Thứ tư: Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào Việt Nam còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo JETRO Nhật Bản cho biết cước phí viễn thông, chi phí lưu thông giao nhận, điện hiện nay tại Việt Nam quá cao. Cước điện thoại quốc tế của Việt Nam cao gấp khoảng 7 lần so với Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so với Jakarta, Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container thì cao gần gấp 3 lần so với Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala Lumpur, khoảng 2 lần so với Jakarta, Thượng Hải. Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải nộp như phí lưu kho sân bay 1.200đ/kg, phí an ninh 230đ/kg, phí lao vụ 0,06 USD/kg, phụ phí xăng dầu 30USD/container 20 feet, 60USD/container 40 feet, hàng lẻ 2,5USD/m3, phí nâng hạ 300.000 -360.00đ/container 20 feet, thu phí đường bộ 80.000đ/lượt đối với xe tải 18 tấn trở lên. Giá điện cao hơn 50%, giá nước cao hơn 71% so với ASEAN, Trung Quốc.
28 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giá nhiên liệu: Với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành vận tải, nhiên liệu đầu vào chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí. Từ năm 2004 đến nay, giá cả nhiên liệu đầu vào tăng lên rất cao (trên 200%). Trong thời gian tới giá cả nhiên liệu đầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
"Đầu tư trực tiếp nước ngoài"(FDI) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư nhằm thu lợi nhuận. Trong đó:
"Nhà đầu tư nước ngoài" là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
"Bên nước ngoài" là một bên gồm một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Vai trò của FDI đối với nền kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư:
- FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng phục vụ cho chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là với các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển vốn là những nước còn nghèo, tích luỹ nội bộ thấp, nên để có tăng trưởng kinh tế cao thì các nước này không chỉ dựa vào tích luỹ trong nước mà phải dựa vào nguồn vốn tích luỹ từ bên ngoài, trong đó có FDI.
- FDI có ưu điểm hơn các hình thức huy động vốn nước ngoài khác, phù hợp với các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây dựng các dây chuyền sản xuất tại nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này sẽ cho phép các nước đang phát triển tiếp cận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại. Tuy nhiên, việc có tiếp cận được các công nghệ hiện đại hay chỉ là các công nghệ thải loại của các nước phát triển lại tuỳ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ động hoàn thiện môi trường đầu tư hay không.
- FDI giúp giải quyết tốt vấn đề việc làm và thu nhập của dân cư. Vai trò này của FDI không chỉ đối với các nước đang phát triển mà cả với các nước phát triển, đặc biệt là khi nền kinh tế bước vào giai đoạn khủng hoảng theo chu kỳ.
- FDI có tác động làm năng động hoá nền kinh tế, tạo sức sống mới cho các doanh nghiệp thông qua trao đổi công nghệ. Với các nước đang phát triển thì FDI giúp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phá vỡ cơ cấu sản xuất khép kín theo kiểu tự cấp tự túc.
- FDI cho phép các nước đang phát triển học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng quản lý dây chuyền sản xuất hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như ý thức lao động công nghiệp của đội ngũ công nhân trong nước.
Dưới đây chúng ta sẽ tim hiểu các chính sách mà Việt Nam áp dụng để khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam:
B- NỘI DUNG:
I-Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam- thực trạng và triển vọng:
1- Thực trạng:
Sau 20 năm áp dụng Luật đầu tư nước ngoài, được dư luận quốc tế xem là thông thoáng và thu hút giới doanh nghiệp, Việt Nam đã thu hút được hơn 9.500 dự án, với tổng số vốn lên tới 98 tỉ USD.
Riêng trong năm 2006 và 2007, số vốn đầu tư nước ngoài tăng cao, với những dự án qui mô tập trung phần lớn vào công nghiệp nặng và phát triển dịch vụ. Hai trung tâm kinh tế lớn là TP.HCM và Hà Nội hiện đứng đầu danh sách 10 địa phương thu hút vốn đầu tư nước ngoài cao nhất nước. Hiện nay có 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đến đầu tư vào Việt Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 68% các dự án, Liên minh châu Âu (EU) chiếm 16% và châu Mỹ 11%. Hàn Quốc là nước đứng đầu về lượng vốn đầu tư vào Việt Nam, với trên 1.800 dự án, trị giá tổng cộng 13,5 tỉ USD.(Việt Nam thu hút 98 tỉ USD sau 20 năm áp dụng Luật đầu tư nước ngoài.htm)
2- Triển vọng của Việt Nam sau khi gia nhâp WTO và thách thức từ phía Trung Quốc:
Đúng là Trung Quốc đang thắng thế trong việc thu hút FDI so với ASEAN nói chung và VN nói riêng... Và rằng Trung Quốc vẫn còn rất hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài với lực lượng lao động khổng lồ với giá rẻ và có thể đáp ứng khá đầy đủ cho các vị trí công việc (kể cả nhân lực cấp cao). Chất lượng lao động của họ còn không ngừng được cải thiện với sự hiện đại hóa nền giáo dục, sự trở về ngày càng nhiều của các du học sinh... Trong khi đó, các báo cáo cho thấy các nước ASEAN, và kể cả VN, đang bị thiếu hụt trầm trọng lao động bậc cao và chi phí lao động, đất đai cũng đã tăng mạnh. Ngoài ra, các khảo sát cũng cho thấy môi trường đầu tư và kinh doanh, chi phí giao dịch và triển vọng kinh doanh ở Trung Quốc thường được đánh giá cao hơn các nước ASEAN (trừ Singapore)...
Nhưng sự gia nhập WTO của VN trong thời gian tới sẽ nâng cao tính hấp dẫn của VN trong con mắt nhà đầu tư nước ngoài như kinh nghiệm của Trung Quốc đã cho thấy. Ngoài ra, tương lai thu hút FDI vào VN sẽ còn được cải thiện thêm khi mà hiệu quả tức thời của việc gia nhập WTO của Trung Quốc đã dần yếu đi, lập lại một thăng bằng mới, giống như thời điểm trước năm 2000.
