MỤC LỤC
Danh mục đồ thị, bảng biểu, phụ lục
Danh mục từ viết tắt
Thông tin chung về đề tài
Phần mở đầu
Chương I: Một số đặc điểm kinh tế xã hội của các nước Châu Phi
1.1. Một số đặc điểm tự nhiên, chính trị, văn hoá, xã hội của Châu Phi
1.2. Khái quát về kinh tế của các nước Châu Phi
1.3. Hoạt động ngoại thương của các nước Châu Phi
1.4. Kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ trong việc đẩy mạnh xuất khẩu vào châu Phi
1.5. Một số thuận lợi, khó khăn và các tiền đề cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường châu Phi
Chương II: Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường các nước Châu Phi
2.1. Tổng quan quá trình phát triển quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước Châu Phi
2.2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường các nước Châu Phi
2.3. Đánh giá về thực trạng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường các nước Châu Phi
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường các nước Châu Phi
3.1. Định hướng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường các nước Châu Phi
3.2. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường các nước Châu Phi
3.3. Các kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường các nước Châu Phi
Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảoaa
119 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Châu Phi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải có
những bước đi riêng cho mình.
Để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Châu Phi, các doanh nghiệp Việt
Nam cần chú ý đến các vấn đề sau:
3.2.2.1. Chú trọng phát triển ngành hàng xuất khẩu phù hợp với thị trường châu
Phi
Thực tế cho thấy, trong khi tiềm năng nhập khẩu của các nước châu Phi
rất đa dạng phong phú, thì chủng loại mặt hàng mà nước ta xuất khẩu sang thị
trường này vẫn còn đơn điệu, tập trung quá nhiều vào một số nông sản và hàng
công nghiệp nhẹ. Riêng gạo đã chiếm một tỷ trọng rất lớn (khoảng 50%). Tuy
vậy ngay với mặt hàng gạo chúng ta cũng chưa khai thác hết tiềm năng của các
thị trường này. Chẳng hạn Ni-giê-ri-a hay Nam Phi nhập khẩu chủ yếu mặt hàng
gạo đồ thì nước ta lại chưa thể đáp ứng. Hơn nữa, có một số mặt hàng khác thì
chúng ta vốn đã tạo được chỗ đứng trên thị trường các nước châu Phi vài năm
trước đây, nhưng nay đang dần mất chỗ đứng do không thể cạnh tranh về giá cả
với hàng của các nước khác, chẳng hạn hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ.
Vì vậy, để duy trì tăng trưởng xuất khẩu ổn định sang các nước châu Phi,
doanh nghiệp nước ta phải chủ động phát triển ngành hàng xuất khẩu theo hai
hướng. Thứ nhất là phải đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, vì các nước châu Phi
98
là thị trường tiềm năng cho mọi loại hàng hóa. Thứ hai là phải nâng cao tính
cạnh tranh của từng sản phẩm xuất khẩu về giá cả, mẫu mã, chất lượng. Nhìn
chung với các nước châu Phi, thị trường không đòi hỏi sản phẩm chất lượng quá
cao nhưng phải có tính ổn định và đặc biệt giá phải rẻ. Cạnh tranh về giá thành
sản phẩm đang là điểm yếu của các doanh nghiệp nước ta trước các đối thủ trong
khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, trên thị trường châu Phi.
Bên cạnh việc đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp nước ta cần chú trọng
khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm chứ không phụ
thuộc hoàn toàn vào công nghệ sản xuất, đặc biệt đối với các ngành hàng chúng
ta đang có thế mạnh xuất khẩu sang châu Phi như nông sản, hàng dệt may, máy
móc thiết điện, cơ khí, giày dép, sản phẩm nhựa. Đặc biệt trong việc thiết kế
mẫu mã và nâng cao giá trị sử dụng cho sản phẩm xuất khẩu sang châu Phi, nhất
thiết các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, nắm bắt được những yếu tố tôn
giáo, văn hóa của thị trường mà mình hướng tới để tạo cho sản phẩm độ hấp dẫn
khác biệt so với những sản phẩm cạnh tranh. Đây đang là điểm yếu của các
doanh nghiệp nước ta nếu so với một số đối thủ trong khu vực như Trung Quốc
hay Thái Lan.
Song song với việc đưa vào thị trường châu Phi những sản phẩm có tính
cạnh tranh, các doanh nghiệp cần chú ý xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đây là
một giá trị đặc biệt tạo nên chỗ đứng lâu dài cho doanh nghiệp trên thị trường.
Thương hiệu khi được người tiêu dùng tín nhiệm sẽ làm cho họ yên tâm khi sử
dụng, tạo thuận lợi cho việc phân phối, xâm nhập nhập những mảng thị trường
mới, thu hút đầu tư.
Cần phải nói thêm là đối với doanh nghiệp, thương hiệu có thể đem đến
thành công, nhưng cũng có thể là thất bại. Vì vậy đầu tư cho thương hiệu đòi hỏi
cả về tài chính lẫn trí tuệ, phải được tính toán chuẩn bị kỹ lưỡng cả trong xây
dựng thương hiệu lẫn quảng bá thương hiệu. Có thương hiệu tốt chính là một
điều kiện để phát triển kinh doanh bền vững, đặc biệt là ở những thị trường còn
mới mẻ như các nước châu Phi.
3.2.2.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại tại thị trường châu Phi
Công tác xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp nước ta tại thị trường
châu Phi chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù thời gian qua, một số doanh
nghiệp đã tham gia tháp tùng lãnh đạo tại các chuyến thăm chính thức, hoặc tự tổ
chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia hội chợ, triển lãm quôc tế tổ chức tại
một số nước châu Phi nhưng nhìn chung các hoạt động này còn mang tính tự
phát và thời vụ, chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi.
Trong công tác xúc tiến thương mại tại châu Phi cần chú ý đến một số nội
dung sau:
- Thu thập và xử lý thông tin
99
Tình trạng thiếu thông tin đang là trở ngại lớn trong việc phát triển buôn
bán giữa nước ta với các nước châu Phi. Đa số các doanh nghiệp chỉ biết đến
châu Phi như một thị trường rủi ro, đầy bất trắc nên thường ít chịu tìm hiểu tiềm
năng, những cơ hội hợp tác kinh doanh tại thị trường này, cũng như các chính
sách thương mại, các phong tục tập quán bản địa... Vì vậy, muốn mở rộng buôn
bán sang châu Phi, nhất thiết các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng thu thập
và xử lý thông tin.
Nguồn thông tin lớn nhất chính là đi thâm nhập thực địa. Từ những
chuyến đi thực tế, các doanh nghiệp có thể tìm ra được cơ hội kinh doanh ở từng
thị trường châu Phi, tìm hiểu xem người tiêu dùng sở tại cần loại hàng gì, sở
thích và sức mua của họ ra sao, những mặt hàng nào thì doanh nghiệp của mình
có thể đáp ứng. Những chuyến đi như vậy không thể "cưỡi ngựa xem hoa" mà
đòi hỏi phải mất nhiều thời gian, công sức và cả tiển của. Khi đã sang đến tận
nơi, bằng nhiều cách thức khác nhau, các doanh nghiệp phải gặp cho được từ các
quan chức chính phủ, các doanh nghiệp cho đến tận người dân, thậm chí xuống
cả những vùng xa xôi hẻo lánh, có như vậy các chuyến đi mới phát huy hiệu quả.
Cần lưu ý là những chuyến đi thâm nhập thực địa không chỉ đem lại thông tin về
các cơ hội xuất khẩu mà cả nhập khẩu.
