. Sản xuất ở các doanh nghiệp đạt trình độ chuyên môn cao với qui mô lớn và mặt hàng đa dạng, phong phú. Viện nghiên cứu được phát triển đủ mạnh để đảm nhận các hoạt động liên quan tới nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, phát triển mẫu mã và đào tạo nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp.
2.2.2 Mục tiêu cụ thể
Xuất phát từ thực trạng sản xuất, xuất khẩu trong thời gian qua và định hướng, mục tiêu tổng quát thì các mục tiêu cụ thể trong thời gian tới là
Mục tiêu sản xuất giày dép, đồ da
- Hết năm 2005, toàn ngành sản xuất 390 triệu đôi giày dép các loại, xuất khẩu 350 triệu đôi, ước tính trị giá xuất khẩu vào khoảng 3,1 tỉ USD (số liệu được tính đối với cả các sản phẩm đồ da xuất khẩu)
- Hết năm 2010, sản xuất 610 triệu đôi, xuất khẩu 560 triệu đôi, ước tính giá trị xuất khẩu 4,7 tỉ USD.
Bảng 18 : Mục tiêu sản xuất giày dép đến năm 2010
Mục tiêu
Đơn vị tính
2005
2010
Giày dép các loại
1000 đôi
390.000,0
610.000.0
* Xuất khẩu
351.000,0
561.000,0
* Giày thể thao
171.600,0
265.000,0
- Xuất khẩu
161.304,0
258.086,0
* Giày vải
79.950,0
127.000,0
- Xuất khẩu
70.356,0
110.458,0
* Giày nữ
72.150,0
114.000,0
- Xuất khẩu
68.542,0
17611,0
* Giày da nam nữ
11.700,0
18.000,0
- Xuất khẩu
5.000,0
10.000,0
* Giày dép khác
54.600,0
85.000,0
- Xuất khẩu
45.798,0
74.845,0
Kim ngạch XKhẩu
Tr USD
3.100,0
4.700,0
Nguồn : Tổng công ty da giày Việt Nam
Mục tiêu sản xuất nguyên vật liệu
Để đáp ứng yêu cầu phát triển các sản phẩm da giày thì mục tiêu sản xuất một số nguyên vật liệu chủ yếu trong nước như sau :
Bảng 19 : Mục tiêu sản xuất nguyên vật liệu chủ yếu
Nguyên vật liệu
Đơn vị tính
2005
2010
Da
triệu sqft
40,0
80,0
Giả da
triệu yard
60,0
90,0
Vải các loại
triệu yard
100,0
155,0
Đế giày
nghìn tấn
370,0
550,0
Keo tổng hợp
tấn
6.652,0
10.000,0
Phụ liệu
tấn
41.325,0
98.960,0
Nguồn : dự án qui hoạch tổng thể phát triển ngành đến 2010
Để đạt được những mục tiêu trên, toàn ngành cần phấn đấu với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, cụ thể là :
Bảng 20 : Tốc độ tăng trưởng 2001 - 2010
Các chỉ tiêu
Tốc độ tăng trưởng bình quân (%)
2001-2005
2006-2010
1. Kim ngạch xuất khẩu
22,23
20,22
2. Sản phẩm chủ yếu
- Giày dép các loại
11,11
11,91
- Cặp túi xách các loại
13,00
11,22
- Da thuộc thành phẩm
33,00
20,00
3. Lao động sử dụng
9,00
8,27
4. Tỉ lệ nội địa hoá
170,00
150,00
Nguồn : Chiến lược đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành da giày đến 2010
Có thể nói rằng trọng tâm của chiến lược phát triển ngành da giày từ nay đến hết năm 2010 là nâng cao tỉ lệ nội địa hoá của sản phẩm. Một trong những mục tiêu chính của ngành là nâng tỉ lệ nội địa hoá lên 50% vào năm 2005 và 75% vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu đó thì tốc độ tăng tỉ lệ nội địa hoá phải là 170% giai đoạn 2001-2005 và 150% giai đoạn 2005-2010. Đây là một nhiệm vụ tương đối khó cho ngành giày, đòi hỏi phải thực hiện những chương trình đầu tư lớn trong lĩnh vực sản xuất nguyên vật liệu. Nhưng nếu thực hiện được mục tiêu này sẽ cải thiện đáng kể hiệu quả xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của giày dép Việt Nam.
3 các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của giày dép việt Nam trên thị trường thế giới
Trước hết cần khẳng định các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược sản xuất và xuất khẩu ngành giày Việt Nam đến năm 2010 được nghiên cứu và xây dựng trên cơ cở tận dụng lợi thế so sánh tương đối của ngành công nghiệp da giày Việt Nam và trên cơ sở những điểm yếu còn tồn tại trong ngành công nghiệp giày hiện nay cũng như trên cơ sở phân tích tình hình cung cầu trên thế giới. Mặc dù có một số lợi thế về cạnh tranh như giá nhân công lao động của Việt Nam tương đối thấp, lực lượng công nhân dồi dào có khả năng nắm bắt kĩ thuật nhanh... song nhìn chung ngành công nghiệp giày của Việt Nam còn có những vấn đề tồn tại mà chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn. Chiến lược phát triển của ngành từ nay đến năm 2010 là vẫn phải tiếp tục thực hiện phương thức gia công trong một số năm tới để nâng cao trình độ và công nghệ đồng thời tranh thủ cơ hội tìm bạn hàng, đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp, giảm dần tỉ trọng gia công, tiến tới tự chủ về sản xuất và xuất khẩu vào những năm sau 2005.
