Đề tài Định hướng và giải pháp để phát triển bền vững làng nghề La Xuyên, Nam Định

Mở rộng thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài là mục tiêu đồng thời là giải pháp thiết thực nhất để tạo bước phát triển nhảy vọt cho La Xuyên. Để làm được điều này cần: + Luôn luôn cập nhật thông tin thị trường đặc biệt là thị hiếu người tiêu dung + Chú trọng và thường xuyên đổi mới thiết kế mẫu mã, gia tăng giá trị sản phẩm trên cơ sở kết hợp nét văn hóa truyền thống, sự độc đáo và yếu tố hiện đại. + Tăng cường tiếp thị, quảng cáo sản phẩm thông qua các gian hàng trưng bày, các hội chợ, triển lãm, xây dựng các trang web giới thiệu sản phẩm, tiếp cận và thực hiện thương mại điện điện tử.

docx44 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2697 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng và giải pháp để phát triển bền vững làng nghề La Xuyên, Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là nhân tố chính thay đổi bộ mặt nông thôn ở huyện từng được coi là nghèo nhất tỉnh này. Điều này phản ánh sự tác động tích cực của đường lối chính sách đúng đắn của Nhà Nước, của tỉnh và việc áp dụng, thực thi đường lối đó ở huyện Ý Yên. Biểu hiện rõ nhất là chính sách thành lập các cụm công nghiệp tập trung: hỗ trợ vốn, đất đai cho các hộ sản xuất. Cụm công nghiệp 1 Yên Ninh hoàn thành (2003) đã tạo ra động lực mới cho sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất và hiệu quả tăng lên rõ rệt so với trước. Để làng La Xuyên cũng như các làng nghề trong huyện phát triển bền vững đòi hỏi các nhà lãnh đạo cần có sự quan tâm hơn nữa, trên cơ sở hình thành ban quản lý làng nghề riêng để hiểu rõ thực trạng và có định hướng đúng. 2.1.7. Các nhân tố khác - Địa hình – đất đai Nằm về phía đông nam huyện Ý Yên – vùng đồng bằng thấp, thôn La Xuyên có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất. - Khí hậu Khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa đông bắt đầu vào tháng 11 và kết thúc vào tháng 4 năm sau. Mùa này thường có gió mùa đông bắc đem theo không khí lạnh, mưa phùn, làm tăng độ ẩm nên ít bị hạn hán. Mùa hạ bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 10. Thời gian này thường có gió mùa đông nam gây mưa nhiều, thỉnh thoảng có bão và áp thấp nhiệt đới. Lượng mưa trung bình năm: 1200-2000mm. Nhiệt độ trung bình năm: 23,70C. Nói chung khí hậu có chỉ số cao về độ ẩm, ánh sang, thuận lợi cho sản xuất quanh năm. Tuy nhiên, mùa khô hoạt động sản xuất diễn ra đều đặn hơn so với mùa mưa do điều kiện thời tiết thuận lợi hơn, lại giáp Tết Nguyên Đán nên nhu cầu thị trường tăng cao. Song thời tiết khô hanh lại dễ làm cho đồ gỗ dễ bị rạn nứt, mất màu. Để đảm bảo độ bền chắc, ít co giãn mỗi khi thời tiết thay đổi thì trong quy trình sản xuất phải có them công đoạn luộc sấy hoặc phơi gỗ thật khô trước khi đưa vào sản xuất. - Yếu tố truyền thống – văn hóa Nghề chạm khắc gỗ đã trở thành nghề truyền thống từ bao đời nay của dân làng La Xuyên. Ai đã đến La Xuyên đều không thể quên được âm thanh rộn rã của tiếng tràng, tiếng đục. Mặc dù quá trình sản xuất đã được cơ khí hóa nhiều công đoạn, song người dân trong làng vẫn giữ lối làm ăn truyền thống: coi trọng chất lượng và chữ tín lên hàng đầu. Sự làm việc cần cù, tỉ mỉ, bàn tay phẩm La Xuyên có đặc trưng riêng: nét chạm tỉ mỉ, tinh tế, thể hiện rõ rệt nét Á Đông cũng như khiếu thẩm mỹ của người Việt Nam. Đây là nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững của làng nghề. Truyền thống yêu nghề, giữ nghề được truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau. Thế hệ trẻ trong làng nếu không được học lên cao, đều tiếp nối nghề của gia đình. Lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm gìn giữ và bảo tồn làng nghề được thể hiện rõ nét qua không khí tưng bừng ở các lễ hội của làng. Những lễ hội chính của làng: Lễ ngành nghề: được tổ chức vào ngày 6/1 Âm Lịch. Đây là dịp để những phường thợ mộc, chạm trao đổi kinh nghiệm làm ăn, kết nạp thêm những người thợ mới, phân công công việc trong một năm. Hội làng: Hội làng La Xuyên được tổ chức từ 10-15/1 hàng năm, những Tý, Ngọ, Mão, Dậu hội được mở với một quy mô lớn hơn. Ngày mở đầu dịp hội dân làng tổ chức làm lễ rước nước (lấy từ sông Sắt đoạn cầu Tào) để về tẩy trần, mở cửa thánh và nhà Phật. Kế đó là tổ chức lễ rước chân nhang từ phủ bà chúa Liễu ở Phủ Dầy (Vụ Bản). Ngày làng mở hội cũng là ngày mọi nhà làm cỗ cúng ở tổ đường, sắm hương hoa ra đình, phủ, lên chùa cầu phúc, thiết đãi bạn bè về chơi hội. Trong dịp hội, làng có tổ chức thi những sản phẩm đẹp của làng nghề truyền thống. Những sản phẩm có giá trị được đưa ra để dân làng bình chọn trao giải. Sự vinh quang đối với người thợ ở đây chính là tài tài năng của họ được cả cộng đồng công nhận. Ngoài ra còn có các ngày lễ: Ngày 8/4: Ngày giỗ An Dương Vương, Lương Bỉnh Vương – các tướng thời vua Hùng. Ngày 24/4: Kỷ niệm ngày ông tổ nghề mộc đặt chân đến mảnh đất này. Ngày 4/6: Ngày giỗ ông tổ nghề mộc. 2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ CHẠM KHẮC GỖ LA XUYÊN 2.2.1. Lịch sử hình thành nghề gỗ và làng nghề chạm khắc gỗ Theo nguồn tư liệu thì ông tổ nghề này là Ninh Hữu Hưng, quê ở xã Chi Phong – tổng Trường Yên – huyện Gia Viễn (nay là Hoa Lư – Ninh Bình). Sinh ra trong một gia đình làm thợ mộc chạm giỏi nổi tiếng cả vùng. Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước định đô ở Hoa Lư, nhà vua tuyển nhiều nhân tài trong đó có ông Hưng để giao phó cho công việc xây dựng kinh đô và ông đã được vua Định Tiên Hoàng phong chức “Công tượng lục phủ giám tướng quân”. Nhà Lê lên thay nhà Đinh. Vào năm 981, Đại Hành hoàng đế cho xây dựng lại cung thất, ông Ninh Hữu Hưng vẫn được trọng vọng như cũ. Ông lại là người có vũ dũng nên được chọn vào đội quan thiện cận bảo vệ nhà vua. Năm 991, một lần đi qua Thiết Lâm (vùng La Xuyên ngày nay), thấy ngôi miếu cổ, vua vào thăm. Đây là ngôi miếu thờ hai tướng thời Hùng Vương: An Như Vương và Lương Bình Vương nhưng thấy miếu cô quạnh, tường rêu siêu vẹo, đây lại là khu đất đẹp nhưng chỉ có dăm ba nhà lác đác ven sông. Vua đã cho ông Hưng ở lại đất này. Từ đó ông Hưng định cư ở đây và mang họ hàng đến định cư lập ấp ở hai bên bờ sông Sắt. Khi mới về đây, người dân một mặt khai khẩn đất hoang lấy đất canh tác, họ đắp đê cải tạo ruộng đồng, lấy nghề nông làm gốc. Chỉ có một số người làm nghề mộc. Dần dần khi nông nghiệp khấm khá hơn, nghề mộc phát triển. Nhiều người đến xin ông Hưng theo họ. Họ xẻ gỗ đẵn tre những thời gian nông nhàn, một số người trong làng với bộ nghề