Đề tài Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế

Cơ cấu lao động theo ngành nghề của nước ta thể hiện tình trạng lạc hậu của nền kinh tế cho đeens năm 2002 laođộng công nghiệp mới chỉ chiếm khoảng 15,13%, dịch vụ 24,2%, còn lao động nông nghiệp chiếm 60% trong khi đó đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp diện tích bình quân đầu người là 0,1 ha nên tình trạng nông nhàn, thất nghiệp trở nên phổ biến. Ngoài những tác động rất lớn đến thị trường lao động dân số tăng nhanh tạo ra áp lực đối với thị trường lao động để đáp ứng nhu cầu việc làm cho người lao động. Cần phải có chính sách để phát triển hệ thống thị trường lao động, huy động các nguồn lục từ trong dân để thực hiện giải quyết việc làm trong đó vai trò của nhà nước là quan trọng nhất.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c lượng lao động xã hội tạo ra sức ép về vấn đề việc làm cần phải được giải quyết. Sự gia tăng các mức cung,cầu lao động kỹ thuật do sự phát triển mạnh của các ngành nghề mới,ngành công nghệ hiện đại dưới tác động trực tiếp của các yếu tố nước ngoài như điện tử, viễn thông,dầu khí,lắp ráp và chế tạo ô tô… .Cùng với các ngành nghề mới là sự thúc đẩy phát triển bộ phận thị trường lao động có thu nhập cao trong lĩnh vực dịch vụ hiện đại với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Việc phát triển các ngành nghề mới làm cho tiền lương tăng nhanh hơn tạo thêm việc làm cho lao động có kỹ năng nên thất nghiệp phần lớn rơi vào những người lao động không có tay nghề. Dân số tăng nhanh cùng với quá trình đô thị hó diễn ra nhanh việc lấy đất canh tác để làm nơi sản xuất nên diện tích đất canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm. Dân số Việt Nam chủ yếu tập chung ở khu vực nông thôn nên thiếu đất canh tác đồng nghĩa với thiếu việc làm. Hội nhập kinh tế sẽ góp phần làm tăng cường độ di chuyển lao động ra các vùng có điều kiện kinh tế phát triển và cả việc di chuyển lao động ra nước ngoài thông qua xuất khẩu lao động. Nhưng chính quá trình di chuyển lao động đã tạo ra sự phân hoá về tiền lương giữa lao động có kỹ năng,lao động không có kỹ năng và lao động có trình độ thấp. 3. Mối liên hệ giữa dân số với thị trường lao động và hội nhập kinh tế được thể hiện qua các chỉ tiêu: 3.1. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô (CLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô biểu thị bằng dân số hoạt động kinh tế trên tổng dân số trong một năm. Chỉ tiêu này có thể tính cho toàn bộ dân số hay cho từng giới vì có sự khác biệt về mức độ tham gia lực lượng lao động giữa nam và nữ. Ưu điểm: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô thường dùng để ước tính quy mô của dự trữ lao động trong phạm vi nền kinh tế. Nhược điểm: Vì tính dưới mẫu số là tổng dân số nên bao gồm cả trẻ em và người già,những người trong độ tuổi lao động nhưng không tham gia vào thị trường lao động nên dùng công thức này để so sánh là không chính xác. 3.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung (GLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung phản ánh tỷ lệ dân số tham gia hoạt động kinh tế từ 15 tuổi trở lên trên tổng số dân từ 15 tuổi trở lên. Ưu điểm: Có thể sử dụng để so sánh đơn giản về dân số hoạt động kinh tế. Nhược điểm: Chỉ tiêu này không phản ánh được mức độ tham gia hoạt động kinh tế của mỗi giới nên không có được sự so sánh chính xác về tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khi cần so sánh các giới. 3.3. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đặc trưng theo giới và tuổi (ASSLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đặc trưng theo giới và tuổi là chỉ tiêu phản ánh mức độ tham gia hoạt động kinh tế của mỗi giới ở các độ tuổi khác nhau. Nó được đo bằng số người tham gia hoạt động kinh tế ở mỗi tuổi hay độ tuổi của mỗi giới nào đó so với dân số tương ứng ở tuổi hay độ tuổi đó. Ưu điểm: Tỷ lệ này thường dùng để so sánh giữa các vùng khác nhau trong một nước hay giữa các nước trong khu vực bởi nó không bị ảnh hưởng bởi cơ cấu tuổi và giới tính. Nhược điểm: để so sánh chỉ tiêu này thường phải dùng nhiều chỉ tiêu để so sánh. Phần II: Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong tiến trình hội nhập I. Thực trạng dân số Việt Nam: 1. Quy mô dân số lớn và tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm dần: Dân số Việt Nam đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam á sau Indonexia và đứng thứ 13 so với thế giới. Quy mô dân số Việt Nam là rất lớn năm 1979 là 52,7 triệu người sau 10 năm tăng lên là 64,4 triệu người tương ứng với thời kỳ này tốc độ tăng dân số là 2,06%. Mặc dù đã thực hiện chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, thực hiện các biện pháp giảm sinh và quy mô gia đình nhỏ nhưng đến năm 1999 dân số Việt Nam là76,43 triệu người tăng lên 11,9 triệu người. Năm 2001 là 78,68 triệu người và năm 2002 là 79,93 triệu. Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm là 1,86% giảm gần 0,5%. Quy mô dân số và kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn mục tiêu đặt ra trong chiến lược dân số. Năm 2002 tốc độ tăng dân số bình quân nước ta là 1,59%. Như vậy là từ năm 1979 đến 2002 tốc độ tăng dân số bình quân đã giảm dần từ 2,08% năm còn 1,59%. 2. Cơ cấu dân số: Nhóm tuỏi 1979 1989 1999 2001 2002 0-14 41,7% 39,2% 33% 31,3% 30,29 15-59 51,3% 53,7% 59% 60,2% 61,06% 60 7% 7,1% 8% 8,5% 8,65% Nguồn tổng điều tra dân số năm 1979,1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình ngày 1/4/2001và 1/4/2002. Một nước được coi là có cơ cấu dân số trẻ khi mà tỷ lệ người già so với tổng dân số là dưới 10% và tỷ lệ trẻ em là trên 30%. ở nước ta qua các năm thì tỷ lệ tăng dân số đã giảm đi nên tỷ lệ trẻ em giảm dần đồng thời mức sống của người dân được nâng lên nên tuổi thọ bình quân của người già được kéo dài nên tỷ lệ người già so với tổng dân số đã tăng lên. Cơ cấu dân số nước ta cũng có sự khác biệt theo khu vực. Cụ thể cơ cấu dân số rất trẻ ở Tây Nguyên và Lai Châu chỉ có 4% là người già nhưng ở Hà Nội,thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn khác thì tỷ lệ trẻ em lại rất thấp. Ta có bảng số liệu về cơ cấu dân số theo giới tính và nhóm tuổi Việt Nam năm 2002 như sau: Nhóm tuổi Nam% Nữ% Tổng số Tỷ lệ giới tính% 0-4 8,39 7,58 7,98 106,8 5-9 11,89 9,94 10,4 105,7 10-14 12,49 11,36 11,91 106,1 15-19 11,71 10,9 11,3 103,6 20-24 8,46 8,39 8,43 97,3 25-29 8,15 8,05 8,1 97,6 30-34 8,03 7,79 7,91 99,4 35-39 7,72 7,62 7,67 97,8 40-44 6,62 6,93 6,78 92,1 45-49 4,92 5,07 4,99 93,7 50-54 3,29 3,85 3,57 92,3 55-59 2,11 2,5 2,31 81,4 60-64 2,09 2,6 2,35 77,6 >65 5,12 7,4 6,3 96,4 Nguồn điều tra biến động dân số kế hoạch hoá gia đình 1/4/2002. Sự phân bố cơ cấu dân số cũng là một nhân tố giải thích cho sự khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các vùng. 3. Phân bố dân số không đồng đều giữa các vùng trong cả nước Ta có bảng số liệu về phân bố dân số như sau : Năm 1989 1999 2002 Thành thị(%) 20,7 23,5 24,92 Nông thôn(%) 79,3 76,5 75,08 Nguồn: tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và biến động dân số kế hoạch hoá gia đình 1/4/ 2002. Phân bố dân số là yếu tố quan trọng cho sự phát triển. Qua bảng số liệu trên cho thấy sự phân bố không đều và có sự khác biệt rất lớn giữa dân số nông thôn và thành thị theo khu vực địa lý kinh tế. Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ có 8,4% dân số cả nước nhưng lại chiếm một tỷ lệ diện tích đất đai lớn là 27%. Nguyên nhân của việc phân bố dân số không đồng đều chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam chưa thực sự phát triển và chỉ hơn 10 năm nay khi điều kiện kinh tế đã phát triển nhưng tỷ lệ dân cư thành thị chỉ tăng có 2.8% trong 10 năm từ 1989 đến 1999. Sau ba năm từ 1999 đến 2002 mà tỷ lệ dân cư thành thị chỉ tăng có 1,42%. Mặc dù tỷ lệ dân cư thành thị có tăng lên so với giai đoạn 89-99 nhưng tỷ lệ này vẫn còn thấp so với quá trình phát triển đô thị của các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc phân bố dân cư không đồng đều cũng là nhân tố để giải thích cho quá trình đô thị hoá ở Việt Nam. 4. Mức sinh giảm mạnh nhưng vẫn còn ở mức cao và có sự khác biệt giữa các vùng Qua việc thực hiện chiến lược dân số kế hoạch hoá gia đình mức sinh đã và đang giảm khá nhanh trong hai thập kỷ quavà hiện đang có xu hướng dừng lại. Kết quả thực hiện mực tiêu giảm sinh được thể hiện qua bảng số liệu sau: Năm 1989 1999 2001 2002 CBR(‰) 36,1 29,9 18,6 19 TFR(‰) 3,8 2,33 2,25 2,28 Nguồn tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2002 và 1/4/ 2002. Tỷ suất sinh thô đã giảm khá nhanh từ 36,8(‰) năm 1989 xuống còn 18,6(‰) vào năm 2001 và tăng lên 19 (‰) vào năm 2002 như vậy là tỷ suất sinh thô đã có sự nhích lên đáng. Tốc độ giảm sinh đã đạt gần 1% năm qua thời kỳ 1989 và 1999 đồng thời trong thời kỳ này TFR từ 3,8 xuống 2,33 như vậy bình quân một bà mẹ trong suốt thời kỳ sinh đẻ trong năm 1989 sinh được 3,8 con nhưng đến năm 1999 chỉ còn 2,33 con đến năm 2001 là 2,25 con và năm 2003 là 2,28 con. Có sự khác biệt rất lớn về tổng tỷ suất sinh giữa khu vực thành thị và nông thôn năm 2002 bình quân số con mà một người phụ nữ có thể sinh của khu vực thành thị là 1,93 con, còn của khu vực nông thôn là 2,4 con. Ta có bảng số liệu về sự khác biệt mức sinhữa ku vực thành thị và nông thôn như sau: Vùng địa lý 1999 2001 2002 CBR(‰) TFR(CON) CBR(‰) TFR(CON) CBR(‰) TFR(CON) Cả Nước Thành thị Nông thôn ĐBSH ĐBắc TBắc BTBộ DHNTB TNguyên ĐNBộ ĐBSCL 19,9 15,9 21,2 16,2 19,3 28,9 21,4 21 29,8 18,2 16,8 2,3 1,7 2,6 2,6 2,3 3,6 2,8 2,5 3,9 1,9 2,1 19,6 15,4 19,7 16,4 18,1 25,4 18,5 18,7 27 18,3 18,6 2,25 1,9 2,4 2,1 3,1 2,7 2,5 3,6 2,2 2,2 19 16,9 19,6 17,2 18,9 24,1 18,3 20,5 24,7 17,5 17,7 2.28 1,9 2,4 2,1 2,3 2,3 2,6 2,4 3,2 2,0 2,0 Nguồn: Tổng điều tra dân số năm 1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/ 2001 và 1/4/ 2002. Có sự khác biệt rất lớn về tổng tỷ suất sinh trên nên ở nông thôn vẫn tồn tại tâm lý thích có con trai và còn nhiều nguyên nhân khác nữa như điều kiện sống khó khăn còn nặng về các phong tục tập quán… 5. Mức chết đã giảm nhưng có sự chênh lệch giữa các vùng: Cùng với quá trình đổi mới và có sự thay đổi về đường lối phát triển kinh tế thì đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được tăng cường. Mạng lưới y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nhân được đầu tư tăng cường nên mức chết của trẻ sơ sinh đã giảm đồng thời tuổi thọ của người dân được nâng lên. Ta có bảng số liệu về mức chết thô và tỷ suất chết của trẻ em dưới một tuổi như sau: Năm 1989 1999 2001 2002 CDR(‰) 7,3 5,7 5,1 5,8 IMR(‰) 42,3 36,7 29,5 26 Nguồn tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2001 và 1/4/2002. Tỷ suất chết của người dân đã có sự giảm đi đáng kế từ 7,3 người chết trên tổng số 1000 dân năm 1989 đã giảm đi xuống còn 5,8 người chết trên 1000 người dân năm 2002 đây là kết quả của việc quan tâm đến đời sống vật chất cho người dân. Mức chết của trẻ em Việt Nam đã có sự giảm đi nhanh chóng từ 42,3 trẻ em sinh ra bị chết trong năm đầu năm 1989 đã giảm xuống còn 26 trẻ em sinh ra và bị chết đi trong năm đầu tiên. Mức chết của trẻ em Việt Nam mặc dù đã có sự giảm đi nhanh chóng song so với các nước trên thế giới thì mức chết này vẫn còn cao. IMR của trẻ em thế giới là 12 trẻ em sinh ra bị chết trên 1000 trẻ em sinh ra trong năm đó nhưng so với các nước đang phát triển thì mức chết của trẻ em nước ta là thấp vì IMR của các nước đang phát triển là 64 trẻ em bị chết trên 1000 trẻ em sinh ra trong năm đó. Mức chết thô ở nước ta là thấp nhưng lại có sự chênh lệch lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn. Ta có bảng số liệu về mức chết của người dân như sau: Năm 2001 2002 CDR(‰) IMR(‰) CDR(‰) IMR(‰) CDR(‰) IMR(‰) Cả nước 5,7 36,7 5,1 29,5 5,8 26 Thành thị 4,2 18,3 3,8 20,4 4,5 17 Nông thôn 6 41 5,4 32,5 6,3 28,8 Nguồn tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2001và 1/4/ 2002. Tỷ suất chết thô ở nước ta đã giảm dần từ 5,7(‰) năm 1999 còn 5,1(‰) năm 2001 nhưng lại tăng lên 5,7 (‰) vào năm 2002. Nguyên nhân là do cơ cấu dân số nước ta ngày càng bị lão hoá mặc dù mức chết đã giảm xuống đáng kể nhưng lại có sự chênh lệch rất lớn giữa thành thị và nông thôn. Tỷ suất chết sơ sinh của khu vực nông thôn cao hơn 1,6 lần khu vực thành thị. Trong đó khu vực Tây bắc và tỉnh Tây Nguyên có mức chết sơ sinh lại khá cao do điều kiện của khu vực không đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. 6. Phân bố dân cư không đồng đều: Dân số nước ta chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn là chủ yếu. Năm 1989 dân cư ở khu vực nông thôn là 79,5% dân số và chỉ có 20,3% dân số thành thị nhưng đến năm 1999 dân cư ở khu vực nông thôn đã giảm đi 3% và dân cư ở khu vực thành thị tăng lên là 20,3%. Dân cư nước ta chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân lịch sử để lại như di chuyển dân cư về nông thôn và làn sóng di dân vào từ các tỉnh phía bắc vào Tây Nguyên nên dân cư khu vực thành thị ít. II. Phân tích thực trạng thị trường lao động. 1. Quy mô nguồn lao động lớn vầ gia tăng với tốc độ nhanh. Số người trong độ tuổi lao động trong độ tuổi từ 15 -60 tuổi năm 1979 là 26,572 triệu người đến năm 1989 tăng lên 8,5 triệu người và đến năm 1999 là 44.566 triệu người. Sau 20 năm nguồn lao động đã tăng lên gần 18 triệu người. Như vậy cung nguồn nguồn nhân lực mỗi năm tăng gần 1 triệu người. Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm dần nhưng nguồn lao động lại có xu hướng giảm do nguồn lao động chịu sự tác động của quy mô dân số từ 15 năm trước. Qua 10 năm 1989-1999 tốc độ tăng nguồn nhân lực đã có sự giảm dần từ 3,03% còn 2,7% và đến năm 2002 là 2,66%. Trong thập kỷ vừa qua dân số nước ta đang chuyển dần từ cấu trúc cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số vàng dư lợi về dân số. Ước tính trong thời gian tới mức tăng dân số trong độ tuổi lao động là 2,4%/năm. Đây là mức tăng nguồn lao động tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Dự báo trong hai thập kỷ tới dân số nước ta sẽ duy trì cơ cấu dân số vàng với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và sẽ đạt gần 70% vào năm 2009 với con số tuyệt đối là 56 triệu người. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi khi một quốc gia chuyển từ quá độ dân số sang mức chết thấp ổn định và giảm liên tục. Do đó nước ta cần cần phát huy tối đa nguồn lực sẵn có và huy động các nguồn lực từ bên ngoài để sử dụng hết các điều kiện thuận lợi của nguồn nhân lực. 2. Năng suất lao động nước ta còn thấp nhưng tốc độ tăng nhanh đặc biệt là trong thời kỳ đỗi mới Thu nhập quốc quốc nội trên đầu người nước ta hiện nay khoảng 400$ Mỹ tính theo sức mua tương đương thì chỉ đạt xấp xỉ 2000$ Mỹ thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp. Năm 2001 so với năm 1989 giá trị sản xuất nông nghiệp tính theo giá so sánh tăng gấp 5,5 lần. Giá trị sản xuất nông nghiệp tính theo giá so sánh năm 2002 gấp 82,9 lần năm 1989. Tuy nhiên do tốc độ tăng dân số tăng nhanh năm 2001 so với 1989 là 4 lần và năm 1989 so với năm 1975 là 1,6 lần nên năng suất lao động xã hội nhìn chung tăng chậm hơn tốc độ tăng dân số. 3. Việc làm còn thiếu cơ cấu việc làm chuyển dịch chậm do cầu lao động hạn chế so với cung lao động Theo số liệu thống kê về lao động và việc làm số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên đã tăng từ 33,978 triệu người năm 1999 lên 37,677 triệu người năm 2001và 39,289 triệu người năm 2002. Như vậy là tính trung bình trong thời kỳ từ 1996 đến 2001 có tốc độ tăng việc làm thường xuyên là 2,1%/năm. Năm 2002 là năm có số việc làm tạo ra cho người lao động là tương đối cao tương ứng với số tuyệt đối là 740 nghìn lao động. Mặc dù cầu lao động đã có sự tăng lên đáng kể nhiều việc làm mới được tạo ra, nhiều ngành công nghiệp mới được đầu tư phát triển song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của người lao động. Chính vì vậy mà tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị tuy đã giảm so với trước song vẫn còn ở mức cao và là 5,85%. Ta có bảng số liệu về tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động theo độ tuổi lao động của khu vực thành thị 1/7/2001và 1/7/2002 như sau: Vùng lãnh thổ 2001 2002 Tổng Nữ Tổng Nữ Toàn quốc 6,28% 6,985 6,01% 6,85% Đồng Bằng Sông hồng 7,07% 7,01% 6,64% 6,65% Đông Bắc 6,73% 7,3% 6,1% 6,27% Tây Bắc 5,62% 4,79% 5,11% 3,46% Bắc Trung Bộ 6,72% 6,64% 5,82% 5,67% Duyên Hải Nam Trung Bộ 6,16% 7,63% 5,49% 6,55% Tây Nguyên 5,55% 6,698% 4,92% 5,91% Đông Nam Bộ 5,92% 6,72% 6,31% 7,84% Đồng Bằng Sông Cửu Long 6,08% 7,69% 5,52% 6,8% Nguồn điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2001và 1/4/2002. Như vậy là đồng bằng sông hồng là khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất cả nước chiếm 7,07% vào năm 2001 và 6,64% vào năm 2002. Đồng bằng sông hồng là nơi có mật độ dân số cao nhất trong cả nước và là nới phải chịu sức ép lớn của vấn đề gia tăng dân số. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông hồng và đông nam bộ nhưng tỷ lệ thất nghiệp chủ yếu tập trung vào lực lượng lao động trẻ có tiềm năng và sức lao động dồi dào có khoảng 49,5% số lao động thất nghiệp ở khoảng tuổi từ 15-24 và 25,4% là ở khoảng tuổi từ 25-34 còn lại là ở các độ tuổi khác. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn mặc dù đã tăng từ 72,11%năm 1996 lên 75,41% năm 2002. Song vẫn còn một phần tư thời gian lao động không được sử dụng. Dân số nước ta ở nông thôn chiếm khoảng 75,6% số hộ thuần nông lại chiếm đa số còn lại là số hộ làm nông nghiệp kiêm ngành nghề phi nông nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Số lao động làm trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp là 23.84 triệu chiếm 60,27% lao động đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân 5,52 triệu đang làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 15,13% còn lại là lao động trong ngành dịch vụ với 9,51 triệu người chiếm 24,2%. Như vậy là số lao động trong ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ đã tăng lên còn lao động trong ngành nông nghiệp lại giảm dần. Trong số lao động được tạo ra cho người lao động thì khu vực nhà nước tạo ra khoảng 10% còn lại khoảng 90% là của khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Trong thời kỳ 1996-2001 trung bình mỗi năm khu vực kinh tế nhà nước tăng thêm 159 nghìn chỗ làm việc ngoài nhà nước tăng 510 nghìn và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 56 nghìn chỗ làm việc. Như vậy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra chỗ làm việc nhanh nhât chiếm 43% tổng số việc làm tạo ra. 4. Tiền công,thu nhập còn thấp đang có xu hướng tăng và có sự khác biệt rõ nét trong các khu vực, các thành phần kinh tế, ngành nghề và các nhóm dân cư: Theo thống kê năm 2001 thu nhập bình quân tháng của một lao động ở khu vực nhà nước đạt gần 900000 đồng. Sự khác biệt rõ nét trong thu nhập của doanh nghiệp nhà nước trung ương là 1156000 đồng và doanh nghiệp địa phương là 698000đồng. Giữa các ngành nghề cũng có sự khác biệt chẳng hạn giữa giao thông vận tải là 1150000 và ngành thuỷ sản là 643000 đồng. Các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra mức thu nhập cao nhất cho người lao động trong khi đó khu vực kinh tế tập thể laị ở mức thấp nhất. Tiền lương của lao động khu vực thành thị cao hơn của khu vực nông thôn khoảng 44%, của lao động nam cao hơn lao động nữ 21%. Vùng Đông Nam Bộ có mức tiền công và các khoản tiền thưởng,phụ cấp trung bình hàng tháng cao nhất cho người lao động. Qua hai cuộc điều tra mức sống dâ cư 92-93 và 97-98 ta thấy mức- thu chi bình quân