Dự báo sản phẩm giày dép trong những năm tới sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực. Hiện nay, trong bối cảnh nước ta đang chủ động hội nhập, giày dép cũng như các mặt hàng khác của Việt Nam không những phải cạnh tranh gay gắt tại thị trường nội địa mà còn phải cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra, cần thiết phải xây dựng một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy sản xuất và phát triển xuất khẩu, đồng thời có sự hỗ trợ và phối hợp thực hiện giữa nhà nước với ngành da giày.
3.1 Tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu giày dép
Để đạt được mục tiêu của ngành đến năm 2005 đạt giá trị xuất khẩu 3100 triệu USD và 4700 triệu USD đến năm 2010, một trong những giải pháp quan trọng là phát triển thị trường xuất khẩu thông qua việc cung cấp các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao.
3.1.1 Thị trường EU
Thị trường EU vẫn là thị trường chủ yếu của các doanh nghiệp ngành giày Việt Nam, hiện nay chưa bị định hạn ngạnh và được EU tiếp tục cho hưởng qui chế ưu đãi thuế quan phổ cập. Tuy nhiên, giày dép Việt Nam xuất khẩu sang EU tăng khá nhanh trong thời gian qua và đã chiếm 20% tổng khối lượng nhập khẩu vào EU. Trong thời gian tới, nếu cứ tiếp tục tăng nhanh như những năm vừa qua sẽ gặp phải những bất lợi do EU có chính sách bảo hộ ngành công nghiệp giày các nước trong cộng đồng, nếu tăng đến mức độ nào đó sẽ bị EU áp dụng hạn ngạch hoặc đưa ra khỏi danh sách các nước được hưởng ưu đãi GSP.
Ngoài ra, do làn sóng nhập khẩu giày dép rẻ tiền vào EU tăng mạnh làm mất tính cạnh tranh của giày dép trong EU, đặc biệt giày dép từ các nước châu á mà theo EU thì những nước này lại bảo hộ nền sản xuất trong nước của họ không cho xuất khẩu tràn vào thông qua biện pháp thuế. Ví dụ : thuế nhập khẩu của một số nguồn cung cấp chủ yếu vào EU như Trung Quốc thuế là 25%, Việt Nam 50%, ngoài ra, các nước này còn áp dụng một loạt các hàng rào phi thuế quan. Trong khi đó, thuế nhập khẩu giày vào EU chỉ từ 4,6 - 12%. Vì vậy, hiện nay ngành giày EU đang thúc giục mạnh mẽ và yêu cầu các nước phải nhanh chóng hài hoà thuế nhập khẩu và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và đặc biệt đối với các nước chưa phải là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ không được hưởng những ưu đãi nếu không có sự nhân nhượng.
Một yêu cầu khác của ngành công nghiệp giày EU là các điều kiện cạnh tranh phải bình đẳng và tuân thủ đúng công ước của tổ chức lao động thế giới ILO về xoá bỏ lao động trẻ em trong ngành giày và về sức khoẻ, môi trường và an toàn lao động. Trước tình hình đó, ngành công nghiệp giày Việt Nam cần có những giải pháp thích hợp trong thời gian tới, trước mắt đến 2005 cần phải :
Để có thể tiến tới sản xuất và xuất khẩu giày bảo hộ lao động, các doanh nghiệp cần nắm vững các tiêu chuẩn kĩ thuật và đáp ứng các yêu cầu về nhập khẩu do EU qui định đối với giày bảo hộ lao động. Và để tiếp tục được hưởng ưu đãi thuế quan GSP thì các doanh nghiệp ngành giày Việt Nam vẫn phải cố gắng để đáp ứng đầy đủ các qui định về tiêu chuẩn xuất xứ cũng như tăng cường nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng xu hướng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng châu Âu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Mặt khác cần tăng cường tiếp cận trực tiếp với các nhà nhập khẩu châu Âu, nhằm giảm bớt kênh trung gian, tăng hiệu quả kinh tế.
Duy trì và phát triển xuất khẩu các sản phẩm giày dép sang EU theo phương thức tăng giá trị : Trong những năm qua, Việt Nam xuất khẩu sang EU số lượng lớn giày dép (189,67 triệu đôi năm 2001) nhưng phần lớn là giày giá rẻ, giá trị gia tăng thấp. Để đạt được mục tiêu trên cần tăng cường đầu tư chiều sâu, cải tiến chất lượng, đầu tư thêm dây chuyền máy móc thiết bị sản xuất giày da nam nữ cao cấp đồng thời giảm tỉ lệ sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có giá rẻ.