Một nguồn cung cấp thông tin quan trọng là các cơ quan quản lý Nhà
nước như Bộ Thương mại cùng với các đơn vị chức năng. Các doanh nghiệp
cũng phảI chủ động liên lạc với các Thương vụ, các cơ quan đại diện của Việt
Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, cần theo dõi sát thông tin từ Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, từ các Hiệp hội ngành hàng. đồng thời khai thác các
nguồn thông tin từ nước ngoài như Đại sứ quán, Thương vụ các nước, các tổ
chức quốc tế, các tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Thông tin trên mạng Internet cũng ngày càng quan trọng. Để khai thác có
hiệu quả, doanh nghiệp phải xác định đúng nhu cầu thông tin của mình, và đúng
địa chỉ trang Web cần tìm. Tuy nhiên, nguồn thông tin này không phải lúc nào
cũng đáng tin cậy. Nhìn chung, trong những giao dịch lần đầu với thị trường
châu Phi, doanh nghiệp cần tham khảo ý kiến của các đơn vị chức năng của Bộ
Công Thương hoặc các Bộ, ngành liên quan, hoặc nhờ Cơ quan đại diện ngoại
giao và thương mại Việt Nam ở nước sở tại hay kiêm nhiệm điều tra thông tin về
đối tác. Với những hợp đồng lớn và có tính khả thi, doanh nghiệp có thể sang
trực tiếp nước sở tại để gặp đối tác đồng thời kết hợp thăm dò thị trường.
- Quảng bá sản phẩm và thương hiệu
Mặc dù đến nay đã có nhiều ấn phẩm giới thiệu về đất nước, con người
Việt Nam nhưng vẫn còn quá ít ấn phẩm về ngành hàng, về sản phẩm xuất khẩu
có thế mạnh của nước ta, về thương hiệu Việt Nam được giới thiệu ở nước
ngoài, và ở châu Phi thì lại càng ít. Thời gian tới, thông qua các Thương vụ hoặc
cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại các nước châu Phi, các doanh
nghiệp cần chủ động đẩy mạnh công tác quảng bá sản phẩm và thương hiệu của
100
mình trên thị trường sở tại nhiều hơn nữa, dưới nhiều hình thức khác nhau, cho
đối tượng là các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các doanh nghiệp châu Phi.
Gần đây, một số doanh nghiệp nước ta đã chủ động mở trang web trên
mạng Internet để quảng cáo, giới thiệu về sản phẩm của mình, song số lượng còn
ít và chất lượng chưa cao, cần phải được tăng cường hơn nữa. Các trang web của
doanh nghiệp được coi như những trung tâm thông tin, văn phòng đại diện và
cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp ở mọi nơi, mọi lúc. Trong khi đó, chi phí duy
trì văn phòng ảo này rất thấp nếu so sánh với chi phí cho một văn phòng đại diện
thực sự ở ngoài.
Đối với thị trường xa xôi như các nước châu Phi thì các trang web lại càng
tiết kiệm nhiều chi phí quảng bá sản phẩm và thương hiệu cho doanh nghiệp.
Cần lưu ý là đối với những sản phẩm ít nhiều đã tạo được chỗ đứng trên
thị trường các nước châu Phi, doanh nghiệp nước ta cần sớm đăng ký thương
hiệu và các nội dung có liên quan khác với cơ quan có thẩm quyền của nước sở
tại để tránh những rắc rối không cần thiết về sau.
- Tham dự hội chợ, triển lãm
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đều đã nhận thức được tầm quan
trọng của việc tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế. Tuy nhiên thực tế thời
gian qua cho thấy, do không xác định rõ mục tiêu tham gia hội chợ, triển lãm, do
chưa gắn mục tiêu tham gia với chính sách mặt hàng và chiến lược phát triển của
doanh nghiệp hoặc do những hạn chế về mặt kinh phí nên hoạt động quảng bá
sản phẩm, kiếm tìm đối tác thông qua tham gia hội chợ triển lãm quốc tế của
doanh nghiệp nước ta còn nhiều bất cập, chưa đạt được hiệu quả như mong
muốn. Đặc biệt là khi tham gia các hội chợ, triển lãm ở châu Phi (Nam Phi, Ai
Cập) thì hiệu quả lại càng thấp. Đa số lần tổ chức triển lãm hoặc tham gia hội
chợ, triển lãm, chúng ta chưa vượt ra được tình trạng giới thiệu “các sản phẩm
truyền thống” của một số doanh nghiệp nhất định và kết thúc hội chợ, triển lãm,
chỉ bán, giới thiệu được một số sản phẩm và ký được một số ít hợp đồng.
Để tham gia hội chợ, triển lãm ở châu Phi đạt kết quả tốt, doanh nghiệp
cần lưu ý ít nhất bốn vấn đề: Mục đích và đối tượng (cho đối tác hay người tiêu
dùng, để giới thiệu và bán hàng hay giới thiệu và kiếm tìm đối tác, ...); quy mô
hội chợ, triển lãm định tham gia, địa điểm tham gia; những mặt hàng mà doanh
nghiệp tham gia và; kinh phí tham gia. Theo chúng tôi, doanh nghiệp cần nhận
thức đầy đủ những yếu tố trên đây thì kết quả sẽ khác hơn.
Có thể kể ra một số cuộc triển lãm quốc tế được tổ chức thường niên tại
châu Phi mà doanh nghiệp nước ta cần quan tâm, như triển lãm Saitex (Nam
Phi), hội chợ Cairo (Ai Cập)... Khi tham gia các triển lãm, hội chợ ở Nam Phi
hay Ai Cập, doanh nghiệp có thể nhờ Thương vụ tại đó giúp đỡ về thông tin, về
các thủ tục tham dự cũng như hỗ trợ các hoạt động tại chỗ. Ở những địa bàn
khác, doanh nghiệp có thể nhờ Sứ quán tại chỗ hoặc kiêm nhiệm. Đối với những
101
thị trường mới như các nước châu Phi, việc nhờ cậy giúp đỡ từ Sứ quán và
Thương vụ là rất cần thiết. Riêng về mặt kinh phí, thông qua các hiệp hội, doanh
nghiệp phải biết tận dụng sự hỗ trợ kinh phí từ các chương trình xúc tiến thương
mại quốc gia hoặc địa phương.
- Nghiên cứu thành lập Trung tâm thương mại tại Châu Phi
Trong khi Nhà nước chưa mở Trung tâm thương mại ở các nước châu Phi,
các doanh nghiệp nước ta cũng có thể tự mình mở các trung tâm thương mại,
hoặc các showroom với quy mô nhỏ hơn, để giới thiệu sản phẩm và làm địa
điểm giao dịch. Đây là một hình thức xúc tiến thương mại còn tương đối mới đối
với doanh nghiệp, nhưng lại có hiệu quả cao nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để mở trung tâm thương mại hoặc showroom ở thị trường châu Phi, trong
hoàn cảnh tiềm lực về tài chính, về con người cũng như trình độ kinh nghiệm
của các doanh nghiệp nước ta còn chưa cao, doanh nghiệp trong nước có thể liên
doanh liên kết với nhau, hoặc hợp tác với các đối tác châu Phi, hoặc hợp tác với
cộng đồng người Việt ở nước sở tại. Chúng tôi kiến nghị trước mắt doanh nghiệp
có thể chọn Nam Phi làm địa bàn thử nghiệm để mở trung tâm thương mại hoặc
showroom, vì nước này có nền kinh tế tương đối phát triển, cơ sở hạ tầng tốt,
pháp luật ổn định, hơn nữa lại có Sứ quán và Thương vụ nước ta.
3.2.2.3. Xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với thị trường Châu Phi
Đối với thị trường châu Phi, các doanh nghiệp cần phải kiên trì xây dựng
cho mình những chiến lược kinh doanh phù hợp. Cần hết sức tránh tình trạng
buôn bán theo kiểu chụp giật làm mất uy tín cho cả giới doanh nghiệp Việt Nam.
- Xuất khẩu quan trung gian
Đây là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để
thâm nhập thị trường châu Phi. Hình thức này thích hợp với thời kỳ khai phá thị
trường khi quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp còn nhỏ và các mặt hàng
xuất khẩu còn phân tán. Trên thực tế hiện nay, đối với gạo là mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của nước ta tại châu Phi, 60% được xuất qua trung gian, chủ yếu qua các
công ty châu Âu. Những công ty này có những lợi thế như có kinh nghiệm lâu
năm trong buôn bán ở châu Phi, có tiềm lực tài chính mạnh, hệ thống kho bãi và
phân phối hoàn chỉnh, có quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng châu Âu và Mỹ.