một nhân khẩu đã tăng lên nhưng còn thấp so với các nước trong khu vực,cơ cấu nguồn thu chuyển biến còn chậm,thu chi đã tăng lên nhưng chênh lệch mức sống cũng tăng lên. Thu nhập của khu vực thành thị so với nông thôn năm 1996 gấp 2,7 lần thì nănm 1999 đã tăng lên 3,7 lần và chi cho đời sống tương ứng với 2,3 và 3,2 lần. 5. Mở rộng thị trường lao động ra nước ngoài: Thị trường lao động nước ngoài chính là việc đưa lao động chuyên gia, người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Như vậy xuất khẩu lao động đóng một vai trò quan trọng trong làm tăng cầu lao động giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động và giảm bớt khó khăn cho vấn đề giải quyết việc làm ở trong nước. Trong năm 2002 thì xuất khẩu lao động và chuyên gia đã đã trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Xuất khẩu lao động đã đóng một vai trò rất quan trọng góp phần giải quyết việc làm, nâng cao trình độ lành nghề của người lao động làm cho người lao động làm quen với tác phong công nghiệp đồng thời làm tăng thu nhập xã hội. Chính xuất khẩu lao động đã góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa các nước và các khu vực trên thế giới. Ngoài ra nó còn làm tăng lượng ngoại tệ vào trong nước do người lao động tích luỹ từ nước ngoài gửi về nước. Cho đến nay lao động nước ta đã làm việc cho gần 40 nước và vùng lãnh thổ. Với nhiều biến động về kinh tế và chính trị của khu vực và trên thế giới các thị trường tiếp nhận lớn lao động nước ta vẫn được tăng cường và không ngừng mở rộng. ở khu vực Đông Bắc á các thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản được tập trung điều chỉnh về chính sách tiếp nhận lao động. Thị trường Malaysia chỉ sau gần 8 tháng đã có gần 20000 lao động sang làm việc và trở thành một thị trường có nhu cầu tiếp nhận lớn lao động Việt Nam tại khu vực Đông Nam á. Như vậy là năm1990 mới chỉ có 1000 người đi xuất khẩu lao động thì đến năm 2001 đã tăng lên 37000 và 2002 là 46000. Sau 11 năm số lượng người đi xuất khẩu lao động đã tăng lên 46 lần. Để có được sự phát triển mạnh mẽ này cùng với việc đầu tư ổn định thị trường thì vai trò của nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đuợc đầu tư tăng cườngvà tập trung vào những khâu cơ bản khắc phục những bất cập trong vấn đề xuất khẩu lao động. Nhiều hệ thống văn bản được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động xuất khẩu lao động phù hợp với sự vận động của từng thị trường và chất lượng của nguồn lao động, đơn giản hoá các thủ tục và giảm các chi phí. 6. Chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường việclàm và quá trình hội nhập: Đặc điểm nổi bật của thị trường lao động nước ta là quy mô nguồn lao động lớn nhưng chất lượng nguồn lao động lại chưa cao. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có sự chênh lệch lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn. ở khu vực thành thị tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn là 46,6%còn ở khu vực nông thôn là 11,89%. Trong tám vùng lãnh thổ kinh tế thì khu vực ĐôngNam Bộ có tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn nhất cả nước tương ứng với 31,8% thấp nhất là khu vực Tây Bắc với 90,18% lao động chưa qua đào tạo. Để đạt được mục tiêu phấn đấu của đại hội đảng đưa ra về nâng cao chất luợng nguồn nhân lực thì chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Lao động nước ta đông về số lượng nhưng lại yếu về thể lực, tay nghề, tỷ lệ lao động được đào tạo phục vụ cho các ngành kinh tế quốc dân cũng bất hợp lý. Theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực thì một cơ cấu lao động được đào tạo họp lý khi mà một cử nhân, ky sư tốt nghiệp đại học, cao đẳng cần 4 cán bộ tốt nghiệp trung học và 10 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó tỷ lệ này tương ứng ở nước ta năm 1979 là 1 - 2,2 - 7,1 năm 1979 số lượng công nhân kỹ thuật chiếm 70% nhưng đến năm 1999 con số này là 30% trên tổng số lao động được đào tạo. Mặc dù trình độ phổ cập giáo dục ở nước ta là tương đối cao nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động lại là một nghịch lý cho quá trình phát triển công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Tuy nhiên tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật lại phân bố không đồng đều tập chung chủ yếu ở các tỉnh và thành phố lớn. Lực lượng lao động tiếp tục tăng nhưng lại thiếu nhiều tố chất cần thiết cho quá trình cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới. Lực lượng lao động nước ta khéo léo, thông minhvà có năng lực tiếp thu khoa học và công nghệ được chuyển giao từ bên ngoài nhưng còn nhiều hạn chế khi tham gia hoạt động sản xuất mang tính chất chuyên nghiệp. Mặc dù tỷ lệ lao động có trình độ cao tăng nhưng thực tế thì thị trường lại thiếu các loại lao động cao,các chuyên gia và kỹ thuật viên lập trình các nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thu thị truờng. Trong các doanh nghiệp phần lớn các nhà quản lý chưa được đào tạo sâu sắc về kinh tế kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Họ có khả năng tiếp thu nhanh nhưng còn thiếu kiến thức đồng bộ. Các doanh nghiệp nước ta thường lúng túng khi tham gia ký kết đàm phán với các doanh nghiệp nước ngoài. Khả năng làm việc độc lập của lao động nước ta là rất cao nhưng khả năng làm việc theo nhóm còn rất nhiều hạn chế. 7. Thị trường lao động nước ta vẫn còn phân biệt giữa trong và ngoài nhà nước: Tình trạng chia cắt rõ nét nhất là giữa lao động trong và ngoài khu vực nhà nước tạo nên một tâm lý biên chế nhà nước còn khá nặng nề kể cả trong số lao động trẻ có trình độ. Khu vực nhà nước tạo cho người lao động một tâm lý ổn định và lâu dài về nơi làm việc, tiền lương cũng như các chế độ lao động khác. Tuy nhiên do nhiều nhân tố chủ quan cũng như khách quan biên chế cùng với thời gian đã trỏ nên cứng nhắc kém hiệu quả làm chậm quá trình đổi mới. III. Tác động qua lại giữa dân số và hội nhập kinh tế 1. Tác động của dân số đến thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập Dân số và nguồn nhân lực là hai phạm trù không tách rời nhau mà luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Quy mô dân số lớn làm cho quy mô nguồn nhân lực lớn tuy nhiên khẳ năng của cầu lao động có hạn làm cho nhiều vấn đề về thị trường lao động trở nên cấp bách. Ta có thể khái quát các dòng di chuyển lao động như sau: Thứ nhất:Dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố,thị xã để làm thuê hoặc hành nghề tự do, buôn bán,…Mặc dù ở thành thị vẫn tồn tại một tỷ lệ thanh niên chưa có