Đề tài Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam

Với hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện cơ chế và giải pháp trên đây vào hoạt động kinh doanh ngân hàng phát triển, an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp trong bối cảnh nước ta đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực, thông tin chưa đầy đủ, kinh nghiệm kiến thức của tác giả cũng còn hạn chế, nên bài viết không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học và các nhà quản lý điều hành quan tâm đến lĩnh vực này để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa.

doc90 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình và tư nhân cá thể hiện nay số được cấp giấy tờ về quyền sử dụng đất chiếm tỷ lệ thấp (30%). Vì vậy việc thế chấp vay vốn có nhiều khó khăn, do không đủ điều kiện. + Có mâu thuẫn giữa thực tế và giấy tờ sở hữu, còn sơ hở trong quản lý giấy tờ. Việc cấp quyền sử dụng đất của các cơ quan chức năng ở nhiều tỉnh còn vượt thẩm quyền quy định. + Đăng ký thế chấp. Việc đăng ký tài sản và thế chấp còn khó khăn, thể hiện: Ngoài cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất thì ở nhiều địa phương không có cơ quan đăng ký tài sản khác. + Công chứng thế chấp: Trách nhiệm của cơ quan công chứng chưa rõ ràng trong công chứng thế chấp nên thường gắn công chứng thế chấp với công chứng vay vốn. Trong công chứng vay vốn thường thiếu tôn trọng tính tự nguyện, tính thoả thuận của ngân hàng và khách hàng, mặc dù hai bên thực sự đủ năng lực pháp luật, người đại diện đủ năng lực hành vi để ký kết. Thể hiện là nhiều nơi công chứng áp đặt mẫu hợp đồng cho hai bên, áp đặt thời hạn vay vốn và thời hạn thế chấp. Điều này đặc biệt không phù hợp với quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, là quan hệ có tính thường xuyên, mang tính chất của quan hệ kinh tế mà không phải là quan hệ dân sự thông thường. Rất nhiều địa phương, công chứng không xác nhận việc thế chấp quyền sử dụng đất độc lập (đất làm vườn, đất chưa xây dựng). Mặt khác, các cơ quan công chứng làm việc quá tải dẫn đến việc thực hiện công chứng thế chấp để vay vốn còn phải chờ đợi, phiền phức, tốn quá nhiều thời gian, nhiều khi làm mất thời cơ kinh doanh. + Vấn đề định giá tài sản và tài chính khi xử lý tài sản thế chấp: Định giá quyền sử dụng đất phải theo khung giá quy định, nhưng khung giá thường để quá lâu, không điều chỉnh nên thường xảy ra hai trường hợp: quá cao hay quá thấp, cả hai trường hợp đều ảnh hưởng đến mở rộng hay an toàn tín dụng. Tính phức tạp, khó khăn trong giấy tờ mua bán, xác lập quyền sở hữu tài sản làm cho năng lực pháp luật của doanh nghiệp trên thực tế bị hạn chế. - Các cơ quan pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài sản thế chấp bảo lãnh, nhiều trường hợp tranh chấp hợp đồng kinh tế đã được toà án xét xử nhưng các bên không thực hiện mà cơ quan thi hành án cũng không xử lý, nhiều trường hợp vay vốn Ngân hàng không trả được nợ cũng không có biện pháp xử lý nghiêm minh. Việc xử lý tài sản khi có kiện phải theo trình tự tố tụng dân sự thông thường nên kéo dài, luẩn quẩn (mặc dù khách vay không có tranh chấp về nợ) việc xét xử kéo dài hàng năm phải qua nhiều cấp xét xử, nhưng chỉ cần 1 đơn kháng án là thêm hàng năm nữa. - Việc xử lý tài sản là bất động sản còn nhiều phức tạp, thể hiện: + Chưa có văn bản quy định cơ quan tuyên bố, trình tự thủ tục và cơ quan thực hiện việc cưỡng chế đối với các trường hợp thế chấp bất động sản mà không trả được nợ (không phải là phá sản). Hiện tại chỉ mới có Nghị định 86/CP của Chính phủ về bán đấu giá. Nhưng trước khi đưa tài sản đấu giá thì cần có sự cưỡng chế đối với người nợ cố ý trây ỳ. Nhiều nơi có quá nhiều cơ quan tham gia vào việc xử lý tài sản nên phức tạp, chi phí lớn. - Bản thân Nghị định 86CP cũng chỉ mới được triển khai với tốc độ rất chậm trễ ở một số địa phương. Tóm lại mục tiêu mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam còn có nhiều hạn chế từ nhiều mặt, về phía doanh nghiệp đó là thiếu năng lực hoạt động mà trước hết là tài chính, về phía ngân hàng đó là năng lực thẩm định, giám sát tín dụng và tổ chức quản lý tín dụng và nhất là cán bộ tín dụng. Trong môi trường kinh tế là các yếu tố không thuận lợi về thông tin, chi phí đầu tư, quy hoạch và chính sách thiếu ổn định, cạnh tranh... Trong môi trường pháp lý đó là hệ thống luật pháp về sở hữu, mua bán thế chấp tài sản, quá trình làm việc của cơ quan bổ trợ pháp lý, tố tụng và xét xử tranh chấp kinh tế. Chương III giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của ngân hàng công thương Việt Nam 3.1. Sự cần thiết tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng, đổi mới cơ chế tín dụng: Nghị quyết Hội nghị lần IV Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) chỉ rõ nội dung tiếp tục đổi mới và chấn chỉnh hoạt động ngân hàng: “... tiếp tục xoá bỏ bao cấp qua tín dụng. Đề cao vai trò tự chủ kinh doanh của ngân hàng thương mại. Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cả người cho vay và người đi vay. Không hình sự hoá các quan hệ dân sự trong hoạt động tín dụng. Có các giải pháp xử lý những vấn đề tồn đọng trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng đang cản trợ sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế...”. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành từ 01/10/2001, thay thế Pháp lệnh về ngân hàng ban hành tháng 5/1993. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phải thể chế hoá một cách cụ thể nghị quyết TW Đảng và quy định của Pháp luật, sớm đưa cơ chế tín dụng ngân hàng mới vào vận hành, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển lành mạnh. Điều đó, cho chúng ta thấy sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới và củng cố, hoàn thiện hoạt động ngân hàng; tạo cho hoạt động ngân hàng trở thành ngành nòng cốt trong việc phát huy nội lực của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trên cả phương diện huy động các nguồn vốn và cho vay nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Muốn vậy, phải gắn công cuộc đổi mới, củng cố hoàn thiện hoạt động ngân hàng với việc hoàn thiện cơ chế tín dụng để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ và thông thoáng cho hoạt động tín dụng - Đây là giải pháp quan trọng và cần thiết để khắc phục trở ngại, lực cản trong việc làm lành mạnh hoá và và tăng trưởng tín dụng phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế. Trước những diễn biến của tình hình kinh tế vĩ mô và những ảnh hưởng bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực mặc dù đã có dự báo và phân tích trước. Song chúng ta thấy, môi trường kinh tế vĩ mô hiện nay vẫn có nhiều biểu hiện khó khăn đối với việc thực hiện mục tiêu lớn của nền kinh tế và mục tiêu của chính sách tiền tệ mà nó đòi hỏi phải có sự tiếp tục đổi mới và củng cố hoạt động ngân hàng trước nhất là Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại quốc doanh. 