Trong khi đó các ngân hàng này lại kiểm soát các hoạt động thanh toán và tài
chính của phần lớn các nước châu Phi. Do đó những vụ buôn bán lớn với các đối
tác ở đây nhất thiết phải có sự hỗ trợ và chia phần của một hoặc một số nhà tài
phiệt châu Âu, nếu không thì khó thành công.
Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn cần tiếp tục khai thác hình thức xuất
khẩu qua trung gian sang châu Phi trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tương đối mạnh có thể xem xét khả
năng trở thành thành viên của các tập đoàn xuyên quốc gia của EU hoạt động tại
102
châu Phi. Bằng cách này các doanh nghiệp có thể thâm nhập trực tiếp vào các
kênh phân phối chủ đạo trên thị trường châu Phi vì các tập đoàn xuyên quốc gia
đóng vai trò chủ chốt trong các kênh phân phối này. Các nhà nhập khẩu thuộc
các tập đoàn xuyên quốc gia EU thường nhập hàng từ các xí nghiệp, nhà máy
thuộc tập đoàn này thì đương nhiên sản phẩm làm ra sẽ được đưa vào mạng lưới
tiêu thụ.
Ngoài ra, doanh nghiệp nước ta cũng có thể đưa hàng hoá sang thị trường
châu Phi dưới danh nghĩa của nhiều công ty nước ngoài có uy tín đã có mặt từ
lâu trên thị trường này. Do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn
yếu nên liên doanh liên kết dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng
hoá có thể là biện pháp hấp dẫn để thâm nhập được vào thị trường này.
Một hình thức rất đáng quan tâm là thành lập công ty liên doanh một bên
là doanh nghiệp Việt Nam, một bên là đối tác nước ngoài có kinh nghiệm làm ăn
tại thị trường châu Phi. Phía Việt Nam đảm nhận nguồn hàng cung cấp ở trong
nước, còn phía nước ngoài, với kinh nghiệm và mối quan hệ của mình, chịu
trách nhiệm về đầu ra ở các nước châu Phi. Như vậy, công ty liên doanh này về
danh nghĩa là xuất khẩu trực tiếp nhưng thực chất là trung gian xuất khẩu sang
châu Phi cho nhiều doanh nghiệp trong nước.
- Xuất khẩu trực tiếp
Đây cũng là một hình thức được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng,
nhất là tại các quốc gia mà nước ta đã có Thương vụ hoặc cơ quan đại diện ngoại
giao như Nam Phi, Ai Cập, Ăng-gô-la, Angieri và một số nước có hệ thống ngân
hàng tương đối phát triển và khả năng tài chính tương đối mạnh như Maroc,
Tuynidi.
Để có thể xuất khẩu trực tiếp sang các nước châu Phi, các doanh nghiệp
cần phải đầu tư ban đầu rất lớn trên cả hai phương diện vật lực và nhân lực với
sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan trong và ngoài nước. Bản thân các doanh
nghiệp khi đã có những giao dịch trực tiếp với một đối tác châu Phi cũng cần có
biện pháp duy trì mối quan hệ đó mang tính ổn định, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau.
Tất nhiên để có thể đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang châu Phi, ngoài
những hỗ trợ về phía Nhà nước, các doanh nghiệp phải chủ động có những biện
pháp đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp châu Phi, đặc biệt là ở hai
điểm: giao hàng và thanh toán. Như chúng ta đều biết, về giao hàng, rất ít khi
các đối tác châu Phi nhập những lô hàng lớn mà thường là những đơn hàng nhỏ
lẻ. Điều này gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp nước ta, trong khi các đối
thủ cạnh tranh như Trung Quốc hay Thái Lan đã có cách đáp ứng bằng cách tự
mình, hoặc liên kết lại với nhau, xuất hàng sang châu Phi theo kiểu "bách hóa",
tức là cùng một chuyến hàng có nhiều chủng loại hàng hóa khác nhau. Các
doanh nghiệp cần nghiên cứu tăng cường xuất khẩu trực tiếp theo kiểu như vậy
thì mới đáp ứng được những yêu cầu của thị trường châu Phi.
103
Về thanh toán, để đáp ứng được yêu cầu thanh toán chậm, các doanh
nghiệp phải nắm vững thông tin và xây dựng được mối quan hệ tin cậy với đối
tác châu Phi, phải biết dựa vào sự tư vấn của các cơ quan chức năng, đặc biệt là
Sứ quán và Thương vụ. Tất nhiên trong trường hợp L/C trả chậm, doanh nghiệp
khi xuất hàng phải đề nghị đối tác châu Phi mở L/C này tại một ngân hàng có uy
tín của Mỹ hoặc châu Âu.
Trong buôn bán trực tiếp, những doanh nghiệp quyết tâm làm ăn lâu dài ở
thị trường châu Phi nên xem xét lập kho ngoại quan, đặc biệt tại các nước trọng
điểm mà nước ta đã có Sứ quán và cơ quan Thương vụ như Nam Phi, Ai Cập.
Đối với một số nước nhập khẩu nhiều gạo như Xê-nê-gan và Ni-giê-ri-a cũng có
thể áp dụng hình thức này. Điều này sẽ cho phép doanh nghiệp giới thiệu và bán
sản phẩm một cách trực tiếp, đáp ứng được những đơn hàng mang tính thời vụ.
- Gắn xuất khẩu với nhập khẩu
Trong chiến lược kinh doanh tại thị trường châu Phi, doanh nghiệp nước
ta cũng cần lưu ý đến mảng nhập khẩu. Để có thể nhập khẩu từ châu Phi các sản
phẩm có tính cạnh tranh, chất lượng hợp lý và giá thành hạ, đặc biệt đối với
những mặt hàng nguyên nhiên liệu và khoáng sản phục vụ sản xuất, nhất thiết
doanh nghiệp phải cử người sang thâm nhập thực tế, gặp gỡ tiếp xúc các đối tác
sở tại, tìm hiểu khả năng cung cấp của thị trường, từ đó xây dựng mối quan hệ
lâu dài, tin cậy lẫn nhau.
Doanh nghiệp cũng có thể gắn nhập khẩu với xuất khẩu thông qua phương
thức hàng đổi hàng. Chẳng hạn nếu doanh nghiệp nước ta tìm được cơ hội xuất
khẩu sang một nước châu Phi nhưng khả năng thanh toán của đối tác kém thì có
thể nhập khẩu để bù trừ. Ngoài ra, phương thức hàng đổi hàng có thể thực hiện
thông qua sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước. Chẳng hạn một doanh
nghiệp nước ta vốn dĩ đang nhập khẩu từ châu Phi, tuy nhiên lại chưa có nhu cầu
xuất khẩu thì có thể hợp tác với một doanh nghiệp thứ ba trong nước để đề nghị
đối tác châu Phi nhập khẩu từ doanh nghiệp thứ ba này.
- Đầu tư tại thị trường Châu Phi
Đối với châu Phi, khi mà khả năng đầu tư ra bên ngoài của hầu hết các
nước trong châu lục hiện vẫn còn rất hạn chế thì họ lại đang ra sức thu hút đầu tư
nước ngoài với nhiều chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư.
Trong những năm 90, các doanh nghiệp nước ta đã có một số dự án đầu tư
ở Ăng-gô-la, Libi. Gần đây, đầu tư sang châu Phi được mở rộng sang một số
nước như Angieri, Namibia. trong lĩnh vực khai thác dầu khí, sản xuất đồ nhựa.