việc làm hay thất nghiệp cao nhưng có những việc mà thanh niên thành thị cho là thu nhập thấp,nặng nhọc…nên họ không muốn làm và những công việc này lại trở nên lý tưởng đối với thah niên nông thôn. Dòng di chuyển lao động này ngày càng tăng khi mà diện tích đất đai nông nghiệp bình quân trên đầu người giảm,việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn chưa phát triển cùng với cơ chế khoán trong nông nghiệp làm cho người lao động di chuyển tự do nơi làm việc. Thứ hai là dòng di chuyển lao động từ vùng đồng bằng đông dân di hành nghề tự do hay làm thuê ở các vùng trung du miềm núi. Hình thức di chuyển này chủ yếu là lao động có kỹ thuật có tay nghề. Thứ ba: Dòng di chuyển lao động từ miền bắc vào miền nam diễn ra khá mạnh mẽ. Thời kỳ đầu dòng di chuyển lao động này chủ yếu do yếu tố lịch sử nhưng sau này việc di chuyển này là do chính sách mở cửa và điều kiện việc làm thuận lợi tại nơi đến. Dòng di chuyển này chủ yếu là lao động của các tỉnh và miềm núi phí bắc vào Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Thứ tư: Dòng di chuyển lao động ra khỏi khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực inh tế ngoài quốc doanh và dòng di chyển lao động ra khỏi khu vực lãnh thổ nước ta chủ yếu nhất là xuất khẩu lao động và chuyên gia. Do chính sách mở cơ chế và điều kiện làm việc có lợi hơn cho người lao động. Các dòng di chuyển lao động chủ yếu trên đã góp phần điều chỉnh và giảm sức ép về vấn đề việc làm do thị trường lao động hoạt động sôi động,đa dạng và phong phú. Cùng với quá trình hình thành và phát triển của thị trường lao động đã tạo cơ sở kinh tế cho sự hình thành và phát triển của các quan hệ lao động thúc đẩy các hình thức tuyển dụng lao động một cách mạnh mẽ hơn. Trên thị trường lao động nước ta có cá hình thức tuyển dụng lao động chủ yếu sau: Một là tuyển và thi tuyển : Hình thức nay chủ yếu áp dụng cho khu vực hành chinh sự nghiệp. Việc thi tuyển được thực hiện theo quy chế tuyển riêng. Trên cơ sở các chức danh tiêu chuẩn viên chức, các cơ quan nhà nước được tuyển dụng lao động theo các chỉ tiêu biên chế chặt chẽ có tính quốc gia và do nhà nước quy định. Thủ trưởng các đơn vị không có quyền quy định biên chế cho cơ quan mình. Nhà nước trực tiếp tuyển dụng lao động và trả lương từ ngân sách. Quan hệ lao động này thực chất là quan hệ giữa người lao độnglàm công ăn lương và nhà nước. Lực lượng lao động ở đây nằm ngoài thị trường lao động nó chỉ bước vào thị trường lao động khi người lao động bị sa thải hoặc khi tổ chức sắp xếp lại bộ máy doanh nghiệp. Hai là: Hợp đồng lao động đây là hình thức phổ biến áp dụng trong khu vực sản xuất kinh doanh. ở đây diễn ra quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương và người sử dụng lao động. Quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ do bộ luật lao động điều chỉnh. Hợp đồng lao động sẽ ràng buộc trách nhiệm cá nhân đôi bên giữa người lao động và người sử dụng lao động.Hợp đồng lao động là hình thức chủ yếu để đáp ứng nhu cầu về lao động trên thị trường. ở đâu có quan hệ làm công ăn lương ở đó sẽ có ký hợp đồng lao động. Ba là kết nạp xã viên và mua cổ phiếu:đây là quan hệ giữa những người cùng sở hữu. Quan hệ giữa xã viên giữa cổ đông với nhau là bình đẳng:cùng sản xuất kinh doanhvà chia lời theo kết quả sản xuất kinh doanh. Hình thức này trong cơ chế thị trường ngày càng phát triển và đỉnh cao là sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Bốn là quan hệ lao động dưới hình thức thầu khoán: Đây là hình thức biểu hiện phổ biến của thị trường lao động trong các ngành như xây dựng,giao thông vận tải …Trong quan hệ lao động này có sự tham gia của chủ thầu,người nhận thầu và người lao động. Người lao động nhận được tiền công từ người nhận thầu trả. Năm là xuất khẩu lao động: Xuất khẩu lao động là một hình thức phổ biến của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập kinh tế,là một bộ phận quan trọng trong chiến lược giải quyết việc làm cho người lao động. Sáu là hành nghề tự do và chợ lao động: Hai hình thức này đã tồn tại từ lâu nhưng đến nay càng có điều kiện để phát triển do không còn cảnh ngăn sông cấm chợ và cột chặt người lao động trong phạm vi địa lý là chính nữa. Người lao động có thể di chuyển đến thành phố để làm các công việc dịch vụ hoặc làm các công việc mà người thành phố không muốn làm. Ngoài sáu hình thức tuyển dụng lao động trên còn có nhiều hình thức biểu hiện khác nữa như tuyển mộ nhân công, thuê gia công… Như vậy các hình thức di chuyển lao động trên thị trường lao động ngày càng phong phú, đa dạng và các hình thức biểu hiện của thị trưòng lao động ngày càng thu hút lao động và tạo việc làm cho người lao động. 2. Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đến nguồn lao động Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đã mang lại những biến đổi to lớn tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Trong quá trình này mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với nước ta vì vậy cần có sự điều chỉnh để phát huy đuợc các lợi thế của đất nước trong đó có lợi thế nguồn nhân lực. Trong lĩnh vực lao động có thể thấy là toàn cầu hoá làm cho các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn sẽ tận dụng được lợi thế về nguồn nhân lực rẻ,thị trường hàng hoá và tư bản được mở rộng hơn. Thêm cơ hôi việc làm do tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào nước ta. Xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu lao động làm cho chất lượng lao động được cải thiện hơn,nguồn lao động được phân cổ hợp lý hơn. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế tác động đến thị trường lao đông trong các lĩnh vực sau. 2.1. Tác động của tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với lao động nước ta Đặc trưng chủ yếu nhất của hội nhập kinh tế là việc hình thành ngày càng nhiều với ảnh hưởng ngày càng lớn của các thiết chế mang tính chất toàn cầu. Tiêu biểu là những các công ước quốc tế và những cam kết song phương và đa phương. Những công ước quốc tế do tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động cũng như người sử dụng lao động. Cũng như người sử dụng lao động ILO muốn xây dựng mối quan hệ lành mạnh hợp tác trong lao động bảo vệ nhân phẩm cho người lao động. Trong quá trình xây dựng sửa đổi bộ luật lao động Việt Nam cũng đã tham khảo các công ước của ILO nhằm hợp lý hơn với quốc tế, hỗ trợ cho quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế của nước ta trong lĩnh vực lao động. Bộ luật lao động nước ta cũng quy định khá rõ ràng: người sử dụng lao động không được sử dụng lao động trẻ em làm các công việc nặng nhọc, độc hại, dưới hầm mỏ không sử dụng lao động cưỡng bức, tôn trọng quyền gia nhập công đoànvà tham gia thoả ước tập thể của công nhân, không phân biệt đối xử, trả công theo quy định, thực hiện yêu cầu về an toàn lao động và vệ sinh nơi làm việc. Như vậy trong vấn đề tiêu chuẩn lao động nếu chúng ta xử lý hợp lý thì sẽ làm cho môi trường pháp luật lao động của nước ta tiến bộ hơn, tiếp cận với các tiêu chuẩn lao động quốc tế người lao động nước ta sẽ được bao vệ quyền lợi tốt hơn. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được các nhu cầu cơ bản về tiêu chuẩn lao động sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2.2. Tác động của hội nhập kinh tế đến vấn đề việc làm Hội nhập kinh tế có tác động làm tăng lượng giao dịch trên cả ba thị trường: Hàng hoá và dịch vụ, thị trường tài chính và thị trường lao động. Đối với thị trường lao động thì việc làm mới được tạo ra nhiều hơn tuy nhiên hội nhập kinh tế vừa tạo ra việc làm mới, vừa làm mất đi việc làm của người lao động. Thực tế trong giai đoạn đầu của cải cách kinh tế, tốc độ mất việc có thể cao hơn tốc độ tạo việc làm .Do phải sắp xếp lại lao động khi dở bỏ những rào cản thương mại đặc biệt là trong những nghành được nhà nước chính thức bảo hộ dựa vào nguồn lao động rẻ và chất lượng thấp. Đồng thời việc giảm lao động trong các doanh nghiệp, hội nhập kinh tế cũng có tác động thúc đẩy cạnh tranh, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước bãi bỏ độc quyền trong các nghành cung cấp dịch vụ công, cải cách thủ tục hành chính. Việc mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài đã gắn liền với tạo ra khối lượng việc làm lớn. Việc làm được tạo ra dễ thấy nhất là lao động vào các khu công nghiệp và khu chế xuất.Khu vực có FDI tạo thêm số việc làm từ 2%- 3% tổng số việc làm được tạo ra hàng năm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút lượng lao động lớn tương ứng với kim ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động như nghành dệt may giầy dép,nuôi trồng và chế biến thuỷ sản….. Khi số việc làm hàng năm được tạo ra tăng thu nhập khả dụng cư cũng tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và ngoài nước tăng đã kích thích nhu cầu tiêu dùng của dân cư cả về số lượng và chất lượng. Đây chính là yếu tố kích cầu của thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nước đồng thời cũng là tác động gián tiếp của hội nhập kinh tế đối với tạo việc làm trong nước. Hội nhập kinh tế buộc các doanh nghiệp nhà nước nâng cao tính cạnh tranh, sử dụng hợp lý các nguồn lực trong đó có nguồn lao động. Chính sức ép này tạo ra thách thức đối với vấn đề việc làm nhất là trong khu vực kinh tế quốc dân. Chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước nhằm làm cho khu vực này làm ăn có hiệu quả hơn, sử dụng hợp lý và kinh tế hơn các nguồn lực của xã hội. Quá trình tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước diễn ra trong hội nhập kinh tế nên nhiều doanh nghiệp chịu sức ép cạnh tranh trực tiếp hay gián tiếp từ thị trường quốc tế. Ngày nay khó có thể tìm thấy một doanh nghiệp nào mà các yếu tố đầu vào, đầu ra hay các yếu tố cấu thành nên doanh nghiệp không chịu ảnh hưởng của giá cả thị trường quốc tế. Nhìn chung hội nhập kinh tế có tác động rất lớn đến vấn đề việc làm,với những điều kiện phù hợp,nó đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế góp phần xoá đói giảm nghèo mở ra con đường phát triển lâu dài bền vững để tiến kịp với các nước phát triển. 2.3. Hội nhập kinh tế thúc đẩy phát triển các nguồn nhân lực Hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội cho vấn đề lao động, việclàm. Khi người lao độngcó việc làm đầy đủ đời sống của người dân được nâng cao hơn đồng thời tổng thu ngân sách nhà nước cũng sẽ tăng làm cho chi tiêu của nhà nước cho các vấn đề dân số, giáo dục, mạng lưới y tế giáo dục được tăng cường. Do đó người dân sẽ có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ, được chăm sóc sức khoẻ đầy đủ và tốt hơn do đó chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao hơn. Đồng thời để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế thì chất lượng nguồn lao động phải được tă ng cường. Và hội nhập kinh tế lại có tác động trở lại đến chất lượng nguồn lao động. Ta có thể thấy rõ vấn đề này khi có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong các mục tiêu phát triển kinh tế mà đại hội đảng đặt ra là phải tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ giảm tỷ trọng nông ngiệp trong tổng sản phẩm quốc dân. Như vậy có sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ có sự chuyển dịch về cơ cấu lao động. Trong chuyển dịch lao động có chuyển dịch lao động theo ngành kinh tế và chuyển dịch theo cơ cấu đào tạo. Ta có bảng số liệu về chuyển dịch theo ngành kinh tế và cơ cấu lao động như sau: Năm Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Nông-lâm –ngư Lao động GDP Lao động GDP Lao động GDP 2000(%) 16 36.9 21 39 63 24.1 2005(%) 20-21 38-39 22-23 41-43 56-57 20-21 2010(%) 23 40-41 27 42-43 50 16-17 Nguồn: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 và điều tra lao động và việc làm. Thực tế khi thay đổi về cơ cấu số lượng lao động theo nhóm ngành diễn ra tuần tự thì chất lượng nguồn nhân lực cũng phải diễn ra mang tính chất đột phá. Để đáp ứng các yêu cầu trên cần phải tăng cường công tác dạy, nghề hướng nghiệp cho học sinh,dạy nghề cho mọi người dân ở mọi lứa tuổi lao động,nâng cao trình độ học vấn và trang bị kiến thức nghề nghiệp cho người lao động. Do đó cần ưu tiên đào tạo nghề trong các ngành công nghệ cao, các ngành công nghiệp mũi nhọn, các khu chế xuất và xuất khẩu lao động. Như vậy hội nhập kinh tế đã có tác động rất lớn đối với lao động nước ta trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sự ra đời của các khu công ngiệp, khu chế xuất, việc áp dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ đòi hỏi người lao động phẩi đạt đến trình độ nhất định. Hội nhập kinh tế cũng tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận nhanh với thông tin tri thức mới góp phần nâng cao trình độ dân trí. Đồng thời số lượng lao động đang làm việc tại các công ty có yếu tố nước ngoài qua quá trình làm việc sẽ học tập và tiếp thu được thêm về tay nghề, năng lực quản lý và tác phong công nghiệp. Phần III: Định hướng và giải pháp của nhà nước về giải quyết vấn đề dân số và thị trườnglao động trong quá trình hội nhập kinh tế I. Định hướng của nhà nước 1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách và môi trường pháp lý về lao động: Tiếp tục bổ sung, sửa đổi cá chế độ chính sách về lao động theo nghị quyết của đại hội đảng IX và theo các quy định của bộ luật lao động để phát triển thị trường lao động trong nước. Tạo môi trường và điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp và cho người lao động được tự do lựa chọn việc làm ở mọi nơi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động. Trong các doanh nghiệp nhà nước khuyến khích thực hiện rộng rãi các chế độ lao động có lợi hơn cho người lao động. 2. Đẩy mạnh chuyển dịch lao động theo nghành Mục tiều của kế hoạch từ 2003-2005 về chuyển dịch lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong các nghành nông-lâm-ngư xuống còn 55%, công nghiệp-xây dung 21%, dịch vụ và thương mại là 27% vào năm 2005.