Đón đầu phát triển giày bảo hộ lao động phù hợp với xu hướng của các nước Tây Âu dịch chuyển sản xuất giày bảo hộ lao động sang các nước đang phát triển. Hiệp hội da giày cần có sự tuyên truyền và hướng dẫn cho các doanh nghiệp về những qui định của châu Âu khi các doanh nghiệp muốn xuất khẩu loại giày này (bao gồm giày an toàn, giày bảo vệ, giày phục vụ chuyên ngành,... ) vào thị trường châu Âu.
Tăng cường xuất khẩu trực tiếp sang EU thông qua việc thiết lập mối quan hệ với các kênh phân phối là những nhà bán buôn và nhập khẩu EU. Thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu gia công thông qua đối tác trung gian. Xu hướng của các nhà nhập khẩu EU là mong muốn được thiết lập quan hệ buôn bán trực tiếp với các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam, vì qua trung gian, các nhà nhập khẩu EU và xuất khẩu Việt Nam bị thiệt khoảng 20 - 25%. Chính vì vậy, ngày càng nhiều khách hàng EU sang Việt Nam làm việc trực tiếp với các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam. Các doanh nghiệp nên đẩy mạnh giao tiếp trực tiếp, đáp ứng yêu cầu khách hàng.
3.1.2 Thị trường Mỹ
Hiệp định Thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực từ 12/2001, tạo cơ hội cho ngành da giày Việt Nam vươn tới một thị trường rộng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, các doanh nghiệp da giày đứng trước những thách thức lớn, đáng chú ý nhất là Trung Quốc hiện nay đang chiếm 70% thị phần nhập khẩu của Mỹ. Ngoài ra, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu làm gia công, trong khi đó các khách hàng Mỹ không đặt gia công mà mua trực tiếp FOB. Giá cả các sản phẩm không có nhãn hiệu không thể cạnh tranh với sản phẩm của các nước như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì,...
Các doanh nghiệp Việt Nam cần biết rằng Hiệp định thương mại Việt-Mỹ mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ, Mỹ không những là thị trường rộng lớn về địa lí, có nhu cầu lớn về số lượng, chủng loại sản phẩm đa dạng, kênh phân phối phức tạp mà còn là thị trường khắt khe vào loại bậc nhất. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khi vào thị trường Mỹ đều có chung điểm yếu : thiếu kinh nghiệm tiếp thị xuất khẩu và chưa thông hiểu luật pháp Mỹ.
Để có thể thâm nhập vào thị trường rộng lớn và rất mới mẻ này không phải là điều dễ dàng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, giày dép Việt Nam phải đương đầu trực diện với sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu giày vào Mỹ như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia...
Riêng Trung Quốc hiện nay đang chiếm 76,8% thị phần nhập khẩu giày dép của Mỹ, cứ 4 đôi giày phi cao su nhập khẩu vào Mỹ thì có 3 đôi là của Trung Quốc. Giá trung bình giày Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ từ 2,51 - 5 USD/đôi và là nguồn cung cấp giày rẻ nhất vào Mỹ. Việt Nam không thể cạnh tranh với Trung Quốc những sản phẩm rẻ tiền, vì vậy, nên đi vào giày cao cấp hơn hoặc đi vào những khu vực tiêu thụ chưa được khai thác mới có cơ hội vào được thị trường.
Việt Nam có tiềm năng về xuất khẩu giày vải, nhưng Trung Quốc gần như đã độc chiếm thị trường Mỹ. Vì vậy, nên lựa chọn chủng loại sản phẩm thích ứng để xuất khẩu tránh sự cạnh tranh trong khi thị trường lại có nhu cầu lớn, đó là các sản phẩm giày da nam nữ hiện chiếm tới 60% nhu cầu thị trường Mỹ hoặc giầy thanh thiếu niên.
Đa số khách hàng Mỹ không muốn đặt gia công mà họ muốn mua trực tiếp theo giá FOB, mà điểm yếu của ngành giày Việt Nam là thiếu nguyên phụ liệu để sản xuất hàng theo phương thức FOB. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam lại thiếu kinh nghiệm tiếp thị, vì vậy, thời gian đầu các doanh nghiệp nên chọn một trung gian Mỹ để bán hàng, sau khi đã tìm hiểu kĩ và có kinh nghiệm, có thể thiết lập kênh phân phối trực tiếp. Bằng cách làm như vậy sẽ an toàn và phù hợp với tình hình của các doanh nghiệp giày dép Việt Nam hiện nay.
Các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng đại lí người mua hàng thời gian đầu để qua đó xuất khẩu sang Mỹ vì đối với Mỹ việc sử dụng đại lí là phương thức rất phổ biến để thâm nhập thị trường mới.
Mỹ là thị trường có nhu cầu lớn về số lượng, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn có qui mô sản xuất vừa và nhỏ, thời gian tới các doanh nghiệp ngành giày cần xem xét đầu tư để nâng qui mô mới có thể đáp ứng yêu cầu về số lượng. Cụ thể, hiện nay số doanh nghiệp ngành giày có 2 dây chuyền sản xuất còn phổ biến, nếu cung cấp cho thị trường Mỹ phải đầu tư nâng công suất lên 3 đến 4 dây chuyền.