3.2. Mục tiêu các giải pháp. Giải pháp đổi mới và hoàn thiện nghiệp vụ cho vay nhằm: - Kích thích tham vọng đầu tư của doanh nghiệp (nhu cầu vay vốn ngân hàng). - Nâng cao năng lực vay vốn (hay năng lực đáp ứng các điều kiện tín dụng). - Nâng cao năng lực đáp ứng của ngân hàng trong quan hệ tín dụng về các mặt chế độ, tổ chức và quản lý tín dụng. - Giải quyết mối quan hệ pháp lý trong tín dụng đảm bảo cho việc thu hồi nợ của ngân hàng. Có 2 loại giải pháp: + Giải pháp của Ngân hàng Công thương nhằm tự đổi mới, tự chỉnh lý để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn theo mục tiêu chiến lược của mình. + Giải pháp vĩ mô nhằm tác động vào doanh nghiệp, tác động vào ngân hàng và mối quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp nhằm kích thích, tạo môi trường thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. 3.3. Những giải pháp đối với NHCT Việt Nam 3.3.1. Hoàn thiện chế độ nghiệp vụ cho vay 3.3.1.1. Bổ sung các cam kết trong hợp đồng tín dụng mẫu Hợp động tín dụng là văn bản thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng về việc ngân hàng cho vay vốn. Hợp đồng tín dụng là cơ sở pháp lý để tiến hành tố tụng khi có tranh chấp. Trong hợp đồng tín dụng có cam kết rõ quyền, nghĩa vụ của ngân hàng, của khách vay. Cam kết quyền, nghĩa vụ của người vay phải phù hợp với năng lực pháp luật của doanh nghiệp. Ngân hàng đưa ra các hợp đồng mẫu để khách hàng ký. Để đảm bảo tính hợp lý, hợp đồng tín dụng cần bổ sung các điểm sau: - Bổ sung các thoả thuận về quyền hạn của ngân hàng trong giám sát và xử lý tín dụng, khẳng định nghĩa vụ trả nợ ngân hàng là nghĩa vụ bất khả kháng. Đối với các dự án lớn, vốn vay chiếm tỷ trọng cao, để đảm bảo chất lượng dự án, ngân hàng cần được quyền tham gia giám sát thi công công trình nếu là đề án xây dựng bằng cách cử người hoặc thuê giám sát, thuê giám định chất lượng thiết bị nhập khẩu. - Bổ sung các thoả thuận để đảm bảo cho ngân hàng có thể thực hiện quyền khởi kiện để đòi nợ mà không quá thời hiệu khởi kiện. - Bổ sung thủ tục tín dụng các cam kết của khách vay về nghĩa vụ cung cấp các thông tin liên quan đến tín dụng, quyền giám sát quá trình sử dụng vốn, tài sản và nghĩa vụ bí mật các thông tin của khách vay. 3.3.1.2. Đa dạng hoá các loại tài sản làm đảm bảo tiền vay Ngân hàng từng bước áp dụng đa dạng hoá các loại tài sản làm đảm bảo tiền vay nhằm tạo điều kiện nâng cao năng lực đáp ứng tài sản đảm bảo của doanh nghiệp. Từng bước mở rộng đối tượng tài sản, nhất là động sản trong việc thực hiện đảm bảo tuỳ theo sự phát triển vốn, thị trường chứng khoán. Phân loại và tiêu chuẩn hoá đối tượng tài sản làm đảm bảo, cần bổ sung chế độ đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố theo định kỳ, theo dõi được rủi ro phát sinh từ tài sản đảm bảo. 3.3.1.3. Xây dựng chế độ nghiệp vụ cho vay riêng cho các đối tượng khách hàng (doanh nghiệp, tư nhân, tổng công ty...) Theo tính chất pháp lý có ba loại doanh nghiệp: thể nhân; pháp nhân và pháp nhân phức tạp, pháp nhân phức tạp có các thành viên cũng có đủ tư cách pháp nhân, chế độ tín dụng hiện tại của ngân hàng Công thương được áp dụng chung cho cả ba loại hình pháp lý của doanh nghiệp nên máy móc trong việc áp dụng các điều kiện tín dụng. Tổng công ty Nhà nước là pháp nhân phức tạp; bản thân Tổng công ty là một pháp nhân, bên trong các Tổng công ty lại có các doanh nghiệp thành viên cũng có năng lực pháp luật độc lập tương đối với Tổng công ty, tính chất sở hữu, quản lý, định đoạt tài sản của Tổng công ty khá phức tạp. Về kinh tế tài chính đây là những doanh nghiệp mạnh. - Ngân hàng Công thương cần ký kết và tham gia ngay từ đầu các kế hoạch, các dự án, quy hoạch tổng thể và đầu tư trung dài hạn của Tổng công ty, định kỳ thu thập tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của toàn Tổng công ty trên nền tảng đó có thể giao hạn mức tín dụng trung dài hạn cho chi nhánh có doanh nghiệp thành viên tổng công ty mở quan hệ tín dụng khi doanh nghiệp đó thực hiện các dự án, các quy hoạch tổng thể của Tổng công ty. - Xây dựng chế độ báo cáo riêng của các chi nhánh về tình hình tài chính kinh doanh và tín dụng của các doanh nghiệp thành viên, tập hợp và phân tích trong toàn Tổng công ty. - Có chế độ thường xuyên trao đổi thông tin giữa hội sở chính và các chi nhánh nhằm đảm bảo sử dụng tốt nhất các nguồn thông tin hiện có. - Xây dựng chế độ tín dụng cho Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên, có thể yêu cầu Tổng công ty dùng tài sản thuộc quyền định đoạt của Tổng công ty hay các tài sản nằm trong quyền quản lý của các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty có nhu cầu tín dụng thấp để bảo lãnh cho các doanh nghiệp thành viên khác thuộc Tổng công ty vay vốn. Thực hiện thu thập thông tin về Tổng công ty từ 2 nguồn là: + Hội sở chính thu nhập trực tiếp nhu cầu vay vốn và tình hình tài chính - kinh doanh từ Tổng công ty. + Tập hợp các nguồn thông tin từ các doanh nghiệp thành viên trực tiếp có quan hệ tín dụng do chi nhánh Ngân hàng Công thương thực hiện. Với việc sử dụng 2 nguồn thông tin với Tổng công ty, Ngân hàng Công thương có điều kiện nhanh chóng tiếp cận và xử lý được nhu cầu đầu tư của toàn tổng công ty và từng doanh nghiệp thành viên, việc xử lý cho vay nhanh chóng, thuận lợi, do việc giảm thông tin không cân xứng. Mặt khác tận dụng triệt để năng lực tài chính và năng lực đáp ứng tài sản làm đảm bảo của Tổng công ty, áp dụng khối lượng tín dụng phù hợp với năng lực pháp lý của Tổng công ty, và đây là điều kiện quan trọng để mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay. 3.3.2. Đào tạo cán bộ và sử dụng chuyên gia tín dụng - Dành phần thích đáng trong các khoản vay cơ cấu lại ngân hàng quốc doanh của IMF và WB để đào tạo và đào tạo lại cán bộ, ưu tiên trước hết cán bộ quản lý với chương trình đào tạo hiện đại, tiên tiến của Thế giới. Coi chứng chỉ của các khoá đào tạo này là một trong những tiêu chuẩn để lựa chọn các nhà quản lý ngân hàng thương mại hiện đại. - Giáo dục tư tưởng phẩm chất đối với đội ngũ cán bộ công nhân viên phụ trách nghiệp vụ cho vay đã trở thành cấp bách, thường xuyên để khắc phục tình trạng rủi