Nói cách khác, bản thân sự hấp dẫn về qui chế thành viên WTO của một nước chỉ có tính ngắn hạn, và về dài hạn, điều hấp dẫn các công ty đa quốc gia chính là những yếu tố làm cho họ có thể phát huy được các lợi thế của họ so với các công ty bản địa, trong đó có lợi thế về công nghệ và quản lý và lợi thế về nội bộ hóa các giao dịch trong mạng lưới công ty thành viên.
Điều này cũng sẽ đúng với VN, và do đó rất có thể trong những năm đầu lượng FDI đổ vào VN sẽ tăng lên tương đối, nhưng sau đó lại giảm đi nếu VN không có những bước đi thích hợp nhằm làm tăng tính hấp dẫn của mình trong dài hạn, trong số đó có việc nâng cao chất lượng lực lượng lao động, cơ sở hạ tầng, mạng lưới cung cấp, các tổ chức thể chế hiệu quả, cải thiện tích cực môi trường kinh doanh, hạ chi phí giao dịch, phá giá nội tệ, khuyến khích vật chất hợp lý cho FDI vào một số ngành...
Mặc khác, sự nổi lên của Trung Quốc như một mảnh nam châm thu hút FDI không chỉ có nghĩa là các nước khác trong khu vực bị thua thiệt. Sự hấp dẫn tăng lên của Trung Quốc còn tạo ra một tác động tích cực có tác dụng kéo thêm FDI đến khu vực, ít nhất là để thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu khổng lồ của Trung Quốc, do sản xuất (cả cho xuất khẩu) và tiêu dùng tăng lên.
Vì hàng rào thuế quan đã được hạ xuống nên các công ty đa quốc gia không cần phải thiết lập nhà máy ở Trung Quốc mà có thể chọn các địa điểm khác phù hợp hơn để sản xuất và sau đó nhập khẩu vào Trung Quốc. VN cũng sẽ là một trong những nước được hưởng lợi nếu nắm bắt được cơ hội này (với các biện pháp tăng tính hấp dẫn trong dài hạn nêu trên). Thuận lợi nhất vẫn là những ngành kinh tế hướng vào khai thác tài nguyên (khoáng sản và nông nghiệp), là điều mà Trung Quốc đang rất thiếu hụt.
Cuối cùng, thách thức của yếu tố Trung Quốc lên VN chủ yếu thể hiện trên hai mặt: xuất khẩu và FDI hướng thị trường trong nước. VN có một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (một tỉ trọng lớn được sản xuất trong các doanh nghiệp FDI) cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc như dệt may, da giày, tiểu thủ công nghiệp(Triển vọng thu hút FDI của VN Thách thức sau gia nhập WTO và Trung Quốc Hội nhập quốc tế - DDDN_com_vn - Diễn đàn của Doanh nghiệp Việt Nam.htm )
II- Chính sách khuyến khích FDI vào Việt Nam:.
1-Chính sách bảo đảm đầu tư:
Điều 20: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Điều 21: Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được cấp giấy phép, thì Nhà nước có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư.
Điều 22: Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài:
1- Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh;
2- Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ;
3- Tiền gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động;
4- Vốn đầu tư;
5- Các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình.
Điều 23: Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc làm việc cho các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, sau khi nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật được chuyển ra nước ngoài thu nhập hợp pháp của mình.
Điều 24: Các tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc giữa các bên liên doanh cũng như các tranh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp Việt Nam trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải.
Trong trường hợp các bên không hoà giải được thì vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại tổ chức trọng tài hoặc Toà án Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
Đối với tranh chấp giữa các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên có thể thoả thuận trong hợp đồng việc lựa chọn một tổ chức trọng tài khác để giải quyết vụ tranh chấp.
Các tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh và hợp đồng xây dựng - chuyển giao được giải quyết theo phương thức do các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng( luật đầu tư nước ngoài)
2-Chính sách hỗ trợ đầu tư :
Ðiều 40. Hỗ trợ chuyển giao công nghệ
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chuyển giao công nghệ, bao gồm cả việc góp vốn bằng công nghệ, để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ.
2. Nhà nước khuyến khích việc chuyển giao vào Việt Nam công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn và các công nghệ để tạo ra sản phẩm mới, nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, tài nguyên thiên nhiên.
Ðiều 41. Hỗ trợ đào tạo
1. Nhà nước khuyến khích lập quỹ hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực từ nguồn vốn góp và tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
Chi phí đào tạo của doanh nghiệp được tính vào chi phí hợp lý làm căn cứ xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
2. Nhà nước hỗ trợ từ nguồn ngân sách cho việc đào tạo lao động trong các doanh nghiệp thông qua các chương trình trợ giúp đào tạo.(luật đầu tư)
Điều 8: Nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng cho nhà đầu tư như sau:
1. Xây dựng các khu công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ ở các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, địa bàn có đều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn để nhà đầu tư sử dụng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh với các điều kiện ưu đãi.
2. Xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh.
3. Khuýên khích và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh tại khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế.
Điều 9: Nhà nước góp vốn vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đóng tại các địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, dịa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội dặc biệt khó khăn thông qua các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức tín dụng của Nhà nước.
Điều 10: Nhà nước lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư, quỹ hỗ trợ xuất khẩu từ nguồn ngân sách Nhà nước, từ nguồn góp cuả các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước. Quỹ hỗ trợ đầu tư cho vay đầu tư trung hạn và dài hạn với lãi xuất ưu đãi, trợ cấp 1 phần lãi xuất cho các dự án đầu tư được ưu đãi, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu cấp tín dụng với laĩ xuất ưu đãi nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển sản xuất hang xuất khẩu, kinh doanh hàng xuất khẩu , mở rộng thị trường xuất khẩu và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu.