Hoạt động đầu tư có tác động trực tiếp đến trao đổi thương mại. Đầu tư
vào thị trường châu Phi không chỉ nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm làm ra ở thị
trường nội địa, mà từ đó còn xuất khẩu sang các nước trong khu vực hoặc các
nước EU và Mỹ, để tận dụng những ưu đãi thương mại mà các nước châu Phi
được hưởng thông qua các thoả thuận song phương và đa phương. Đầu tư ra
104
nước ngoài còn là một hình thức kinh doanh mà các doanh nghiệp nước ta cần
áp dụng để chuẩn bị trước cho giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế Việt
Nam trong đầu thế kỷ 21.
Các doanh nghiệp có thể nghiên cứu khả năng đầu tư tại các nước châu
Phi trong một số ngành sau:
• Dệt may: Đầu tư vào dệt may là nhằm tái xuất sang thị trường châu
Âu và Mỹ, tận dụng các ưu đãi mà các nước châu Phi này được hưởng, đồng
thời cũng phục vụ tiêu dùng ngay tại thị trường sở tại, nơi mà hàng dệt may
Trung Quốc đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường trong tầng lớp bình dân.
• Chế biến gỗ: Một số nước như Tanzania, Cốt-đi-voa, Xê-nê-gan có
nguồn nguyên liệu gỗ khá phong phú trong khi công nghiệp chế biến gỗ chưa
phát triển, thường phải gỗ nguyên liệu sang châu Âu và nhập trở lại thành phẩm.
Đầu tư vào công việc chế biến gỗ cho phép tận dụng nguồn nguyên liệu gỗ tại
các nước này và phát huy khả năng kỹ thuật cũng như nguồn nhân công của
nước ta.
• Chế biến nông sản: Mặc dù các nước châu Phi đã phát triển công
nghiệp chế biến nông sản, nhưng đối với một số ngành hàng khả năng chế biến
còn thấp, chẳng hạn hạt điều. Khả năng chế biến của các nhà máy hạt điều nước
ta rất lớn, trong khi nguồn nguyên liệu tại chỗ chưa đủ đáp ứng, vì vậy cần xem
xé khả năng đầu tư chế biến mặt hàng này ngay tại các nước châu Phi.
• Thuỷ sản: Lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản của
các nước châu Phi chưa phát triển, trong khi nước ta có thế mạnh về lĩnh vực
này. Thậm chí một số nước như Tanzania, Xê-nê-gan còn đề nghị đội tàu đánh
cá của ta sang khai thác vùng biển của họ. Đây cũng là một khả năng để xem xét
đầu tư.
• Công nghiệp nhựa: hiện nay ngành công nghiệp nhựa của nước ta
đang phát triển khá nhanh và đã cho ra đời nhiều loại sản phẩm với mẫu mã hấp
dẫn, chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh. Đây chính là một lợi thế khi đầu tư vào
các nước châu Phi, nơi mà nhu cầu về các sản phẩm nhựa gia dụng là rất lớn
trong khi trình độ sản xuất tại chỗ còn kém phát triển, người dân nhìn chung phải
dùng sản phẩm nhựa gia công có mẫu mã xấu và chất lượng kém.
• Dược phẩm: Nhiều nước châu Phi, hàng năm đều phải nhập khẩu
một khối lượng lớn dược phẩm để đáp ứng nhu cầu trong nước, chủ yếu là từ các
nước châu Âu, với giá nhập khẩu cao hơn nhiều so với giá sản phẩm cùng loại
mà nước ta sản xuất được. Vì vậy, dược phẩm Việt Nam với những ưu thế về
chất lượng và giá cả có thể chinh phục được thị trường ở đây. Các mặt hàng có
khả năng tiêu thụ lớn là kháng sinh, thuốc trị cảm sốt, trị các bệnh truyền nhiễm,
vitamin. Đây là cơ hội để doanh nghiệp nước ta xúc tiến đầu tư sản xuất dược
phẩm, trước tiên có thể vào Nam Phi để phân phối cho các nước trong khu vực.
105
• Hàng điện tử - tin học: Nhu cầu về các mặt hàng điện tử - tin học ở
các nước châu Phi đang tăng mạnh. Tuy nhiên nhiều nước, như Ni-giê-ri-a,
Tanzania, Xê-nê-gan, Côte d’Ivoire. đều phải nhập khẩu phần lớn các mặt hàng
này. Do phí vận tải cao nên giá thành thường đắt hơn thị trường Mỹ hay EU từ
50 - 100%. Vì vậy đầu tư sản xuất hay lắp ráp tại chỗ sản phẩm điện tử - tin học
ở các thị trường này dễ thu được lợi nhuận cao.
Những lĩnh vực đầu tư trên chỉ mang tính gợi ý. Bản thân các doanh
nghiệp cần phải có những nghiên cứu thị trường cụ thể trong lĩnh vực kinh
doanh của mình, để từ đó xây dựng dự án đầu tư có tính khả thi.
Khi tiến hành các hoạt động đầu tư, trong trường hợp khả năng tài chính
của các doanh nghiệp chưa cho phép thành lập công ty đầu tư 100% vốn của
Việt Nam, doanh nghiệp có thể liên doanh với một doanh nghiệp nước thứ ba
(thường là của châu Âu), hoặc một doanh nghiệp đáng tin cậy của nước sở tại,
hoặc liên kết với cộng đồng người Việt.
3.2.2.4. Cần chú ý đến các đặc điểm của thị trường châu Phi khi xuất khẩu vào
thị trường này
Kinh doanh ở thị trường châu Phi đòi hỏi phải nắm rõ một số đặc điểm
quan trọng của thị trường này. Cụ thể là những điểm sau:
- Phải có tính kiên trì: Quá trình giải quyết giấy tờ, các thủ tục hành chính
quan liêu làm cho công việc kinh doanh ở các nước châu Phi rất mất thời gian.
Các doanh nghiệp không nên nghĩ rằng có thể sang một nước châu Phi, gặp gỡ
đối tác giao dịch trong một tuần là có thể ký được hợp đồng. Để đi đến một giao
dịch, có thể phải mất một năm hoặc lâu hơn.
- Phải làm quen với đặc điểm văn hoá địa phương: Các nước châu Phi đều
có những đặc điểm văn hóa riêng. Một người kinh doanh luôn phảI dành thời
gian để nghiên cứu nền văn hóa bản địa. Đặc biệt ở những nước Hồi giáo như Ai
Cập, Ma-rốc, thì phải có sự hiểu biết về tín ngưỡng Hồi giáo, và biết càng nhiều
tiếng Arập càng tốt.
- Phải tỏ ra gần gũi đối tác: Khi gặp gỡ đối tác là một doanh nhân châu
Phi, sự gần gũi cởi mở là điều hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp cần chú ý
không nên đi ngay vào bàn việc kinh doanh mà trước đó có thể trò chuyện với
họ về thời sự, chuyện gia đình .để tạo bầu không khĩ gần gũi, tin cậy lẫn nhau.
- Phải luôn linh hoạt, mềm dẻo: Thị truờng châu Phi có tính thay đổi cao
và ít tính nhất quán. Đây thực sự là khó khăn đặc thù mà doanh nghiệp nước ta
phải luôn chú ý. Chẳng hạn khi đã ký được hợp đồng, không nên lúc nào cũng
nghĩ rằng các điều khoản của hợp đồng đó sẽ được giữ nguyên trong thời hạn
hiệu lực. Người lãnh đạo doanh nghiệp phải linh hoạt để làm cho công việc kinh
doanh phù hợp với thực tế trong từng thời điểm.
106
3.2.2.5. Tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành hàng và sự hợp tác giữa các
doanh nghiệp
Ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều hiệp hội ngành hàng, nhưng chỉ trong vài
năm gần đây, khi khó khăn nảy sinh ngày càng nhiều đối với các doanh nghiệp,
cùng với tác động của các cuộc chiến thương mại quốc tế, chúng ta mới nhận
thức đầy đủ và sâu sắc vai trò của hiệp hội, từ việc đứng ra giải quyết kiện cáo
cho doanh nghiệp đến việc điều tiết thu hoạch sản phẩm, ấn định giá sàn sản
phẩm, đưa ra các tiêu chuẩn về sản phẩm để bảo vệ quyền lợi cho hội viên.
