Đề tài Giải pháp hoàn thiện thị trường thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Việc thanh toán thẻ của ngân hàng sẽ không thực hiện được nếu thiếu sự góp mặt của các điểm tiếp nhận thẻ . Có thể nói, mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và các điểm tiếp nhận thẻ là mối quan hệ 2 chiều. Các điểm tiếp nhận thẻ là khách hàng của ngân hàng, hàng hoá mà họ được ngân hàng cung cấp khi tham gia vào mạng lưới thanh toán thẻ là dịch vụ bán hàng qua ngân hàng” . Thông qua dịch vụ này,các cơ sở chấp nhận thẻ sẽ có điều kiện rất lớn để mở rộng thị trường và doanh số. Các chủ thẻ sẽ tìm đến các cơ sở chấp nhận thẻ để mua hàng hoá vá dịch vụ. Điều này thoả mãn được mục tiêu của các điểm chấp nhận thẻ là tối đa hoá lượng hàng hoá , dịch vụ cung cấp được vì mỗi điểm tiếp nhận thẻ là một cơ sở kinh doanh. Ngân hàng thông qua dịch vụ thẻ sẽ thu được một khoản lợi nhuận là phí tính theo % trên giá trị giao dịch thẻ.

doc33 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 928 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện thị trường thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cảm ơn Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Th.S Nguyễn Tất Thắng người đã tận tình giúp đỡ và ủng hộ em trong suốt quá trình nghiên cứu để em hoàn thành đề án của mình. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn đề án của không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Rất mong được sự góp ý và nhận xét của thầy để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Mục lục Trang Lời Mở đầu Thẻ tín dụng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được lưu hành trên toàn thế giới, song song cùng tồn tại với các phương thức thanh toán khác như: séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu Mặc dù có nhiều tiện ích như vậy nhưng thẻ tín dụng vẫn là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Để đẩy nhanh tốc độ “ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” hệ thống ngân hàng và nhanh chóng đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới thì thẻ tín dụng là một trong giải pháp tối ưu. Hiện nay ở nước ta việc cung ứng và thử nghiệm ở lĩnh vực thẻ tín dụng cũng gặp phải rất nhiều khó khăn. Đây cũng là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các ngân hàng. Qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng em đã phần nào hiểu được tầm quan trọng của thẻ tín dụng đối với nước ta và em quyết định chọn đề tài "Giải pháp hoàn thiện thị trường thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam" làm đề án môn học tài chính tiền tệ với hi vọng sẽ hoàn thiện hơn nữa kiến thức về tài chính của bản thân bằng việc tiếp cận với lĩnh vực “thẻ tín dụng”. Đề án được chia làm 3 chương : Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thẻ tín dụng Chương II : Thực trạng công tác phát hành và kinh doanh thẻ tín dụng tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Chương III : Giải pháp phát triển thị trường thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Em xin chân thành cám ơn thầy Nguyễn Tất Thắng đã tận tình hướng dẫn và tạo cho em điều kiện tốt nhất để hoàn thành đề án của mình Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về thẻ tín dụng I. Thẻ tín dụng - sản phẩm đa tiện ích của ngân hàng : 1. Lịch sử hình thành : Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, thẻ ngân hàng ra đời đã mang lại một cuộc cách mạng trong tác nghiệp thanh toán của hệ thống ngận hàng bằng việc ứng dụng những thành tựu công nghệ thông tin tiên tiến nhất. Thẻ ngân hàng ra đời trong một trường hợp hết sức ngẫu nhiên. Năm 1949, một nhà doanh nghiệp người Mỹ tên là Frank XMc Namara tơí ăn tối trong một nhà hàng và khi ăn xong ông mới nhớ ra là mình không mang theo tiền mặt để thanh toán.Ông liền gọi điện về nhà nhắn người mang tiền đến giúp . Và ông đã chợt nảy ra ý tưởng về một loại phương tiện thanh toán thay thế tiền mặt có thể sử dụng được ở mọi nơi. Thẻ tín dụng đầu tiên ra đời với tên gọi Diners Club. Tiếp nôí Diners Club là sự ra đời của hàng loạt những đồng dạng của nó như Trip Change, Golden Key, Guest Club ...... Vào năm 1958, thẻ American Express ra đời và bắt đầu thống lĩnh loại hình dịch vụ này, cho đến nay American Express trở thành một trong những loại thẻ có doanh số thanh toán lớn nhất trên thế giới. Với những tính năng và ưu điểm vượt trội thẻ tín dụng đang dần khẳng định đươc vị thế của nó trong nền kinh tế thị trường và có thể nói rằng thẻ tín dụng sẽ còn phát triển và gặt hỏi được những thành công lớn hơn thế nữa trong những năm tới. Hiện nay, trên thế giới đang có 3 loại thẻ ngân hàng được sử dụng: Thẻ ghi nợ: áp dụng đối với các khách hàng có quan hệ thanh toán, tín dụng thường xuyên có tín nhiệm với ngân hàng do Giám đốc ngân hàng quyết định, mỗi thẻ có ghi hạn mức sử dụng tối đa do ngân hàng phát hành thẻ quy định. Thẻ thanh toán: được áp dụng rộng rãi cho các khách hàng. Muốn sử dụng loại thẻ này, khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài khoản ứng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán trong phạm vi ký quỹ. Thẻ tín dụng: được áp dụng đối với các khách hàng đủ điều kiện được ngân hàng đồng ý cho vay tiền, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp nhận. Sau đây em xin đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận về thẻ tín dụng. 2.Khái niệm , đặc điểm chung của thẻ tín dụng: a. Khái niệm : Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp cho người sử dụng trên cơ sở khả năng tài chính, sổ ký quĩ hoặc tài sản thế chấp. b. Đặc điểm cơ bản: Các loại thẻ đều có cấu tạo giống nhau, có kích thước tiêu chuẩn 6*10 cm. Hiện nay, thẻ có thể được sản xuất bằng công nghệ thẻ từ tính hoặc thẻ thông minh. Số lượng thẻ từ tính hiện tại đang được dùng nhiều hơn, vì nó là loại thẻ ra đời sớm hơn, nhưng nó cũng đã bộc lộ một số nhược điểm về kỹ thuật và độ bảo mật không cao, dễ bị làm giả. Do đó, công nghệ thẻ thông minh ra đời và nhanh chóng được ứng dụng. Tuy thẻ thông minh có thể khắc phục được nhược điểm của thẻ từ tính