mộc đã ra đi làm cho các nhân dân làng trong vùng. Làng nghề dần dần ra đời. Số người tham gia làng nghề ngày một tăng. Từ hàng trăm năm trước đây, La Xuyên đã trở thành một làng mộc nổi tiếng gần xa. Đến đời vua Lý Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên năm Kỷ Mùi (1020) ngày 6 /4 ông Ninh Hữu Hưng mất, thọ 81 tuổi. Để tỏ long tôn kính ông, nhân dân đã dựng miếu thờ và còn cung kính rước thần vị thờ cùng các tướng thời Hùng Vương. Tại đình làng La Xuyên còn đôi câu đối: “Quy viên củ phương trí xảo do ư trưởng thương Chuẩn bình thắng trực hóa tài xuất hung chung” Dịch ra là: “Phép khuôn nghề quy củ tròn vuông, thông minh khéo bởi tay làm Chuẩn xác đều nảy mực thẳng ngang, thể chế tự nhiên, từ bụng nghĩ” Từ lâu người dân làng La Xuyên đã có câu ca: “Giai nhân con cháu cái nành Dẫu không khoa bảng cũng thành nghệ nhân” (La Xuyên trước đây có tên là Cái Nành) Trải qua nhiều thăng trầm song làng nghề La Xuyên vẫn nổi tiếng gần xa bởi tài hoa, khéo léo trong nghề chạm khắc gỗ. Giai đoạn trước năm 1954: Đây là giai đoạn phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc. Nhìn tổng thể chung, thủ công nghiệp nước ta giai đoạn này không có điều kiện để phát triển mạnh bởi các nguyên nhân: xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư Việt Nam, năng suất thu nhập từ nông nghiệp thấp, nhu cầu mua sắm nói chung nhỏ bé đã không tạo ra thị trường đủ lớn cho thủ công nghiệp phát triển, thêm nữa là chính sách cưỡng chế “công tượng” của chế độ phong kiến, chính sách kìm hãm phát triển kinh tế của thực dân Pháp. Song ở giai đoạn này cũng phải ghi nhận một thời kỳ phát triển khá mạnh của nghề chạm khắc gỗ: đó là Lý - Trần, khi mà ảnh hưởng Phật giáo vào nước ta rất mạnh mẽ. Lịch sử còn ghi lại: “Trong nhân gian từ thường quân đến thứ quâm đều nô nức đến nương cửa Phật…Nơi nào đất tốt phong cảnh đẹp là cắm đất dựng chùa, chùa chiền mọc lên như nấm từ kẻ chợ đến thôn quê”. Trong dòng chảy chung đó, người thợ La Xuyên đã từng đi xứ Đông, xứ Đoài xây dựng đình chùa, tạc tượng, chạm phù điêu: đền Trần (Nam Định), chùa Cổ Lễ, chùa Phúc Nhạc, chùa keo Thái Bình. Phương thức sản xuất của làng nghề thời kì này đơn giản, linh hoạt: Ai mướn thì đi, ai thuê thì làm, tổ chức thợ thành phường hộ chuyên môn trong đó thợ cả nắm chủ kĩ thuật một cách thàng thạo, nhận khoán công việc và trách nhiệm đôn đốc thợ bạn, thợ học nghề. Giai đoạn từ 1954 đến 1986: Sau khi hòa bình lập lại Miền Bắc có một thời gian ổn định lại tình hình, Đảng và Nhà Nước có chủ trương đưa nhân dân vào làm ăn tập thể thành lập HTX thủ công và nông nghiệp nhằm xây dựng Miền Bắc xã hội chủ nghĩa (XHCN) làm hậu phương vững chắc cho miền Nam. Năm 1960, ở Yên Ninh hợp tác xã thủ công nghiệp Đồng Tâm ra đời. Đây là hợp tác xã cấp cao do Nhà Nước quản lý chuyên sản xuất cho mậu dịch quốc doanh. Hằng năm Nhà Nước giao kế hoạch, cung cấp nguyên liệu và mẫu mã, kích thước, chất lượng cho hợp tác xã. Các hợp tác xã có trách nhiệm giao nộp đủ sản phẩm phân phối nguyên liệu, lương thực thực phẩm đến từng hộ xã viên. Trang thiết bị của thời kì này được cơ khí hóa, sử dụng điện trong sản xuất với các máy: máy vòng đẩy, máy cưa vòng, máy tời gỗ, năng suất lao động đã tăng lên đáng kể. Nguyên liệu gỗ do Nhà Nước cung cấp. Tính đến đàu những năm 80, hợp tác xã Đồng Tâm đã sản xuất một khối lượng như Liên Xô và Đông Âu. Do vây Liên Xô và Đông Âu sụp đỏ thì việc sản xuất thủ công mất hẳn thị trường tiêu thụ, dần dần giải thể. Giai đoạn từ 1986 đến nay: Nước ta thực hiện công cuộc Đổi Mới với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ chế quản lý với tiểu thủ công nghiệp có sự thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt từ khi có nghị quyết XVI (1988): “Trong nền kinh tế hàng hóa, Nhà Nước đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các đơn vị kinh tế, các cơ quan Nhà Nước không trực tiếp can thiệp vào hoạt động cơ sở mà từng bước mở rộng tạo điều kiện cho các cơ sở chủ động tiếp cận thị trường.” Năm 1988, HTX Đồng Tâm giải tán và chuyển thành HTX doanh nghiệp cổ phần. Bên cạnh hình thức tổ chức HTX doanh nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), tổ hợp, hình thức sản xuất hộ gia đình phát triển mạnh. Đặc biệt từ 2003, khi Cụm công nghiệp Yên Ninh hình thành, sản xuất làng nghề được mở rộng và thực sự hiệu quả. 2.2.2. Thực trạng phát triển làng nghề chạm khắc gỗ La Xuyên 2.2.2.1. Ngành sản xuất gỗ trong cơ cấu kinh tế làng La Xuyên Biểu đồ: Cơ cấu giá trị sản xuất làng La Xuyên năm 2007 (%) (Nguồn: Sở Công Thương Nam Định) Bảng: Giá trị sản xuất CN-TTCN xã Yên Ninh phân theo thôn (năm 2007) Thôn Giá trị sản xuất CN-TTCN (triệu đồng) Cơ cấu (%) Ninh Xá 5972 20 Trịnh Xá 4406 15 Lũ Phong 4491 15 La Xuyên 14990 50 Tổng số 29859 100 (Nguồn: Sở Công Thương Nam Định) Nhìn vào biểu đồ và bảng số liệu trên có thể thấy: CN_TTCN mà ngành chủ yếu là sản xuất gỗ đóng vai trò chủ đạo, chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế thôn La Xuyên, chiếm đến 80% giá trị sản xuất của cả thôn, chiếm 50% giá trị sản xuất CN-TTCN toàn xã Yên Ninh. Điều này khẳng định ngành sản xuất gỗ là ngành mũi nhọn, là động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế La Xuyên nói riêng và toàn xã Yên Ninh nói chung. Song có thể thấy, tỉ trọng ngành dịch vụ (bao gồm dịch vụ đời sống và dịch vụ nghề gỗ) vẫn còn thấp (mới đạt 6% năm 2007). Rõ rang ngành dịch vụ chưa phát huy hết tiềm năng hiện có và chứng tỏ sức lôi kéo của những dịch vụ ăn theo của sản xuất TTCN chưa lớn. Trong khi đó, tỉ trọng của sản xuất nông nghiệp vẫn còn lớn (10% năm 2007). Điều này cho thấy sản xuất TTCN ở La Xuyên vẫn gắn chặt với nông nghiệp – một đặc trưng ở các làng nghề Việt Nam. Do sản xuất TTCN diễn ra tại nông thôn, hoạt đông jsanr xuất nông nghiệp (chủ yếu trồng lúa) ngày nay được cơ giới hóa nhiều công đoạn, lại là sản xuất mùa vụ nên người dân làng nghề vẫn kết hợp sản xuất TTCN với sản xuất nông nghiệp. Trong những năm tới đây, cần định hướng phát triển mạnh ngành dịch vụ, tăng tỉ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, giảm tỉ trọng nông nghiệp, đa dạng hóa hoạt động sản xuất TTCN để có cơ cấu kinh tế hợp lý hơn. Trong những năm vừa qua, đặc biệt từ sau khi cụm công nghiệp Yên Ninh hoang thành (2003), ngành sản xuất gỗ La Xuyên có sự phát triển thực sự mạnh mẽ. Quy mô sản xuất mở rộng, nguồn vốn được hỗ trợ dẫn đến giá trị sản xuất liên tục tăng. Biểu đồ: Giá trị sản xuất CN –TTCN thôn La Xuyên giai đoạn 2000 - 2008 Từ năm 2000 – 2008, giá trị sản xuất CN – TTCN thôn La Xuyên tăng lên khá nhanh: tăng 1,6 lần (tương ứng tăng 6 tỉ đồng). Đặc biệt giai đoạn từ 2002 – 2007, tốc độ tăng trưởng rất cao, mỗi năm tăng 28%. Đỉnh cao là năm 2007, giá trị sản xuất CN – TTCN đạt xấp xỉ 15 tỉ đồng, đóng góp rất lớn vào nền kinh tế chung của thôn cũng như của xã Yên Ninh. Tuy nhiên cuối năm 2008, đầu năm 2009, dưới tác động của khủng hoảng kinh sản phẩm gỗ La Xuyên tiêu thụ chậm hơn năm 2007. Song thị trường của làng nghề chủ yếu là trong nước nên doanh nghiệp và người sản xuất không quá lao đao như ở làng Đồng Kỵ. Từ năm 2010 đến các tháng năm 2011 tình hình kinh doanh đang có dấu hiệu phục hồi. 2.2.2.2. Nguyên liệu Gỗ là nguyên liệu sống còn của làng nghề La Xuyên. Gỗ để sản xuất là những loại không có giác (tức là bìa, vỏ gỗ bên ngoài). Giác gỗ không được sử dụng vì hay bị mối mọt, không bền; nên phần này thường bị bỏ đi. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ: giác của gỗ lai, gỗ sưa thì tuổi thọ và chất lượng tương đương lõi. Ngoài ra, khi chọn gỗ phải chọn những cây có than thẳng đứng, ít mắt, bền chắc, dễ chạm, dễ đánh bóng. Gỗ sản xuất phải là những loại gỗ quý: gỗ gụ, trắc, mun... Gỗ gụ được sử dụng nhiều nhất do giá rẻ, chỉ chiếm khoảng 30% giá trị sản phẩm. Hàng năm La Xuyên tiêu thụ hàng nghìn m3 gỗ. Nguồn cung cấp gỗ của làng trước đây chủ yếu nhập từ Quảng Trị, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An nhưng từ khi Nhà Nước có lệnh cấm buôn bán gỗ trái phép từ nguồn nhập gỗ chuyển sang Lào nhưng nguồn cung này không ổn định. Những xưởng chứa gỗ lớn tập trung nhiều ở cụm công nghiệp. 2.2.2.3 Lao động trong nghề gỗ Ngành sản xuất gỗ mỹ nghệ La Xuyên ngày càng thu hút nhiều lao động ở nông thôn, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Biểu đồ: Cơ cấu lao động sản xuất kinh doanh của làng nghề (%) Nguồn: Sở công thương Nam Định Trong tổng số 812 hộ của cả thôn thì có 250 hộ (chiếm 31%) chuyên sản xuất TTCN, 339 hộ (chiếm 42%) sản xuất nông nghiệp kiêm CN –TTCN và chỉ có 138 hộ thuần nông (chiếm 17%), còn lại 85 hộ trong ngành dịch vụ (chiếm 10%). Như vậy, có đến 73% hộ sản xuất CN –TTCN tương đương 1001 người trong tổng số 1560 người (chiếm 64%) tham gia sản xuất TTCN, đó là chưa kể những người tham gia sản xuất dịch vụ phục vụ nghề gỗ, người già và trẻ em cũng tham gia trong nhiều công đoạn. Ngoài ra nghề gỗ của thôn còn thu hút 600 – 800 lao động từ các làng xã phụ cận tới làm thuê, gồm thợ quanh năm và mùa vụ. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực hơn tăng tỉ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng trong khu vực nông nghiệp. Người dân La Xuyên đã gắn bó lâu đời với nghề gỗ. Chính đó là yếu tố quan trọng tạo nên kinh nghiệm, tình yêu nghề của những người nghệ nhân. Ngày nay, trước những thay đổi của thị hiếu người tiêu dung các nghệ nhân ở đây lại kịp thời nắm bắt kết hợp được tài hoa của mình với nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề. Về truyền nghề, dạy nghề: chủ yếu là hình thức kèm cặp tại chỗ, truyền nghề theo kinh nghiệm, làm lâu dần thành quen. Việc nhận dạy nghề tại nhà rất phổ biến. Ngoài ra, ở La Xuyên có một trường chuyên dạy nghề: hợp tác xã Đồng Tâm, quy trình dạy khá bài bản và khoa học. Song một hạn chê về chất lượng lao động ở đây là trình độ học vấn. Đa số các thợ làm nghề, kể cả các chủ hộ lớn chỉ tốt nghiệp THCS. Điều này ảnh hưởng rõ rệt đến trình độ quản lý, khả năng khai thác thị trường, hiểu biết về luật...Do vậy, để mở rộng sản xuất, hình thành nhiều công ty cần nâng cao trình độ cho lao động ở đây. Sự phân công lao động trong làng nghề ngày càng được chuyên môn hóa sâu sắc. Ngoài các thợ trực tiếp tham gia sản xuất còn có những bộ phận chuyên lo “đầu ra” và “đầu vào”. Người già và trẻ em, phụ nữ làm công việc phụ. 2.2.2.4. Quy trình, kĩ thuật và công nghệ sản xuất a. Quy trình sản xuất Để tạo nên sản phẩm gỗ hoàn chỉnh với những nét chạm đục tinh tế cần trải qua nhiều công đoạn, từ tạo hình ban đầu đến chau chuốt hoàn thiện sản phẩm mà khâu nào cũng đòi hỏi sự cẩn trọng, khéo léo và tính kiên nhẫn của người thợ. Giai đoạn thiết kế Muốn làm được sản phẩm đẹp thì cần có bản thiết kế đẹp, chi tiết, tỉ mỉ về quy cách, hình dáng trang trí mĩ thuật. Các mẫu này có thể là những mẫu truyền thống, có thể là do khách hàng yêu cầu hoặc truyền từ hộ sản xuất này đến hộ sản xuất khác. Hiện có rất nhiều mẫu hàng của Trung Quốc, Đài Loan. Thường với các thợ giỏi, nhìn khúc gỗ, họ có thể hình dung ra làm đồ dung nào thì hợp lý. Giai đoạn sản xuất Trong giai đoạn này có 2 công việc chính: mộc và chạm khảm. Phần mộc: đảm bảo dựng tổng thể được sản phẩm trên cơ sở xử lý gỗ ban đầu một cách hợp lý và kinh tế nhất. Trong phần mộc, lại có các công đoạn sau: - Cưa gỗ khối: Dùng máy cưa lớn xẻ gỗ tròn thành các khối có kích thước nhỏ hơn. - Cưa gỗ theo hình: Gỗ khối nhỏ được vẽ định hình theo mẫu, sau đó cưa định hình sơ bộ để thuận tiện gia công tiếp. - Bào thắng, lấy mực: Gỗ đã cưa định hình được đưa vào bào phẳng và nhẵn, sau đó người thợ lấy dấu chuẩn để gia công chi tiết theo mẫu hoa văn, kiểu dáng. - Đục, cắt mộng Các chi tiết của sản phẩm được lien kết với nhau chủ yếu bằng ghép mộng. Ở khâu này, chi tiết gỗ được tạo mộng theo dấu mực chuẩn bằng đục tay hoặc một số máy cầm tay. Đục mộng bằng tay thường tiến hành với các chi tiết nhỏ, phức tạp đòi hỏi sự khéo léo của người thợ. - Dựng khung sơ bộ. Sản phẩm sau khi đã được đục, cắt mộng sẽ ghép nối với nhau để dựng thành khung sơ bộ nhằm chỉnh sửa hình dáng và khắc phục khuyết tật trước khi tiến hành khâu hoàn thiện bề mặt. Khi dựng khung, người ta kết hợp cả ghép mộng và gắn keo để liên kết các chi tiết. Phần chạm khảm: có thể được tiến hành trước khi dựng khug sơ bộ vì khi các chi tiết gỗ tách rời dễ tiến hành chạm hơn. - Chạm: Đây là quá trình người thợ tạo hình trên gỗ. Với nhiều loại đục khác nhau, người thợ chạm những đường nét hoa văn theo một cách tỉ mỉ, tinh tế. Thường người thợ chạm những cảnh theo tích xưa. Sauk hi tạo hình xong sản phẩm sẽ được cạo, gọt chỉnh sửa các đường nét cho mềm mại. - Khảm trai: Đây là công đoạn gắn các vỏ trai đã được chọn lưa, cắt gọt tạo nên sản phẩm tạo nên những hình thù sinh động, tạo nên vẻ sang trọng, huyền bí. Sauk hi phần mộc và chạm đã hoàn thành, công việc cuối cùng là đánh vecni, phun sơn để tăng độ bóng, bền đẹp của sản phẩm. Thời gian hoàn thành một sản phẩm tùy thuộc loại sản phẩm, vài ngày hoặc có khi kéo dài hàng tháng. b. Kĩ thuật và công nghệ sản xuất Công cụ sản xuất của làng nghề