Ngoài việc phải nắm vững yêu cầu của thị trường Mỹ, thị hiếu người tiêu dùng, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả, xuất phát từ qui mô và mức độ phức tạp của thị trường Mỹ với những tập quán và luật lệ thương maị chặt chẽ đòi hỏi các doanh nghiệp giày Việt Nam phải có sự nghiên cứu và hiểu biết sâu sắc, thông thạo hệ thống pháp luật cùng với những yêu cầu về thuế quan.
Bên cạnh đó, muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp cần phải quan tâm đến luật về trách nhiệm sản phẩm. Theo luật này nhà xuất khẩu phải chịu trách nhiệm với người tiêu dùng về hàng hoá sản xuất và bán tại thị trường, vì vậy tuân thủ chất lượng sản phẩm cũng là vấn đề hết sức quan trọng và là trách nhiệm xã hội đối với người lao động. Ngoài ra, cần xây dựng chiến lược tiếp thị đúng mới có thể xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong một vài năm tới.
3.1.3 Thị trường Nhật
Là thị trường tiêu thụ lớn, nhập khẩu trên 400 triệu đôi giày/năm, nhưng Nhật được mệnh danh là thị trường khó tính. Người tiêu dùng Nhật luôn đòi hỏi khắt khe về chất lượng và mẫu mốt thời trang. Trong mấy năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã cố tìm cách để thâm nhập thị trường, song đến nay kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật mới đạt 4 - 5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Để có thể tăng xuất khẩu vào thị trường Nhật trong những năm tới, các doanh nghiệp ngành giày cần nghiên cứu kĩ hơn thị trường Nhật để hiểu được nhu cầu thị hiếu của người Nhật, xây dựng kênh phân phối trực tiếp với các nhà bán buôn Nhật. Kinh nghiệm cho biết người Nhật thường tiêu dùng ở mức rất cao, chất lượng và mẫu mốt thời trang đối với người Nhật quan trọng hơn giá cả. Họ không mua hàng có phẩm giá kém dù giá rẻ. Ngoài ra, việc cung cấp hàng phải đúng như mẫu đã được xác nhận và giao hàng đúng thời hạn. Việc khác nhau về phẩm chất giữa mẫu giao hàng và hàng giao thực tế sẽ làm cho người mua Nhật khó chịu nhất và có thể dẫn tới chấm dứt quan hệ buôn bán. Doanh nghiệp sẽ được coi là tuyệt vời nếu hàng được giao đúng thời hạn và chính xác như mẫu đã xác nhận. Và người Nhật mất nhiều thời gian để giám sát hàng hoá trước khi đặt hàng. Nếu doanh nghiệp tham gia triển lãm một lần và thấy phản hồi của thị trường yếu ớt thì không nên đầu hàng vội vì đối với người Nhật phải biết kiên trì chờ đợi mới bán được hàng vững chắc. Điều cơ bản là luôn luôn đáp ứng yêu cầu về chất lượng, giao hàng phải đúng như mẫu đã xác nhận, tạo dựng uy tín đối với khách hàng.
3.1.4 Các thị trường khác
Ngoài các thị trường xuất khẩu trên, ngành da giày Việt Nam nên nâng cao dần tỉ lệ xuất khẩu sang các nước ASEAN trong thời gian tới vì so với các nước ASEAN, giày dép Việt Nam tương đối cạnh tranh do giá nhân công thấp. Thêm vào đó, do gia nhập AFTA và thực hiện CEPT muộn hơn các nước ASEAN khác nên Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan trong khoảng thời gian 3 năm từ 2002 đến 2005.
Thị trường các nước Liên bang Nga, Đông Âu, Trung Đông, châu Phi cũng là những thị trường mà ngành giày dép Việt Nam cần mở rộng xuất khẩu vì các thị trường này không quá cầu kì về mẫu mã và chất lượng. Tuy nhiên, có vấn đề là tại sao hàng Việt Nam không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này. Có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân là có quá nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường, ví dụ : đối với sản phẩm có giá rẻ thì hàng Việt Nam không thể vượt qua được hàng Trung Quốc, đối với hàng có nhãn mác, chất lượng cao thì hàng Việt Nam không thể sánh được với hàng của các nước phương Tây. Ngoài ra, việc thanh toán còn nhiều bất cập, đặc biệt là đối với Liên bang Nga. Vì vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp có thể tập trung sản xuất những sản phẩm kiểu cạnh tranh như Trung Quốc, đồng thời cải thiện và khắc phục cơ chế thanh toán thì mới có khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này.
Trên đây là các giải pháp phát triển thị trường đối với ngành giày. Ngoài ra, để tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu giày dép, ngành rất cần đến sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Xuất khẩu giày dép tiếp tục có cơ hội phát triển nếu nhà nước có các chính sách vĩ mô tạo điều kiện cho các doanh nghiệp như : Nhà nước tăng cường hoạt động của đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài, là kênh để cung cấp thông tin về thị trường hàng hoá, tư vấn cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường, đặc biệt đối với các thị trường mới như Mỹ. Vai trò của đại diện thương mại tại các nước phải là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường thế giới. Trong điều kiện các doanh nghiệp ngành da giày chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện để tham gia các hội trợ triển lãm tại nước ngoài để xúc tiến xuất khẩu, đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu tham gia hội chợ triển lãm quốc tế, trưng bày giới thiệu sản phẩm, tham gia các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài đồng thời tăng cường dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp ở các lĩnh vực : cung cấp thông tin quốc tế về sản phẩm xuất khẩu, nhu cầu, thị hiếu, giá cả, xu hướng thị trường... khuyếch trương tiềm năng xuất khẩu của doanh nghiệp tại các thị trường mục tiêu. Nhà nước cũng nên thiết lập trung tâm triển lãm hàng xuất khẩu trong nước để trưng bày giới thiệu các sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của các doanh nghiệp nhằm thu hút các nhà nhập khẩu vào giao dịch, không phải mất nhiều thời gian đi từng doanh nghiệp. Ngoài ra, cần có một đầu mối cung cấp thông tin và số liệu liên quan, cập nhật, chính xác giúp các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường và sản phẩm.
3.2 Giải pháp cho sản phẩm giày dép xuất khẩu
Chú trọng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu
Sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố chất lượng và giá cả. Chất lượng cao mà giá cả cũng cao hoặc ngược lại giá cả phải chăng nhưng chất lượng tồi thì sức cạnh tranh đều kém, sản phẩm khó tiêu thụ. Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì phải có sự kết hợp đồng bộ của các cấp ngành và bản thân người lao động phải đầu tư trang thiết bị máy móc, công nghệ tiên tiến hiện đại, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường, hạ giá thành sản phẩm.
Nâng cao năng lực thiết kế mẫu mốt sản phẩm
Giày dép là một trong những mặt hàng có tính thời trang, yếu tố hợp thời trang cũng quyết định lớn tới tình hình tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm chất lượng tốt, giả cả hợp lí nhưng lạc mốt thì cũng khó cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, nâng cao năng lực thiết kế tạo mẫu mốt cho sản phẩm là một công việc rất cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Hiện nay, hầu hết mẫu giày dép thế giới đều do các hãng lớn, nổi tiếng thiết kế và đưa ra thị trường như Nike, Reebok, Addidas, Timberland... trên cơ sở mẫu của họ còn các nhà sản xuất triển khai vì chi phí thiết kế phát triển mẫu mốt rất lớn. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp nên tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ kĩ thuật triển khai mẫu mốt để có thể nhân mẫu và phát triển mẫu trên cơ sở mẫu của khách hàng để đưa vào sản xuất hàng loạt như hiện nay đang làm.
Thực hiện nghiêm chỉnh các tiêu chuẩn quốc tế
Hội nhập thị trường thế giới bắt buộc chúng ta phải tôn trọng triệt để các tiêu chuẩn quốc tế và các thông lệ mậu dịch. Trong đó những trở ngại chính trong quá trình hội nhập là vấn đề quản lí chất lượng sản phẩm, môi trường và những yêu cầu về lao động.
Để tiến tới được các tổ chức thế giới cấp chứng chỉ ISO thì từng doanh nghiệp nói riêng và toàn ngành da giày nói chung phải chú trọng tới công tác quản lí chất lượng hàng hoá bắt đầu từ khâu nhập nguyên vật liệu tới qui trình sản xuất và sau cùng là sản phẩm nghiệm thu.
Vấn đề bảo vệ môi trường được ghi thành những yêu cầu cụ thể cho các doanh nghiệp triệt để tuân theo. Để đảm bảo giày dép của chúng ta được tiêu thụ tốt trên thị trường thì các doanh nghiệp phải đầu tư hơn nữa vào cải thiện điều kiện sản xuất để không vi phạm những qui định về môi trường.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải nghiên cứu thật kĩ lưỡng và tôn trọng các tiêu chuẩn về lao động quốc tế đặc biệt là các tiêu chuẩn được qui định bởi tổ chức lao động thế giới ILO, nếu không, sản phẩm của chúng ta có thể bị từ chối hay bị tẩy chay trên thị trường do những vi phạm về lao động.