nhưng giá thành để sản xuất thì quá đắt. Việc phát hành và thanh toán thẻ tín dụng thường đi đôi với việc thiết lập các hệ thống đầu cuối như máy gưỉ, rút tiền tự động ATM, máy thanh toán thẻ tại các điểm bán hàng(POS). II.Các tiện ích của thẻ tín dụng : 1. Đối với khách hàng : Ngày nay thẻ tín dụng đã trở thành một phương tiện thanh toán hiệu quả, an toàn và chính xác, hơn hẳn so với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác. Với thẻ tín dụng khách hàng có thể mua hàng hoá, dịch vụ tại bất cứ một điểm chấp nhận thẻ hoặc một ngân hàng thanh toán nào. Phạm vi lưu hành thẻ càng được mở rộng do số lượng các cơ sở chấp nhận thẻ ngày càng có xu hướng tăng lên. Do đó thẻ tín dụng có thể thay thế tiền mặt mọi nơi mọi lúc Một điểm lợi lớn mà thẻ tín dụng đem lại cho khách hàng là một dịch vụ “ chi tiêu trước trả tiền sau”. Các ngân hàng phát hành thẻ cấp một hạn mức tín dụng và chủ thẻ được phép chi tiêu trong hạn mức tín dụng đó mà không phải trả tiền ngay. Theo qui định của các ngân hàng, chủ thẻ có thể sử dụng hạn mức tín dụng và chỉ phải thanh toán cho ngân hàng một phần nhất định khoản tiền đã sữ dụng khi đến hạn. Đặc biệt chủ thẻ có thể sử dụng khoản tín dụng đó không chịu lãi trong thời hạn 10 - 45 ngày và nếu chủ thẻ trả nợ toàn bộ số dư sao kê, chủ thẻ sẽ không phải trả một khoản lãi nào cho ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít khách hàng thanh toán các khoản theo sao kê . Phần lớn họ chỉ thanh toán 1 khoản lớn hơn hoặc bằng số tiền tối thiểu mà ngân hàng qui định và chấp nhận trả lại cho số dư còn lại. Hơn thế chi phí thực tế vào việc sử dụng thẻ không phải là lớn. Ngoài khoản lệ phí bắt buộc thường niên mà chủ thẻ phải nộp (200.000VND cho thẻ vàng và 100.000 VND cho thẻ chuẩn ) hầu như toàn bộ các khoản giao dịch phát sinh của chủ thẻ sẽ không bị tính lãi nếu được thanh toán theo đúng sao kê. Bên cạnh đó thẻ tín dụng còn giúp các chủ thẻ luôn kiểm soát và tự tính toán được các khoản phí và lãi nếu trả cho mỗi khoản giao dịch . 2. Đối với các điểm tiếp nhận thẻ Việc thanh toán thẻ của ngân hàng sẽ không thực hiện được nếu thiếu sự góp mặt của các điểm tiếp nhận thẻ . Có thể nói, mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và các điểm tiếp nhận thẻ là mối quan hệ 2 chiều. Các điểm tiếp nhận thẻ là khách hàng của ngân hàng, hàng hoá mà họ được ngân hàng cung cấp khi tham gia vào mạng lưới thanh toán thẻ là dịch vụ ‘ bán hàng qua ngân hàng” . Thông qua dịch vụ này,các cơ sở chấp nhận thẻ sẽ có điều kiện rất lớn để mở rộng thị trường và doanh số. Các chủ thẻ sẽ tìm đến các cơ sở chấp nhận thẻ để mua hàng hoá vá dịch vụ. Điều này thoả mãn được mục tiêu của các điểm chấp nhận thẻ là tối đa hoá lượng hàng hoá , dịch vụ cung cấp được vì mỗi điểm tiếp nhận thẻ là một cơ sở kinh doanh. Ngân hàng thông qua dịch vụ thẻ sẽ thu được một khoản lợi nhuận là phí tính theo % trên giá trị giao dịch thẻ. 3. Đối với nền kinh tế: Thẻ tín dụng giúp tăng cường hoạt động lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, tăng cường vòng quay của đồng tiền, khơi thông các luồng vốn khác nhau, tạo điều kiện cho việc kiểm soát khối lượng giao dịch thanh toán trong dân cư và của cả nền kinh tế. Hạn chế các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát các hoạt động giao dịch kinh tế, giảm thiểu các tiêu cực và tăng cường tính chủ đạo của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế và điều hành các chính sách kinh tế tài chính quốc gia. Việc tăng tốc độ thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông sẽ làm giảm tỷ trọng của số lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó làm giảm những chi phí cần thiết lưu thông trong xã hội (in ấn, bảo quản tiền mặt, kiểm đếm...). Hơn nữa, việc thanh toán bằng thẻ qua việc sử dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiện đại tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc hội nhập với nền kinh tế thế giới III. Tác động của thẻ tín dụng đối với hoạt động ngân hàng : 1. Tác động đến lợi nhuận : Là sản phẩm do ngân hàng cung ứng, thẻ tín dụng mang lại nhiều nguồn thu khác nhau. Đó chính là khoản thu thường niên mà ngân hàng phải thu dựa trên hợp đồng sử dụng thẻ,đối với thẻ vàng là 20.000VND, thẻ chuẩn là 100.000USD. Đây là nguồn thu đáng kể cho các ngân hàng vì số người kí hợp đồng sử dụng thẻ là rất lớn. Các khoản giao dịch rút tiền mặt mang lại một khoản thu quan trọng cho ngân hàng. Trong tổng doanh số hoạt động thẻ bình quân qua các năm có đến khoảng 97- 98% là doanh số rút tiền mặt. Ngoài ra chủ thẻ cũng phải chịu lãi ngày, từ ngày giao dịch phát sinh cho đến ngày sao kê. Đến hạn thanh toán nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ dư nợ cuối kỳ đúng hạn, chủ thẻ sẽ được miễn lãi cho các giao dịch tiền mặt từ ngày sao kê đến ngày chủ thẻ trả nợ theo hạn.Trường hợp chủ thẻ không trả hoặc trả một phần dư nợ, ngân hàng sẽ tiếp tục tính lãi đối với giao dịch rút tiền mặt chưa được thanh toán kể từ ngày sao kê và khoản lãi này sẽ được thể hiện trên sao kê kỳ kế tiếp . Với giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ tại các điểm tiếp nhận thẻ, theo nguyên tắc chủ thẻ sẽ không phải trả phí cho ngân hàng. Ngân hàng vẫn duy trì được nguồn thu cố định của mình thông qua khoản phí do cơ sở chấp nhận thẻ trả . Đây là khoản phí liên quan tới việc thanh toán thẻ tín dụng theo % tính trên trị giá giao dịch thẻ . Khoản phí này là 3% cho mọi giao dịch. Bên cạnh đó khoản phí chậm trả trên số dư thanh toán tối thiểu cũng là một nguồn thu của ngân hàng.Hàng tháng ứng với mỗi sao kê, ngân hàng buộc khách hàng phải thanh toán một số tiền tối thiểu. Nếu khách hàng chỉ trả một phần số tiền này, phần dư nợ tối thiểu còn lại sẽ phải chịu phí chậm trả lên tới 3%. Ngoài các khoản thu kể trên, ngân hàng còn có các khoản thu khác như : + Phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời: phát sinh khi chủ thẻ muốn nâng hạn mức tín dụng. +Phí tra soát: khoản phí mà chủ thẻ phải trả cho yêu cầu tra soát của mình. + Phí cấp lại thẻ: (do mất cắp , thất lạc ) và đổi thẻ ( theo yêu cầu của chủ thẻ) + Phí đưa thẻ mất cắp thất lạc lên danh sách thẻ cấm lưu hành. 2. Tác động đến công tác thanh toán : Theo nhận xét và đánh giá của một số chuyên gia nước ngoài, Việt nam là một quốc gia đang sử dụng quá nhiều tiền mặt.Tình trạng sử dụng quá lớn tiền mặt trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay đang làm cho chúng ta mỗi năm mất đi tới hơn 1 tỷ đô la. Thẻ ra đời mang lại một bước nhảy vọt trong thanh toán, tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ một cách an toàn, có hiệu quả chính xác tin cậy và tiết kiệm thời gian . Qui mô của thị trường thẻ tăng lên kéo theo số lượng gia tăng của các điểm tiếp nhận thẻ. Các ngân hàng luôn phải trang bị những phương tiện máy móc hiện đại nhất, đó cũng là tiền đề và là bước đột phá để các hình thức thanh toán tận dụng được những thành tựu cộng nghệ mới. Hiện nay, tất cả các ngân hàng phát hành, thanh toán thẻ đều sử dụng hệ thống kết nối trực tiếp ONLINE khi giao dịch với tổ chức thẻ quốc tế . 3.Tác động tới công tác huy động vốn quĩ : Tác đông của thẻ tín dụng tới công tác huy động vốn quỹ có thể được khái quát bằng sơ đồ sau : Sơ đồ 1 : Tác động của thẻ tín dụng tới công tác huy động vốn quỹ. (6) Thanh toán nợ cho Ngân hàng (4) Gửi hoá đơn thanh toán thẻ (2) Thanh toán bằng thẻ tín dụng (5) Ghi có TK tiền gửi của CSCNT tăng số dư tiền gửi Ngân hàng phát hành thanh toán Điểm tiếp nhân thẻ Chủ thẻ (3)Cung ứng hàng hoá dịch vụ (1) Cấp thẻ TD cho KH Trong qui trình thanh toán thẻ tín dụng, để thuận tiện trong thanh toán, các cơ sở chấp nhận thẻ khi ký hợp đồng tiếp nhận thẻ thường mở tài khoản tại ngân hàng thanh toán. Mỗi khi có giao dịch phát sinh, các cơ sở chấp nhận thẻ gửi hoá đơn thanh toán (in theo mẫu) lên ngân hàng. Ngân hàng sẽ làm căn cứ để ghi có vào tài khoản tiền gửii của điểm tiếp nhận thẻ.Điều đó làm cho số dư tài khoản tiền gửi tăng lên và làm tăng trưởng ngân quĩ. Sự gia tăng vốn quĩ được nhân lên gấp đôi khi chủ thẻ thanh toán nợ cho ngân hàng. Mỗi khoản giao dịch là một khoản vay. Tại ngày đáo hạn theo sao kê, khi chủ thẻ thanh toán cho ngân hàng sẽ làm tăng quĩ tiền mặt thực tế. ở đây ta xét giới hạn trong trường hợp ngân hàng thanh toán cũng là ngân hàng phát hành. Với doanh số thanh toán hàng năm lên đến hàng trăm tỷ USD, chắc chắn có một phần không nhỏ vốn đọng lại trong toàn bộ hệ thống các ngân hàng tham gia phát hành,thanh toán thẻ tín dụng. Điều này chứng tỏ rằng: bản thân việc phát triển thẻ tín dụng cũng đem lại tác động tích cực đến lượng vốn huy động của ngân hàng. 4. Tác động tới công tác tín dụng : Một ưu điểm lớn của thẻ tín dụng đó là có độ an toàn hơn hẳn đối với các hình thức giao dịch khác. Mỗi hợp đồng cung cấp thẻ đều cần có tài sản thế chấp và điều kiện về thu nhập của khách hàng. Ngân hàng có thể can thiệp ngừng các giao dịch thẻ ngay lập tức nếu phát hiện thấy nguy cơ rủi ro, do đó có thể hạn chế tối đa mức thiệt hại . Một ưu điểm lớn nữa của tín dụng thẻ với hoạt động ngân hàng là nó góp phần quan trọng tạo ra những khách hàng kinh doanh lâu dài. Hợp đồng thẻ tín dụng khi được ký kết sẽ gắn ngân hàng và khách hàng trong một quan hệ giao dịch lâu dài. Bên cạnh đó, quan hệ giữa ngân hàng và các điểm tiếp nhận thẻ cũng được gắn kết tương tự bằng các giao dịch kinh tế. Việc tạo lập những quan hệ về tín dụng, thanh toán trong môi trường kinh doanh đầy biến động là một lợi ích mà kinh doanh thẻ mang lại. IV. Cơ chế phát hành và thanh toán thẻ tín dụng: 1. Cơ chế phát hành: a.Các hình thức phát hành: Thẻ tín dụng ra đời gắn liền với 2 hình thức phát hành. Hình thức phát hành thẻ đầu tiên là phát hành đơn lẻ. Các ngân hàng phát hành thẻ riêng của mình và thương lượng với các cửa hàng chấp nhận hình thức này. Sau đó các cửa hàng sẽ gửi hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng để ngân hàng đòi tiền của chủ thẻ. Phạm vi sử dụng thẻ chỉ bó hẹp trong những điểm tiếp nhận thẻ ký hợp đồng với ngân hàng phát hành.Rõ ràng chí phí để áp dụng hình thức này là không hề nhỏ và việc mở rộng các điểm chấp nhận thẻ cũng khó khăn hơn. Sự xuất hiện 2 tổ chức Visa International và Mastercard ở Mỹ đã khắc phục được những khó khăn của hình thức phát hành thẻ đầu tiên . Phạm vi sử dụng 2 loại thẻ này mang tính toàn cầu và tổ chức của nó có tới 50.000 thành viên được uỷ quyền thanh toán và phát hành thẻ với biểu tượng chung của tổ chức . Hình thức này đã làm giảm chi phí phát hành đến mức tối thiểu, khả năng lưu hành thẻ rộng rãi đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. b. Cơ sở pháp lý và nguyên tắc phát hành : Việc phát hành thẻ tín dụng phải căn cứ vào luật pháp nước sở tại, các qui định và luật lệ hiện hành của tổ chức thẻ tín dụng quốc tế, qui chế về thẻ tín dụng do Tổng giám đốc ngân hàng đó qui định. Thẻ tín dụng được phát hành dựa trên nguyên tắc tín dụng có bảo đảm. Để có quyền sử dụng thẻ, khách hàng phải đáp ứng được các yêu cầu về tín chất, thế chấp và các điều kiện đảm bảo khác. Vì hình thức thẻ tín dụng nằm trong nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng nên nguồn vốn phát hành chủ yếu vốn huy động ngắn hạn. c. Thủ tục phát hành : Việc phát hành thẻ tuân theo các bước sau : * Bước 1 : Khách hàng gửi đơn và các hồ sơ cần thiết yêu cầu được sử dụng thẻ tín dụng đến ngân hàng. * Bước 2 : Khi nhận được hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ của khách hàng, bộ phận phát hành thẻ sẽ tiến hành thẩm định và ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối phát hành Với những hồ sơ được chấp nhận, gửi thông báo quyết định chấp nhận phát hành cùng với hợp đồng sử dụng thẻ cho khách hàng tới trung tâm phát hành thẻ đồng thời xác định các hạn mức cho khách hàng. * Bước 3 : Trung tâm thẻ sẽ tiến hành mở tài khoản thẻ tín dụng cho khách hàng cập nhật hồ sơ và tiến hành in thẻ. Sau khi in xong thẻ và xác định số PIN, thẻ được trao cho bộ phận phát hành thẻ để trao thẻ cho khách hàng đảm bảo an toàn bí mật. 2. Cơ chế thanh toán: Việc thanh toán thẻ tín dụng phải tuân theo các qui định của luật pháp, luật lệ hiện hành