La Xuyên trước đây chủ yếu là thô sơ, phần lớn do người lao động sáng tạo. Những năm gần đây, các hộ gia đình, các hộ gia đình, doanh nghiệp đã có sự đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị khá nhiều. Đó là việc thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa trong sản xuất của làng nghề. Những công việc như: xẻ, rọc, cắt, đục, bào, lấy nền đã được thực hiện bằng máy, ngay cả đánh giấy ráp cũng có thể thực hiện bằng máy rung giấy ráp. Riêng máy cưa lớn (60 triệu/cái), cả làng có khoảng chục hộ đầu tư máy và xẻ gỗ cho cả làng. Điều này giải phóng một phần công lao động của người thợ, tạo ra năng suất cao gấp 3-5 lần so với trước. Tuy nhiên đối với sản phẩm gỗ mỹ nghệ, các công đoạn sản xuất không thể cơ khí hóa hoàn toàn, đặc biệt là công đoạn chạm. Do vậy, kĩ thuật, công nghệ sản xuất của làng hiện nay là bán cơ khí. Quy trình sản xuất nhiều công đoạn, sử dụng nhiều loại máy móc khác nhau, do vậy phải có vốn rất lớn mới có thể sở hữu tất cả các loại máy móc. Ngoại trừ một số hộ ông chủ hoặc các doanh nghiệp trang bị khá đầy đủ máy móc còn đa phần các hộ trong làng ở một số công đoạn phải thuê một số hộ có máy, chuyên làm một công đoạn của quy trình sản xuất. Tuy nhiên một tình trạng thường gặp ở làng nghề là do tai nạn máy móc gây ra. Cơ khí hóa, điện khí hóa trong sản xuất là bước phát triển nhảy vọt trong sản xuất của làng nghề. Tuy nhiên, đầu tư máy móc, trang thiết bị phải phù hợp điều kiện vốn, mặt bằng sản xuất, trình độ tiếp cận công nghệ, an toàn lao động cho người dân cũng như đảm bảo tính kinh tế, môi tường và vẫn giữ được nét độc đáo cuả sản phẩm. Điện Điện Cưa gỗ khối, (Máy cưa) Mùn cưa, tiếng ồn, bụi Cưa gỗ theo hình Mùn cưa, tiếng ồn, bụi Điện Điện Keo, cồn Điện Bào thắng, lấy mực (máy bào) Đục, cắt mộng Dựng khung sơ bộ Chạm Phoi bào, tiếng ồn Phoi bào, tiếng ồn Hơi keo, gỗ vụn Gỗ vụn, tiếng ồn Điện, keo, cồn, giấy ráp Làm nhẵn, sửa khuyết tật (máy đánh giấy ráp) Bụi, tiếng ồn, giấy ráp, hơi keo Vỏ trai, keo ồn Khảm trai Vỏ tra thừa, hơi keo cồn Sơn, vecni Phun sơn, đánh vecni (chổi quét, máy sơn) Hơi sơn, hơi vecni Sản phẩm Gỗ tròn Chất thải Sơ đồ: Quy trình sản xuất một sản phẩm gỗ 2.2.2.5. Tổ chức sản xuất – kinh doanh a. Các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh Trong thời kì bao cấp, làng nghề truyền thống được tập thể hóa thành HTX. Lúc đó sản xuất nông nghiệp là chính còn các nghề thủ công là phụ. Người dân tự tổ chức thành các đội ngành nghề, được chấm công như lao động nông nghiệp. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, các HTX kiểu cũ tan rã, đội ngành nghề không còn tồn tại. Sản xuất trong làng nghề được trở về với mô hình truyền thống vốn có là hộ gia đình. Bình quân mỗi hộ gia đình có số vốn lưu động từ vài trăm đến vài tỉ đồng. Với mô hình sản xuất này, hầu như tất cả các thành viên của gia đình đều được huy động vào những công việc khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc biệt từ 1990 đến nay, sau khi Luật tư nhân được thi hành, nhiều chủ hộ có năng lực đã thành lập các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân với nhu cầu lao động lớn. Nhà Nước có cơ chế thông thoáng: “Nhà Nước quản lý các xử lý các xí nghiệp ngoài quốc doanh thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh, thông qua chế độ thuế và các chính sách khác. Cơ quan chính quyền các cấp không được giao các chỉ tiêu pháp lệnh cho những đơn vị kinh tế này, những đơn vị nào có sản phẩm xuất khẩu thì được quyền sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vật tư và thiết bị.” “Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp dù là quốc doanh, tập thể cổ phần đều là chủ thể sản xuất hàng hóa, tồn tại trong hệ thống nhất định như một cơ thể sống vận động trên thị trường, lấy thị trường làm môi trường sống của mình”. Do vậy, làng nghề có động lực mới để phát triển. Hiện nay, ở làng nghề La Xuyên có các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh sau: Hộ gia đình, HTX, các công ty, doanh nghiệp. Bảng Số cơ sở sản xuất kinh doanh gỗ mỹ nghệ tại thôn La Xuyên Tổ chức sản xuất kinh doanh Năm 2007 HTX 1 Công ty TNHH 9 Doanh nghiệp tư nhân 10 Hộ gia đình 635 (Nguồn: UBND xã Yên Ninh) Hộ gia đình Là đơn vị sản xuất, một đơn vị kinh tế và cũng là một đơn vị sinh hoạt. Các thành viên trong gia đình đều có chung một cơ sở kinh tế, có chung sở hữu đối với tài sản dung cho sinh hoạt và đối với tư liệu sản xuất. Thành quả chung của gia đình thể hiện qua tổng thu nhập đều được tiêu dùng chung. Đây vẫn là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến và phù hợp nhất ở làng nghề La Xuyên. Hợp tác xã Ở làng nghề La Xuyên hiện nay có 1 HTX là HTX thủ công – một HTX cao cấp do Nhà Nước quản lý, chuyên sản xuất cho mậu dịch quốc doanh. Sau đổi mới, do không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường, HTX Đồng Tâm giải thể. Dưới sự chỉ đạo của huyện ủy, UBND huyện và phòng công nghiệp huyện, HTX Đồng Tâm đã trở thành doanh nghiệp cổ phần do các xã viên tự đóng góp vốn, xây dựng định hướng hoạt động sản xuất. Hiện nay ngoài sản xuất kinh doanh đồ gỗ, HTX còn liên kết với trường dạy nghề Trung Ương tuyển sinh và dạy nghề. Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH Đây là hình thức tổ chức sản xuất có thể phát triển ở nơi có trình độ tập trung hóa cao, có quan hệ rộng với các thị trường, có khả năng và yêu cầu đổi mới công nghệ để mở rộng quy mô sản xuất, phải đăng ký cấp phép hoạt động bởi Nhà Nước. Các hình thức này được phát triển từ một số tổ chức sản xuất hoặc hộ gia đình có tiềm lực khá, có trình độ tổ chức và khả năng tiếp cận thị trường. Hiện tại, cả thôn La Xuyên có 19 công ty, doanh nghiệp hoạt động khá hiệu quả. Trong tương lai, hình thức này sẽ tăng về số lượng và quy mô sản xuất. b. Các mô hình sản xuất TTCN Hộ tự sản tự tiêu Hộ tự sản tự tiêu chiếm số lượng lớn nhất. Đây là những hộ tự sản xuất hàng TTCN, tự hạch toán chi phí lỗ lãi và tự tìm nguồn tiêu thụ cho mình. Trong 80 hộ được điều tra thì số hộ tự sản tự tiêu chiếm đến 80%. Đặc trưng cơ bản của nhóm hộ này là: quy mô sản xuất mang đậm tính chất gia đình, độc lập sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chỉ thuê làm một số công đoạn sản xuất do gia đình không có máy móc, không thuê lao động hoặc nếu thuê bình quân chỉ 1-2 người/hộ. Một số hộ còn khoán sản phẩm cho 1 – 2 hộ khác khi hàng nhiều, không làm kịp. Trong các hộ này hình thành chuyên môn hóa một sản phẩm nào đó: chuyên sản xuất lèo cánh tủ, chuyên sập gụ tủ chè, chuyên làm