ro đạo đức đối với một bộ phận cán bộ làm nghiệp vụ cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh nói chung và Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. - Rủi ro đạo đức là một trong những yếu kém của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng quốc doanh nói riêng ở nước ta. Tình trạng này phát sinh do ỷ lại vào sự bảo trợ của Nhà nước (dịch vụ ngân hàng được coi có ý nghĩa như một dịch vụ công ích), do thiếu minh bạch về pháp luật, do lẫn lộn giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng Nhà nước đã dẫn đến hệ quả là hoạt động ngân hàng luôn trong tình trạng bị động, trách nhiệm không rõ ràng và rất khó kiểm soát. Lợi dụng cơ chế này viên chức quản lý và nhân viên ngân hàng đã trục lợi về chính trị và tiền của gây tổn thất lớn cho các ngân hàng thương mại. - Đào tạo cán bộ làm nghiệp vụ cho vay. Có 2 loại cán bộ làm nghiệp vụ cho vay: + Cán bộ nghiệp vụ cho vay các doanh nghiệp nhỏ, vừa, doanh nghiệp tư nhân và cho vay vốn ngắn hạn nói chung thì đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho vay thông thường. + Riêng đối với cán bộ nghiệp vụ cho vay vốn dài hạn có thêm nghiệp vụ thẩm định. Yêu cầu cán bộ thẩm định: . Có hiểu biết về quy trình, biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ thẩm định khách hàng và đánh giá một dự án, một món vay. . Biết thu thập, xử lý các thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá. . Nắm vững chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của ngành, của địa phương có liên quan đến dự án và doanh nghiệp. . Có hiểu biết nhất định về pháp luật. . Nắm bắt được tình hình kinh tế, xã hội của thế giới, của nước có liên quan đến dự án và sản phẩm. . Nắm được cơ bản tình hình thị trường sản phẩm của doanh nghiệp, của dự án. . Cán bộ thẩm định còn cần một đức tính là trung thực, có bản lĩnh và có phong cách làm việc khẩn trương, khoa học. Trong đội ngũ cán bộ ngân hàng, đa số được học tập, kinh nghiệm làm việc trong nền kinh tế còn bao cấp, hệ thống ngân hàng hoạt động còn đơn điệu, vì vậy cần gấp rút đào tạo cán bộ theo các hướng sau: . Đào tạo để nâng cao chất lượng điều tra và phương pháp thu thập thông tin về khách hàng, phương pháp phân tích tín dụng, trong đó đi sâu vào nghiệp vụ phân tích các chỉ tiêu tài chính, các phương pháp phân tích ngành kinh tế và hệ thống pháp luật. . Nâng cao trình độ nghiệp vụ về giám sát khách hàng vay vốn. . Nâng cao trình độ nghiệp vụ về đánh giá doanh nghiệp, đánh giá tài sản làm đảm bảo. . Nâng cao trình độ hiểu biết về pháp lý cho cán bộ. Sử dụng chuyên gia thẩm định: Đối với các dự án lớn phức tạp, các khách hàng lớn, hoạt động đa dạng thì một cán bộ dù giỏi đến đâu cũng không thể thẩm định được đầy đủ, chính xác các mặt khác nhau của khách hàng và dự án. Vì vậy, vấn đề sử dụng chuyên gia (nhất là các chuyên gia ngoài ngân hàng) là cần thiết, việc tập hợp đội ngũ cộng tác viên ngoài ngân hàng phục vụ cho thẩm định cần có quy chế gắn lợi ích và trách nhiệm nhằm: tận dụng được kiến thức của các chuyên gia trong thẩm định và ngăn ngừa lộ bí mật và đầu tư công nghệ của khách hàng. Việc tập hợp đội ngũ chuyên gia cho thẩm định các dự án lớn gồm các nhà khoa học ở các vụ, các viện, các bộ chuyên ngành góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Chuyên môn hoá sâu hơn trong bố trí cán bộ: ở Hội sở chính và các chi nhánh lớn ngân hàng cần tiếp tục chuyên môn hoá sâu hơn về ngành nghề và pháp lý. Bằng cách tập trung nguồn lực phát triển chuyên môn hoá, ngân hàng có sự hiểu biết chi tiết hơn về lĩnh vực mà ngân hàng hoạt động, điều đó đảm bảo cho ngân hàng có thể dễ dàng xác định những khách hàng nguy cơ rủi ro cao của từng lĩnh vực mà còn có thể dễ dàng xác định xu hướng của mỗi ngành cụ thể, do đó khi phát hiện một ngành đang đi xuống ngân hàng có thể chuyển hướng hạn chế các khoản vay cho lĩnh vực này. Chuyên môn hoá sâu hơn ở hội sở chính tạo điều kiện cho hội sở chính hỗ trợ các chi nhánh tốt hơn về chuyên môn ngành nghề và pháp lý nghiệp vụ cho vay. 3.3.3. Bổ sung bộ phận chức năng đánh giá nợ, thu hồi nợ: Trong quản lý tín dụng ở hội sở chính cần có bộ phận chức năng thu hồi nợ, chuyên quan tâm, xử lý các khoản tín dụng có vấn đề ở các chi nhánh. Bộ phận này có thể có hai chức năng chính là: - Chịu trách nhiệm xử lý khoản nợ có vấn đề từ các chi nhánh. - Đánh giá độc lập các khoản vay, trên cơ sở đánh giá độc lập chức năng này mà đưa ra tỷ lệ trích lập dự phòng thích hợp. Bộ phận chuyên xử lý này gồm các chuyên gia về vấn đề phá sản, vỡ nợ, và liên hệ thường xuyên định kỳ với các công ty pháp lý bên ngoài để tìm sự hỗ trợ pháp lý cần thiết. Bộ phận chuyên xử lý nợ giúp cho ban lãnh đạo các chi nhánh thu hồi nợ một cách tiết kiệm và có mức độ cứng rắn cần thiết mà ban lãnh đạo chi nhánh khó thực hiện. 3.3.4. Nâng cấp hệ thống thông tin: Nâng cấp hệ thống thông tin quản lý điều hành là một trong những ưu tiên hàng đầu nâng cao chất lượng quản lý và kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh nói riêng trong đó có Ngân hàng Công thương Việt Nam. Như ta đã biết thông tin về các doanh nghiệp là cơ sở để đánh giá sự vững mạnh của họ, là cơ sở để phân loại các doanh nghiệp được tham gia phát hành thương phiếu, được tham gia vào thị trường chứng khoán, và trước tiên là cơ sở để ngân hàng xem xét, quyết định cho vay đối với doanh nghiệp. Vì vậy thông tin trung thực có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các nhà quản lý ở cả cấp vi mô và vĩ mô. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế nói chung, tạo tiền đề cho ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nói riêng, ngoài yêu cầu tăng cường tính nghiêm minh trong việc thực hiện Pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước, cần thiết phải hình thành các tổ chức chuyên trách thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin về các doanh nghiệp. Các tổ chức này hoạt động kinh doanh thông tin theo luật định. Trong nội bộ hệ thống ngân hàng, cần thiết phải thực hiện nghiêm minh chế độ công khai thông tin hoạt động của các Ngân hàng thương mại, tăng cường và phát triển hoạt động của Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro. Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ và hoạt động thanh tra. Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức nghiên cứu, tiến tới hình thành các tiêu thức đánh giá sự vững mạnh của ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó hàng năm tiến hành định mức tín nhiệm. 