Hoạt động của quỹ hỗ trợ dầu tư, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thực hiện theo luật các tổ chức tín dụng.
Điêu 12: Nhà nước khuyến khích các hoạt động hỗ trợ đầu tư sau đây:
1. Tư vấn về pháp lý, đầu tư, kinh doanh và quản trị doanh nghiệp.
2. Đầo tào nghề, cán bộ kỹ thuật, bôì thường nâng cao kiến thức chuyên môn và quản lý kinh tế.
3. Cung cấp thông tin về thị trường, khoa học- kỹ thuật, công nghệ, bảo hộ quỳên sở hữu trí tụê và chuỷên giao công nghệ.
4. Tiếp thị, xúc tiến thương mại.
5. Thành lập các hiệp hội ngành nghề sản xuất, kinh doanh, các hiệp hội xuất khẩu.
Điều 13 :Dự án đầu tư của các nhà đầu tư thuộc đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này được áp dụng cùng một mức giá đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, chịu cùng mức thuế, được hưởng cùng mức ưu đãi đầu tư.
Điều 14 :Trong trường hợp chuyên gia, lao động kỹ thuật trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn và nghiệp vụ, nhà đầu tư được thuê chuyên gia, lao động kỹ thuật là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Chuyên gia, lao động kỹ thuật là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam làm việc cho cơ sở sản xuất, kinh doanh trong nước được chuyển ra nước ngoài phần thu nhập sau khi nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật Việt Nam. ( luật khuyến khích đầu tư trong nước)
3- Chính sách ưu đãi đầu tư :
Điều 15: Dự án đầu tư vào các lĩnh vực sau đây được ưu đãi:
1. Trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng; trồng cây lâu năm trên đất hoang hóa, đồi, núi trọc; khai hoang; làm muối; nuôi trồng thủy sản ở vùng nước chưa được khai thác;
2. Xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển vận tải công cộng; phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa dân tộc;
3. Sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu;
4. Đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ; chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản; dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp;
5. Nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, dịch vụ khoa học, công nghệ; tư vấn về pháp lý, đầu tư, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; dạy nghề, đào tạo cán bộ kỹ thuật, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức quản lý kinh doanh;
6. Đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ; cải thiện sinh thái và môi trường, vệ sinh đô thị; di chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi đô thị; đa dạng hóa ngành nghề, sản phẩm; đầu tư vào ngành nghề sử dụng nhiều lao động trong nước, trước hết là lao động tại địa bàn đầu tư;
7. Những ngành, nghề cần ưu tiên trong từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội.
Điều 16 :Dự án đầu tư tại các địa bàn sau đây được ưu đãi:
1. Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn;
2. Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.( Luật khuyến khích đầu tư trong nước)
3.1- Ưu đãi về đất:
Điều 17:
1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 của Luật này được giảm 50% tiền sử dụng đất trong trường hợp được giao đất phải trả tiền sử dụng đất.
2. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được giảm 75% tiền sử dụng đất trong trường hợp được giao đất phải trả tiền sử dụng đất.
3. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 của Luật này ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được miễn tiền sử dụng đất trong trường hợp được giao đất phải trả tiền sử dụng đất.
Điều 18:
1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 của Luật này được miễn tiền thuê đất từ ba năm đến sáu năm, kể từ khi ký hợp đồng thuê đất.
2. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn được miễn tiền thuê đất từ bảy năm đến mười năm, kể từ khi ký hợp đồng thuê đất.
Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 của Luật này ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn được miễn tiền thuê đất từ mười một năm đến mười lăm năm, kể từ khi ký hợp đồng thuê đất.
3. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn tiền thuê đất từ mười một năm đến mười lăm năm, kể từ khi ký hợp đồng thuê đất.
Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 của Luật này ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn tiền thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án.
Điều 19 :
1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại khoản 1 Điều 15 của Luật này được miễn thuế sử dụng đất trong trường hợp được giao đất.
Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật này được giảm 50% thuế sử dụng đất từ bảy năm đến mười năm, kể từ khi được giao đất.
2. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được miễn thuế sử dụng đất từ bảy năm đến mười năm, kể từ khi được giao đất.
Nhà đầu tư có dự án đầu tư vào lĩnh vực quy định tại Điều 15 của Luật này ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được miễn thuế sử dụng đất từ mười một năm đến mười lăm năm, kể từ khi được giao đất.
3. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế sử dụng đất từ mười một năm đến mười lăm năm, kể từ khi được giao đất.
Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 của Luật này ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế sử dụng đất trong suốt thời gian thực hiện dự án.( Luật khuyến khích đầu tư trong nước)
3.2- Ưu đãi về thuế:
Điều 20 :Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
1. Đầu tư vào lĩnh vực quy định tại Điều 15 của Luật này hoặc đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng thuế suất 25%;
2. Đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc đầu tư vào lĩnh vực quy định tại Điều 15 của Luật này ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng thuế suất 20%;
3. Đầu tư vào lĩnh vực quy định tại Điều 15 của Luật này ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng thuế suất 15%.
Điều 21 :
1. Nhà đầu tư có dự án thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 15 của Luật này được miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 17 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
2. Nhà đầu tư có dự án thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở địa bàn quy định tại Điều 16 của Luật này hoặc đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao hoặc hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh được miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với mức ưu đãi cao nhất quy định tại điểm b khoản 1 Điều 17 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Điều 22 :Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại khoản 6 Điều 15 của Luật này ngoài ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại Điều 18 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn được hưởng ưu đãi bổ sung như sau:
1. Được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong hai năm tiếp theo cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư này mang lại;
2. Được miễn thêm hai năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong ba năm tiếp theo cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư này mang lại đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn;
3. Được miễn thêm ba năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong năm năm tiếp theo cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư này mang lại đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Điều 23 :Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 hoặc Điều 16 của Luật này không phải nộp thuế thu nhập bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Điều 24 :
1. Nhà đầu tư là cá nhân được miễn thuế thu nhập cho phần thu nhập có được do góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp trong thời hạn năm năm kể từ khi nhà đầu tư có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập đối với cá nhân.