hàng lưu niệm, chuyên tạc tượng...Hình thức tiêu thụ sản phẩm khá đa dạng: khách quen, khách vãng lai tìm đến chọn lựa sản phẩm ưng ý hoặc đặt hàng, đổ cho các đại lý ở Nam Định, Hà Nội... Thuận lợi lớn nhất của các hộ tự sản tự tiêu chính là lãi suất lớn do không phải trả tiền công thợ, tận dụng được lao động trong gia đình và đặc biệt có điều kiện truyền hết kinh nghiệm cho con cái. Hạn chế: sản xuất nhỏ hẹp, không đủ tư cách pháp nhân để ký các hợp đồng lớn. Các hộ tự sản tự tiêu cũng nhận hàng về làm trong những lúc rỗi việc hoặc hàng của nhà bán chậm. Hộ làm thuê Có 2 hình thức là hộ đi làm thuê và hộ nhận làm thuê. - Hộ đi làm thuê Đây là các hộ mà lao động của gia đình đến làm thuê tại xưởng của các công ty, doanh nghiệp hoặc các hộ sản xuất có quy mô lớn trong làng. Số hộ này rất ít. Thuận lợi của các hộ đi làm thuê là thu nhập tương đối ổn định trong năm, phù hợp với điều kiện gia đình có vốn, nhân lực ít. Khó khăn: phụ thuộc vào tình hình sản xuất của chủ hộ, chủ doanh nghiệp, khó khăn cho việc truyền nghề cho con cái, thu nhập thấp. - Hộ nhận làm thuê: Đây là những hộ gia đình có đủ máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất hàng TTCN, có lao động nghề mộc, có xưởng sản xuất nhưng họ khó khăn trong việc tìm nguồn tiêu thụ sản phẩm. Cũng có thể đây là những người mới lập gia đình, có tay nghề nhưng ít vốn, không muốn đến xưởng làm thuê vì bó buộc. Các hộ nhận làm thuê cũng có thể là những hộ chuyên môn hóa một công đoạn sản xuất do có máy móc: chuyên lộng, chuyên chạm, chuyên xẻ gỗ...Những hộ này khi nhận nhiều hàng lại khoán cho các hộ khác hoặc thuê thêm lao động. Điều này phản ánh tính chất đa dạng về tổ chức sản xuất của làng nghề. Thuận lợi lớn nhất của những hộ này là không phải lo đầu ra của sản phẩm, có công việc khá ổn định vì họ có thể nhận hàng của nhiều cơ sở khác nhau. Tuy nhiên, trong các hộ được điều tra thì chỉ có 10% số hộ nhận khoán sản phẩm vì nhận khoán phụ thuộc vào chủ hộ, lợi nhuận thấp và khi ra kinh doanh độc lập gặp nhiều khó khăn. Hộ ông chủ, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân Mô hình ông chủ, tổ hợp sản xuất, công ty, doanh nghiệp, được xếp vào một nhóm bởi những đặc điểm tương đồng trong phương thức sản xuất TTCN. Rõ rệt nhất là họ không trực tiếp tham gia sản xuất mà tập trung việc nguồn tiêu thụ và giám sát các hộ nhận khoán sản phẩm cũng như các hộ làm thuê tại xưởng. Mô hình ông chủ, công ty TNHH, doanh nghiệp chỉ khác nhau ở tư cách pháp nhân của họ trước pháp luật. Mô hình ông chủ đã xuất hiện từ lâu còn công ty TNHH, doanh nghiệp gần đây mới thực sự phát triển mạnh. Tổng số vốn của 3 loại hình này rất lớn: hàng trăm triệu đến hàng tỉ đồng. Ba mô hình này có rất nhiều ưu điểm, đặc biệt là các công ty TNHH, doanh nghiệp. Nhờ có vốn lớn, máy móc được đầu tư, quy trình sản xuất được cơ khí hóa, chất lượng sản phẩm được đảm bảo trước pháp luật và nhờ vào các công ty doanh nghiệp, sản phẩm nơi đây có thể cạnh tranh dược với sản phẩm khác trên thị trường. Bên cạnh đó, sự hình thành phát triển của loại hình này đem lại cho ngườu dân một cách nhìn mới. Các hộ nhận khoán sản phẩm từ các loại hình này được tiếp xúc với cách thức sản xuất mới nhất, được trao đổi kinh nghiệm. Đối với các hộ không nhận khoán sản phẩm, họ có cơ hội nhận thức nhận thức được sự phát triển của nghề mộc quê mình, từ đó tìm hướng đi phù hợp với gia đình. Việc hình thành công ty, doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất giúp địa phương dễ dàng quản lý sản xuất làng nghề cũng như thành lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cho làng nghề nông thôn. Hiện nay ở La Xuyên có 19 công ty, doanh nghiệp đang hoạt động rất hiệu quả. Các công ty doanh nghiệp được tập trung tại CCN để dễ dàng mở rộng quy mô sản xuất, trưng bày sản phẩm. Doanh thu mỗi năm của công ty doanh nghiệp lên tới 35 – 40 tỷ đồng, giải quyết được việc làm cho hàng nghìn lao động. Bảng Một số doanh nghiệp, công ty TNHH tiêu biểu của làng nghề La Xuyên Doanh nghiệp Số lao động (người) Doanh thu (triệu đồng) Công ty Hiền Oanh 82 9.820 Công ty Công Trang 81 7.930 Công ty Đức Sơn 35 3.743 Công ty Trường Thanh 29 1.750 Doanh nghiệp Vĩnh Cửu 33 3.782 Doanh nghiệp Dương Thanh Sơn 32 1.523 Doanh nghiệp Anh Tuấn 22 2.405 Nguồn: UBND xã Yên Ninh Trong làng hiện còn nhiều hộ Ông chủ, quy mô sản xuất lớn, hoàn toàn có thể thành lập các công ty, doanh nghiệp nhưng do còn lo ngại một số vấn đề về trình độ quản lý, sức cạnh tranh, luật kinh tế... nên họ vẫn giữ lối làm ăn cũ. Trong 80 hộ điều tra, có 9 hộ Ông chủ, chiếm 11% tổng số hộ. Điều này cho thấy còn rất nhiều hộ có tiềm năng để trở thành các doanh nghiệp và công ty lớn. 2.2.2.6. Phân bố hoạt động sản xuất – kinh doanh Tổng số hộ sản xuất kinh doanh của làng nghề là 635 hộ và 19 công ty, doanh nghiệp. Về phân bố: - Các hộ sản xuất kinh doanh tập trung nhiều nhất ở xóm Quyết Phong - Các công ty, doanh nghiệp tập trung ở cụm công nghiệp. Là một làng nghề truyền thống, việc tìm hiểu, mua bán sản phẩm diễn ra ngay tại làng nghề, tại chính nơi sản xuất của các hộ. Do vậy yếu tố vị trí đại lý để khách hàng có thể dễ dàng tham quan đã trở nên quan trọng buổi hiện nay. Do vậy, CCN ngay đầu làng nơi tập trung các công ty, doanh nghiệp với vị trí thuận lợi, đường xá rộng rãi là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh sôi nổi nhất. Vào trong làng, các hộ buôn bán kinh doanh tập trung ở hai bên trung trục đường chính. Bảng Phân bố các công ty, DN, hộ sản xuất kinh doanh làng nghề La Xuyên Xóm Công ty, doanh nghiệp Hộ sản xuất Hộ kinh doanh Quyết Phong 0 166 20 Hùng Thắng 0 161 18 La Tiến 0 134 15 CCN 19 109 12 CCN mà người dân trong làng gọi là “xóm Công nghiệp” chính xác là cụm công nghiệp Yên Ninh I. Sauk hi có quyết định số 132/2000/QĐ –TTg của chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Tỉnh Nam Định đã chỉ đạo các huyện xây dựng CCN vừa và nhỏ trong đó xã Yên Ninh sẽ xây dựng 2 CCN: Yên Ninh I ở tại làng La Xuyên được xây dựng trước và hoàn thành vào năm 2003 với diện tích là 6,2 ha và có nhà điều hành riêng. CCN hình thành với chính sách ưu đãi về thuê đất, cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ trong xã muốn mở rộng sản xuất. Các hộ ra CCN đều có nhà rộng rãi (từ 500m2 trở lên). CCN chính là một “lien làng công nghiệp” tạo thế phát triển cho cả xã. Riêng La Xuyên có 124 hộ đã ra cụm công nghiệp trong đó có 73 hộ, nằm trên phần đất giãn dân trước đây và 19 công ty doanh nghiệp. CCN hình thành rất phù hợp với điều kiện sản xuất ở làng nghề, là hình thức biểu hiện của khu công nghiệp, nơi tập trung sản xuất nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường, tạo cơ sở hạ tầng tốt hơn cho phát triển sản xuất kinh doanh công nghiệp, thúc đẩy tiến bộ khoa học – công nghệ trong sản xuất kinh doanh cũng như giải quyết nhiều việc làm hơn cho lao động nông thôn. Hiện nay, CCN Yên Ninh II 12 ha đang được hình thành, năm ngay phía Bắc đường 10. Đây sẽ là cơ hội phát triển mới cho sản xuất của toàn xã Yên Ninh, đem lại diện mạo mới cho vùng quê này. 2.2.2.7. Sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm Sản phẩm Hàng năm làng nghề La Xuyên đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm lớn với các mặt hàng ngày càng đa dạng, phong phú. Trước đây, người thợ La Xuyên tạc tượng, chạm phù điêu, đi khắp nước tôn tạo xây dựng đình, đền, chùa...