3.3.5. Xây dựng chiến lược nghiệp vụ cho vay: Chiến lược tín dụng có nội dung quan trọng là định hướng phát triển tín dụng vào đối tượng cụ thể theo các hướng: loại khách hàng, loại ngành nghề, loại sản phẩm tín dụng (hình thức tín dụng) hay theo vị trí địa lý: Chiến lược tín dụng rõ ràng, cụ thể là khâu quyết định cho việc mở rộng tín dụng đúng hướng. Chiến lược tín dụng của Ngân hàng Công thương cần xác định mục tiêu cụ thể hơn vào các ngành nghề, loại khách hàng, loại sản phẩm tín dụng có tiềm năng và có thể phát triển trong tương lai gần. Có thể chế về xây dựng chiến lược của các chi nhánh và định kỳ có đối chiếu với hội sở chính, có thể giao chỉ tiêu tín dụng vào các ngành cụ thể và phân bổ cho chi nhánh thực hiện. Để có thể đề ra được chiến lược tín dụng phù hợp với thực tiễn hoạt động và yêu cầu phát triển tín dụng, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau: 3.3.5.1. Phân tích kinh tế và môi trường kinh tế, môi trường pháp lý: Tổ chức bộ phận chuyên trách công tác phân tích các yếu tố của môi trường kinh tế tại Hội sở chính. Ngân hàng Công thương Việt Nam nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố trên vào việc thực hiện các điều kiện tín dụng của hệ thống khách hàng, đến khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng, mức độ mở rộng tín dụng và tín dụng trung dài hạn trên cơ sở đó điều chỉnh tiêu chuẩn. 3.3.5.2. Xây dựng tiêu chuẩn khách hàng để cho vay: Tiêu chuẩn tín dụng là yêu cầu doanh nghiệp phải đạt để thiết chế lập quan hệ tín dụng tuỳ theo quy mô của quan hệ tín dụng trong giới hạn an toàn của ngân hàng. Trong quan hệ tín dụng, trong sản xuất kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp, khả năng trả được nợ cho Ngân hàng phụ thuộc vào nhiều mặt là: năng lực sản xuất kinh doanh, Năng lực thị trường, cạnh tranh, năng lực quản lý, Năng lực tài chính, tính chất khả thi của dự án cần tài trợ tín dụng. Các mặt trên được phản ánh bởi nhiều cách biểu hiện nhiều tiêu thức khác nhau có mặt biểu diễn bằng tiêu thức định lượng có mặt biểu hiện bằng định tính. Xác định thế nào là an toàn và đủ điều kiện để thiết lập quan hệ tín dụng, điều đó đòi hỏi cần có tiêu chuẩn tín dụng. Tiêu chuẩn tín dụng là tiêu thức cụ thể đã được lượng hoá các mặt, các biểu hiện đại diện cho hoạt động của doanh nghiệp. Tiêu chuẩn tín dụng đảm bảo tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng Công thương khi tiến hành thẩm định, quyết định cho vay, cần xây dựng tiêu chuẩn tín dụng gồm các nội dung: - Lựa chọn các tiêu thức tiêu biểu, các biểu hiện tiêu biểu được coi là để đánh giá các mặt năng lực hoạt động của doanh nghiệp. - Mô hình tập hợp các tiêu thức để phản ánh năng lực chung của doanh nghiệp. - Mức độ giới hạn của tiêu thức phản ánh năng lực chung của doanh nghiệp cần phải đạt để được coi là đủ an toàn. Tiêu chuẩn tín dụng của Ngân hàng Công thương lệ thuộc vào khả năng chịu đựng rủi ro của Ngân hàng Công thương, lệ thuộc vào năng lực hoạt động chung của hệ thống các doanh nghiệp là khách hàng của Ngân hàng Công thương, hệ thống các doanh nghiệp trong nền kinh tế và lệ thuộc vào các giai đoạn cụ thể trong chu kỳ kinh tế. Vì vậy, tiêu chuẩn tín dụng cần được rà soát, điều chỉnh thường xuyên và gắn liền với kết quả hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng, công tác phân tích kinh tế vĩ mô và định hướng chiến lược của ngân hàng. Việc đưa ra tiêu chuẩn tín dụng và nâng cao chất lượng xây dựng tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng: - Thực hiện quy trình xây dựng tiêu chuẩn tín dụng là: + Tổng hợp kết quả đánh giá khách hàng trong toàn hệ thống Ngân hàng Công thương và từng chi nhánh. + Xếp hạng khách hàng, tổng hợp kết quả xếp hạng phối hợp với kết quả phân tích kinh tế vĩ mô để điều chỉnh tiêu chuẩn tín dụng. + Dùng tiêu chuẩn tín dụng được điều chỉnh để thẩm định tín dụng đối với các dự án mới và làm căn cứ ra quyết định tín dụng. Sử dụng tiêu chuẩn tín dụng để đánh giá khách hàng các giai đoạn sau: Đánh giá khách hàng: Trong nền kinh tế thị trường, cùng với việc mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động tín dụng, đối tượng khách hàng cũng ngày càng phong phú, vì vậy khả năng rủi ro thất thoát vốn vay ngày càng tăng. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh và sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng, Ngân hàng cần chọn cho mình những khách hàng tốt trên cơ sở xem xét và đánh giá khách hàng. Có thể đánh giá trên các mặt chủ yếu: + Đánh giá tình hình tài chính của khách hàng. + Tình hình quan hệ ngân hàng: + Đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh và vị trí doanh nghiệp; + Đánh giá chính sách của nhà nước đối với ngành, xu hướng phát triển của ngành, tính chất khách hàng; + Đánh giá hệ thống quản lý của khách hàng. Để đánh giá khách hàng đòi hỏi ngân hàng phải lựa chọn các tiêu thức, các biểu hiện tiêu biểu làm cơ sở đánh giá. Đặc biệt là các mặt biểu hiện bằng định tính như hệ thống quản lý của người vay. Đánh giá khách hàng cần gắn liền với tiêu chuẩn tín dụng. Đưa công tác đánh giá khách hàng thành công việc định kỳ hàng năm. 3.4. Giải pháp thuộc chính sách vĩ mô (kiến nghị) 3.4.1. Đối với nhà nước: Đề nghị Nhà nước xem xét những nội dung thuộc cơ chế chính sách và điều hành còn nhiều vướng mắc, ảnh hưởng thậm chí là những khó khăn làm giảm sức mạnh hoạt động ngân hàng: - Cơ chế chính sách về bù lãi suất, bù đắp các khoản nợ khoanh hoặc xoá nợ không đáp ứng kịp thời các nghiệp vụ phát sinh gây tổn thất đến nguồn vốn ngân hàng và làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. - Cơ chế bao cấp còn khá đậm nét trong nhiều chính sách của Nhà nước đối với các hoạt động ngân hàng, đặc biệt là trong chính sách tín dụng nông thôn, tín dụng với doanh nghiệp Nhà nước và tín dụng với sách Nhà nước. - Nhiều trường hợp, sự thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã trực tiếp tạo ra khoản nợ xấu cho ngân hàng thương mại nhưng việc bù đắp chưa đặt ra. - Chưa có các chính sách cụ thể của Nhà nước về đảm bảo an toàn vốn vay và dự phòng rủi ro. Việc xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố rất chậm và thiệt hại lớn nhất luôn về phía Ngân hàng. 3.