3.3 Phát triển ngành sản xuất nguyên phụ liệu
Như đã đề cập ở những phần trước, phần lớn nguyên phụ liệu làm giày phải nhập khẩu, nguồn nguyên liệu khai thác trong nước chỉ chiếm 20 - 25%. Có thể nói đây là trở ngại rất lớn cho sự phát triển của ngành làm cho các doanh nghiệp phải chịu chi phí sản xuất cao bởi nhập khẩu nguyên vật liệu cũng đồng nghĩa với việc phải chịu thuế nhập khẩu, chi phí vận chuyển và mất nhiều thời gian để cung cấp nguyên vật liệu hơn. Việc thiếu nguồn cung cấp nguyên liệu có thể dẫn đến không hoàn thành các đơn hàng dẫn đến quan hệ thương mại xấu và gây ra các thiệt hại, rủi ro cho các nhà sản xuất. Ngoài ra, cũng do không có nguồn nguyên liệu trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam thường phản ứng rất chậm trước các đơn hàng của khách hàng và nhu cầu thị trường. Thậm chí họ không biết chắc sẽ tìm loại nguyên liệu thích hợp ở đâu khi nhận được đơn hàng của khách hàng. Tuy nhiên, phát triển một ngành công nghiệp nguyên phụ liệu đòi hỏi một sự đầu tư lớn và cần tiến hành cẩn thận các bước để hợp lí hoá sản xuất nguyên liệu với yêu cầu trong nước.
Nhất thiết ngành giày phải lập một chiến lược phát triển hoàn thiện trước khi quyết định đầu tư. Kế hoạch phát triển nguyên liệu nên được tuyên truyền phổ biến đến toàn ngành để tất cả các doanh nghiệp thành viên có thể điều chỉnh kế hoạch sản xuất nguyên liệu phù hợp, không bị dư thừa nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước. Đầu tiên nên đầu tư vào sản xuất các loại phụ liệu thường xuyên phải nhập khẩu, sau đó chúng ta có thể chuyển dần sang sản xuất giả da và thuộc da.
Để tiết kiệm chi phí đầu tư vào máy móc và dụng cụ sản xuất giày, cần phải phát triển một ngành sản xuất máy móc và phụ tùng máy móc làm giày để có thể tránh chi phí cao cho nhập khẩu máy móc, phụ tùng và cần phải chủ động hơn nữa trong đổi mới công nghệ và cải tiến, hoàn thiện sản xuất.
3.4 Xây dựng lợi thế tập trung
Xây dựng khu công nghiệp tập trung
Kinh nghiệm ở các quốc gia có ngành công nghiệp giày dép phát triển cho thấy, các nước này tận dụng tối đa lợi thế tập trung để phát triển các trung tâm giày dép, không phát triển tràn lan ở các vùng, khu vực không có lợi thế. Đó là những lợi thế về hạ tầng cơ sở, gần cảng biển, gần khu dân cư để khai thác nguồn lao động. Ví dụ : tại Trung Quốc trung tâm giày dép lớn nhất ở tỉnh Quảng Đông là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thế tập trung, tiếp đó là Hàng Châu, Thượng Hải. Cạnh các trung tâm giày là trung tâm sản xuất nguyên phụ liệu và thiết kế mẫu mã nên Trung Quốc là một trong những quốc gia thành công nhất trong phát triển công nghiệp giày dép. Hoặc tại Hàn Quốc có trung tâm giày và nguyên phụ liệu Busan, thành phố cảng. Tại Đài Loan, trung tâm giày và nguyên phụ liệu là Đài Chung, gần cảng Kao Hùng.
Tại Việt Nam, qua số liệu thống kê cho thấy những vùng có vận tải biển thuận lợi và khu vực có thể thu hút nguồn lao động như thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai là những nơi có ngành giày khá phát triển, so với các địa phương khác như miền Trung chỉ có một vài doanh nghiệp giày dép nằm dọc theo miền Trung nơi cơ sở hạ tầng được xem là không thuận lợi.
Vì vậy, cần xây dựng những trung tâm sản xuất nguyên vật liệu cạnh những trung tâm sản xuất giày để vừa tiết kiệm chi phí vận chuyển, vừa giao hàng nhanh. Đối với các nhà sản xuất, càng có nhiều các nhà sản xuất tập trung ở một vùng thì lợi thế tập trung càng lớn. Xây dựng được loại thế này là cực kì quan trọng đối với cạnh tranh lâu dài của toàn ngành.
Xây dựng lợi thế qui mô
Vì phần lớn các doanh nghiệp giày dép Việt Nam có qui mô nhỏ nên họ không được hưởng lợi thế về qui mô. Khi chuyển sang phương thức xuất khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải xác định cho được một qui mô kinh doanh hợp lí để tối đa hoá lợi nhuận. Trường hợp doanh nghiệp chưa đủ vốn hoạt động, doanh nghiệp sẽ phải huy động đủ vốn để khai thác tối đa các nguồn lực. Nếu không làm như vậy, doanh nghiệp tất sẽ không có lợi thế về qui mô và sẽ giảm năng lực cạnh tranh.