Đến nay, để phù hợp với thị hiếu người tiêu dung, người thợ La Xuyên chủ yếu sản xuất sập gụ, tủ chè, salon – đồ nội thất cao cấp. Sập gụ tủ chè được coi là “linh hồn” của La Xuyên. Tủ chè là loại tủ truyền thống của ngời Việt. Tủ thường có kích thước phù hợp với mỗi gia đình, vừa dung để đựng các đồ vật quý, vừa để trang trí nội thất. Tủ có bệ và lèo chạm khắc, hai cánh khảm trai các tích cổ để trơn. Do đó nhìn tổng thể, tủ chè là một trong những đồ nội thất có bố cục chặt chẽ, hài hòa, cân đối. Đề tài được trang trí trên hai cánh tủ rất đa dạng, nội dung phong phú, phần lớn là những cảnh trong các tích Trung Quốc, cũng có một số ít là đề tài lịch sử và truyện cổ Việt Nam. Kèm theo minh họa thường có thơ hoặc chữ để thuyết minh. Đi cùng với tủ chè có sập gụ. Đây là loại đồ được đóng bằng gỗ gụ, các bộ phận được ghép với nhau bằng các mộng, chéo, đóng sập từ trên xuống. Loại mộng này là một trong những kỹ nghệ đặc biệt của người La Xuyên (mộng có tác dụng là khi vật dung càng chịu lực nặng từ phía trên thì càng bén sát, khớp khít, chẳng bao giờ bị long hoặc choãi ra như mộng ngang). Bốn chân sập có dáng như người quỳ nên gọi “sập chân quỳ”. Nét độc đáo của sập gụ, tủ chè La Xuyên chính là nhiều các chi tiết chạm trổ cầu kỳ, có hồn, sống động trên một chất liệu gỗ bền chắc. Thêm nưa, sản phẩm gỗ La Xuyên thuần Việt từ phom dáng, kích cỡ cũng như kỹ thuật, kỹ xảo đến đề tài trang trí. Ngoài sập gụ tủ chè người thợ La Xuyên còn tạc tượng, làm đồ lưu niệm... Trong mỗi nhóm sản phẩm lại có nhiều loại khác nhau, tùy theo chất lượng, kiểu dáng, giá thành sản phẩm. Về kiểu dáng: tủ lại chia ra: tủ 2 buồng, tủ 3 buồng... Sập lại có các loại: sập ba bong, sập cây cổ, sập cây dậm... Về giá thành: + Loại rẻ tiền: từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng + Loại trung bình: 10 – 20 triệu đồng + Loại đắt: vài chục đến hàng trăm triệu đồng. Thị trường tiêu thụ Trước đây, khi Liên Xô chưa tan rã, hàng của làng được xuất nhiều sang 6 nước Đông Âu. Khi thị trường đó không còn, hầu hết cơ sở sản xuất trong làng phải chuyển sang thị trường Đài Loan và một số nước láng giềng: Lào, Thái Lan với số lượng hạn chế. Những năm gần đây, khi đời sống nhân dân trong nước được nâng lên, với những ưu điểm của mình, sản phẩm có nhu cầu lớn. Theo khảo sát gần đây, do một công ty tiến hành ngẫu nhiên tại 210 hộ gia đình của 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Phú Thọ, Quảng Ninh, TP HCM thì mức tiêu thụ sản phẩm đồ gỗ gia dụng và trang trí nội thất bình quân là 3 triệu đồng/hộ gia đình Việt Nam là tương đối lớn. Thị trường chính của làng nghề La Xuyên là nội địa, đơn đặt hàng từ khắp cả nước nhưng chủ yếu là các tỉnh phía Bắc. Sản phẩm La Xuyên có xuất khẩu nhưng không xuất khẩu trực tiếp, phải thông qua tổ chức khác. Tại TP Nam Định có hai công ty TNHH là Hoa Phương và Lệ Phương là hai cơ sở gom hàng tại La Xuyên có xuất khẩu sản phẩm đi Trung Quốc và Đông Âu. Hiện nay, ngoài 19 công ty, doanh nghiệp và các hộ ông chủ có các điểm trưng bày giới thiệu và bán hàng tại nơi sản xuất, ký kết các hợp đồng lớn còn các hộ gia đình vẫn bán hàng theo phương thức truyền thống: thông qua mai mối từ khách quen, nghe danh tiếng, khách tự tìm đến. Ngoài ra, trong cả nước nói chung cũng như tỉnh Nam Định nói riêng ngày càng có nhiều hội chợ triển lãm. Đây là những dịp tốt để người thợ La Xuyên quảng bá sản phẩm của mình. Tuy sập gụ, tủ chè được coi là linh hồn của làng nghề La Xuyên nhưng cơ cấu sản phẩm bán ra thì đứng đầu là bàn ghế (chiếm 40%), sập gụ (20%), tủ và giường (15%), 25% là các loại khác như (hàng lưu niệm, tượng...). Bảng: Một số sản phẩm chính của làng nghề La Xuyên (bộ) Sản phẩm Năm 2005 Năm 2007 Bàn ghế 2380 2543 Sập ghụ 1190 1210 Giường, tủ 894 907 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG 2.3.1. Thành tựu Với sự hoạt động bền vững trong nhiều năm qua, nghề gỗ La Xuyên đã tạo ra hiệu quả cao về kinh tế xã hội của làng cũng như xã Yên Ninh. Trước đây, có thể thấy giá trị sản xuất của làng nghề tăng khá nhanh và ổn định và là nguồn thu nhập chính của người dân nơi đây. Theo Phòng công nghiệp huyện Ý Yên, làng nghề La Xuyên là một trong ba làng nghề có giá trị sản xuất cao nhất, chiếm 10% giá trị sản xuất của 27 làng nghề trong huyện. Sự phát triển, lan tỏa mạnh mẽ của nghề gỗ La Xuyên là động lực làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, của xã theo hướng công nghiệp hóa. TTCN trở thành ngành chính của làng chiếm 80% cơ cấu kinh tế, nâng tỷ trọng dịch vụ lên 75% và tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống còn 25% toàn xã. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của thôn, xã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Hiện nay, số hộ thuần nông chỉ 138 hộ, chiếm 17% tổng số hộ. Số hộ phi nông nghiệp tăng, chiếm 50% tổng số hộ. Thu hút gần 2000 lao động, nghề gỗ La Xuyên đóng góp không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu lao động của toàn xã mà biểu hiện rõ nhất sự gia tăng và đi vào ổn định của lao động tham gia hoạt động sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh của xã Yên Ninh trong những năm vừa qua: Biểu đồ: Tốc độ tăng trưởng lao động công nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn xã Yên Ninh (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ý Yên) Nhìn biểu đồ có thể thấy số lao động sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ở xã Yên Ninh tăng khá nhanh, từ 2000 đến 2007 tăng 3,65 lần, trung bình một năm tăng: 52%. Đặc biệt từ 2001 đến 2007 tăng 1411 ngời tức là tăng 247%. Từ 2003 đến nay, sau khi cụm công nghiệp Yên Ninh hoàn thành, số lao động sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh có tăng song tăng chậm và tương đối ổn định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhờ nghề gỗ, thu nhập của người dân tăng lên rõ rệt. Bình quân thu nhập của người thợ La Xuyên là 11 – 12 triệu đồng/người/năm, thu nhập bình quân đầu người của thôn là 6 – 7 triệu đồng/người/năm, cao hơn hẳn mức bình quân của huyện Ý Yên. Thu nhập từ sản xuất TTCN cao gấp 3 – 4 lần so với sản xuất nông nghiệp nên trong hầu hết các hộ kiêm CN – TTCN thì sản xuất TTCN đã trở thành ngành chính. Đời sống của dân cư trong làng được cải thiện rõ rệt. Cơ sở hạ tầng nông thôn và tiện nghi của các gia đình được trang bị khá đầy đủ. Nhờ có thu nhập ổn định người dân trong làng đầu tư nhiều hơn cho con cái học hành, kết quả học tập cải thiện đáng kể: số học sinh đỗ Đại học, Cao Đẳng ngày càng tăng. Tỷ lệ hộ nghèo trong xã giảm đáng kể, chỉ còn 4,6%. Nghề gỗ lan tỏa ra nhiều thôn làng trong cả huyện, đặc biệt những làng xã lân cận. Những người qua học nghề ở La Xuyên đã về làng làm nghề, mặt khác nhiều người lại từ La Xuyên mang nghề đi các nơi khác lập nghiệp. Điều đó cho thấy sức sống mãnh liệt của nghề gỗ La Xuyên. 2.3.2. Khó khăn, thách thức - Đa phần các hộ cá thể trong làng thiếu vốn. Do họ không đủ tài sản để thế chấp vay vốn ngân hàng. Lãi xuất của ngân hàng khá cao so với lãi xuất kinh doanh, thủ tục vay tiền phiền hà mà thời hạn vay lại ngắn. Do thiếu vốn nên các cơ sở sản xuất không có điều kiện để đầu tư mua sắm trang thiết bị, công nghệ mới, khó khăn cho việc mở rộng sản xuất. Vốn đầu tư cũng là nhân tố quyết định trong việc quy hoạch làng nghề La Xuyên thành một điểm du lịch. - Thị trường: bao gồm thị trường đầu ra và thị trường đầu vào. Thị trường đầu vào:Gỗ là nguyên liệu chính của làng nghề nhưng nguồn nguyên liệu này ngày một cạn kiệt, thêm vào đó là việc khai thác bừa bãi và chưa có quy hoạch tổng thể của vùng nguyên liệu. Qua nhiều kênh trao đổi, giá gỗ về tới các hộ sản xuất rất cao, giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Các hộ luôn bị động về nguồn gỗ. Thêm nữa trong nhu cầu tiêu dung của khách quốc tế, yêu cầu chứng chỉ rừng (FSC) thì đây là nguy cơ lớn nhất cho sự phát triển làng nghề trong những năm tới nếu mở rộng thị trường ra nước ngoài. Thị trường đầu ra: sản phẩm gỗ La Xuyên ngày càng bị cạnh tranh gay gắt bởi hàng trăm làng nghề gỗ trong cả nước và các đồ nội thất chất liệu không phải gỗ, trong khi đó sản phẩm của làng nghề chưa có thị trường xuất khẩu thực sự. Điều này càng quan trọng trong thời điểm khủng hoảng kinh tế hiện nay. Vấn đề này lien quan mật thiết đến dịch vụ tiêu thụ sản phẩm: quảng bá, xây dựng điểm trưng bày, giới thiệu sản phẩm, lien quan đến hiểu biết, nhanh nhạy nắm bắt thông tin thị trường của người thợ La Xuyên. Rõ ràng dịch vụ tiêu thụ sản phẩm làng nghề còn rất nhỏ bé. La Xuyên là làng nghề xuất hiện sớm, trước cả làng gỗ Đồng Kỵ, nhưng không nhộn nhịp bằng Đồng Kỵ. Lý giải điều này, có người cho rằng: vị trí địa lý của La Xuyên kém thuận lợi hơn so với Đồng Kỵ nhưng nguyên nhân chính phải nói đến sự năng động của người thợ Đồng Kỵ hơn hẳn so với người thợ La Xuyên. Họ sớm cải tiến mẫu mã, kiểu dáng phù hợp với thị hiếu người tiêu dung và sản phẩm của họ đã vươn ra nhiều nước đã tiến ra thế giới. Một thị trường rất lớn mà làng nghề La Xuyên chưa khai thác đó là du lịch – đây cũng là thị trường bỏ ngỏ của hầu hết các làng nghề tỉnh Nam Định trong khi làng nghề mộc La Xuyên là một điểm du lịch rất có tiềm năng. - Về chất lượng nguồn nhân lực làng nghề: Về tay nghề: người thợ La Xuyên chủ yếu dạy nghề thông qua truyền kinh nghiệm, kèm cặp tại nhà chứ không qua trường lớp đào tạo khoa học và bài bản, do vậy khó khăn cho việc tiếp cận kĩ thuật – công nghệ mới, cho việc “nâng tầm” chất lượng sản phẩm. Về trình độ học vấn và trình độ quản lý: Đây là hạn chế rõ rệt của không chỉ làng nghề La Xuyên mà còn của hầu hết làng nghề thủ công truyền thống. Điều này dẫn tới các hộ sản xuất duy trì lối làm ăn nhỏ lẻ, khó bắt kịp nền kinh tế thị trường hiện nay. Đối với các công ty, doanh nghiệp, trình độ học vấn của người đứng đầu lien quan trực tiếp đến trình độ quản lý, trình độ tổ chức sản xuất, khả năng tìm thị trường. - Môi trường làng nghề Chất thải của quá trình sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân. Bụi, mùn cưa có thể gây các bệnh: xoang mũi, ho hoặc các bệnh về mắt nếu người dân tiếp xúc nhiều đặc biệt trong quá trình nạo, gọt, làm nhẵn sản phẩm. Tuy nhiên, bụi, mùn cưa là những chất thải dễ dàng tái chế, sử dụng trong đun nấu. Ngoài ra, có một số loại gỗ khá độc như: gỗ lim, gỗ ngát nếu để mùn cưa của các loại gỗ này xộc vào mũi có thể gây chảy máu cam. Hơi sơn là chất thải độc hại nhất của làng nghề hiện nay. Trước đây, các hộ không làm công đoạn phun sơn nhưng hiện nay do yêu cầu của khách hàng cũng như phải nâng cao chất lượng sản phẩm: độ bóng, đẹp, bền, khả năng chịu đựng thời tiết nóng ẩm của Việt Nam, một số sản phẩm phải qua công đoạn này. Cả làng hiện nay có 3 cơ sở phun sơn lớn, mỗi năm trung bình tiêu thụ trên 200.000 lít sơn. Sơn được sử dụng chủ yếu là sơn PU (có chứa chất làm cứng, xăng là những chất rất độc hại) trong khi các cơ sở tuy đã có xưởng nhưng lượng hàng lớn nên vẫn rất chật chội, lại không trang bị hệ thống lọc chất thải. Tính chất của nghề chạm gỗ là phải cần cù, tỉ mỉ, thời gian làm việc dài và trong tư thế ngồi là chủ yếu nên tỷ lệ mắc bệnh đau lưng khá cao. Thêm nữa, do dân số đông trên một diện tích nhỏ hẹp, đa phần các hộ sản xuất tại nhà, không có xưởng kiên cố, chỗ ăn ở chật chội, lao động thủ công là chính nên hầu như không mấy người trang bị kiến thức môi trường hậu quả tất yếu là sức khỏe của người dân đều bị ảnh hưởng. Sau khi cụm công nghiệp hoàn thành đã giải quyết phần nào khó khăn về mặt bằng sản xuất. Hiện nay, nhiều hộ gia đình, công ty muốn làm ăn thuận lợi hơn đã chuyển nhà xưởng, gian hàng trưng bày ra ven quốc lộ 10, đẩy giá đất ở đây lên cao: 7-8 triệu/m2. Ngoài ra, điều kiện vệ sinh, cơ sở kết cấu hạ tầng, hệ thống cấp thoát nước chưa được xây dựng đồng bộ cũng là một trong những nguyên nhân làm môi trường làng nghề bị ảnh hưởng. Tại xã đã có nhà máy nước sạch nhưng vẫn chưa đủ cung cấp cho các hộ dân trong khi nguồn nước ngầm của làng nồng độ thạch tín và chất sắt quá mức độ cho phép. Tại CCN của làng vào mùa mưa, vẫn còn những đoạn đường bị úng ngập, khó khăn cho việc đi lại. Ao làng La Xuyên sắp trở thành ao tù do quá nhiều nước thải, rác thải đổ ra. Nhiều đoạn đường ngổn ngang gỗ. Rác