Với mỗi ngâng hàng, hoạt động cho vay luôn là hoạt động phong phú, đa dạng đồng thời củng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để thực hiện thống nhất, đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững các ngân hàng tiến hành xây dựng chính sách cho vay áp dụng thống nhất cho các khách hàng.
Các DNNQD hiện nay phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn sản xuất không lớn. bởi vậy nhu cầu vay vốn của loại hình doanh nghiệp này là rất lớn. Nhưng trên thực tế, mặc dù đây là những khách hàng đầy tiềm năng và khát vốn nhưng các ngân hàng lại không quá mặn mà với họ chỉ trừ các DNNQD có mô hình vốn sản xuất tương đối lớn. Bởi lẻ với chi phí tìm hiểu, thẩm định doanh nghiệp gần như ngang nhau thì tất nhiên ngâng hàng sẽ muốn cho vay vối đối tượng có khả năng thu hồi vốn và lãi cao, rủi ro thấp hơn, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Các ngân hàng còn nhiều chần chừ và e ngại trong việc cho vay với DNNQD bởi các nguyên nhân chủ yếu sau: thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu chiến lược sản phẩm.
60 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng cho vay đới với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BIDV sẽ đưa ra các chính sách phù hợp với các nhóm khách hàng như chính sách về lãi suất, tài sản đảm bảo, kỳ hạn thu nợ, tiếp thị khách hàng
Lập báo cáo thẩm định cho vay
Sau khi thảo luận với cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng sẽ trinh tờ trình kèm hồ sơ vốn vay cho trưởng phòng tín dụng. việc phân cấp ủy quyền phê duyệt tín dụng của BIDV được quy định rõ trong sổ vay tín dụng.
Phê duyệt khoản vay.
Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng đảm bảo tiền vay, giao nhạn giấy tờ, tài sản đảm bảo.
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Sau khi khoản vay được phê duyệt, người có thẩm quyền của ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng tín dụng và các loại hợp đồng, giấy tờ liên quan. Trong hợp đồng tín dụng có xác định rõ các nội dung như: tên khách hàng, mục đích sử dụng, số lượng tín dụng,lãi suất, phí, thời hạn Đây là một cam kết xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên phù hợp quy định của pháp luật.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát tín dụng sau giải ngân
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng tiến hành cấp tiền cho người vay. Người thực hiện giải ngân, chịu trách nhiệm xác nhận mỗi lần giải ngân là cán bộ tín dụng thưc hiện. sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng thực hiện hướng dẫn, đôn đốc người vay thực hiện đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, thực hiện đầy đủ và thực hiện đúng cam kết.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra phán quyết tín dụng mới
Các bộ tín dụng theo dõi việc thu nợ theo từng hợp đồng tín dụng đã ký cho từng dự án bao gồm các nội dung: theo dõi trả nợ gốc, theo dõi trả nợ lãi, theo dõi trả phí đối với khoản vay có phí. Trường hợp phát sinh vấn đề như khách hàng không ttrar được nợ đúng kỳ hạn thỏa thuận và có van bản đề nghị thì cán bộ tín dụng xem xét, đề xuất điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ, khi phát sinh nợ xấu thì toàn bộ khoản vay được chuyển nợ quá hạn và bàn giao sang bộ phận xử lý nợ xấu và chịu sự kiểm soát của ban quản lý tín dụng của BIDV.
2.2.2. Tình hình mở rộng cho vay với DNNQD tại SGD I – BIDV
Sức ép của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với hệ thống ngân hàng nội địa khiến các ngân hàng tìm mọi biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong việc đưa ra các sản phẩm dịch vụ tài chính mới. Xu hướng mở rộng co vay của các NHTM cổ phần cho các thành phần kinh tế, cuộc canh tranh tìm kiếm khách hàng ngày một quyết liệt hơn, SGD I đã nhanh nhạy trong việc tạo các mối quan hệ tín dụng mới và ngày một đa dạng hơn đối tượng khách hàng. Bởi vậy, SGD I đã quan tâm nhiều hơn đến đối tượng DNNQD, số lượng DNNQD đặt quan hệ tín dụng với sở cũng tăng lên đáng kể, mức dư nợ tín dụng ngày một cải thiện.
2.2.2.1. Phân loại nợ
Có hai phương pháp phân loại nợ:
Phương Pháp "Định Lượng"
Quyết Định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
• nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc
và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh,
cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán;
• nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ;
• nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày;
• nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; và
• nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, tổ chức tín
dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao
hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
Phương Pháp "Định Tính"
Lần đầu tiên phương pháp "định tính" được Quyết Định 493 cho phép áp dụng đối với tổ chức tín
dụng đủ điều kiện. Theo phương pháp này, nợ cũng được phân thành năm nhóm tương ứng như
năm nhóm nợ theo cách phân loại nợ theo phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ
vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính
sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được NHNN chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm:
• nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và
lãi đúng hạn;
• nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi
nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;
• nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn
• nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao; và
• nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi,mất vốn.