3.5 Phát triển nguồn nhân lực
Lao động là một trong những yếu tố đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành da giày và đây cũng là một trong những nhân tố quyết định tác động tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm giày dép xuất khẩu. Từ trước đến nay, ngành da giày là một trong những ngành sử dụng rất nhiều lao động. Vì vậy, để có thể phát huy tối đa lợi thế của yếu tố con người, cần phải tập trung vào các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực, dưới đây xin đề cập đến một số giải pháp
Trường dạy nghề
Thực tế Việt Nam không có trường chuyên dạy nghề cho ngành giày. Hầu hết công nhân được đào tạo tại chỗ hoặc truyền kinh nghiệm. Do đó những công nhân tay nghề cao rất cần cho ngành. Đội ngũ quản lí kinh doanh và kĩ thuật bây giờ cũng đang thiếu nghiêm trọng. Số công nhân được gửi tới các trường đào tạo chỉ chiếm 20% tổng số lao động. Trong lực lượng lao động hiện tại chỉ có 70% tốt nghiệp phổ thông trung học còn lại 30% chỉ tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc tiểu học. Cũng như các ngành khác, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định của toàn ngành và của mỗi doanh nghiệp. Để có được một nguồn nhân lực có trình độ cho phát triển bền vững và lâu dài, ngành nhất thiết phải có một chiến lược phát triển nguồn lực trong đó các trường dạy nghề phải được thành lập. Nhà nước nên hỗ trợ thiết lập trường hoặc mở bộ môn chuyên ngành da giày tại trường Đại học Bách khoa để có thể cung cấp nguồn nhân lực có trình độ phục vụ cho sự phát triển của ngành.
Đội ngũ kĩ thuật
Mặc dù sau những năm dài sản xuất gia công đã đào tạo được nhiều công nhân lành nghề, đội ngũ thiết kế và làm mẫu giày vẫn đang thiếu nghiêm trọng bởi đã từ lâu quá trình này do nhân viên nước ngoài đảm nhiệm. Nếu doanh nghiệp có kế hoạch bắt kịp các thay đổi của thị trường thì đây chính là tiêu điểm của công tác đào tạo đội ngũ mà doanh nghiệp phải làm ngay.
Cần đào tạo được những công nhân có tay nghề cao; đội ngũ kĩ thuật phải có trình độ đại học, giám đốc tiếp thị và sản xuất giày dép phải được đào tạo ở trình độ trên đại học. Nếu cần thiết, có thể gửi những người có khả năng ra nước ngoài để học tập kiến thức và kĩ năng cần thiết cho ngành giày.
Doanh nghiệp có thể phối hợp với Tổng công ty da giày lập các quĩ học bổng tài trợ cho các học sinh trung học, học nghề, sinh viên xuất sắc tại các trường đại học đang làm đề án nghiên cứu phục vụ cho ngành hoặc cũng có thể phối hợp với các trường đại học kĩ thuật đưa các đề tài thực tế cho các sinh viên nghiên cứu, cung cấp kinh phí, nhận sinh viên ra trường về công tác tại các doanh nghiệp.
Kĩ năng quản lí và tiếp thị
Do làm theo phương thức gia công, các doanh nghiệp không bán sản phẩm trực tiếp trên thị trường, doanh nghiệp không thể đào tạo và phát triển một đội ngũ tiếp thị có trình độ. Trong thời gian tới, với chiến lược chuyển dần sang phương thức xuất khẩu trực tiếp, việc đào tạo đội ngũ cán bộ marketing trở thành một công việc cấp bách đối với doanh nghiệp để đảm bảo sản phẩm của mình có thể được chấp nhận và bán chạy trên thị trường. Nếu không đội ngũ quản lí và tiếp thị giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, năng động trong kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ không thể thành công trong chiến lược định hướng xuất khẩu.
3.6 Đổi mới công nghệ
Trong xu thế hiện nay, khoa học và công nghệ ngày càng có tác động quyết định đến năng suất, chất lượng và xu thế phát triển của bất cứ một ngành công nghiệp nào. Có thể nói, để đẩy nhanh sự phát triển của ngành công nghiệp giày thì vấn đề cần quan tâm hàng đầu là đổi mới công nghệ qua đó nâng cao được chất lượng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, ngành công nghiệp giày không chỉ trong một sớm một chiều mà có thể thu ngay được kết quả của việc đổi mới công nghệ. Tốc độ đổi mới công nghệ trong ngành giày không những phụ thuộc nhiều vào việc việc nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của ngành mà còn phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các ngành khác như cơ khí, tự động hoá... và do đó đòi hỏi một lượng thời gian nhất định và sự nỗ lực từ phía ngành công nghiệp giày.
Các doanh nghiệp giày Việt Nam đang rất cần những trợ giúp công nghệ để sản xuất của họ có đầy đủ khả năng trước những thay đổi về nhu cầu của thị trường. Trong khi đó, hầu như nhà nước chưa có được chính sách thoả đáng trong lĩnh vực này, Ngành giày hiện nay cần có một tổ chức chuyên về cung cấp công nghệ làm giày hiện đại. Chính phủ nên đưa công nghệ giày dép vào trong những chương trình trợ giúp kĩ thuật trong nước hoặc quốc tế. Chính phủ có thể giao cho Hiệp hội da giày mở các khoá huấn luyện cho các doanh nghiệp, khuyến khích khu vực sản xuất giày dép tư nhân.