của tổ chức thẻ quốc tế và các qui định của các ngân hàng tham gia phát hành, thanh toán thẻ tín dụng. a. Các chủ thể tham gia vào qui trình thanh toán thẻ tín dụng: - Ngân hàng phát hành : là ngân hàng cung cấp tín dụng cho khách hàng dưới hình thức thẻ tín dụng, tham gia vào quá trình thanh toán với tư cách là chủ nợ và có trách nhiệm thanh toán lại cho ngân hàng thanh toán và các điểm chấp nhận thẻ. - Ngân hàng thanh toán : là hội viên của tổ chức thẻ tín dụng quốc tế nhưng chỉ tham gia thanh toán. Ngân hàng này chịu trách nhiệm thanh toán tiền cho các điểm tiếp nhận thẻ đã ký hợp đồng với mình và đáp ứng yêu cầu rút tiền mặt của chủ thẻ. -Ngân hàng đại lý của ngân hàng thanh toán : là ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán như nhờ thu, ứng tiền cho chủ thẻ... thông qua hợp đồng đại lý ký kết với ngân hàng thanh toán. - Chủ thẻ: là người được ngân hàng phát hành cho phép sử dụng thẻ tín dụng. - Người chịu trách nhiệm thanh toán : người có trách nhiệm thanh toán số dư đến hạn trên sao kê của thẻ tín dụng. - Cơ sở chấp nhận thẻ (Merchant) : là các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ chấp nhận thanh toán bằng thẻ có ký hợp đồng với ngân hàng phát hành, thanh toán. - Tổ chức thẻ tín dụng quốc tế : là hiệp hội các thành viên phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế đồng thời là trung tâm xử lý cấp phép và thanh toán cho các thành viên. b. Qui trình thanh toán : sơ đồ 2 : Khái quát quá trình thanh toán, thu nợ thẻ tín dụng Ngân hàng PH (9) Gửi sao kê cho chủ thẻ yêu cầu thanh toán (8)Thanh toán theo báo nợ của tổ chức thẻ Quốc tế (7) Báo nợ ngân hàng phát hành (5 )Lập gửi chứng từ nhờ thu (3) Gửi hoá đơn thanh toán thẻ (4) Báo có cho merchant hoặc NHĐLTT Tổ chức thẻ Quốc tế Ngân hàng thanh toán Cơ sở chấp nhận thẻ hoặc ngân hàng đại lý thanh toán (1)- Mua hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền bằng thẻ tín dụng (2) Cung cấp hỗn hợp dịch vụ rút tiền mặt Chủ thẻ (10) Chủ thẻ thanh toán cho NH phát hành (6) Báo có cho NHTT Quá trình thông tin và thanh toán giữa ngân hàng thanh toán, ngân hàng phát hành tổ chức thẻ quốc tế được thực hiện qua mạng ONLINE. Còn giữa ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán và các điểm tiếp nhận thẻ có thể thực hiện bằng 2 cách : ONLINE ( thông tin về thẻ được kiểm tra trực tiếp thông qua tiếp nối mạng với ngân hàng phát hành ) hoặc OFFLINE ( kiểm tra tính chính xác của thẻ thông qua việc định dạng mã số bằng máy cà tay ). Thanh toán bằng ONLINE chỉ mất 10 giây cho mỗi giao dịch, qui trình thanh toán khép kín và tốc độ thanh toán thẻ đã đưa thẻ tín dụng là dịch vụ thanh toán điện tử hàng đầu của ngân hàng. V. Rủi ro, quản lý phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh thẻ : A. Các loại rủi ro trong kinh doanh thẻ: Trong bất cứ một hoạt động kinh doanh thuộc bất cứ thuộc ngành nào cũng hàm chứa rủi ro. Hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng của ngân hàng cũng không nằm ngoài qui luật này. Theo thống kê của tổ chức thẻ quốc tế, doanh số thanh toán thẻ toàn cầu bao gồm ( thẻ VISA, Mastercard, JCB, AMEX, ...) năm 1996 đạt 1800 tỷ USD, năm 1997 đạt 2500 tỷ USD. Trong đó mỗi năm các tổ chức thẻ quốc tế và các thành viên phải chi không dưới 1% doanh số cho rủi ro và phòng ngưà rủi ro. Điều đó chứng tỏ việc quản lý và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh thẻ của các tổ chức thẻ quốc tế cũng như các thành viên là vô cùng quan trọng. Rủi ro và nguy cơ rủi ro có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, khâu nào trong toàn bộ quá trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. 1. Rủi ro trong khâu phát hành : a. Đơn phát hành với các thông tin giả mạo ( Fraudulent Applicatiopns): Ngân hàng có thẻ phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xin phát hành thẻ với các thông tin giả mạo do không thẩm định kỹ của các thông tin của khách hàng trên hồ sơ xin phát hành thẻ. Trường hợp này dẫn đến những rủi ro về tín dụng cho ngân hàng phát hành khi chủ thẻ sử dụng thẻ và không có khả năng thanh toán. b. Chủ thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng phát hành gửi (Nerver Reciered Issue): Ngân hàng phát hành gửi thẻ cho chủ thẻ bằng bưu điện nhưng thẻ bị đánh cắp trên đường gửi đến. Thẻ bị sử dung trong khi chủ thẻ chính thức không hay biết gì về việc thẻ đã gửi cho mình. Nếu không có biện phát quản lý đảm bảo, ngân hàng phát hành chịu mọi rủi ro đối với các giao dịch được thực hiện trong từng trường hợp này. c. Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng ( Account Take over): Rủi ro phát sinh khi đến kỳ phát hành thẻ, ngân hàng phát hành nhân được thông báo thay đổi địa chỉ của chủ thẻ và được yêu cầu gửi thẻ mới về địa chỉ mới. Do không kiểm tra tính xác thực của thông báo đó nên ngân hàng đã gửi thẻ theo yêu cầu nhưng thực ra đây không phãi là yêu cầu của chủ thẻ đích thực. Tài khoản của chủ thẻ đã bị người khác sử dung chỉ được phát hiện khi chủ thẻ đích thực không nhận được thẻ, liên lạc với ngân hàng phát hành hoặc khi ngân hàng yêu cầu chủ thẻ thanh toán sao kê . Trường hợp này có thể dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ và ngân hàng phát hành. 2. Rủi ro trong khâu lưu hành và thanh toán thẻ : a. Thẻ giả ( Counterfeit Card) : Thẻ do các tổ chức tội phạm hoặc cá nhân làm giả căn cứ vào các thông tin có được từ các chứng từ giao dịch thẻ hoặc thẻ mất cắp, thất lạc. Thẻ giả được sử dụng tạo ra các giao dịch giả mạo sẽ gây ra tổn thất cho ngân hàng phát hành. Vì theo qui định tổ chức của thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch sử dụng thẻ giả có mã số ( BIN ) của NHPH. Đây là loại rủi ro đặc biệt nguy hiểm và khó quản lý vì nằm ngoài sự dự đoán của NHPH. b. Thẻ mất cắp thất lạc ( Lost - Stolen Card ): Chủ thẻ mất cắp bị hoặc thất lạc thẻ và các thẻ được 1 người khác sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho ngân hàng phát hành để có các biện pháp hạn chế sử dụng hoặc thu hồi thẻ. Các tổ chức tội phạm có thẻ in nổi và mã hoá lại các thẻ để thực hiện các giao dịch thẻ giả. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ hoặc ngân hàng phát hành. Loại rủi ro này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các loại, chiếm xấp xỉ 99%. c. Thanh toán hàng hoá , dịch vụ bằng thẻ qua thư , điện thoại (Mail, Telephone order): Cơ sở chấp nhận thẻ cung cấp hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư hoặc điện thoại trên cơ sở cá thông tin về thẻ như : Loại thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ. Trong trường hợp chủ thẻ chính thức không phải là khách đặt mua hàng CSCNT thì giao dịch đó của CSNT bị NHPH từ chối thanh toán. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho CSCT hoặc NHTT. d. Nhân viên CSCNT in nhiều hoá đơn thanh toán của một thẻ (Multipe imprints): Khi thực hiện giao dịch, nhân viên của CSCNT đã cố tình in ra nhiều bộ hoá đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao một bộ hoá đơn cho chủ thẻ ký để thanh toán giao dịch. Sau đó nhân viên của CSCNT mạo chữ ký thật của chủ thẻ để nộp hoá đơn thanh toán cho NHTT. e. Tạo băng từ giả : Là loại giả mạo giao dịch thẻ sử dụng kỹ thuật cộng nghệ cao. Trên cơ sở thu nhập các thông tin trên băng từ của thẻ thật thanh toán tại các CSCNT, các tổ chức tội phạm làm thẻ giả đã sử dụng các phầm mềm riêng đã mã hoá và in tạo các băng từ trên thẻ giả. Sau đó chúng thực hiện các giao dịch giả mạo. Trường hợp này dẫn đến rủi ro cho NHTT hoặc cho NHPH hoặc chủ thẻ. Loại giả mạo này đang rất phát triển ở các nước tiên tiến. B.Quản lý, phòng ngừa rủi ro : Để phòng ngừa và quản lý rủi ro, góp phần giảm tổn thất cho các ngân hàng thành viên, các tổ chức thẻ quốc tế đã xây dựng một hệ thống các quy tắc tiêu chuẩn về quản lý rủi ro và bảo mật cho các thành viên tuân thủ, một hệ thống nối mạng trực tiếp giữa các tổ chức thẻ quốc tế và các thành viên để xử lý, trao đổi thông tin và quản lý rủi ro trên toàn cầu. Bên cạnh đó, các tổ chức thẻ quốc tế đã tổ chức các chương trình dịch vụ hỗ trợ, các chương trình tập huấn, đào tạo nghiệp vụ... nhằm nâng cao trình độ cũng như trợ giúp kỹ thuật và nghiệp vụ cho các ngân hàng thành viên trong phòng ngừa và quản lý rủi ro. Tuy vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định của tổ chức thẻ quốc tế, bản thân các ngân hàng thành viên cần phải có sự quan tâm đúng mức đối với vấn đề quản lý và phòng ngừa rủi ro. Nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro, ngân hàng phát hành phải thẩm định khách hàng trước khi phát hành thẻ cũng như qui định về thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Trước khi cấp thẻ tín dụng ngân hàng phát hành phải ký hợp đồng với khách hàng và gửi thẻ đã phát hành đến đúng chủ thẻ. Ngân hàng phát hành có trách nhiệm hướng dẫn chủ thẻ hiểu biết thông thạo các điều khoản trong hợp đồng sử dụng thẻ, cách sử dụng thẻ và lưu giữ hoá đơn khi thanh toán hàng hoá hoặc ứng tiền mặt tại các quầy. Chủ thẻ cần nắm vững cách bảo quản và bảo mật thẻ, thủ tục thanh toán sao kê, thủ tục liên hệ với ngân hàng phát hành khi thẻ bị mất cắp, thất lạc hoặc khi có sự thay đổi địa chỉ liên hệ cũng như các thủ tục giải quyết tranh chấp, khiếu nại. Chương II : Thực trạng công tác phát hành và kinh doanh thẻ tín dụng tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) 3.1.Những kết quả đạt được: Là ngân hàng đi đầu trong việc phát hành và thanh toán thẻ tín dụng ở Việt nam, Vietcombank ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Có thể nói mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn trong thời gian gần đây bởi ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nhưng VCB luôn là ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ,điều đó được thể hiện qua việc số lượng các cơ sở chấp nhận thẻ của VCB tăng tương đối qua các năm.Năm 91, số cơ sở chấp nhận thẻ của VCB là 255, đến nay đã lên tới 2275 cơ sở, con số này tuy không đủ đánh giá hết hiệu quả công tác thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của VCB nhưng cũng đủ để thấy được sự cố gắng rất lớn của VCB trong lĩnh vực Makerting thẻ 3.2.Những khó khăn gặp phải : a. Tâm lý ưa chuộng tiền mặt trong nền kinh tế : Người Việt Nam từ xưa vốn ưa thích sử dụng tiền mặt hơn là các phương tiện thanh toán như thẻ tín dụng.Chính vì vậy đối với người Việt Nam tiền mặt gần như là phương tiện thanh toán không thể thay thế và từ đó rất khó tạo ra một bước nhảy vọt lớn nào nếu người dân chưa quen với một phương tiện thanh toán mới cho dù nó có tiện ích đến đâu. Người dân vẫn còn rất xa lạ với các giao dịch với ngân hàng và các dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Bởi vậy số người dân có tài khoản tại các ngân hàng còn rất ít, mọi khoản thu nhập gồm lương, thưởng hàng tháng đều được trả bằng tiền mặt, trong khi đó phát hành thẻ tín dụng lại căn cứ rất nhiều vào tài khoản cá nhân và thu nhập thực tế của khách hàng. Đây là một khó khăn không thể khắc phục một sớm một chiều mặc dù nó có thể được cải thiện bằng nỗ lực Maketing của các ngân hàng. b. Cơ sở kỹ thuật và công nghệ : Việc phát triển loại hình thẻ dịch vụ thẻ tín dụng đòi hỏi phải có hệ thống thiết bị và công nghệ tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế từ công đoạn sản xuất thẻ đến quy trình thanh toán đều phải đầu tư hệ thống máy móc kiểm tra như ECD, POS, máy rút tiền tự động ( ATM). Khoản chi này khiến tiền lợi nhuận thu được từ hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng không đủ bù đắp. Điểm yếu này càng khiến cho VCB khó khăn trong việc cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có đủ khả năng về tài chính cũng như kinh nghiệm .Ví dụ như giữa năm 96, khi mới bắt đầu kinh doanh, UOB đã trang bị máy ECD cho các điểm tiếp nhận thẻ. Họ đã kéo được nhiều CSCNT của Vietcom bank về với họ như : OMINI Hotel, Sài gòn Star Hotel, Century Hotel. c. Sự bất cập trong tính phí và lãi : Một sản phẩm mới, bản thân nó đã chứa đựng nhiều yếu tố cạnh tranh. Sản phẩm có chất lượng với giá cả hợp lý sẽ có sức phổ cập lớn. Ngược lại dù sản phẩm có tiện ích đến đâu nhưng mức giá vượt quá mức đánh giá của