2. Nhà đầu tư là cá nhân được miễn thuế thu nhập cho phần thu nhập có được do góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp ở địa bàn quy định tại Điều 16 của Luật này trong thời hạn mười năm, kể từ khi nhà đầu tư có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập đối với cá nhân.
3. Nhà đầu tư góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ được miễn thuế thu nhập có được từ phần góp vốn này.
Điều 25 :Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 hoặc Điều 16 của Luật này được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa sau đây mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu:
1. Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc mở rộng quy mô đầu tư, đổi mới công nghệ;
2. Phương tiện vận chuyển dùng để đưa đón công nhân.
Điều 26 :Ngoài các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại Luật này, nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, còn được hưởng thêm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
1. Được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư xuất khẩu lần đầu tiên, xuất khẩu mặt hàng mới, xuất khẩu hàng hóa ra thị trường mới;
2. Được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho phần thu nhập tăng thêm do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư có doanh thu xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước;
3. Được giảm 20% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư có doanh thu xuất khẩu đạt tỷ lệ trên 50% tổng doanh thu hoặc có thị trường xuất khẩu ổn định trong ba năm liên tục;
4. Nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại các khoản 1, 2 hoặc 3 Điều này, nếu thực hiện dự án đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được giảm thêm 25% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu trong năm tài chính; nếu thực hiện dự án đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được miễn số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu trong năm tài chính. ( Luật khuyến khích đầu tư trong nước)
3.3- Ưu đãi về tài chính- tiền tệ:
Điều 7: 1- Bên nước ngoài tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng:
a) Tiền nước ngoài, tiền Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt Nam;
b) Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác;
c) Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
2- Bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng:
a) Tiền Việt Nam, tiền nước ngoài;
b) Giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
c) Các nguồn tài nguyên, giá trị quyền sử dụng mặt nước, mặt biển theo quy định của pháp luật;
d) Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác;
đ) Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
3- Việc các bên góp vốn bằng các hình thức khác với các hình thức quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải được Chính phủ chấp thuận.
Điều 8: Phần vốn góp của Bên nước ngoài hoặc các Bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các bên, nhưng không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định.
Đối với doanh nghiệp liên doanh nhiều bên, tỷ lệ góp vốn tối thiểu của mỗi Bên Việt Nam do Chính phủ quy định.
Đối với cơ sở kinh tế quan trọng do Chính phủ quyết định, các bên thoả thuận tăng dần tỷ trọng góp vốn của Bên Việt Nam trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Phó
Điều 15: Các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập tại Việt Nam doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Đối với cơ sở kinh tế quan trọng do Chính phủ quyết định, các doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở thoả thuận với chủ doanh nghiệp, được mua lại một phần vốn của doanh nghiệp để hình thành doanh nghiệp liên doanh.(luật đầu tư nước ngoài)
Điều 28 :
1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư quy định tại Điều 15 hoặc Điều 16 của Luật này được Quỹ hỗ trợ đầu tư của Nhà nước xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn hoặc trợ cấp một phần lãi suất cho các khoản vay từ các tổ chức tín dụng.
2. Nhà đầu tư có dự án đầu tư di chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi đô thị, cải thiện sinh thái, môi trường, vệ sinh đô thị được Quỹ hỗ trợ đầu tư xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi đáp ứng đến 70% số vốn đầu tư.
3. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được Quỹ hỗ trợ đầu tư của Nhà nước ưu tiên xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi đáp ứng đến 50% số vốn đầu tư hoặc được Quỹ này xem xét bảo lãnh đến 70% khoản tiền vay để đầu tư.
4. Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được Quỹ hỗ trợ đầu tư của Nhà nước ưu tiên xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi đáp ứng đến 70% số vốn đầu tư hoặc được Quỹ này xem xét bảo lãnh đến 80% khoản tiền vay để đầu tư.
5. Nhà đầu tư có dự án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, ngoài các ưu đãi về tín dụng đầu tư quy định tại các khoản 1 và 2 của Điều này còn được Quỹ hỗ trợ xuất khẩu xem xét cho vay tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi đáp ứng đến 80% khoản tín dụng xuất khẩu căn cứ vào hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết hoặc được Quỹ này xem xét bảo lãnh đến 80% khoản tín dụng xuất khẩu.
Điều 29 :Căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định danh mục ngành, nghề của từng lĩnh vực ưu đãi đầu tư; danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư; tiêu chuẩn về trình độ công nghệ; quy mô sử dụng lao động để được hưởng ưu đãi đầu tư; các mức ưu đãi đầu tư cụ thể quy định tại Chương III của Luật này.