Riêng đối với châu Phi, các hiệp hội cần có những hành động cụ thể để hỗ
trợ cho doanh nghiệp thâm nhập thị trường châu Phi, đặc biệt đối với trong
những ngành hàng chúng ta có thế mạnh xuất khẩu tại thị trường này như gạo,
hạt tiêu, chè, dệt may, giày dép, xe máy xe đạp. Chẳng hạn các hiệp hội có thể
thành lập các quỹ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu hay quỹ bảo hiểm xuất khẩu của
riêng hiệp hội, trong đó có những cơ chế riêng giúp đỡ cho hội viện buôn bán
với thị trường châu Phi. Nguồn vốn cho những quỹ này, ngoài một phần kinh phí
do Chính phủ hỗ trợ, chủ yếu sẽ do các hội viên đóng góp, với một định mức
đóng góp hàng năm theo tỷ lệ trên doanh thu.
Các hiệp hội cũng cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị
trườngchâu Phi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là thông qua các chương trình
xúc tiến thương mại quốc gia.
Các Hiệp hội cũng phải quan tâm động viên tinh thần hợp tác giữa các hội
viên. Quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không có nghĩa là chối bỏ sự
hợp tác, mà các doanh nghiệp, với tư cách là những bộ phận hợp thành nền kinh
tế quốc dân thống nhất, phải xem hợp tác là biện pháp quan trọng để hạn chế
những mặt tiêu cực của cơ chế cạnh tranh.
Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cần được đẩy mạnh trong vấn đề thông
tin về các cơ hội kinh doanh, về kinh nghiệm làm ăn ở thị trường châu Phi. Đặc
biệt, để thâm nhập thị trường châu Phi trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp cần
liên kết trong việc góp vốn mở kho ngoại quan, mở showroom, phối hợp trong
phương thức hàng đổi hàng, trong đấu thầu xây dựng hoặc trong các dự án đầu
tư.
3.2.3. Một số giải pháp cho các khu vực thị trường trọng điểm
3.2.3.1. Khu vực Bắc Phi
- Phát huy vai trò của các Uỷ ban hỗn hợp
Trong số các nước Bắc Phi, Việt Nam đã thành lập Uỷ ban hỗn hợp với
các nước Ai Cập, Libi, Tuynidi, Angeri và Maroc. Đây là cơ chế hợp tác quan
trọng giữa Việt Nam với các nước này ở cấp độ Chính phủ.
107
Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh vai trò của các uỷ ban hỗn hợp này để
tăng cường quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và hỗ trợ cho các
doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào khu vực thị trường này.
- Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các khu tự do của Ai Cập
Hiện nay Ai Cập ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư vào các
khu kinh tế tự do của nước này. Đầu tư sản xuất tại đây các doanh nghiệp có thể
tận dụng các ưu đãi về đầu tư của Chính phủ Ai Câp, nguồn nhân công rẻ, lấy
đây làm bàn đạp để xuất khẩu vào thị trường Châu Phi thông qua các ưu đãi
thương mại trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do Ai Cập ký kết với
các nước Châu Phi.
- Tăng cường việc tham dự các Hội chợ quốc tế
Các hội chợ quốc tế được tổ chức tại Cairo (Ai Cập) và Alger (Angeri) là
những hội chợ thường niên lớn nhất ở châu Phi. Các doanh nghiệp cần quan tâm
tham gia các hội chợ này để quảng bá các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
3.2.3.2. Khu vực Tây Phi
- Tăng cường công tác khảo sát thị trường và xúc tiến thương mại
Do hiểu biết của doanh nghiệp Việt Nam về khu vực thị trường này còn
hạn chế nên các chuyến đi khảo sát thị trường và xúc tiến thương mại là rất cần
thiết. Tuy nhiên, để tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường
này chuyến đi này sao cho hiệu quả và đem lại kết quả thiết thực cho các doanh
thì công tác chuẩn bị phải được làm kỹ lưỡng.
- Mở hoặc thuê kho ngoại quan
Như đã trình bày ở trên, mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam
vào thị trường Tây Phi là gạo. Gạo thường chiếm trên 90% kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam vào các thị trường này và trong thời gian tới, giá trị xuất khẩu này
được dự đoán là tiếp tục tăng. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý xa xôi và cước vận
chuyển khá cao trong khi các Hợp đồng mua bán gạo thường nhỏ lẻ hoặc nếu là
các hợp đồng lớn thì phải qua một trung gian châu Âu, nên việc buôn bán gặp
nhiều khó khăn. Vì thế, một biện pháp thích hợp để các doanh nghiệp Việt Nam
có thể tích kiệm chi phí vận chuyển là mở kho ngoại quan để có thể lưu giữ hàng
hoá đã làm thủ tục hải quan chờ xuất khẩu hoặc chờ nhập khẩu vào nước sở tại.
Các địa điểm có thể nghiên cứu mở hoặc thuê kho ngoại quan là Ghana
hoặc Xê-nê-gan vì đây là các nước có môi trường kinh tế, chính trị ổn định và sự
giao thương dễ dàng với các nước lân cận
- Đầu tư sản xuất tại nước sở tại
Khu vực Tây Phi là khu vực xa xôi, việc vận chuyển hàng hoá bằng đường
biển không thuận lợi, giá cước vận chuyển cao nên đối với các mặt hàng như
hàng nhựa, vật liệu xây dựng, hàng thực phẩm chế biến... các doanh nghiệp Việt
108
Nam có thể đầu tư sản xuất ngay tại các nước này để tận dụng nguồn nguyên
liệu và tránh được thuế, giảm các chi phí đầu vào.
3.2.3.3. Khu vực Đông Phi, Nam Phi và Trung Phi
- Thành lập cơ quan Thương vụ tại Ăn-gô-la
Mặc dù số lượng người Việt sinh sống và làm việc tại Ăng-gô-la là gần
3000 người nhưng phần lớn là làm ăn nhỏ lẻ, và hiện nay hình thức buôn bán
nhỏ lẻ đã bắt đầu gặp khó khăn do có những thay đổi trong Luật Thương mại
mới của chính phủ Ăng-gô-la. Cơ quan thương vụ của Việt Nam thành lập tại
đây sẽ có chức năng là nơi tập hợp lực lượng tại Ăng-gô-la và cũng là đầu mối
liên hệ với các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, sau gần 30 năm chiến tranh,
sản xuất trong nước chậm phát triển, nhu cầu lại lớn và đa dạng cho rất nhiều
mặt hàng. Bên cạnh Đại sứ quán thì Thương vụ Việt Nam tại Ăng-gô-la, với
chức năng chuyên trách về kinh tế-thương mại sẽ tập hợp những thông tin về thị
trường và nhu cầu với từng mặt hàng, tập quán thị trường để cung cấp cho các
doanh nghiệp Việt Nam.
- Thành lập các trung tâm thương mại Việt Nam tại Nam Phi và Ăng-gô-la
Trên cơ sở có cơ quan đại diện của Việt Nam cùng đông đảo người Việt
tại khu vực này, ta có thể nghiên cứu xây dựng trung tâm giới thiệu và bán hàng
Việt Nam tại Nam Phi và Ăng-gô-la.
- Phát huy vai trò cầu nối của cộng đồng người Việt tại Nam Phi và Ăng-
gô-la
Với lực lượng đông đảo người Việt Nam tại Nam Phi và Ăng-gô-la, đây là
cầu nối quan trọng giữa Việt Nam và các nước này. Do vậy, việc thành lập các
hội doanh nghiệp Việt Nam tại Nam Phi và Ăng-gô-la là rất cần thiết trong việc
đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường này thông qua việc gắn kết quan hệ giữa
các thành viên của hội và các doanh nghiệp trong nước.
- Thành lập hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam – Nam Phi
Đây là mong muốn của các doanh nghiệp Nam Phi và Việt Nam nhằm
thiết lập một diễn đàn không chính thức, giúp doanh nghiệp hai bên tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin về các lĩnh vực có thể
hợp tác buôn bán hoặc đầu tư, góp phần thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại
giữa hai nước.