thị trường thì sẽ không thể tiêu thụ được. Thẻ tín dụng là một sản phẩm mới, bởi vậy việc xác định một mức phí và lãi hợp lý trong điều kiện người tiêu dùng chưa biết gì về nó là điều rất khó khăn. Hiện nay mức tính phí và lãi của VCB bị khách hàng đánh giá là quá cao . Phí rút tiền tại phòng thẻ sở giao dịch VCB là 4% cho mỗi giao dịch phát sinh . Chưa kể đến nếu thẻ tín dụng quốc tế do VCB phát hành được sử dụng để rút tiền ở một ngân hàng không phải VCB, chủ thẻ còn phải trả thêm lệ phí 3% cho ngân hàng thanh toán. Như thế nếu một khách hàng của VCB sử dụng thẻ để rút tiền ỡ nước ngoài , khoản phí phải chịu lên tới 7% cho mỗi giao dịch . Với các giao dịch hàng hoá dịch vụ tại các Merchant, về nguyên tắc khách hàng không phải chịu phí. Bù lại ngân hàng sẽ tính lãi cho phần doanh số phát sinh. Mức được áp dụng hiện nay là 1,2% và cao hơn mức lãi cho vay dài hạn. Mặc dù khách hàng sẽ được miễn lãi nếu thanh toán ngay do sao kê, nhưng do rất ít khách hàng thanh toán toàn bộ nên họ vẫn phải chịu lãi trên phần dư nợ còn lại. Tất cả các khoản phí trên đem lại cho Vietcombank một phần thu thoả đáng nhưng khi khách hàng chưa hiểu và chưa đánh giá hết tác dụng của việc sử dụng thẻ thì việc áp dụng mức phí và lãi trên sẽ tạo ra khó khăn trong công tác phát hành thẻ . d. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện : Hiện nay ngân hàng Nhà nước chưa có qui chế chung cho toàn bộ hệ thống nên đa số các văn bản đang áp dụng hiện nay có nhiều điểm chưa thống nhất và chưa phù hợp. Điều này không những gây cho các ngân hàng kinh doanh dịch vụ thẻ rất nhiều khó khăn mà còn tạo ra những bất cập nẩy sinh giữa cơ chế phát hành, kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế với các quy định quản lý hiện hành. Lớn nhất là sự bất cập với quy định quản lý ngoại hối. Thứ nhất : Quy chế hiện hành không cho phép một cá nhân mang quá 7000 USD tức là khoảng 90 triệu VND ra nước ngoài. Tuy nhiên hầu hết các loại thẻ đều áp dụng chế độ tín dụng tuần hoàn tức là sau khi đã trả toàn bộ dư nợ cuối kỳ hạn mức tín dụng được sử dụng trên thẻ sẽ tự động lập lại như cũ. Chủ thẻ có thể yêu cầu nhiều loại thẻ hoặc sử dụng thẻ do nhiều ngân hàng phát hành . Như vậy số ngoại tệ thực tế sử dụng ở nước ngoài sẽ vượt quá số ngoại tệ được phép mang ra nước ngoài .Thứ hai: Việc rút tiền mặt và chi trả bằng USD của thẻ cũng tạo ra mâu thuẫn . Hiện nay trên thực tế các giao dịch thực hiện giữa ngân hàng phát hành với các cơ sở chấp nhận thẻ ở Việt Nam nhưng ngoài hệ thống ngân hàng mình đều được thực hiện bằng đô la Mỹ. Điều này là hoàn toàn không phù hợp với chế độ ngoại hối hiện hành . Cuối cùng việc hạch toán giữa chủ sử dụng thẻ và ngân hàng phát hành khi đến kỳ hạn đều được thực hiện đồng Việt Nam, bất kể trường hợp chủ sử dụng thẻ đã chi tiêu hay rút tiền mặt bằng đô la Mỹ hay tiền Việt Nam. Như vậy là chủ sử dụng thẻ được tự do chuyển đổi từ đồng Việt nam ra ngoại tệ để phục vụ cho nhu cầu của mình mà không cần xin phép bất kỳ cơ quan nào. Đây là một trong những sơ hở và bất hợp lý của việc sử dụng và thanh toán thẻ quốc tế đối với các qui định về quản lý ngoại hối hiện hành. e. Rủi ro trong kinh doanh: Không chỉ riêng Việt Nam mà ngay cả thế giới các vụ gian lận và giả mạo thẻ đang được đặt trong tình trạng báo động. Sáu tháng đầu năm 1999 theo ước tính số tiền bị mất của hệ thống ngân hàng toàn cầu là 226.539.171 đôla Mỹ. Tại Việt nam, số vụ giả mạo và gian lận kể cả phát hành và thanh toán là 26.279 USD. Tuy hiện nay VCB chưa gặp rủi ro lớn nào trong kinh doanh thẻ do áp dụng những biện pháp thận trọng nhưng cũng đang đứng trước nguy cơ tấn công của bọn tội phạm. Hơn nữa, chế tài về tội gian lận và giả mạo thẻ vẫn chưa được đề cập chi tiết và đầy đủ trong môi trường pháp lí của Việt Nam do đó gây khó khăn trong việc xử lý. Một rủi ro nữa trong kinh doanh là vấn đề cân đối ngoại tệ phục vụ khâu thanh toán. Khó khăn này phát sinh tỷ lệ thuận với phạm vi và qui mô phát triển thị trường thanh toán thẻ. Đơn cử một ngân hàng phát hành có 10.000 chủ thẻ phát hành 2 loại thẻ chi tiêu ở nước ngoài, như vậy lượng ngoại tệ mà ngân hàng phát hành có nghĩa vụ bán cho chủ thẻ sẽ là: 10.000 người x 2thẻ x7000 USD x 12 tháng =1.680.000.000 USD ,một con số khổng lồ với bất cứ một ngân hàng nào. Giả sử 2332 thẻ Visa Card đã phát hành đến Q1/ 2000 đều được mang ra nước ngoài để chi tiêu số ngoại tệ mà VCB phải thanh toán cho chủ thẻ sẽ là : 2332 x 7000 USD x12 tháng =195.888.000 USD. Con số này nhỏ hơn nhiều so với số giả định nhưng cũng là con số đáng kể. f. Môi trường cạnh tranh : Không chỉ riêng VCB mà các ngân hàng trong nước đều phải được đương đầu với áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài. Trong khi bản thân các ngân hàng trong nước còn thiếu kinh nghiệm chuyên môn, đang phải xây dựng từng bước qui trình làm việc và nghiên cứu thì các ngân hàng nước ngoài với các ưu thế về tài chính, kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh thẻ sẵn sàng đầu tư mạnh để chiếm lĩnh thị trường. Thị phần thanh toán thẻ tín dụng quốc tế qua các năm của VCB bị giảm sút ngoài lý do khủng hoảng kinh tế mà còn có nguyên nhân quan trọng hơn là vấp phải sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trường. Chương III: Giải pháp phát triển thị trường thẻ tín dụng tại VietCombank (VCB) I. Một số giải pháp. 1.Cải tiến phương thức phát hành : Như chúng ta đã biết hiện nay số lượng thẻ phát hành mỗi năm của VCB rất hạn chế do nguyến tắc thế chấp trong phát hành thẻ. Mức thế chấp mà VCB đặt ra đối với chủ thẻ 125% hạn mức. Mức thế chấp này đã làm cho VCB không phải chịu bất cứ một rủi ro nào liên quan đén chủ thẻ mất khả năng thanh toán hay không chịu trả nợ nhưng trái lại thế chấp quá cao sẽ không thể phát hành thẻ một cách đại chúng. Khách hàng sử dụng thẻ không chỉ thuần tuý để làm phương tiện thanh toán mà còn để nâng cao khả năng tài chính ngắn hạn. Nếu họ đã có tiền thế chấp thì sử dụng thẻ không có ý nghĩa đi vay nữa. Họ sẽ lựa chọn các hình thức thanh toán khác với chi phí thấp hơn thẻ tín dụng. Bởi vậy, tạm thời VCB có thể giảm bớt tỷ lệ thế chấp của khách hàng cho số dư hạn mức. Phát triển hệ thống tài khoản cá nhân cũng là một giải pháp cần tốt đối với Vietcom bank trong thời điểm hiện nay , từ đó làm cơ sở cho việc phát hành thẻ tín dụng ( thông qua theo dõi thu nhập ). Hiện nay, VCB chỉ hướng tới khách hàng có khả năng về tài chính và tiếp nhận theo từng cá nhân riêng rẽ chứ chưa chú trọng tới từng nhóm khách hàng. VCB có nhiều lợi thế do nhiều năm hoạt động kinh doanh mang lại đó là có quan hệ giao dịch tốt với nhiều tổng công ty lớn . Ngoài ra có những công ty liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có quan hệ rất tốt với Vietcom bank. Để VCB thực hiện trả lương qua ngân hàng, để có thể đẩy mạnh công tác phát hành thẻ dựa trên theo dõi thu nhập định kỳ của các cá nhân . 