Điều 39 :Nhà đầu tư có thành tích trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.( Luật khuyến khích đầu tư trong nước)
3.4- Trường hợp mở rộng ưư đãi đầu tư:
Ðiều 39. Trường hợp mở rộng ưu đãi
Trường hợp cần khuyến khích phát triển một ngành đặc biệt quan trọng hoặc một vùng, một khu vực kinh tế đặc biệt, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định về các ưu đãi đầu tư khác với các ưu đãi đầu tư được quy định trong Luật này(luật đầu tư)
v.v
III- Đánh giá tình hình thực hiện các chính sách:
1-Mặt tích cực:
Theo Cục đầu tư và nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), mười tháng đầu năm 2007, cả nước đã thu hút được 11,26 tỷ USD vốn đăng ký FDI, bao gồm cả vốn cấp mới và bổ sung, tăng 36,4% so với cùng kỳ năm 2006. Riêng trong tháng 10, đã có 99 dự án FDI được cấp giấy chứng nhận đầu tư mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1,462 tỷ USD, đưa tổng số dự án cấp mới từ đầu năm đến nay lên 1.144 dự án với tổng vốn đầu tư là 9,75 USD, tăng 33,6% về số dự án và 59% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2006. Các dự án mới cấp phép trong thời gian này vẫn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với số vốn 5,33 tỷ USD, chiếm 54,6% về vốn đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, với số vốn đăng ký 4,25 tỷ USD, chiếm 43,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngoài ra, còn có 26 lượt dự án bổ sung với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 196 triệu USD, đưa tổng số lượt dự án tăng vốn trong tháng 10 lên 300 lượt dự án với tổng vốn tăng thêm là 1,512 tỷ USD. Phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp, viễn thông, điện tử tin học, nông - lâm nghiệp
Dư luận báo chí nước ngoài gần đây có nhiều nhận xét sức hấp dẫn do chi phí thấp về nhân công và tay nghề cao của lao động Việt Nam đang thu hút các công ty và nhiều tập đoàn kinh tế sẵn sàng đầu tư nhiều hơn. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các công ty, tập đòan kinh tế đầu tư, làm ăn tại Việt Nam, trong đó có hãng Nicon (Nhật Bản), LG (Hàn Quốc), Intel (Mỹ).
Theo ông Phan Hữu Thắng, Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài, trong thời gian tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp các cơ quan ngoại giao đẩy mạnh xúc tiến đầu tư với 4 nền kinh tế của APEC là Papua New Guinea, Mêhicô, ChiLê và Pêru, đây là 4 nền kinh tế hiện chưa có dự án đầu tư tại Việt Nam. Qua đó, hai bên sẽ gửi các đoàn doanh nghiệp sang trao đổi để cùng nhau tìm hiểu cơ hôi đầu tư.
Danh mục các dự án lớn đang tìm hiểu xúc tiến đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều với số vốn không ngừng tăng. Tính đến thời điểm này đã có 50 dự án với tổng số vốn đầu tư 50 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án lớn lên tới 5 tỷ USD như đề xuất xây dựng một số khu công nghiệp chuyên sản xuất các sản xuất các sản phẩm công nghệ cao trong lĩnh vực điện tử cuả tập đoàn Foxconn (Đài Loan); Dự án tổ hợp hóa dầu Naphtha Cracking tại Phú Yên; Dự án sản xuất thép tại Khánh Hòa với số vốn đầu tư 4,5 tỷ USD; Dự án Nhà máy nhiệt điện than Vân Phong trị giá 3,8 tỷ USD do Sumitomo ( Nhật Bản) đầu tư
Hiện nay, có 48 dự án với tổng số vốn 50 tỷ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Trong số 48 dự án đó, Việt Nam sẽ phải cân nhắc, lựa chọn và tạo điều kiện thuận lợi nhất để cấp phép và triển khai các dự án phù hợp với chủ trương, chính sách, đường lối phát triển và nhu cầu thực tế của nứơc ta. Bên cạnh việc thu hút các dự án FDI vào các lĩnh vực công nghiệp, du lịch, dịch vụ, giao thông vận tải, viễn thông, điện tử, tin học, Việt Nam đẩy mạnh thu hút các dự án FDI cho ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các nước có tiềm năng và thế mạnh về nông nghiệp như Mỹ, Canađa, Ôxtraylia, EU chưa đầu tư các dự án FDI cho nông nghiệp nước ta nên ngành nông nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng số dự án FDI vào Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu của ngành nông nghiệp đề được đến năm 2010 thu hút được 1,5 tỷ USD vốn FDI, tháng 8/2007 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành chiến lược và quy hoạch sử dụng FDI đến năm 2010 và đưa ra 3 nhóm giải pháp lớn: Nâng cao hiệu quả, chất lượng quy hoạch phát triển của từng ngành, từng sản phẩm; Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai, xúc tiến thương mại, cơ sở hạ tầng...; Tăng cường, nâng cao hiệu quả vận động, xúc tiến thu FDI
Những năm gần đây, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang tăng trưởng với nhịp độ cao và chất lượng mới. Chính phủ đang nắm bắt cơ hội, khẩn trương rà soát, loại bỏ các thủ tục hành chính bất hợp lý, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, mở rộng phân cấp quản lý đầu tư để khuyến khích, đẩy mạnh thu hút vốn FDI được phân bố đồng đều vào các ngành kinh tế của Việt Nam.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều yếu tố tích cực tiếp tục được phát huy, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững Đặc biệt, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang tăng trưởng với nhịp độ cao và chất lượng mới. Chính phủ đang nắm bắt cơ hội, khẩn trương thực hành rà sóat, loại bỏ những thủ tục bất hợp lý, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, mở rộng phân cấp quản lý đầu tư để khuyến khích, đẩy mạnh thu hút vốn FDI. Để tận dụng cơ hội, đón nhận làn sóng đầu tư nước ngoài mới, Chính phủ, các cấp, các ngành phải làm tốt công tác quy hoạch để kêu gọi xúc tiến đầu tư, trong đó đặc biệt cần đầu tư nhanh, đảm bảo sự đồng bộ và điều kiện hạ tầng kỹ thuật, giao thông, viễn thông, điện, nước và hạ tầng xã hội. Bên cạnh đó, chúng ta càn đẩy mạnh công tác đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lương cao để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng đầu tư công nghệ cao và đảm bảo hội nhập quốc tế.
Trong tương lai, với sự hỗ trợ của một hệ thống cơ chế, chính sách về khuyến khích FDI bao gồm các chính sách về ưu đãi vốn và tín dụng, đất đai, phát triển thị trường hạ tầng và nguồn nhân lực ổn định và hoàn thiện hơn để Việt Nam trở thành một môi trường đầu tư an toàn và hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.(MHB Bank.htm)
2-Mặt hạn chế:
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang có xu hướng chững lại. Giai đoạn 1991 - 1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giai đoạn 1996 - 2002 chỉ chiếm hơn 18,5%.