3.3. Các kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào
thị trường Châu Phi
Để các giải pháp đã nêu ở trên đi vào thực thi và có hiệu quả nhằm góp
phần đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các nước Châu Phi, đề
tài đề xuất một số kiến nghị sau đây:
3.3.1. Đới với các cơ quan quản lý Nhà nước
109
Thứ nhất, cần tiếp tục tăng cường các cuộc viếng thăm và trao đổi các
đoàn lãnh đạo cấp cao, đoàn cấp Bộ, ngành và tận dụng cơ hội gặp gỡ cấp cao tại
các diễn đàn quốc tế nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam
với châu Phi và trước mắt là với các thị trường trọng điểm như: Nam Phi, Ai
Cập, Angreri, Marốc, Xê-nê-gan, Tanzania, Ăng-gô-la…
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của việc trao đổi các đoàn cấp
cao là ký được các hiệp đinh hợp tác kinh tế- thương mại, các hợp đồng hoặc các
biên bản ghi nhớ để mở đường cho các doanh nghiệp và hàng hoá Việt Na vào
châu Phi.
Thứ hai, cần sớm xây dựng chương trình hành động đẩy mạnh xuất khẩu
vào thị trường các nước Châu Phi và thực thi các chính sách đặc thù đối với châu
Phi nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này.
Thứ ba, do phần lớn các nước thuộc châu Phi là các nước nghèo, khả năng
thanh toán có hạn và đồng nội tệ của họ cũng chưa có khả năng chuyển đổi, nên
để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường châu Phi, hầu hết các nước phát triển đều
tiếp cận theo hướng tăng viện trợ không hoàn lại hoặc cấp tín dụng ưu đãi ODA,
sau đó đặt điều kiện buôc các nước châu Phi phải mua lại hàng hoá của các
doanh nghiệp thuộc các nước viện trợ.
Hiện nay, một trong những khó khăn đối với hầu hết các doanh nghiệp
Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường châu Phi là ở khâu thanh toán.
Trong điều kiện khả năng tài chính của doanh nghiệp còn hạn chế, lãi suất tín
dụng cao, nên các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể dành cho bên mua hàng
(các nhà nhập khẩu châu Phi) áp dụng thanh toán bằng hình thức trả chậm và
càng không thể thực hiện thanh toán bằng đồng tiền bản tể của họ. Trên thực tê,
để thâm nhập và kinh doanh trên thị trường này, một số doanh nghiệp Việt Nam
đã sử dụng hình thức thanh toán thông qua dịch vụ bảo lãnh thanh toán qua ngân
hàng của các nước phát triển hoặc xuất khẩu qua trung gian (tức là thông qua các
doanh nghiệp của các nước phát triển hoặc các tập đoàn xuyên quốc gia). Điều
đó đã làm tăng chi phí và giảm hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của các doanh
nghiệp Việt Nam sang thị trường châu Phi.
Từ thực tế này, đề tài kiến nghị cần xác định rõ trong văn bản pháp quy
một cách cụ thể rằng các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu với châu Phi
được vay vốn ưu đãi (việc ưu tiên, ưu đãi này phải đúng đối tượng và không vi
phạm các nguyên tắc của WTO). Đồng thời, cần mở rộng và phát triển các dịch
vụ bảo lãnh thanh toán và bảo hiểm rủi ro cho các doanh nghiệp kinh doanh với
châu Phi.
Thứ tư, Chính phủ và Bộ Công Thương cần có biện pháp hỗ trợ thích hợp
và khuyến khích các doanh nghiệp triển khai xây dựng kho ngoại quan hoặc
trung tâm thương mại Việt Nam tại một số thị trường châu Phi trọng điểm.
110
Thứ năm, cần tăng cường công tác thông tin, xúc tiến thương mại, đặc biệt
là nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam
tại châu Phi. Muốn vây, phải tiếp tục mở rộng việc thành lập các đại sứ quán,
thương vụ của Việt Nam ở các nước châu Phi, trước hết là những nước được coi
là những thị trường trọng điểm của Việt Nam.
Thứ sáu, tiếp tục đổi mới và hoàn thành chính sách khuyến khích đầu tư
sang các nước châu Phi theo hướng: - Đảm bảo đầu tư để bảo vệ quyền lợi của
các doanh nghiệp trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, trong đó có châu Phi; -
Cải cách quản lý hành chính về đầu tư ra nước ngoài để Đơn giản hoá các trình
tự thẩm định; - Mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong quyết đinh
đầu tư, sớm đưa ra danh mục các lĩnh vực khuyến khích đầu tư.
3.3.2. Đới với các doanh nghiệp
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần tích cực và kiên trì hơn trong việc tìm
kiếm thông tin và thực hiện kinh doanh tại thị trường châu Phi. Nên nghiên cứu
và xúc tiến đặt đại diện tại những thị trường trọng điểm, những thị trường với vai
trò là “cửa ngõ” của châu Phi. Xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường châu
Phi thích hợp trên cơ sở lợi thế so sánh của doanh nghiệp. Muốn vậy, cần phối
hợp chặt chẽ với các đại sứ quán, các thương vụ, các cơ quan có liên quan của
Bộ Công Thương và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần thúc đẩy các cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp
với các bạn hàng châu Phi về nhu cầu, thói quen, tập quán tiêu dùng của thị
trường mỗi nước. Do đặc điểm của các doanh nghiệp châu Phi, cần liên kết tổ
chức các đoàn xúc tiến quy mô nhỏ với khoảng 5-6 doanh nghiệp để gặp gỡ, trao
đổi trực tiếp với các đối tác châu Phi.
Thứ ba, do khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và châu Phi khá xa và khó
khăn trong vận tải, các doanh nghiệp cần nghiên cứu, xem xét, cân nhắc và lựa
chọn việc mở hoặc thuê kho ngoại quan và các trung tâm thương mại, cửa hàng
tại Châu Phi
Thứ tư, cần đẩy mạnh công tác quảng bá và tiếp cận thị trường thông qua
việc tham gia tích cực và hiệu quả vào các cuộc hội chợ, triển lãm quốc tế... để
tím kiếm và mở rộng khách hàng, thị phần kinh doanh.
Thứ năm, từng doanh nghiệp cần cân nhắc lựa chọn chiến lược kinh
doanh, phương thức kinh doanh, mặt hàng kinh doanh một cách phù hợp với
từng thị trường châu Phi.
Thứ sáu, để tăng cường đầu tư sang các nước châu Phi, các doanh nghiệp
cần tăng cuờng sự liên kết hợp tác với nhau để đầu tư vào châu Phi, đồng thời
cần liên hệ hợp tác chặt chẽ với Việt kiều ở các nước châu Phi. Đây là điều kiện
thuận lợi để doanh nghiệp am hiểu mội trường, tập quan, luật pháp, chính sách…
của nước sở tại.
111
KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu
đóng vai trò hết sức quan trọng. Để tăng cường xuất khẩu, việc phát triển các thị
trường mới có ý nghĩa sống còn. Đặc biệt, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính
toàn cầu hiện nay, khi các thị trường truyền thống gặp nhiều khó khăn, việc phát
triển các thị trường mới càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Đề tài nghiên cứu khoa học “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường
Châu Phi” đề cập đến một khu vực thị trường còn nhiều khó khăn nhưng có tiềm
năng to lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, đó là thị trường các nước
Châu Phi.
Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ châu Phi nằm trong số những khu vực
thị trường tiềm năng mà nước ta cần đẩy mạnh quan hệ thương mại nói chung và
hoạt động xuất khẩu nói riêng. Nhưng làm thế nào để biến tiềm năng đó thành
hiện thực lại là việc không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực từ các cơ quan quản
lý Nhà nước cũng như từ các doanh nghiệp.