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam : Đề nghị Ngân hàng Nhà nước quan tâm hơn nữa khắc phục những vấn đề sau: - Tăng cường hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, chức năng giám sát, kiểm tra đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng: Mấy năm gần đây những tồn tại của Ngân hàng thương mại (trong đó có Ngân hàng Công thương Việt Nam) có nguyên nhân thuộc về cơ cấu tổ chức và bộ máy của hệ thống tài chính ngân hàng thực sự còn yếu kém trên nhiều mặt, từ phương thức quản lý điều hành chính sách tiền tệ cho đến cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ. Chưa tính đến sự thiếu vắng của những thể chế tài chính quan trọng như thị trường chứng khoán, thì tiềm lực tài chính còn rất yếu kém (thậm chí dưới mức tối thiểu) của rất nhiều ngân hàng thương mại cổ phần (mặc dù phát triển rất nhanh về số lượng), cũng như khả năng phối kết hợp hoạt động trong toàn hệ thống, năng lực điều hành chính sách tiền tệ, quản lý và giám sát hoạt động đối với các ngân hàng thương mại của Ngân hàng Nhà nước cho đến năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức không vững vàng của một số cán bộ ngân hàng đang đặt ra thách thức lớn cho sự phát triển nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng. Sự có mặt ngày càng nhiều sức cạnh tranh càng tăng của các ngân hàng, chi nhánh văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài hoạt động ở nước ta càng làm bộc lộ rõ yếu kém của hệ thống tài chính - ngân hàng nước ta. - Sửa đổi việc ban hành các văn pháp quy của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các mặt hoạt động của ngân hàng thương mại quốc doanh, văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước còn thể hiện can thiệp quá sâu, đôi khi vụn vặt vào các kỹ thuật nghiệp vụ; thiếu các khuôn khổ pháp lý đảm bảo cho hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động an toàn. - Ngân hàng Nhà nước cần hình thành cơ quan phân tích, đánh giá về tài chính và dự báo xu hướng phát triển của các ngân hàng thương mại trên cơ sở đó kịp thời điều chỉnh các quy định và biện pháp giám sát. - NHNN cần tổ chức hoạt động thanh tra có tính độc lập cần thiết để kịp thời phát hiện và xử lý kiên quyết các vi phạm kỷ luật. - Ngân hàng Nhà nước cần sớm tổ chức, củng cố hệ thống đào tạo của ngành để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn cao phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh ngân hàng trong cơ chế thị trường. Ngoài những nguyên nhân bất khả kháng, tình trạng nợ quá hạn gia tăng trầm trọng tại hầu hết các ngân hàng thương mại trong thời gian qua, trước hết bắt nguồn từ những khiếm khuyết của cơ chế tín dụng chưa được hoàn thiện cho phù hợp với sự chuyển đổi nhanh chóng môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường của các doanh nghiệp. Điều đó đồng thời bắt nguồn tự sự yếu kém về trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng, họ không đủ năng lực thẩm định tình sản xuất kinh doanh của khách hàng, không đưa ra được phán quyết đúng đắn về các dự án vay vốn có hiệu quả hay không, từ đó họ xử lý sai, quyết định cho vay thiếu cơ sở đảm bảo và cuối cùng dẫn đến tổn thất. Như vậy hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ tín dụng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ ngân hàng là hai nhân tố căn bản, lâu dài góp phần giải quyết triệt để tình trạng nợ quá hạn cao trong các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tình trạng nợ quá hạn cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân có tính chất cá biệt khác nhau, như tình trạng một số cán bộ ngân hàng biến chất đã cố ý làm sai chế độ nhằm lợi dụng, tham ô, nhận hối lộ v.v... Với những nguyên nhân này cần phải có biện pháp xử lý ngay, xử lý nghiêm minh làm bài học giáo dục chung. Đến nay hệ thống đào tạo của ngành ngân hàng đã được nâng lên thành Học viện, song vẫn còn bất cập trên nhiều góc độ từ chất lượng giáo trình, đội ngũ giáo viên... Vì vậy, cần củng cố hệ thống đào tạo để cung cấp cho ngành những chuyên gia giỏi nói chung và chuyên gia về tín dụng nói riêng đáp ứng được yêu cầu mới. 3.5. Một số biện pháp cụ thể về cơ chế - chính sách: Như chúng ta đã biết, tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Nó đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng phát triển ngày càng đa dạng, phong phú thì đóng góp cho tăng trưởng nền kinh tế càng lớn. Song kinh nghiệm ở các nước có nền kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng càng phát triển, càng mở rộng thì rủi ro của ngân hàng cũng càng lớn. Thực trạng trên đây của ngân hàng thương mại nước ta nói chung của Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng là một bài học để điều chỉnh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta. Thực hiện Thông báo số 144/TB/TW ngày 03-06-2001 của BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam, thông báo ý kiến của Thường vụ Bộ Chính trị về các giải pháp để khắc phục ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ châu á và khó khăn của các Ngân hàng thương mại nước ta. Quá trình nghiên cứu tôi xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau đây: 3.5.1. Lành mạnh hoá tài chính: Việc lành mạnh hoá tài chính của ngân hàng quốc doanh nói chung và ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng cần sớm được giải quyết vì nó ảnh hưởng đến nhiều mặt trong hoạt động ngân hàng như: có vốn để phát triển nghiệp vụ cho vay; đảm bảo khả năng thanh toán; khả năng tài chính để hoạt động giao dịch với ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế... Cuối cùng là uy tín của một ngân hàng thương mại quốc doanh. Vì vậy cần xử lý những vấn đề sau đây: 3.5.1.1. Cần tiếp tục làm tốt việc phân loại và tích cực xử lý nợ theo các nguyên nhân: Cho đến nay, việc xử lý các mặt tồn tại về công nợ giữa khách hàng và ngân hàng thương mại quốc doanh đã có 2 văn bản pháp lý của Nhà nước là: Quyết định số 95/2001/QĐ-TTg ngày 18-5-2001 của Thủ tưởng Chính phủ về xử lý thanh toán nợ giai đoạn II và Thông tư số 03/2000/TTLT/NHNN-BTC ngày 22/11/2000 của Liên bộ Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính về hướng dẫn xử lý nợ quá hạn của các ngân hàng quốc doanh qua chấn chỉnh hoạt động ngân hàng sau thanh tra. Theo các văn bản nói trên, việc xử lý nợ quá hạn được giải quyết tương ứng với các loại nguyên nhân như sau: a) Nợ quá hạn do nguyên nhân vi phạm quy chế tín dụng: Dù là vi phạm từ phía ngân hàng hay phía khách hàng (có ý lừa đảo, chụp giật, móc ngoặc hoặc sử dụng vốn vay sai mục đích chưa trả được nợ) nếu đã được xác định rõ trách nhiệm và còn đầu mối để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì giải pháp là: dùng mọi biện pháp để tận thu: gồm cưỡng chế, quy trách nhiệm và nếu cần thiết phải khởi tố trước pháp luật. Số nợ còn đọng lại lập hồ sơ có phân loại nguyên nhân để gửi lên Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính để kiểm tra và có giải pháp xử lý tiếp