3.7 Hoàn thiện cơ chế quản lí xuất nhập khẩu và môi trường pháp lí
Hoàn thiện hệ thống thuế : Để ngành giày dép được phát triển thuận lợi thì Chính phủ cần xem xét miễn giảm thuế nhiều hơn nữa. Các dụng cụ và linh kiện máy móc làm giày mà trong nước chưa sản xuất được cần được miễn thuế nhập khẩu. Chính phủ nên cho áp thuế suất VAT 5% đối với sản phẩm da thuộc. Các doanh nghiệp thuộc da cần được khấu trừ đầu vào 5% đối với nguyên liệu da, do phải thu mua da trôi nổi trên thị trường tự do, nên không thể có đủ chứng từ để hoàn thuế. Thuế nhập khẩu da sơ chế nên được miễn. Thuế đánh vào nguyên vật liệu đã được làm thành phẩm mà bị khách hàng trả lại nên được hoàn thuế. Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại là 32% là quá nặng đối với doanh nghiệp giày dép và nên giảm xuống ở mức thấp hơn để tạo cơ hội cho ngành tích luỹ vốn tái đầu tư.
Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp : Ngành giày rất cần đến sự ưu đãi trong các chính sách đầu tư, cho phép sử dụng vốn ngân sách, vốn ODA, bố trí vốn đối ứng từ nguồn lãi suất ưu đãi để thực hiện các dự án này, bảo lãnh vốn vay cho các chương trình nhập khẩu thiết bị trả chậm. Chính phủ cũng nên hỗ trợ đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực thuộc da, sản xuất nguyên phụ liệu làm giày và xây dựng hạ tầng cơ sở như :
- Đối với đầu tư sản xuất lĩnh vực thuộc da và cơ khí da giày được vay tín dụng đầu tư thuộc kế hoạch nhà nước với lãi suất ưu đãi đặc biệt 3%/năm, thời hạn vay 12 năm, có 3 năm ân hạn.
- Đối với dự án đầu tư các loại nguyên, phụ liệu da giày được vay 50% vốn đầu tư với lãi suất ưu đãi đặc biệt 3%/năm, 50% còn lại được vay theo lãi suất ưu đãi hiện hành.
Cải cách thủ tục hải quan : Thủ tục hải quan có ảnh hưởng lớn tới việc xuất khẩu giày dép vì mặt hàng này mang tính chất thời trang mùa vụ. Luật hải quan mới ra đời tạo nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tuy vậy, hoạt động xuất khẩu giày dép sẽ được đẩy mạnh hơn nếu sản phẩm giày dép được đưa vào danh sách mặt hàng miễn kiểm hoá hải quan, trước mắt cần có biện pháp thông thoáng khi kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu đã có uy tín nhiều năm. Các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu cung cấp cho xuất khẩu cần được hưởng chế độ ưu đãi như xuất khẩu tại chỗ. Các cụm công nghiệp da giày ngoài được hưởng những ưu đãi chung của ngành, nên được hưởng chế độ ưu đãi của khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của giày dép Việt Nam trên thị trường thế giới. Vận dụng thành công những giải pháp trên, ngành da giày sẽ có những bước chuyển biến cả về chất và lượng, tạo nên những bước tiến nhanh, mạnh, vững chắc, giày dép Việt Nam khẳng định hình ảnh của mình trên thị trường thế giới, Việt Nam trở thành một quốc gia sản xuất và xuất khẩu giày thực sự lớn mạnh.
Tài liệu tham khảo
- Chú thích về tài liệu tham khảo đã sử dụng trong khoá luận -
3, 9
12, 27
18, 30
25, 29
15, 34, 38
13,1 6, 21
22
20
4, 7, 8
35
32
10, 26, 37
5, 9, 24
23
17
11, 36
14, 28
1, 2, 6
31
33
Bản tin Công nghiệp Da giày tháng 10/11 năm 2000
Bản tin Công nghiệp Da giày tháng 03/04 năm 2002
Bản tin Công nghiệp Da giày tháng 07/08 năm 2002
Báo cáo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam
Báo cáo về chiến lược phát triển tổng thể ngành da giày Việt Nam đến năm 2010 của Tổng công ty da giày
Báo cáo về chiến lược đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành da giày Việt Nam đến năm 2010 của Tổng công ty da giày
Báo cáo về tình hình tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2000 và triển khai kế hoạch năm 2001 của Tổng công ty da giày
Báo cáo về tình hình tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2001 và triển khai kế hoạch năm 2002 của Tổng công ty da giày
Dự án nghiên cứu thị trường da giày ở các nước châu á
Niên giám thống kê năm 2000
Niên giám thống kê năm 2001
Số liệu của Hải quan Hoa kỳ
Số liệu của Liên đoàn công nghiệp giày châu Âu
Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 16/9/2002
Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 23/9/2002
World Footwear Jan/Fev 1999
World Footwear May/June 1999
World Footwear May/June 2001
www.lefaso.org.vn (trang web của Hiệp hội da giày Việt Nam)
www.leaprodexem.com.vn (trang web của Tổng công ty da giày Việt Nam)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kho¸ luËn - NguyÔn Thu Giang - Ph¸p1- K37.doc