Với tinh thần đó, đề tài này có mục tiêu chủ yếu là xây dựng cơ sở khoa
học để đề ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường châu Phi,
góp phần xây dựng chính sách phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với
các nước châu Phi từ nay đến năm 2015.
Theo trình tự nội dung, trước hết đề tài đã giới thiệu tổng quan về châu
Phi, tìm hiểu thị trường châu Phi và quan hệ thương mại của các nước châu Phi.
Tiếp đó, đề tài đã nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường các nước Châu Phi, tập trung vào giai đoạn 2001-2007. Cuối cùng, đề tài
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị dưới cấp độ Nhà nước và cấp độ doanh
nghiệp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường châu Phi.
Tuy nhiên, châu Phi là một lục địa rộng lớn với dân số đông, các quốc gia
lại khác biệt nhau khá lớn về chính trị xã hội, kinh tế thương mại, văn hóa tôn
giáo, nên để tìm ra những giải pháp cụ thể, chi tiết cho việc phát triển quan hệ
thương mại với các nướctrong châu lục này, cần phải có nhiều nghiên cứu
chuyên sâu. Đặc biệt, có một số quốc gia như Cộng hoà Nam Phi hay Ai Cập,
hay một số tổ chức hợp tác khu vực như COMESA, SACU… cần phải có những
công trình nghiên cứu riêng biệt. Hy vọng công việc này sẽ được các cơ quan
quản lý Nhà nước, các trường đại học, các viện nghiên cứu, hay các học giả quan
tâm thựchiện trong tương lai.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã gặp nhiều khó khăn
trong khâu thu thập thông tin, dữ liệu. Trên thực tế, ở nước ta hiện nay, tài liệu
và thông tin về các nước châu Phi, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, là tương
đối ít. Chúng tôi đã cố gắng tổng hợp tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau trong và
ngoài nước, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót.
112
Hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhỏ bé cho các
nhà hoạch định chính sách cũng như cho các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu sang thị trường các nước châu Phi.
113
PHỤ LỤC 1
SỐ LIỆU TỔNG QUAN VỀ CÁC NƯỚC CHÂU PHI NĂM 2007
Diện tích
(km2)
Dân số
(người)
GDP
(tỷ USD)
GDP/người
(USD/người)
Xuất khẩu
(triệu USD
FOB)
Nhập khẩu
(triệu USD
FOB)
Bắc Phi
1 An-giê-ri 2,381,740 33,769,668 131.6 3,896.99 60,510 26,250
2 Ai-cập 1,001,450 81,713,520 127.9 1,565.22 12,450 44,950
3 Li-bi 1,759,540 6,173,579 57.06 9,242.61 42,970 14,430
4 Ma-rốc 446,550 34,343,220 73.43 2,138.12 12,750 28,500
5 Xu-đăng 2,505,810 40,218,456 46.16 1,147.73 8,879 7,722
6 Tuy-ni-di 163,610 10,383,577 35.01 3,371.67 15,150 18,020
Đông Phi
7 Bu-run-đi 27,830 8,691,005 1.001 115.18 44 272
8 Gi-bu-ti 23,000 506,221 0.841 1,661.33 340 1,555
9 Ê-ri-tơ-rê-a 121,320 5,502,026 1.316 239.18 12 573
10 Ê-ti-ô-pi-a 1,127,127 82,544,840 19.43 235.39 1,288 5,165
11 Kê-ni-a 582,650 37,953,840 29.3 771.99 4,127 8,540
12 Ma-đa-gát-xca 587,040 20,042,552 7.322 365.32 986 1,918
13 Ma-la-uy 118,480 13,931,831 3.538 253.95 604 866
14 Mô-ri-xơ 2,040 1,274,189 6.959 5,461.51 2,231 3,656
15 Mô-dăm-bích 801,590 21,284,700 7.559 355.14 2,412 2,811
16 Rê-u-ni-on 2,512 793,000 0.00
17 Ru-an-đa 26,338 10,186,063 3.32 325.94 184 637
18 Xây-sen 455 82,247 0.71 8,632.53 395 823
19 Xô-ma-li 637,657 9,558,666 2.509 262.48 300 798
114
20 Tan-da-ni-a 945,087 40,213,160 16.18 402.36 2,227 4,861
21 U-gan-đa 236,040 31,367,972 11.23 358.01 1,686 2,983
22 Dăm-bi-a 752,614 11,669,534 11.16 956.34 4,594 3,611
23 Dim-ba-bu-ê 390,580 11,350,111 0.641 56.48 1,520 2,183
Nam Phi
24 Bốt-xoa-na 600,370 1,842,323 12.31 6,681.78 5,025 3,403
25 Lê-xô-thô 30,355 2,128,180 1.6 751.82 853 1,536
26 Na-mi-bi-a 825,418 2,088,669 7.4 3,542.93 2,919 3,091
27 Nam Phi 1,219,912 48,782,756 282.6 5,793.03 76,190 81,890
28 Xoa-di-len 17,363 1,128,814 2.936 2,600.96 1,926 1,914
Tây Phi
29 Bê-nanh 112,620 8,532,547 5.433 636.74 586 1,085
30 Buốc-ki-na Pha-sô 274,200 15,264,735 6.977 457.07 617 1,296
31 Cáp-ve 4,033 426,998 1.428 3,344.28 76.5 743.6
32 Cốt-đi-voa 322,460 20,179,602 19.6 971.28 8,476 5,932
33 Găm-bi-a 11,300 1,735,464 0.653 376.27 88 271
34 Gha-na 239,460 23,382,848 14.86 635.51 4,162 8,053
35 Ghi-nê 245,857 9,806,509 4.714 480.70 1,128 1,202
36 Ghi-nê Bít-xao 36,120 1,503,182 0.343 228.18 133 200
37 Li-bê-ri-a 111,370 3,334,587 0.73 218.92 1,197 7,143
38 Ma-li 1,240,000 12,324,029 6.745 547.30 294 2,358
39 Mô-ri-ta-ni 1,030,700 3,364,940 2.756 819.03 1,395 1,475
40 Ni-giê 1,267,000 13,272,679 4.174 314.48 428 800
41 Ni-giê-ri-a 923,768 146,255,312 166.8 1,140.47 61,790 38,500
42 Xê-nê-gan 196,190 12,853,259 11.12 865.15 1,650 3,731
115
43 Xi-ê-ra Lê-ôn 71,740 6,294,774 1.664 264.35 216 560
44 Tô-gô 56,785 5,858,673 2.497 426.21 702 1,201
Trung Phi
45 Ăng-gô-la 1,246,700 12,531,357 61.36 4,896.52 45,030 12,290
46 Ca-mơ-run 475,440 18,467,692 20.65 1,118.17 3,827 3,714
47 Cộng hòa Trung Phi 622,984 4,444,330 1.714 385.66 146.70 237.30
48 Sát 1,284,000 10,111,337 7.095 701.69 4.20 1.16
49 Công-gô 342,000 3,903,318 7.657 1,961.66 5,800 2,634
50
Cộng hoà dân
chủ Công-gô
(Dai-a)
2,345,410 66,514,504 10.14 152.45 1,587 2,263
51 Ghê-nê Xích-đạo 28,051 616,459 10.49 17,016.54 9,904 3,083
52 Ga-bông 267,667 1,485,832 11.3 7,605.17 6,956 2,107
53 Xao-tô-mê và Prin-xi-pê 1,001 206,178 0.144 698.43 9 66
Tổng 30,093,878 973,143,945 1,283 1,317.90 418,813 374,388
Nguồn: CIA World Fact Book
116
PHỤ LỤC 2
KIM NGẠCH THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC CHÂU PHI, 2005 – 6 THÁNG 2008
Đơn vị: USD
2005 2006 2007 6 tháng 2008
Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu
Bắc Phi
1 An-giê-ri 30.935.334 34.183.845 253.407 40.457.190 53.986.940 399.240
2 Ai-cập 44.716.677 19.122.828 48.975.896 7.927.293 97.306.841 15.225.769 90.153.719 5.112.872