Chúng ta thường nhấn mạnh Việt Nam là thành viên của ASEAN, nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên và lao động, đặc biệt là môi trường kinh tế chính trị ổn định, nên là thị trường có tiềm năng thu hút vốn FDI. Qua số liệu đầu tư nước ngoài trên thế giới, cho thấy 70 - 75% dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có 25 - 30% di chuyển đến các nước đang phát triển và kém phát triển. Điều đó cho thấy các nước chủ đầu tư không chỉ dựa vào khai thác lợi thế của các nước nhận đầu tư là có nguồn tài nguyên dồi dào và lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
C ó thể thấy nguyên nhân khiến môi trường đầu tư Việt Nam kém hấp dẫn thu hút FDI là chúng ta thấy phụ thuộc khá nhiều vào chính sách Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực vậy với số dân tương đồng với Việt Nam, tỉnh Quảng Đông thu hút đầu tư từ Nhật nhiều hơn gấp đôi, khoảng 20 tỷ yên. Năm 2001 Việt Nam thu hút số vốn đầu tư từ Nhật chỉ bằng 1/33 của Trung Quốc, 1/12 của Thái Lan, bằng 1/5 của Malaysia hoặc Indonesia. Trung Quốc trở thành nước thu hút vốn đầu tư nhiều nhất thế giới.
Sau đây là một số tồn tại trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam:
Thứ nhất: Có 2 quan điểm trong thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư, quan điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc chúng ta phải tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, ưu đãi đối với những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các tỉnh, thành phố đều tập trung mọi cố gắng thu hút FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm gì, vì vậy FDI quá tập trung vào các ngành chế biến lương thực - thực phẩm: rượu, bia, nước giải khát, các ngành sản xuất tiêu dùng, chưa có sự đầu tư thích đáng vào ngành sản xuất tư liệu sản xuất, chỉ đầu tư lắp ráp cơ khí điện tử.
Cần chú trọng phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, song điều đó không có nghĩa là không chú trọng thu hút FDI vào phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng để đảm bảo sản xuất hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bài học quan trọng nhất của các nước NIC trong những năm qua là phải xây dựng được một cơ cấu sản phẩm hợp lý, một cơ cấu sản phẩm phải tự sản xuất các tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế, tập trung thu hút FDI vào các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, vốn cao do các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động mất khả năng cạnh tranh quốc tế, sức lao động không còn là lợi thế nữa.
Cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng tỉnh và khu công nghiệp mà vừa qua chúng ta còn chưa có. Trước hết cần coi trọng và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài dựa trên lợi thế của từng tỉnh và khu công nghiệp. Đối với một số vùng cần nêu bật định hướng thu hút FDI vào một số ngành, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học và vốn cao, các ngành hỗ trợ và liên quan.
Thứ hai: Chính sách nội địa hoá chưa thoả đáng. Đáng lẽ cần phải tăng cường nội địa hoá thì chính sách của Việt Nam còn chưa chú trọng, chính vì lẽ đó đã làm cho sản phẩm của FDI ở Việt Nam đắt hơn ở Thái Lan và các nước khác. Ví dụ: chính sách nội địa hoá của ta đối với ngành công nghiệp ô tô, xe máy ít tham vọng hơn các quốc gia khác trong ASEAN như Thái Lan, Malaysia Đối với việc lắp ráp hoàn tất, Việt Nam đòi hỏi 5% vào năm thứ 5, là 30% vào năm thứ 10, Thái Lan đòi hỏi 60% vào năm thứ 5. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh.
Chính sách nội địa hoá của ta cần phải tích cực hơn và phải được giải quyết từ đầu từ gốc, thể hiện khi duyệt các dự án đầu tư nước ngoài và quy định thời gian nội địa hoá ngắn. Vừa qua Bộ Tài chính đưa ra chính sách tỷ lệ nội địa hoá càng cao, thuế suất càng giảm. Tỷ lệ nội địa hoá trên 65 - 80% thì thuế nhập khẩu phụ tùng chỉ còn 5-7% và trên 80% thì thuế nhập khẩu chỉ còn 3-5%; 40% thì thuế nhập khẩu linh kiện là 15%. Khuyến khích nội địa hóa trong khi chính sách nội địa hoá đối với FDI đưa ra tỷ lệ thấp, mặt khác năng lực sản xuất phụ tùng, máy móc để lắp ráp xe máy của doanh nghiệp trong nước còn yếu, giá thành cao thì cũng vẫn chỉ tiếp tục làm nẩy sinh gian lận.
Thứ ba: Việt Nam không có chính sách chuyển giao công nghệ như các nước Trung Quốc, Hàn Quốc Vì vậy sau 10 năm nước ta có nhiều hãng ô tô nổi tiếng thế giới đầu tư nhưng các chuyên gia này kêu rằng có lẽ Việt Nam vĩnh viễn sẽ không có ngành công nghiệp ô tô phải đạt tỷ lệ nội địa hoá 40%, giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội địa hoá quá thấp, đến nay tỷ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp ô tô từ 2-10%. Tham gia WTO năm 2005 nếu không đạt tỷ lệ nội địa hoá thấp nhất là 20% thì công nghiệp ô tô Việt Nam sẽ khó có.
Cần phải có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu không chúng ta sẽ chỉ là một thị trường tiêu thụ khổng lồ với dân số 80 triệu dân cho các nước.
Thứ tư: Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào Việt Nam còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo JETRO Nhật Bản cho biết cước phí viễn thông, chi phí lưu thông giao nhận, điện hiện nay tại Việt Nam quá cao. Cước điện thoại quốc tế của Việt Nam cao gấp khoảng 7 lần so với Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so với Jakarta, Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container thì cao gần gấp 3 lần so với Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala Lumpur, khoảng 2 lần so với Jakarta, Thượng Hải. Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải nộp như phí lưu kho sân bay 1.200đ/kg, phí an ninh 230đ/kg, phí lao vụ 0,06 USD/kg, phụ phí xăng dầu 30USD/container 20 feet, 60USD/container 40 feet, hàng lẻ 2,5USD/m3, phí nâng hạ 300.000 -360.00đ/container 20 feet, thu phí đường bộ 80.000đ/lượt đối với xe tải 18 tấn trở lên. Giá điện cao hơn 50%, giá nước cao hơn 71% so với ASEAN, Trung Quốc.