về việc tìm nguồn bù đắp. b) Nợ quá hạn do nguyên nhân rủi ro ngoài khả năng kiểm soát: Tổng hợp phân loại nợ quá hạn theo nguyên nhân khách quan bao gồm 3 nhóm chính: * Nhóm nguyên nhân bất khả kháng: Nhóm này gồm các nguyên nhân do thiên tai: con nợ bị tuyên bố phá sản, giải thể hoặc khách hàng đã chết, mất tích... không còn khả năng trả nợ thì sau khi Ban thanh tra công nợ trung ương và các bên có liên quan đã tiến hành các thủ tục tận thu theo luật định, số còn lại về nguyên tắc có 2 nguồn bù đắp chính để thanh lý nợ đọng cho ngân hàng đó là ngân sách Nhà nước và quỹ dự phòng rủi ro của chính ngân hàng bị rủi ro. Theo kết quả thẩm định của liên Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước, tổng số nợ quá hạn được xét cho xoá theo Thông tư 03 đến ngày 30 tháng 6 năm 2001 là 696,64 tỷ đồng, trong đó của Ngân hàng Công thương Việt Nam là 106,14 tỷ đồng. * Nhóm nguyên nhân khách quan nhưng chưa phải là bất khả kháng được xét để cơ cấu lại nợ hoặc thay đổi hợp đồng tín dụng gồm: - Nhóm nợ quá hạn được xét cho khoanh nợ từ 3 đến 5 năm: con nợ là doanh nghiệp Nhà nước chưa trả được nợ vay ngân hàng do chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi sự thay đổi cơ chế, chính sách và môi trường kinh doanh (đóng cửa rừng, an ninh lương thực, mất thị trường...); do sắp xếp lại doanh nghiệp; do ngân hàng cho vay theo chỉ định của cấp trên... Về nguyên tắc nguồn bù đắp các khoản nợ khoanh này còn nằm trong tương lai (3 đến 5 năm) của chính các con nợ. Trước mắt ngân hàng chịu rủi ro phần thu lãi hàng năm. Tuy nhiên để khắc phục sự thiết hụt nguồn vốn hoạt động và lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng đề nghị Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính trình Chính phủ một cơ chế mua bán nợ (sẽ trình bày sau) và khoản nợ khoanh được hoạch toán riêng và tạm loại ra khỏi chỉ tiêu tính tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng từ thời điểm có quyết định được khoanh. Từ kết quả thẩm định của liên bộ Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính theo Thông tư số 03 thì số dư nợ được khoanh từ 3 đến 5 năm của các ngân hàng thương mại quốc doanh đến ngày 30-6-2001 là 440,43 tỷ đồng, trong đó của Ngân hàng Công thương Việt Nam là 98,01 tỷ đồng. - Nhóm nợ quá hạn được xét cho giãn nợ từ 3 đến 5 năm: con nợ là doanh nghiệp Nhà nước chưa có khả năng trả nợ cho ngân hàng do kinh doanh thua lỗ, mất thời cơ tiêu thụ hàng hoá hoặc thời kỳ phát huy hiệu quả dự án sản xuất chưa tới, do nhu cầu nền kinh tế và hướng phát triển trong tương lai mà doanh nghiệp đó cần tiếp tục được tồn tại. Đây là khoản nợ được Hội đồng thẩm định cùng chủ nợ xét cho cơ cấu lại nợ: biến nợ thời hạn ngắn thành thời hạn nợ dài hơn, biến nợ quá hạn thành nợ trong hạn và con nợ vẫn phải trả lãi tiền vay trong suốt thời gian chưa đáo hạn của hợp đồng tín dụng. Để bù đắp thiếu hụt nguồn thanh toán (do phải kéo dài thời hạn thù hồi nợ) ngân hàng thương mại có thể sử dụng thị trường tiền tệ và thị trường mua bán nợ của Nhà nước. Cũng theo thẩm định của liên bộ Ngân hàng Nhà nước - Bộ Tài chính đến ngày 30-6-2001 số được xét cho giãn nợ từ 3 đến 5 năm theo Thông tư 03 của các ngân hàng thương mại quốc doanh là 307,75 tỷ đồng; trong đó của Ngân hàng Công thương Việt Nam là 122,2 tỷ đồng. * Nhóm nguyên nhân do chưa phát mại được tài sản cầm cố, thế chấp: Đây là các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp đã quá hạn, ngân hàng đã phong toả tài sản cầm cố, thế chấp nhưng chưa phát mại được do rất nhiều nguyên nhân: tính chất phức tạp về quyền sở hữu của tài sản thế chấp, tính chất kém chuyển đổi giá trị của tài sản hoặc tài sản đang bị niêm phong chờ xử lý của toà án v.v... Theo Quyết định số 445/2001/QĐ-NHNN2 ngày 5-11-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép loại dư nợ quá hạn này các ngân hàng thương mại được hạch toán riêng vào tài khoản 39 “Các khoản nợ chờ xử lý” với 2 tiểu khoản: 391 “các khoản nợ chờ xử lý đã có tài sản xiết nợ, gán nợ” (dư nợ) và tiểu khoản 392. “các khoản nợ có tài sản thế chấp liên quan đến vụ án chờ xét xử” (dư nợ). Các tài khoản này được hạch toán riêng để theo dõi và “lành mạnh hoá” chất lượng tín dụng. Về nguyên tắc nguồn để bù đắp các khoản nợ này hiện đang nằm trong chính giá trị tài sản thế chấp mà ngân hàng đang quản lý. Vấn đề cơ bản để xử lý loại này cần có cơ chế và giải pháp dứt điểm và càng sớm càng tốt của Nhà nước để giúp các ngân hàng thương mại thu hồi nhanh giá trị tài sản cầm cố. c) Giải pháp giải quyết vốn điều lệ cho ngân hàng thương mại quốc doanh (trong đó có NHCT) Vốn điều lệ của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh sau khi đã được cấp bổ sung 2.427 tỷ đồng theo Quyết định số 859/QĐ-TTg ngày 24-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ mới đạt 5.498 tỷ đồng bằng 80,8% mức vốn pháp định theo quy định tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 03-10-2001 của Chính phủ về ban hành mức vốn pháp định đối với tổ chức tín dụng: đối với các ngân hàng: Ngoại thương, Công thương, Đầu tư và phát triển mỗi ngân hàng là 1.100 tỷ đồng; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2.200 tỷ đồng; Ngân hàng phục vụ người nghèo: 700 tỷ đồng; Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL: 600 tỷ đồng. Tổng số 6.800 tỷ đồng, đã cấp. 3.5.1.2. Những giải pháp tạo nguồn bù đắp nợ quá hạn và tăng khả năng thanh toán cho các ngân hàng thương mại quốc doanh: Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính châu á cho thấy việc xử lý nợ và lành mạnh hoá tài chính các ngân hàng thương mại không thể chỉ trông cậy vào chính sách tài khoá và việc tuyên bố phá sản hàng loạt các doanh nghiệp. Làm như vậy một mặt sẽ làm trầm trọng thêm suy thoái kinh tế, ngân sách cực kỳ căng thẳng và mặt khác sẽ làm tăng đột ngột đội quân thất nghiệp gây mất ổn định xã hội và bần cùng hoá người lao động. Vì vậy, cần phối hợp cùng lúc cả hai biện pháp tiền tệ và ngân sách nhằm vừa phục hồi tăng trưởng kinh tế, lành mạnh hoà tài chính của các ngân hàng và hạn chế bởi sự bần cùng hoá người lao động do thiếu việc làm. Cách làm này nếu quá ồ ạt sẽ có thể dẫn đến lạm phát, nhưng nếu làm từ từ, thận trọng thì hiệu quả rất lớn về nhiều mặt. Có 3 biện pháp cơ bản: * Tăng tín dụng mới từ Ngân hàng Trung ương bằng cách tăng cho vay tái cấp vốn, giảm lãi suất tái cấp vốn Ngân hàng Trung ương mua lại hối phiếu Chính phủ từ các ngân hàng thương mại; sử dụng nguồn tái cấp vốn để mua nợ, xoá nợ cho một số con nợ đặc biệt do Chinh phủ bảo lãnh và được hoàn vốn dần