3 Li-bi 1.697.142 5.149.759 2.350.045 1.153.449
4 Ma-rốc 8.147.183 645.878 11.128.790 900.042 27.053.216 466.401 18.499.805 2.574.739
5 Xu-đăng 6.188.175 534.315 3.408.466 4.118.060 12.931.778 9.966.536 7.820.989 28.000.547
6 Tuy-ni-di 2.398.160 5.065.751 3.612.447 9.877.671 6.123.752 1.443.942 5.981.564 5.466.301
Đông Phi
7 Bu-run-đi 728.600 3.392.668 17.948 701.716 15.446 42.656 37.555
8 Cô-mô-rốt 723.806 2.880 72.204
9 Gi-bu-ti 565.255 1.549.070 554.761 20.520 779.119 62.027
10 Ê-ri-tơ-rê-a 56.232 16.000 2.016.581 84.250 1.592.768 61.283 647.002
11 Ê-ti-ô-pi-a 6.497.999 22.104 25.863.134 40.060 11.068.608 1.488.176 504.598
12 Kê-ni-a 24.606.963 2.242.732 29.091.290 4.035.991 9.736.288 1.834.405 27.188.484 1.541.733
13 Ma-đa-gát-xca 3.579.173 191.928 3.012.730 428.982 9.336.363 521.053 3.923.776 144.500
14 Ma-la-uy 357.221 122 271.938 19.102 3.357.093 75.753 214.304 18.615
15 Mô-ri-xơ 287.819 97.001 1.720.324 2.146.290 3.688.466 2.136.154 1.960.608 1.053.006
16 Mô-dăm-bích 32.550.571 3.235.402 10.076.751 3.896.625 11.017.624 6.318.179 6.261.137 4.809.473
17 Ru-an-đa 1.297.784 110.668 2.525.773 109.061 2.408.425 43.462 51.647
18 Xây-sen 265.359 104.932 484.480 434.610 74.878 277.503 31.040
19 Xô-ma-li 1.131.662 176.514 917.268 554.269 211.753
20 Tan-da-ni-a 22.485.200 4.750.668 22.606.522 7.794.899 18.333.753 3.916.781 14.990.641 11.598.620
21 U-gan-đa 1.415.449 204.181 3.981.757 1.604.818 2.104.402 6.031.024 2.993.622 3.069.796
22 Dăm-bi-a 1.522.946 1.367.849 2.084.027 1.474.755 4.667.495 151.102 2.223.525 8.600
117
23 Dim-ba-bu-ê 225.356 647.007 47.916 1.681.863 722.880 1.160.380 10.447 577.230
Nam Phi
24 Bốt-xoa-na 132.883 1.837 60.322 112.200
25 Lê-xô-thô 99.697 438 35.568 16.429
26 Na-mi-bi-a 898.690 1.380.837 499.111 17.375.348 1.643.963 9.353.078 749.391 2.154.043
27 Nam Phi 111.344.342 107.496.776 100.712.890 54.012.679 119.543.995 72.956.142 55.688.828 87.176.031
28 Xoa-di-len 1.945.221 38.278.925 2.491.729 11.283.192 3.955.493 14.952.635 9.349.666 8.782.379
Tây Phi
29 Bê-nanh 2.091.557 708.218 6.102.389 2.217.933 15.399.512 5.285.064 3.177.563 12.356.542
30 Buốc-ki-na Pha-sô 465.922 3.379.157 319.734 2.192.722 536.202 3.617.785 1.687.050 3.242.785
31 Cáp-ve 849.001 6.796 122.167 14.084 102.575 14.760 23.088
32 Cốt-đi-voa 81.130.846 12.755.581 54.972.961 14.169.869 49.999.729 35.973.048 20.657.875 50.781.141
33 Găm-bi-a 5.439.624 22.756 5.032.465 3.698 4.290.267 793.706 7.380.279 613.791
34 Gha-na 22.950.450 3.675.422 38.223.458 5.267.502 53.297.340 16.903.392 28.546.486 25.094.847
35 Ghi-nê 6.563.535 1.248.576 14.531.627 2.078.180 8.115.853 4.160.435 14.601.617 2.102.745
36 Ghi-nê Bít-xao 18.867 130.997 5.166 514.796 9.904.246 329.186
37 Li-bê-ri-a 21.238.072 55.721 1.225.262 3.988.357 1.849.101 4.671.867 913.982 6.079.706
38 Ma-li 1.537.600 12.611.496 2.880.320 17.477.605 6.818.484 16.712.383 1.382.406 8.114.461
39 Mô-ri-ta-ni 1.752.987 1.693.251 1.145.062 2.028.257 7.738.693 1.589.941 5.615.593
40 Ni-giê 8.372.036 41.291 2.905.469 51.470 1.307.891 1.133.118 851.099
41 Ni-giê-ri-a 17.623.812 30.454.817 32.956.927 19.541.222 32.941.264 21.959.616 20.394.934 26.137.786
42 Xê-nê-gan 41.893.558 754.403 9.483.454 1.448.869 9.868.714 6.110.725 19.317.278 4.921.685
43 Xi-ê-ra Lê-ôn 7.918.803 773.853 14.122.348 1.692.996 8.442.332 2.070.929 7.153.526 212.884
44 Tô-gô 6.015.130 5.269.257 7.283.248 4.426.906 7.954.663 9.513.282 12.114.991 7.763.175
Trung Phi
45 Ăng-gô-la 76.186.262 969.046 60.306.654 2.111.634 49.366.679 3.474.462 70.922.944 1.441.172
46 Ca-mơ-run 7.508.731 1.404.804 12.011.148 5.875.295 8.377.752 18.718.492 17.865.373 23.062.751
47 Cộng hòa Trung Phi 4.848.582 619.514 943.967 797.528 1.052.776 654.271 249.862 13.055.732
48 Sát 134.649 126.268 79.750 227.604 621.695 65.366 554.680
118
49 Công-gô 16.865.861 719.853 23.165.927 1.313.508 22.626.190 6.474.366 17.861.723 1.937.463
50 Cộng hoà dân chủ Công-gô (Dai-a) 673.322 1.749.979 1.042.470 186.417 753.977 269.201
51 Ghê-nê Xích-đạo 24.560 1.951.271 942.309 893.153
52 Ga-bông 8.367.671 596.725 3.278.533 1.705.228 4.356.322 924.067 1.039.853 1.624.699
53 Xao-tô-mê và Prin-xi-pê 47.372 185.902 264.061 12.387
Tổng 647.319.705 261.709.460 609.495.942 222.757.263 683.537.030 324.341.740 556.234.133 358.434.971
Nguồn: Tổng cục Hải quan
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Bộ Ngoại giao, Hội thảo quốc tế Việt Nam – Châu Phi: cơ hội hợp tác và phát triển
trong thế kỷ 21, Hà Nội, 2003.
4. Bộ Thương mại, Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và một số
nước Châu Phi, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2006
5. Bộ Thương mại, Đề án phát triển xuất khẩu 2006-2010, Hà Nội, 2006.
6. Đại học Kinh tế quốc dân, Giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam –
Châu Phi, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, Hà Nội, 2006.
II. Tài liệu tiếng Anh
1. WTO, International Trade Statistics 2007, Geneva, 2007
2. WTO, World Trade Report 2008, Geneva, 2008
3. Economic Commision for Africa, Economic Report on Africa 2008, Addis Ababa,
2008
4. UNCTAD, Economic Development in Africa, New York, 2004
5. World: Healthcare and pharmaceuticals, The Economist Intelligence Unit Limited,
2004
III. Các trang web
1. www.uneca.org
2. www.unctad.org
3. www.wto.org
4. www.wb.org
5. www.cia.gov
6. www.africancrops.net
7. www.who.int/whosis/database
8. www.afro.who.int/press
9. www.africa-union.org/root/AU/Conferences/2007
10. www.osec.doc.gov/africatrademission/Pharmaceuticals.htm
11. www.malariajournal.com/content/6/1/91
12. www.dti.gov.za
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7149R.pdf