Đào tạo và đào tạo lại nghề cho 3,0-3,5triệu người, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lện 30% vào năm 2005. Để thực hiện được mục tiêu kế hoạch trên cần có các hoạt động hỗ trợ sự phát triển của các thị trường,huy động được các nguồn lực từ nhân dân để thực hiện thành công các kế hoạch đặt ra. 3. Thực hiện các chủ trương,chính sách để khuyến khích các khu vực, thành phần kinh tế phát triển. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi và giảm bớt các khâu trung gian cho nguời dân trong việc thành lập hoặc cấp giấp phép hoạt động sản xuất kinh doanh. Đơn giản hoá các giấp tờ và thủ tục trong việc vay vốn ngân hàng. Cần phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Cần có sự hỗ trợ khuyến khích để các tổ chức giới thiệu việc làm tồn tại và phát triển tốt. 4. Có chính sách đủ mạnh đẻ khuyến khích toàn xã hội đẩy nhanh công tác dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Trong nghị quyết của đại hội đảng IX đã thông qua mục tiêu tăng nhanh lao động kỹ thuật lên 30% vào năm 2005. Để thực hiện được các mục tiêu này cần phải có các chính sách để huy động người lao động vào công tác dạy nghề. Cần phải có sự đổi mới trong cách suy nghĩ của lực lượng lao động mới vào đời đó là vào đại học không phải là con đường duy nhất để bước vào đời để tránh tình trạng thừa thầy thiếu thợ trong lực lượng lao động nước ta. 5. Có các chính sách bảo hiểm và an sinh xã hội Cần mở rộng và phát triển các loại hình bảo hiểm để người lao động tự do lựa chọn cho mình một hình thức bảo hiểm phù hợp với điều kiện kinh tế của cá nhân. Nên mở rộng các đối tượng được hưởng bảo hiểm xã hội,và phát triển các loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp. Thực tế các nước kinh tế phát triển rất phát triển loại hình bảo hiểm thất nghiệp bởi đây chính là sự hỗ trợ của chính phủ đối với những người đang làm việc mà do yếu tố khách quan họ bị mất việc làm hoặc những người đang muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm. Đồng thời cần mở rộng hơn nữa mạng lưới an sinh xã hội để giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn . II- Giải pháp để giải quyết vấn đề dân số với thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế 1. Giải pháp tác động đến cung lao động 1.1. Tập trung nguồn lực để thực hiện thành công chiến lược phát triển dân số giai đoạn2001-2010 Mục tiêu tổng quát củ chiến lược phát triển dân số là: Thực hiện gia đình ít con, ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no hạnh phúc, nâng cao chất lượng dân số, ổn định và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá góp phần làm thúc đẩy sự phát triển nhanh của đất nước. Cần phải đạt đựơc mức sinh thay thế, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống 1.1%, dân số không quá 88 triệu người tăng tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại lên 70% giảm tỷ suất chết thô xuống 25%. Phấn đấu tăng chỉ số HDI, tăng tuổi thọ của dân cư, tăng số năm đi học bình quân theo người dân từ 6,2 năm lên 9 năm, tăng GDP/Người lên gấp đôi. Để đạt được mục tiêu của chiến lược dân số cần kiện toàn, củng cố bộ máy tổ chức làm công tác dân số ở các cơ sở, tăng cường sự lãnh đạo của đảng và nhà nước với vấn đề dân số. Thực hiện sự quản lý theo nghành,lãnh thổ để các địa phương chủ động thưc hiện bố trí huy động nguồn lực điều hành kế hoạch phù hợp với địa phương mình. Từ mục tiêu của chiến lược dân số cần phải tập trung nguồn lực để giảm tỷ lệ sinh, chết trong khu vực nông thôn, miền núi. 1.2. Hướng tới việc thực hiện chính sách di dân và kiểm soát việc di dân một cách có hiệu quả Cần hoàn thiện các biện pháp kinh tế vĩ mô thay cho các biện pháp kiểm soát hành chính. Nên tạo ra các khu vực phát triển kinh tế đồng bộ để huy động nguồn lao động tại chính địa phương đó để làm giảm di dân tự do. Cần giảm đi khoảng cách chênh lệch về cơ hội việc làm giữa khu vực thành thị và nông thôn bằng việc khuyến khích phát triển các ngành nghề tại chỗ,xây dựng các chương trình tín dụng, có sự trợ giá của chính phủ cho nông dân trong những thời kỳ giáp hạt, phi tập trung hoá các khu công nghiệp, phát triển các cụm đô thị, các đô thị vệ tinh bên cạnh các đô thị lớn. Để đảm bảo việc di dân một cách có hiệu quả nhà nước cần tạo điều kiện đảm bảo điều kiện sống cho những người di dân đến,giải quyết tốt vấn đề đất đai,các chính sách về nhà ở tại các nơi đi và nơi đến. 1.3. Chính sách đào tạo nghề và phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế không chỉ gồm trình độ văn hoá, trình độ đào tạo nghề, kỷ năng lao động, kỷ luật lao động…mà còn bao gồm khả năng thích ứng với yêu cầu không ngừng thay đổi kỹ thuật. Khác với những nghành khác lao động không dễ dàng chuyển từ nghành nghề này sang nghành nghề khác do trình độ kỹ năng chuyển đổi không kịp do vậy đào tạo là một trong những công cụ cơ bản nhằm bù dắp khiếm khuyết nâng cao tính năng động của lao động. Để thực hiện thành công nhiệm vụ đào tạo nghề cần nâng cao chất lượng lao động và định hướng đào tạo nghề cho nguời lao động. Nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục ở tất cả các cấp, xâydựng đánh giá đào tạo theo chuẩn mực của quốc gia, các tiêu chuẩn sử dụng cần phản ánh chất lượng đầu ra của hệ thống giáo dục đào tạo hơn là các chỉ tiêu đầu vào. Cần phải đổi mới vai trò của chính phủ trong lĩnh vực đào tạo để đạt được công bằng hơn trong lĩnh vực đào tạo. Trong nguồn tài chính có hạn chi cho công tác giáo dục cần có sự phân bố sử dụng nguồn tài chính này một cách hợp lý,cần quan tâm đến vấn đề giáo dục cho khu vực vùng sâu vùng xa. Đổi mới chính sách đầu tư,chính sách học phí trong lĩnh vực đào tạo đặc biệt là với các loại lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác xuất khẩu lao động có thể thành lập một bộ phận đào tạo, bồi dưỡng riêng trong các trung tâm dạy nghề hoặc hợp tác với các trường đào tạo ở trong và ngoài nước để bồi dưỡng cho người lao động có trình độ nhất định trước khi đưa người lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. 