Để giảm chi phí đầu vào, mà hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước nắm, cần ngăn chặn việc biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp đối với doanh nghiệp Nhà nước. Cần xây dựng Luật cạnh tranh và nhanh chóng thông qua.
Thứ năm: Chi phí cho đất đai ngày càng tăng. Từ 1996 trở lại đây thị trường kinh doanh đất sôi động. Đất đai ngày càng giá cao. Giá đất lớn, đền bù lớn, giá san lấp mặt bằng lớn. Giá cả đất đai của thành phố ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất TP. Hồ Chí Minh gấp 4-6 lần Trung Quốc, 6 lần so với Thái Lan. Tình hình này ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chính phủ cần kiểm soát chặt thị trường bất động sản do thị trường bất động sản là một thị trường không hoàn hảo, dễ dẫn đến những độc quyền trong cạnh tranh, tạo nên cơn sốt giá, nâng giá đất giả tạo, làm cho chi phí đầu tư của FDI nước ta cao hơn so với các nước trong khu vực.
Thứ sáu: Ngoài ra quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Chính phủ Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không nhất quán. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thu hút FDI của ta giảm. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính làm ăn lâu dài là những kinh nghiệm trong thu hút FDI.
Tóm lại, nguyên nhân chủ yếu khiến môi trường đầu tư Việt Nam giảm thu hút đầu tư nước ngoài là do giá đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu còn cao nhất tại khu vực ASEAN. Ngoài ra môi trường đầu tư Việt Nam thiếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không nhất quán và không minh bạch.(Thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tồn tại và kiến nghị.htm)
IV- Kiến nghị:
Hệ thống chính sách hiện tại ở Việt Nam vẫn còn phức tạp. Có rất nhiều loại chính sách khác nhau, các chính sách lại được quy định rải rác trong các luật và các văn bản dưới luật khác nhau, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc nhận biết và tiếp cận các chính sách ưu đãi. Hơn nữa, có những loại chính sách được sử dụng nhằm đạt được đồng thời nhiều mục tiêu khác nhau và đôi khi còn xung đột lẫn nhau, ví dụ như vừa thu hút đầu tư lại vừa giải quyết công ăn việc làm, phát triển kinh tế địa phương, cân bằng giới và khuyến khích chuyển giao công nghệ. Sự phức tạp càng được nhân lên do các địa phương tiếp tục đưa ra các ưu đãi riêng của địa phương mình một cách tùy tiện để cạnh tranh thu hút đầu tư. Sự cạnh trạnh này thường dẫn đến tình trạng "đua đến kiệt sức" trong nội bộ một quốc gia .1 2. Tính hiệu quả của hệ thống ưu đãi đầu tư thấp Chính sách ưu đãi đầu tư ở Việt Nam dường như chưa hiệu quả trong thu hút và khuyến khích các hoạt động đầu tư. Hiệu quả thấp phần lớn là do tình trạng ưu đãi thuế thừa - có nghĩa là có nhiều nhà đầu tư vẫn thực thi dự án dù không có ưu đãi thuế.2 Tỷ lệ ưu đãi thừa cao làm giảm một khoản thuế lớn lẽ ra có thể thu được. Trong một nghiên cứu gần đây của VNCI về tình hình sử dụng ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam, có hơn 80% doanh nghiệp tư nhân đang hưởng ưu đãi thuế thừa nhận rằng ưu đãi không hề tác động đến quyết định đầu tư của họ. Điều này cũng có nghĩa là tỷ lệ bao cấp đầu tư là 70% - để tạo thêm một khoản đầu tư 100.000 đồng bằng ưu đãi thuế, ta phải từ bỏ 70.000 đồng thuế. Nhìn từ góc độ tài chính công, một nghiên cứu bao quát hơn ước tính chi phí cho ưu đãi đầu tư bằng thuế hàng năm vào khoảng 0.7% GDP.3 Một hệ thống ưu đãi cần được thiết kế và thực thi sao cho đạt được mục tiêu đặt ra với chi phí thấp. Nhìn từ góc độ này thì chưa có một đánh giá quy mô nào về hiệu quả của các hệ thống ưu đãi đầu tư hiện tại ở Việt Nam. Rất có thể tác động thực sự của hệ thống ưu đãi đầu tư hiện tại bị giới hạn vì quá phức tạp. Nhiều ưu đãi đầu tư được sử dụng để đồng thời đạt được các mục tiêu khác nhau nên rất có thể có những ưu đãi triệt tiêu lẫn nhau. Ngoài ra, những ưu đãi thuế nhằm mục đích giải quyết các vấn đề xã hội (như tạo việc làm, đa dạng hóa thành phần lao động) cũng không thực sự có hiệu quả vì có thể khiến các doanh nghiệp áp dụng một cơ cấu lao động nào đó mà cơ cấu này lại giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính nghiên cứu của VNCI cũng chỉ ra rằng chỉ có rất ít doanh nghiệp trong nước đang đầu tư vào những vùng và ngành nghề trong danh mục được khuyến khích, và hầu hết các nhà đầu tư đang hưởng ưu đãi thuế là những doanh nghiệp lớn.4 3. Còn nhiều bất cập trong quản lý hành chính ưu đãi đầu tư Nghiên cứu của VNCI cũng cho thấy công tác quản lý hành chính ưu đãi đầu tư vẫn còn nhiều bất cập.5 Đó là: (i) cấp/quản lý hành chính ưu đãi đầu tư còn mang nặng tính chủ quan do thiếu những quy định rõ ràng; (ii) các doanh nghiệp khó xác định được mình có đủ tiêu chuẩn được hưởng ưu đãi đầu tư hay không; (iii) có hiện tượng các doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi đầu tư để thu được các khoản lợi thuế không chính đáng; và (iv) còn tồn tại kẽ hở cho các hành vi cơ hội, tham nhũng do chính sách thiếu minh bạch. Nguyên nhân của những vấn đề trên một phần là do các nhà đầu tư phải xin giấy chứng nhận ưu đãi từ một cơ quan có thẩm quyền chứ không phải cứ đáp ứng các điều kiện đặt ra là nghiễm nhiên được nhận ưu đãi đầu tư. Ngoài ra còn có những bất cập do việc các địa phương đua nhau đưa ra những ưu đãi vượt quá thẩm quyền và trái với các quy định chung của Nhà nước. 4. Các nguyên tắc chống phân biệt đối xử và cam kết WTO cần được xem xét Hiện tại đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vẫn được điều chỉnh bởi hai luật riêng. Điều này dẫn đến tình trạng có sự đối xử khác nhau đối với hai khu vực. Ví dụ, tính trung bình, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chịu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) thấp hơn các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nhiều trường hợp lại phải trả một số chi phí đầu vào với giá cao hơn (như điện, nước). Còn có những thiên vị đối với các doanh nghiệp nhà nước trong cơ hội tiếp cận nguồn vốn của Nhà nước cũng như các dự án lớn. Những bất bình đẳng khác còn tồn tại như ưu đãi đầu tư thiên lệch về các đầu tư mới so với các đầu tư mở rộng; chênh lệch lớn về ưu đãi đầu tư giữa các doanh nghiệp trong và ngoài khu chế xuất v.v. Những ưu đãi đầu tư hiện hành nào không phù hợp với WTO (như những yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, yêu cầu liên quan đến xuất khẩu) cần phải được thay đổi hoặc bãi bỏ để đáp ứng những đòi hỏi của việc gia nhập tổ chức này. 5. Hệ thống ưu đãi đầu tư cần được thiết kế lại thay vì tiếp tục sửa đổi. Một hệ thống ưu đãi hiệu quả phải đạt được mục tiêu tăng đầu tư với chi phí thấp. Điều này đòi hỏi hệ thống đó phải: (i) mang tính chọn lọc; (ii) qui định rõ ràng, tránh được những đánh giá, xem xét mang tính chủ quan khi thực hiện; (iii) đơn giản; và (iv) bình đẳng, minh bạch.6 Quan trọng hơn cả, hệ thống ưu đãi đầu tư hiệu quả phải dựa trên cơ sở kết quả hoạt động chứ không dựa trên kế hoạch hay đề xuất. Nhìn chung, hệ thống hiện tại ở Việt Nam không đạt được những tiêu chuẩn trên. Trong bối cảnh Luật đầu tư chung đang được soạn thảo, Việt Nam nên xem xét việc thiết kế lại một hệ thống ưu đãi hoàn toàn mới phù hợp với thông lệ quốc tế thay vì tiếp tục điều chỉnh và sửa đổi. Cuối cùng, cũng phải thấy rằng để thu hút được đầu tư không chỉ cần riêng hệ thống ưu đãi đầu tư. Cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận thị trường, môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh ổn định, quyền sở hữu tài sản rõ ràng, khung pháp luật hợp đồng minh bạch, thái độ thân thiện của chính quyền đối với doanh nghiệp, v.v vẫn được các nhà đầu tư đánh giá là những nhân tố quyết định quan trọng đến hoạt động đầu tư. (www.tuvanluat.com.vn )
C- KẾT LUẬN:
Ấn tượng nhất xoay sau 20 năm thu hút FDI của Việt Nam, có lẽ là sự gia tăng đột biến về số vốn đăng ký từ các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, với mức tăng hàng năm đạt trên 1,7 lần so với năm trước đó.
Có thể nói, với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chưa bao giờ nước ta đứng trước cơ hội thuận lợi như hiện nay trong vệc thu hút FDI với hàng chục dự án có số vốn hàng tỷ USD đang được chờ cấp phép trong năm 2008. Tuy nhiên, câu chuyện về FDI sau 20 năm không chỉ đơn thuần là một bức tranh màu hồng, mà còn ẩn trong đó những bài học mà có lẽ chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ hơn, khi nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng và chịu ảnh hưởng nhiều từ những biến động của kinh tế thế giới. Việc theo đuổi chính sách khuyến khích FDI và coi trọng chất lượng FDI luôn là 2 mặt có quan hệ hữu cơ của thể chế, chính sách của chúng ta. Trong điều kiện hoạt động đầu tư trong nước đang gia tăng nhanh chóng thì việc lựa chọn dự án FDI cần phải bảo đảm hiệu quả kinh tế- xã hội trong mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Luật khuyến khích đầu tư trong nước
2-Luật đầu tư nước ngoài
3- Luật đầu tư
4-MHB Bank.htm
5-www.tuvanluat.com.vn
6-Thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tồn tại và kiến nghị.htm
7- Việt Nam thu hút 98 tỉ USD sau 20 năm áp dụng Luật đầu tư nước ngoài.htm
8- Triển vọng thu hút FDI của VN Thách thức sau gia nhập WTO và Trung Quốc Hội nhập quốc tế - DDDN_com_vn - Diễn đàn của Doanh nghiệp Việt Nam.htm
9- Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài- FDI. Chủ biên: PGS_TS_ Nguyễn Thị Hường.
MỤC LỤC
NHỮNG CHÍNH SÁCH MÀ VIỆT NAM ÁP DỤNG ĐỂ KHUYẾN KHÍCH CÁC DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI ĐẦU TƯ TR ỰC TI ẾP VÀO VIỆT NAM
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6200.doc