thải chưa có bãi đổ hợp vệ sinh, chưa có hệ thống xử lý chất thải. Để giải quyết vấn đề này cần có biện pháp tức thời, đồng bộ, có sự phối hợp của nhiều ban ngành mà trước tiên phải tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN Nhận thức được tầm quan trọng của làng nghề truyền thống trong việc phát triển kinh tế xã hội, Nam Định đẩy mạnh chiến lược phát triển tới năm 2020 cho ngành nghề giàu tiềm năng này. Tỉnh thực hiện kế hoạch ngắn hạn và dài hạn nghiên cứu sự phát triển và đặc điểm chính của làng nghề truyền thống. Phương thức sản xuất của làng nghề thủ công trong giai đoạn hiện nay có thể xác định: Làng nghề = Doanh nhân + Cơ sở sản xuất. Từ định hướng chung của tỉnh, các huyện và thành phố xây dựng kế hoạch phát triển CN – TTCN làng nghề của địa phương, phù hợp với chương trình phát triển của tỉnh. Từ việc xem xét thực trạng phát triển của làng nghề La Xuyên nhận thức rỗ tiềm năng và hạn chế của nó, UBND xã Yên Ninh và UBND huyện Ý Yên đã đề ra những định hướng phát triển làng nghề La Xuyên từ nay đến 2020 như sau: 3.1.1. Mục tiêu chung Giữ vững và tiếp tục phát triển làng nghề thực sự trở thành trung tâm kinh tế, thương nghiệp – dịch vụ nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho nhân dân và tăng tích lũy cho Nhà Nước, đồng thời phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước. 3.1.2. Định hướng cụ thể - Phát triển làng nghề theo cụm công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ xây dựng và lấp đầy cụm công nghiệp Yên Ninh II. - Đảm bảo cho các cụm công nghiệp có được cơ sở hạ tầng cơ sở cần thiết để phát triển như đường giao thông, điện nước sinh hoạt và nước sản xuất. - Phát triển CN-TTCN kết hợp với phát triển dịch vụ nhằm làm phong phú hơn môi trường nông thôn. Hoàn thành khu du lịch làng nghề trong huyện để vừa giới thiệu vừa là điểm công thương, hợp đồng kinh tế. - Tôn vinh và xây dựng đội ngũ doanh nhân giỏi, xây dựng cộng đồng doanh nghiệp đông về số lượng, mạnh về chất lượng, làm hạt nhân hình thành phát triển ngành nghề, làng nghề và phát triển CN-TTCN trên địa bàn. Trên cơ sở đó, lựa chọn và tập trung đầu tư xây dựng một số doanh nghiệp mạnh, doanh nghiệp mũi nhọn của địa phương làm đầu tàu phát triển sản xuất CN-TTCN. - Riêng môi trường, các định hướng đặt ra như sau: + Về cấp nước: 100% số dân làng nghề có đủ nước sạch để phục vụ sản xuất và sinh hoạt. + Về thoát nước: xây dựng hệ thống kênh mương thu gom nước thải sản xuất và nước thải sinh hoạt, tập trung xử lý triệt để các nguồn nước thải trước khi thải vào môi trường xung quanh. + Về vệ sinh phân, rác: 100% số hộ dân có hố xí đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh. Quy hoạch bãi chon lấp, xử lý rác thải đạt tiêu chuẩn, hình thành tổ chức về nước sạch, vệ sinh môi trường làng nghề. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 3.2.1. Đảm bảo nguồn nguyên liệu Nguyên liệu là một nhân tố có ý nghĩa sống còn đối với không chỉ làng nghề La Xuyên mà của hàng trăm làng gỗ mỹ nghệ khác trong cả nước. Do đó, ổn định nguyên liệu về cả nguồn cung và giá gỗ là biện pháp vô cùng cần thiết đảm bảo sự phát triển bền vững của các làng nghề gỗ. Để tăng lượng gỗ cung cấp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đang triển khai chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Tuy nhiên, nguồn gỗ chính vẫn là nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á trong khi chính sách lâm sản của Nhà Nước luôn thay đổi dẫn đến nguồn cung còn luôn thay đổi: Australia, Newdilan, Thụy Điển, Đan Mạch thì chi phí quá lớn. Đảm bảo nguồn gỗ cho làng nghề vẫn là một vấn đề nan giải. 3.2.2. Tăng cường vốn đầu tư Đây là giải pháp quan trọng, tạo điều kiện cho các hộ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư máy móc trang thiết bị. Trong thời gian gần đây, tỉnh Nam Định đã có những chính sách thiết thực. Quỹ khuyến khích phát triển nghề thủ công đã được thành lập dưới sự quản lý của ngành công nghiệp địa phương. Nhà kinh doanh giờ đây đã được tiếp cận nguồn vốn dành cho mở rộng sản xuất kinh doanh nhờ vào những chính sách ưu đãu lien quan đến các thủ tục kinh doanh. Đồng thời, tỉnh đã điều chỉnh cân đối mức thuế cho các cơ sở sản xuất địa phương như là một cách hữu hiệu để khuyến khích các xã phát triển nghề thủ công và tăng số lượng cơ sở sản xuất vừa và nhỏ. Để tiếp cận nguồn vốn vay dễ dàng hơn cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, các doanh nghiệp cũng như các hộ sản xuất cần phải thành lập cụ thể những dự án vay vốn, nêu rõ mục đích và khả năng thực hiện của những dự án. 3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Để nâng cao tay nghề của người lao động: ngoài truyền, dạy nghề tại gia đình, cần xây dựng Hợp tác xã Đồng Tâm, trường dạy nghề thủ công mỹ nghệ trong địa bàn huyện Ý Yên thực sự trở thành những trung tâm dạy nghề hiệu quả trên cơ sở đầu tư vốn, nâng cấp cơ sở hạ tầng, thu hút những giáo viên có tay nghề cao từ làng nghề. Cần tổ chức những hội thi tay nghề, triển lãm để tôn vinh những thợ có tay nghề cao, có chính sách đãi ngộ với các nghệ nhân, khuyến khích các nghệ nhân dạy nghề, truyền nghề. Duy trì những nét văn hóa truyền thống: hội làng, lễ ngành nghề, ngày giỗ tổ nghề bồi dưỡng lòng yêu nghề, niềm tự hào cũng như trách nhiệm bảo tồn nghề truyền nghề truyền thống trong thế hệ trẻ. Ngoài ra, phải thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh tế thị trường cũng như các kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, các chủ doanh nghiệp làng nghề. Cần thiết xây dựng được ban quản lý làng nghề các cấp với đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực để kịp thời đưa ra những định hướng phát triển đúng đắn trong mỗi thời kỳ trên cơ sở nghiên cứu, hiểu rõ thực trạng phát triển của làng nghề. 3.2.4. Mở rộng thị trường Mở rộng thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài là mục tiêu đồng thời là giải pháp thiết thực nhất để tạo bước phát triển nhảy vọt cho La Xuyên. Để làm được điều này cần: + Luôn luôn cập nhật thông tin thị trường đặc biệt là thị hiếu người tiêu dung + Chú trọng và thường xuyên đổi mới thiết kế mẫu mã, gia tăng giá trị sản phẩm trên cơ sở kết hợp nét văn hóa truyền thống, sự độc đáo và yếu tố hiện đại. + Tăng cường tiếp thị, quảng cáo sản phẩm thông qua các gian hàng trưng bày, các hội chợ, triển lãm, xây dựng các trang web giới thiệu sản phẩm, tiếp cận và thực hiện thương mại điện điện tử.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBi lng g7895 La Xuyn.docx
Tài liệu liên quan