từ khoản phải nộp ngân sách Nhà nước. * Mở rộng tín dụng ngân hàng thương mại bằng cách: áp dụng các biện pháp kiểm soát tín dụng và hướng dẫn tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại trong việc cho vay các đối tượng có nợ quá hạn lớn và kinh doanh kém hiệu quả. * Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng đối với các dự án có hiệu quả cao, đặc biệt là tín dụng cho khu vực nông nghiệp và nông thôn; đồng thời quy định trần lãi suất tiền gửi tối đa để hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn. Biện pháp này vừa làm tăng khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại (đang rất thấp) vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống Ngân hàng. 3.5.3. Giải pháp hình thành công ty mua nợ và kinh doanh tài sản thế chấp: Công ty này là doanh nghiệp Nhà nước, Hội đồng quản trị của công ty do một Thứ trưởng Bộ Tài chính làm Chủ tịch và các uỷ viên gồm đại diện Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch đầu tư. Hội đồng này chọn lựa và bổ nhiệm Ban giám đốc điều hành. Vốn điều lệ của Công ty do Chính phủ cấp từ ngân sách Nhà nước. 3.5.3.1. Nội dung hoạt động chính của Công ty: Được Chính phủ bảo lãnh cho Công ty phát hành trài phiếu trung và dài hạn từng đợt nhằm tạo nguồn từ mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước để: - Mua đứt, bán đoạn các tài sản cầm cố, thế chấp và tham gia đấu thầu các tài sản phát mại từ các doanh nghiệp bị công bố phá sản để trả cho chủ nợ là ngân hàng thương mại liên quan. - Mua lại các món nợ đã được cơ cấu lại của các con nợ được phép kéo dài thời hạn trả nợ ngân hàng thương mại quốc doanh. - Được hoạt động cho thuê tài chính và tham gia thị trường tài chính trong nước. 3.5.3.2. Nguồn bù đắp trong thanh toán các trái phiếu đến hạn: Nguồn này được lấy từ: - Chi trả từng đợt của ngân sách Nhà nước tương ứng với các khoản công ty đã chi trả nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc doanh do nguyên nhân bất khả kháng được cấp có thẩm quyền quyết định cho xoá nợ. - Giá trị thu hồi do bán tài sản cầm cố, thế chấp (phần lỗ sau khi được xác định sẽ được ngân sách Nhà nước cấp bù từng đợt). - Vốn thu hồi từ các món nợ được kéo dài thời hạn mà công ty đã mua lại nợ của con nợ và trả tiền cho ngân hàng thương mại trước đó (các món nợ khoanh, giãn nợ...). - Được bảo lãnh phát hành trái phiếu mới để thanh toán các trái phiếu cũ đến hạn. - Trường hợp khẩn cấp được Chính phủ bảo lãnh vay ngắn hạn Ngân hàng Nhà nước để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán trái phiếu đến hạn. 3.5.3.3. Nguyên tắc hạch toán của Công ty là: Hạch toán báo sổ lấy thu bù chi và trực thuộc Bộ Tài chính 3.6. Một số kiến nghị cụ thể khi thực hiện quy chế cho vay mới theo quyết định 324 và hướng dẫn cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam: 3.6.1. Quy chế cho vay ban hành theo quyết định 324/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: + Hạn chế lớn nhất là cho đến nay chính phủ vẫn chưa ban hành được Nghị định về đảm bảo tiền vay là trở ngại lớn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Trong khi ''quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng'' theo quyết định 217 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước không còn hoàn toàn thích hợp làm cho việc xem xét và quyết định cho vay của các tổ chức tín dụng có khi rất lúng túng. Đặc biệt là việc sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm đảm bảo tiền vay đang là vấn đề nổi cộm trong thực tế hiện cho vay. Bởi giá trị đích thực cùng với tính phức tạp của nó đã làm cho việc xem xét cho vay cùng với việc xử lý gặp nhiều khó khăn khi món cho vay không thu hồi được. Đề nghị Chính phủ cần nhanh chóng ban hành Nghị định về đảm bảo tiền vay. + Theo quy định hiện nay của Chính phủ thì doanh nghiệp Nhà nước không phải thế chấp tài sản khi làm thủ tục vay vốn ngân hàng. Nhưng khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, dẫn đến bị giải thế hoặc phá sản, đã làm cho các tổ chức tín dụng hết sức khó khăn trong việc thu hồi vốn cho vay. Theo quy định tại thông tư 25 của Bộ Tài chính thì khi doanh nghiệp bị giải thể, chủ nợ đảm bảo được nhận tài sản đảm bảo. Nhưng theo hướng dẫn của tổng cục quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp thì nợ có đảm bảo phải là nợ được đảm bảo bằng các tài sản thế chấp, cầm cố - gồm cả bất động sản và động sản đang thuộc quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp . Chính vì những lẽ trên mà trong thực tế việc xử lý tài sản của những đơn vị giải thể để trả nợ ngân hàng đang hết sức rắc rối. Nếu không quy định cụ thể thì đối với những tài sản được hình thành từ vốn vay có khi tổ chức tín dụng cũng không thu hồi được. + Quy định việc đảm bảo tiền vay chỉ là điều kiện vay vốn. Do đó trong một số trường hợp người vay vốn tìm đủ mọi cách để có được tài sản dùng làm thế chấp, cầm cố, mà không thấy rằng đó chính là cơ sở cho đảm bảo thu hồi nợ, vì vậy cần phải thẩm định, kiểm tra trước và sau khi cho vay một cách chặt chẽ. Chúng tôi cho rằng nếu không đưa vấn đề đảm bảo tiền vay vào mục ''quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng'' để thực hiện việc xem xét và quyết định cho vay thì không ý thức được đầy đủ cho cả ngân hàng và khách hàng. + Vấn đề thẩm định và quyết định cho vay, theo quy định tại điều 15 của Quy chế, trong trường hợp cần thiết hoặc pháp luật có quy định thì tổ chức tín dụng được thành lập hội đồng tín dụng hoặc cơ quan tư vấn liên quan đến thẩm định dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nếu không quy định rõ trách nhiệm của bên nhận thẩm định sẽ gặp nhiều rắc rối bởi vì, nếu do thẩm định thiếu chặt chẽ dẫn đến dự án không có hiệu quả thì trách nhiệm của bên thẩm định như thế nào cũng là một vấn đề đặt ra, chứ không thể bên cho vay phải gánh chịu tổn thất hoàn toàn. + Về vấn đề cho vay đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị theo quy định thì phải ký quỹ 100%. Trong khi đa số các doanh nghiệp hiện nay muốn đổi mới được thiết bị công nghệ đồng bộ và toàn diện phải có vốn lớn. Để có được chủ yếu các doanh nghiệp phải vay vốn của nâng hàng vì vốn của họ nhiều. Như vậy, quy định trên là chưa thực sự tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp, vì vậy theo chúng tôi thì không nên bắt ký quỹ 100% mà có thể dùng chính thiết bị được hình thành từ khoản tiền vay ngân hàng làm đảm bảo, vừa giúp đỡ tạo điều kiện cho doanh nghiệp, vừa đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng. 3.6.2. Đối với hướng dẫn cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của ngân hàng công thương Việt Nam đối với khách hàng số 92/ HĐQT/NHCT5 có hiệu lực thi hành từ quý 4 năm 2001. Sau một thời gian thực hiện cho thấy có sự không đồng nhất về số vấn đề có tính kỹ thuật nghiệp vụ. 3.6.2.1. Về phương thức cho vay từng lần: Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Qua nghiên cứu cho thấy có một số hướng hiểu chưa chính xác về cho vay từng lân: Hướng thứ nhất cho rằng mỗi quý, mỗi tháng hoặc mỗi khoảng thời gian nhất định là một lần vay, dẫn đến coi tập hợp nhiều phương án sản xuất kinh doanh (PA-SXKD) có thời gian thực hiện rất khác nhau làm cơ sở xác định nhu cầu vốn và mức vốn cho vay. Vì thế sẽ phải khó khăn trong xây dựng tính toán số liệu doanh số cho vay cũng như xác định, kiểm soát đối tượng vay, lúng túng về theo dõi diểm soát quản lý doanh số cho vay. Nếu coi mỗi khoảng thời gian như vậy là một lần vay có thể đưa đến sự không phù hợp giữa thời hạn cho vay (bằng khoảng thời gian đó) với thời gian vận động cần thiết của vốn để thực hiện PA- SXKD, doanh số giải ngân không phù hợp với nhu cầu vốn của PA-SXKD. Hướng thứ hai cho rằng mỗi lần người vay đề nghị tiền vay là một lần vay, do đó phải hoàn tất cả thủ tục như lập tờ trình, ký kết hợp đồng tín dụng... Như vậy mô hình chung đã đem chia nhỏ từng PA- SXKD, làm mất đi tính hoàn chỉnh khép kín về vận động của vốn. Thao tác nghiệp vụ theo hướng này sẽ thiếu cơ sở tính toán, phức tạp về thủ tục giấy tờ. Cần thấy rõ khách hàng có nhu cầu về đề nghị vay vốn từng lần ở đây là nhu cầu và đề nghị đó xuất phát từ một phương án kinh doanh cụ thể. Một PA- SXKD cụ thể thường có tính độc lập tương đối trong toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, có thể rạch ròi đầu vào, đầu ra, thời gian thực hiện phương án, xác định được tổng nhu cầu vốn riêng của PA đó. Do đó xác định được mức vốn cho vay của PA và thời gian chu chuyển vốn, làm cơ sở cho việc ký kết HĐTD. Về thời hạn cho vay như Hướng dẫn số 92 đã chỉ rõ là được xác định phù hợp với chu kỳ SXKD. Phân tích cụ thể về tính phù hợp này ta thấy: - Thời hạn cho vay nhỏ hơn hoặc bằng thời gian thực hiện phương án SXKD vay vốn. Thời gian thực hiện PA- SXKD là khoảng thời gian từ khi doanh nghiệp bắt đầu bỏ chi phí thuộc vốn ngắn hạn cho đến khi thu được toàn bộ đầu ra của PA. Vì lẽ trên thời gian cho vay của những lần giải ngân vốn tín dụng khác nhau là không bằng nhau (về lý thuyết được tính tư khi giải ngân đến ngày hoàn thành PA- SXKD). Lần giải ngân đầu tiên có thời gian cho vay tối đa dài nhất, lần giải ngân cuối cùng có thời gian cho vay tối đa ngắn nhất. Bởi vậy trên giấy nhận nợ cần xác định rõ ngày trả nợ cuối cùng. - Tổng số tiền cho vay được giải ngân không vượt quá doanh số cho vay đã xác định trong HĐTD (nếu không có bổ sung). Để thuận lợi cho việc quản lý doanh số cho vay, cần thiết nên tách bạch từng PA- SXKD theo một HĐTD. 3.6.2.2. Về phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (HMTD) áp dụng đối với khách hàng có tình hình SXKD ổn định, vay vốn, trả nợ thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng. Phân tích nội dung về tính ổn định SXKD của khách hàng có các trường hợp. - Khách hàng có số loại đầu ra ít nhưng luân chuyển vốn liên tục nên có nhu cầu vay vốn trả nợ ngân hàng thường xuyên. Sau khi xác định được nhu cầu vốn lưu động cần thiết, ta xác định được nhu cầu vay vốn Ngân hàng làm cơ sở xác định HMTD. - Khách hàng có số loại đầu ra lớn, sử dụng nhiều yếu tố, nhiều nhóm. Yếu tố đầu vào khác nhau, luân chuyển vốn cũng liên tục với quy mô lớn. Do đặc điểm này, khả năng tách bạch ra từng PA - SXKD riêng trong kế hoạch hoạt động của Ngân hàng là rất phức tạp, khó thực hiện. Với các khách hàng thuộc diện này hoạt động hiệu quả, khả năng tài chính tốt nếu Ngân hàng cho vay yêu cầu doanh nghiệp xây dựng riêng lẻ các PA - SXKD khác nhau sẽ đưa đến một khối lượng thủ tục lớn. Vì vậy ngân hàng cho vay có thể xem xét toàn bộ kế hoạch SXKD của khách hàng như là tổng thể của nhiều phương án khác nhau để xác định nhu cầu vốn lưu động cần thiết, nhu cầu vốn vay ngân hàng bình quân và sử dụng phương thức cho vay theo HMTD. Kết luận Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, bài viết đã nêu được những luận cứ khoa học, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Bài viết đã thực hiện những nội dung và đạt được những kêt quả chủ yếu sau đây: - Đã làm rõ mặt lý thuyết về nghiệp vụ cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. - Khái quát hoá thực trạng phát triển và làm rõ vai trò của Ngân hàng Công thương Việt Nam trong 10 năm đổi mới và triển vọng phát triển. - Góp phần làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu, trong đó đi sâu, chú trọng phân tích nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại nói chung và được chứng minh thực hiện tại Ngân hàng Công thương Việt Nam. - Hệ thống hoá khá đầy đủ thực trạng về cơ chế tín dụng ở Việt Nam những năm qua rút ra khái quát những mặt được, những tồn tại yếu kém khi đưa cơ chế tín dụng vào thực tế cuộc sống cùng với vai trò chủ đạo và thực thi nghiệp vụ cho vay tại hệ thống các ngân hàng thương mại mà cụ thể là Ngân hàng Công thương Việt Nam. - Bài viết đã sử dụng khá nhiều số liệu phù hợp thời gian cần thiết để so sánh phân tích thực trạng hoạt động nghiệp vụ cho vay những năm qua tại Ngân hàng Công thương Việt Nam. Cũng như rút ra những ưu điểm, khuyết điểm cho bài học về chỉ đạo và hoạt động nghiệp vụ với mức độ hiệu quả của nó. - Trên cơ sở mục tiêu của hoạt động ngân hàng những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Bài viết đã đưa ra được sự cần thiết đổi mới cơ chế cho vay do Ngân hàng Nhà nước ban hành gần nhất với tổng hợp tình hình để đưa ra nhiều giải pháp khá phong phú có tính thuyết phục nhằm hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại quốc doanh cũng như giải pháp tháo gỡ những tồn đọng về cho vay nói chung đặc biệt là Ngân hàng Công thương Việt Nam. Với hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện cơ chế và giải pháp trên đây vào hoạt động kinh doanh ngân hàng phát triển, an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp trong bối cảnh nước ta đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực, thông tin chưa đầy đủ, kinh nghiệm kiến thức của tác giả cũng còn hạn chế, nên bài viết không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học và các nhà quản lý điều hành quan tâm đến lĩnh vực này để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0197.doc
Tài liệu liên quan