2. Giải pháp kích cầu lao động. 2.1. Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp. Một mô hình kinh tế sử dụng nhiểu lao động cần dựa vào những khu vực tăng trưởng kinh tế nhanh và hiện đại kết hợp với chiến lược tăng trưởng một cách đồng đều. Trong thời gian qua chúng ta đã tập trung cho các khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước như Hà Nội-Hải phòng-Đà Nẵng –Thành phố Hồ Chí Minh. Việc tập trung vào các cực kinh tế trọng điểm sẽ làm giảm việc làm được tạo ra. Tăng trưởng kinh tế đồng đều sẽ làm cho các vùng được phát triển đồng đều hơn có tác dụng làm tăng thu nhập của dân cư, tăng cầu sản xuất và tạo mở việc làm. Tuy nhiên việc lựa chọn phát triển các nghành kinh tế trọng điểm phải kết hợp với việc kết hợp và duy trì các nghành kinh tế truyền thống, các nghành có nhiều lợi thế về xuất khẩu và khai thác thế mạnh của lao động nước ta. 2.2. Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm tăng cường và thu hút lao động: Tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước bằng hình thức tự hạch toán tài chính tách rời khỏi sự bảo trợ của nhà nước, tức là nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì doanh nghiệp được hưởng còn nếu lỗ nhà nước không bù. Hoặc bằng hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực kinh tế nhà nước với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 2.3. Chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp nông thôn: Trước tiên cần phải tạo điều kiện tối đa về cơ chế chính sách cũng như đầu tư để có thể nhanh chóng thiết lập quan hệ sản xuất mới,tiến bộ hơn ở nông thôn. Tiếp theo là phải thúc đẩy quá trình công nghịêp hoá nông thôn như:cung cấp cho người nông dân càng nhiều thông tin dưới dạng dễ hiểu nhất và chi phí thấp. Tiếp tục đẩy mạnh chính sách tín dụng nông thôn nhưng có thu lãi để người nông dân sử dụng được tối đa nguồn vốn đi vay. Xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, cần có sự đóng góp của các cấp chính quyền trong việc cung cấp thông tin về thị trường sản phẩm cho người dân. Phát triển khôi phục các làng nghề truyền thống của nông thôn: GDP của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn đã tăng từ 26,8% năm 1998 lên trên 49% vào năm 1999. Thu nhập bình quân từ các hộ thuần nông cao gấp 2-4 lần so với các hộ thuần nông. Do đó cần tạo điều kiện để phát triển các nghành nghề thủ công,các làng nghê truyền thống. Kết luận Qua nghiên cứu vấn đề dân số và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động ở nước ta có một số điểm sau: Nước ta có quy mô dân số lớn, phát triển nhanh nên quy mô của nguồn lao động cũng rất lớnvà phát triển nhanh hơn so với tổng số dân. Điều đó thể hiện qua bảng số liệu sau: Chỉ tiêu 1979 1989 1999 Tổng dân số(triệu) 52,17 64,375 76,43 Dân số từ 15-59(triệu) 26,57 34,55 45,03 Tỷ lệ tăng dân số(%) 2,0 1,7 1,3 Tỷ lệ tăngdân số từ 15-59(%) 2,63 2,65 2,35 Nguồn: tính toán từ kết quả tổng điều tra dân số 1979, 1989, 1999. Quy mô của nguồn lao động không ngừng tăng hơn so với tổng số dân mà còn tăng nhanh hơn so với chỗ làm việc được tạo thêm. Thập kỷ 90 bình quân số chỗ làm việc thêm mới khoảng 1triệu nhưng số lao động tăng thêm lại khoảng 1,2 triệu. Điều này có nghĩa là cung lao động lớn hơn cầu lao động dẫn tới số thất nghiệp tích luỹ tăng thêm và tình trạng thiếu việc làm trở nên phổ biến. Tuy số lao động lớn nhưng chất lượng lao động lại thấp, tỷ lệ lao động được đào tạo từ sơ cấp trở lên chiếm chưa đến 20%, sức khoẻ của người lao động kém thể hiện qua các chỉ tiêu chiều cao, cân nặng, tình trạng bệnh tật… Nguyên nhân của tình trạng chất lượng lao động thấp một phần cũng là do mức sinh cao, trẻ em không được chăm saoc và giáo dục một cách đầy đủ. Cơ cấu lao động theo ngành nghề của nước ta thể hiện tình trạng lạc hậu của nền kinh tế cho đeens năm 2002 laođộng công nghiệp mới chỉ chiếm khoảng 15,13%, dịch vụ 24,2%, còn lao động nông nghiệp chiếm 60% trong khi đó đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp diện tích bình quân đầu người là 0,1 ha nên tình trạng nông nhàn, thất nghiệp trở nên phổ biến. Ngoài những tác động rất lớn đến thị trường lao động dân số tăng nhanh tạo ra áp lực đối với thị trường lao động để đáp ứng nhu cầu việc làm cho người lao động. Cần phải có chính sách để phát triển hệ thống thị trường lao động, huy động các nguồn lục từ trong dân để thực hiện giải quyết việc làm trong đó vai trò của nhà nước là quan trọng nhất. Danh mục tài liệu tham khảo 1) TS.Doãn Mậu Diệp/Thực hiện AFTA các vấn đề đặt ra với lĩnh vực lao động và việc làm/Lao động và xã hội số 212 2) TS.Hoàng Hữu Dũng/Nâng cao năng lực cạnh tranh xét từ góc độ nguồn nhân lực/Lao động và xã hội số209 3) Lê Duy Đồng/Thực trạng thị trườngl ao động ở Việt Nam và phương hướng phát triển trong giai đoạn 2001-2010/Thông tin thị trường lao động số 1/2000 4) TS.Trần Văn Hằng /Xuất khẩu lao động cơ hôị và thách thức/Lao động và xã hội số 206+207+208 5) Trần Văn Hoan/Tác động của dân số đối với vấn đề phát triển nguồn nhân lực và việc làm/Thông tin thị trường lao động số 2/2003 6) Nguyễn Thị Lan Hương/Thị trường lao động định hướng và phát triển/Nhà xuất bản lao động xã hội năm 2002 7) TS.Nguyễn Bá Ngọc-KS TRần Văn Hoan/Toàn cầu hóa cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam /Nhà xuất bản lao động xã hội năm 2002 8) THS.Lưu Bích Ngọc /Nguồn nhân lực cho phát triển ở Việt Nam những thách thức trong cuộc cạnh tranh quốc tế về trí tuệ/Kinh tế và phát triển số 72 tháng 6/2003 9) GS.TS Nhà giáo Phạm Đức Thành và TS Mai QuốcChánh/Giáo trình kinh tế lao động và dân số/Nhà xuất bản giáo dục năm 1998 10) GS.TS Phạm Đức Thành /Mấy vấn đề về thị trường lao động/Kinhtế và phát triển số 73/Tháng 07/2003 11) Đinh Trọng Thắng/Vai trò của thị trường lao động trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay/Thông tin thị trường lao động số 1/2003 12) TS. Mạc Văn Tiến/Phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá/Thông tin về thị trường lao động số 4/2002 13) Tổng cục thống kê/Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2001 và 1/4/2002,những kết quả chủ yếu Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35513.doc
Tài liệu liên quan