2.Nâng cao tiện ích của thẻ : Thị trường thẻ Việt nam phụ thuộc chặt chẽ vào dòng khách nước ngoài, sử dụng thẻ do ngân hàng nước ngoài phát hành nhưng khi có sự biến động, dòng khách nước ngoài giảm xuống kéo theo doanh số thanh toán cũng giảm xuống. Để hạn chế tình trạng này, chỉ có một phương thức là phát hành thẻ tín dụng nội địa, nâng cao tỷ lệ doanh số thanh toán trong nước. Nhưng đối với phần đông người Việt nam hiện nay thẻ tín dụng là một sản phẩm lạ lẫm, họ chưa hiểu và chưa biết khai thác các tiện ích vốn có của thẻ tín dụng. Hơn nữa, tỷ lệ phí, lãi áp dụng cho các giao dịch thẻ của Vietcombank là quá cao và vì thế họ cho rằng sử dụng thẻ là không kinh tế. Bởi vậy trong thời gian đầu, Vietcombank nên xem xét để giảm bớt mức phí, lãi áp dụng nhằm khuyến khích khách hàng. Một điểm nữa cần quan tâm trong việc nâng cao tiện ích của thẻ đó là việc phát triển mạng lưới các điểm chấp nhận thẻ. Số lượng các điểm chấp nhận thẻ không ngừng tăng qua các năm những vẫn chỉ tập trung vào các khách san, nhà hàng , siêu thị nơi có nhiều khách nước ngoài. Do đó không khuyến khích được việc phát hành thẻ một cách rộng rãi. Vì vậy Vietcombank cần quan tâm đến việc phát triển mạng lưới Merchant tới các đơn vị có số lượng người đến mua hàng hoá dịch vụ lớn không phải là khách hàng nước ngoài . 3.Không ngừng mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ : Các cơ sở chấp nhận thẻ là “ cầu nối “ giữa khách hàng sử dụng thẻ với ngân hàng .Vấn đề về cơ sở chấp nhận thẻ là vấn đề mang tính sống còn đối với cả ngân hàng phát hành và ngân hàng thanh toán. Việc phát triển mạng lưới chấp nhận thẻ Vietcom bank cần đẩy mạnh trên cơ sở tăng cường quan hệ với các điểm tiếp nhận cũ và phát triển các điểm tiếp nhận mới. Hiện nay các cơ sở chấp nhận thẻ của Vietcom bank phân bố không đồng đều, chỉ tập trung ở nhiều nơi có khách nước ngoài, bởi vậy cũng cần lưu ý phát triển và các điểm tiếp nhận thẻ có tìêm năng trong tương lai . Vietcombank cần đầu tư hơn nữa các trang thiết bị máy móc ở các điểm tiếp nhận thẻ. Tình trạng hoạt động của các máy thường xẩy ra các lỗi kỹ thuật khiến giao dịch thẻ không thực hiện được.Theo số liệu thống kê của ngân hàng Ngoại Thương năm 1997, mạng lưới chấp nhận thẻ có khoảng 135.000 đơn vị, trong đó chỉ có hơn 200 cơ sở được trang bị hệ thông kiểm tra thẻ và nối mạng tự động với tổ chức thẻ quốc tế 24/24 h. Con số này còn quá khiêm tốn .Đây cũng là một trong các nguyên nhân các cơ sở chấp nhận thẻ của VCB bị các ngân hàng khác lôi kéo làm đại lý cho họ . Thời gian tới VCB cần đầu tư hợp lý cho các phương tịên máy móc để tăng uy tín với khách hàng . Một vấn đề nữa gây khó khăn cho việc phát triển các cơ sở chấp nhận thẻ là tỷ lệ chiết khấu áp dụng tới các tiếp điểm nhận thẻ là quá cao : 3% trên doanh số thanh toán . Như vậy các tiếp điểm nhận thẻ sẽ bị mất 3% lợi nhuận khi bán hàng bằng thẻ . Trong khi thẻ tín dụng chưa phổ biến, các tiếp điểm nhận thẻ vẫn có thể bán được hàng mà không cần chấp nhận thẻ. Bởi vậy VCB và các ngân hàng phát hành thanh toán thẻ nên giảm lệ tỷ chiết khấu để khuyến khích sự tham gia các cơ sở kinh tế vào mạng lưới tiếp nhận thẻ. Hơn nữa VCB nên áp dụng khuyến khích dưới hình thức trích lại số phần trăm hoa hồng trong tổng số doanh số thanh toán thẻ của đơn vị này khi đat hoặc vượt mức nào đó chẳng hạn như 5000 USD / tháng 4.Tăng cường các biện pháp makerting : Đối với nhiều người,thẻ tín dụng vẫn còn khá xa lạ chính vì vậy việc giới thiệu nó ra công chúng là hết sức cần thiết.Có thể bằng một số cách đơn giản như thiết lập một “đường dây nóng “ chuyên giải đáp miễn phí những thông tin về thẻ cũng có thể rất hiệu quả đối với VCB trong việc thu hút khách hàng sử dụng thẻ . Đồng thời Vietcom bank cần duy trì mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống, thường xuyên thực hiện các chương trình khuyến mãi dưới hình thức giảm phí thanh toán, miễn lãi nếu khách hàng thanh toán trước hạn, tặng quà kỷ niệm .. 5.Đào tạo cán bộ kinh doanh thẻ: Có thể nói VCB đang sở hữu một đội ngũ cán bộ kinh doanh thẻ khá năng động và có trình độ chuyên môn khá cao.Song nếu xét về khối lượng công việc thì nhân sự vẫn còn mỏng so với yêu cầu thực tế đặt ra.Vì thế trong xu thế cạnh tranh hiện nay,việc đào tạo một đội ngu cán bộ có chất lượng chuyên môn cao cần phải được coi trọng hàng đầu . Trước mắt có thể áp dụng một số biện pháp : + Tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao trình độ cho cán bộ kinh doanh thẻ . + Gửi cán bộ đi học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài + Phối hợp với các trường đại học nói chuyện với các sinh viên chuyên ngành ngân hàng để nâng cao trình độ hiểu biết cho lực lượng cán bộ tiềm năng trong tương lai. II Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra A. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước: 1.Ban hành các văn bản pháp qui về thẻ tín dụng : Hiện nay sự thống nhất giữa cơ chế kinh doanh thẻ tín dụng và các qui chế quản lý hiện hành vẫn còn khá nhiều bất cập . Mặc dù VCB đã có những thành công nhất định trong hoạt động kinh doanh thẻ song nếu không có nhưng văn bản pháp quy quy định một cách cụ thể thì không có gì đảm bảo cho VCB tiếp tục phất triển một cách bền vững được . Để đảm bảo việc sử dụng và thanh toán thẻ tuân thủ theo chế độ quản lý ngoại hối hiện hành, cần thực hiện điều chỉnh đối với tất cả các loại thẻ bất kể do ngân hàng Việt nam hay ngân hàng nước ngoài phát hành như sau : + Nên qui định phân biệt loại thẻ có mệnh giá bằng đồng Việt nam phát hành để sử dụng tại Việt nam và thẻ có mệnh giá bằng ngoại tệ phát hành để sử dụng ở nước ngoài, đồng thời cũng ban hành qui chế pháp lý rõ ràng đối với 2 loại thẻ này . + Đối với các giao dịch bằng thẻ ngân hàng, toàn bộ các giao dịch rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động ATM trong nước và tại các cơ sở chấp nhận thẻ phải thực hiện bằng đồng Việt nam. Ngân hàng phát hành thẻ chỉ cho phép các chủ thẻ rút tiền mặt bằng ngoại tệ tại các quầy giao dịch ở ngân hàng để phục vụ cho những mục đích phù hợp với qui chế quản lý ngoại hối hiện hành . + Các cơ sở chấp nhận thẻ ở trong nước ( trừ các đơn vị chấp nhân thẻ được phép thu ngoại tệ ) chỉ được giao dịch, thanh toán và hạch toán bằng đồng Việt nam khi chi tiền hàng hoá và thanh toán dịch vụ . + Ngân hàng phát hành thẻ phải thực hiện kiểm tra, giám sát chỉ cho phép sử dụng thẻ mua ngoại tệ sau khi được các cơ quan có thẩm quyền cho phép và chuyển mức ngoại tệ được phép chuyển không phải khai báo hoặc mức ngoại tệ mà chủ sử dụng thẻ đã được phép để chuyển ra nước ngoài . + Cho phép các ngân hàng thương mại của Việt nam được linh hoạt áp dụng một số những ưu điểm nhất định ( trong khuôn khổ luật pháp cho phép ) để đảm bảo tính cạnh tranh của các loại thẻ mà ngân hàng của Việt nam phát hành so với thẻ do ngân hàng nước ngoài phát hành . 2.Thành lập Trung tâm bù trừ thanh toán thẻ giữa các thành viên trong nước : Thực tế hiện nay các ngân hàng quản lý phát hành và thanh toán thẻ theo mạng riêng của mình, điều này có lợi là phù hợp với chức năng hoạt động kinh doanh, kinh phí đầu tư thiết bị công nghệ của từng ngân hàng. Nhưng thực tế cũng cho thấy sự phức tạp khi thẻ của một ngân hàng được đem rút tiền mặt ở một ngân hàng khác trong nước khác hệ thống. Lúc đó giao dịch sẽ phải thực hiện thông qua trung tâm thanh toán của tổ chức thẻ quốc tế và phải chịu một khoản phí do tổ chức này qui định . Bởi vậy, thành lập một Trung tâm bù trừ thanh toán thẻ giữa các ngân hàng thành viên trong nước sẽ giảm tính phức tạp về hình thức thanh toán các giao dịch nội bộ trong nước, tăng tốc độ thanh toán nhanh, giải quyết được vấn đề chênh lệch tỷ giá và sẽ thống nhất được về chủ trương giao dịch thẻ ở Việt Nam chỉ dùng đồng Việt nam. Hơn nữa, Trung tâm bù trừ thanh toán sẽ giúp các ngân hàng quan hệ chặt chẽ hơn trong mọi lĩnh vực như : * Các thành viên phát hành và thanh toán thẻ sẽ cập nhật nhanh nhất những thông tin rủi ro và giả mạo, tránh thất thoát cho các thành viên . * Kết hợp in ấn các danh sách thẻ cấm lưu hành, giảm được chi phí cho các thành viên. * Có qui chế thống nhất về đồng tiền thanh toán, mức phí,tỷ giá tạo ra một khí thế cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực thẻ tín dụng tại thị trường Việt nam. B. Kiến nghị với Nhà nước: 1. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm : Lĩnh vực kinh doanh thẻ tín dụng là một lĩnh vực luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro đó chính là việc xuất hiện một loại tội phạm gian lận và giả mạo thẻ tín dụng.Mặc dù ở Việt Nam hiện nay chưa xuất hiện những rủi ro về gian lận và giả mạo thẻ nhưng với tốc độ phát triển như hiện nay luôn đặt các ngân hàng kinh doanh thẻ trước nguy cơ bị tấn công . Vì vậy, ngay từ bây giờ Nhà Nước cần có định hướng cho công tác chống tội phạm trện lĩnh vực ngân hàng, đồng thời cần phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an kinh tế và cơ quan cảnh sát quốc tế Interpol. 2.Đầu tư kỹ thuật và hạ tầng cơ sở : Nhà nước cần có chính sách đầu tư hợp lý cho hệ thống máy móc, thiết bị công nghệ phục vụ thanh toán, phát hành thẻ. Sở dĩ phải đầu tư hợp lý vì công nghệ thông tin đang phát triển rất nhanh, nhiều kỹ thuật tiên tiến cách đây vài năm đã trở nên lỗi thời. Công nghệ ứng dụng cũng không nằm ngoài xu thế ấy. Thực tiễn cho thấy trước đây nhiều ngân hàng nước ngoài đã bỏ ra những khoản đầu tư khổng lồ để phát triển hệ thống đầu cuối sử dụng thẻ từ, khi thẻ thông minh thay thế, sự thay đổi gây ra tổn thất rất lớn.Với lợi thế của người đi sau, chúng ta có điều kiện tiếp thu những công nghệ mới nhất. Bởi vậy Nhà nước và các ngân hàng kinh doanh thẻ cần phát triển hệ thống máy móc đầu cuối theo hướng tương thích với hệ thống thế giới. Kết luận Thẻ tín dụng là phương thức thanh toán tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Nó không chỉ cung cấp cho người sử dụng nhiều tiện ích, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giảm chi phí giao dịch cho nền kinh tế. Điều đó khiến cho thẻ tín dụng ngày càng trở nên phổ biến ở khắp các quốc gia trên thế giới. Thanh toán thẻ đang là xu hướng phát triển tất yếu trên thế giới và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ .Mặc dù hiện nay ở Việt Nam việc phát triển thẻ tín dụng còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng chúng ta cũng cần khách quan nhìn nhận rằng thanh toán thẻ luôn rất cần thiết ở nước ta trong giai đoạn hội nhập thế giới và trong một tương lai không xa chắc chắn thẻ tín dụng sẽ đi vào đời sống và sẽ trở thành thói quen trong chi tiêu của mọi người. Hiện nay Vietcom bank đang là ngân hàng giữ vị thế then chốt trong lĩnh vực thẻ tín dụng và với sự nỗ lực không ngừng hiện nay chắc chắn ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì được vị thế của mình trên thị trường thẻ ở Việt Nam. Hà nội 19/01/2009 Sinh viên Trần Tiến Thành. Tài liệu tham khảo Tạp chí Ngân hàng chuyên đề tháng 11 năm 2006 Tạp chí Ngân hàng Thủ đô 12-2006 Báo cáo thường niên năm 2005,2006 của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Văn bản phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của ngân hàng Ngoại thuơng Việt Nam Ngân hàng thương mại- Edward W. Reed & Eward K.Gille

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6101.doc
Tài liệu liên quan