2.2.2.2. Tình hình dư nợ
Tổng dư nợ
Dư nợ theo cách hiểu chung nhất là số tiền ngân hàng cho vay đến thời điểm tính. Khi dư nợ tăng lên có nghĩa là ngân hàng đã thực hiện tốt việc mở rộng cho vay.
Bảng 2.3: Dư nợ của SGD phân theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
số tiền
%
số tiền
%
%07/06
số tiền
%
%07/08
DNNN
3625.546
74.63
3646.015
73.33
0.56
3751.351
69
-2.8
DNNDQ
1250.188
25.37
1325.823
26.67
6.05
1684.043
31
-21.27
tổng dư nợ
4857.734
100
4971.838
100
5435.394
100
Quan sát qua bảng số liệu trên cho thấy dư nợ của các DNNQD đã tăng liên tục trong thời gian qua. Dư nợ DNNQD năm 2006 đạt 1250.188 tỷ đồng chiếm 25.37%. Xét về quy mô tổng dư nợ DNNQD đã có sự tăng lên đáng kể. Tuy nhiên khi đánh giá kết quả hoạt động mở rộng cho vay nếu chỉ xem xét đến tổng dư nợ thì sẽ phản ánh không đầy đủ và thiếu chính xác về kết quả hoạt động mở rộng cho vay bởi vậy cần xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu dưới đây.
Biểu đồ 2.1: dư nợ qua các năm của SGD I(đơn vị: tỷ đồng)
Tỷ trọng dư nợ.
Tỷ trọng dư nợ là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động mở rộng cho vay. Quan sát bảng trên có thể dễ dàng nhận thấy tỷ trọng dư nợ với DNNQD trên tổng dư nợ tăng lên rõ rệt. Dư nợ DNNQD tăng lên từ 25.37% năm 2006 lên 26.67% năm 2007 và đạt 31% năm 2008. Dư nợ cho các DNNQD tăng lên như vậy là do sự nhanh chóng điều chỉnh các chính sách chiến lược của ngân hàng đối với loại hình doanh nghiệp này. Đồng thời đây cũng là kết quả của những nổ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ tín dụng của SGD I. Tỷ trọng dư nợ của DNNQD tăng lên qua các năm trong khi tỷ trọng dư nợ của DNNN giảm là một tất yếu. Trong điều kiện hiện nay khi cổ phần hóa các DNNN đang diễn ra mạnh mẽ, nhiều DNNN trở thành các công ty cổ phần trong đó có nhiều công ty cổ phần nhà nước không giữ cổ phần chi phối. Do vậy dư nợ cho các DNNQD tăng lên trong khi dư nợ cho các DNNN giảm cả về quy mô và tốc độ là điều dễ nhận thấy. Biểu đồ sau sẽ chỉ rõ điều này.
Biểu đồ 2.2: biểu đồ cơ cấu dư nợ các loại hình doanh nghiệp tại SGD qua các năm
Tốc độ tăng dư nợ
Dư nợ cho vay DNNQD năm 2007 so với năm 2006 tăng 6.05% và năm 2008 so với năm 2007 giảm 21.27%. Tại DNNN đạt 0.56% năm 2007 so với 2006 và giảm 2.8% năm 2008. Mặc dù đã có sự thay đổi trong cơ cấu cho vay với các thành phần kinh tế nhưng có thể thấy hoạt động cho vay với cá DNNQD vẫn chưa thực sự tương xứng với nhu vầu vay vốn của doanh nghiệp, chưa tương xứng với tiềm năng và khả năng tài chính của SGD I.
Qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay có thể thấy hoạt động mở rộng cho vay của SGD I với các DNNQD đã thu được nhiều kết quả khả quan rất đáng khích lệ. Đồng thời, trong thời gian tới cần tích cực chủ động hơn trong cho vay DNNQD để đạt được những thành tích tốt hơn, tương xứng với tiềm lực của cơ sở.
Cho vay DNNQD phân theo thời gian.
Ngoài việc phân theo tình hình dư nợ của các DNNQD trong tổng dư nợ cần tiến hành đánh giá về hoạt động này theo thời gian để có thể đưa ra những đánh giá chính xác hơn về kết quả hoạt động cho vay mở rộng.
Bảng 2.4: dư nợ cho vay DNNQD phân theo thời gian
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
chỉ tiêu
số tiền
%
số tiền
%
%07/06
số tiền
%
%08/07
dư nợ DNNQD
1250.188
100
1325.823
100
6.05
1684.043
100
27
trung, dài hạn
250.038
20
238.648
18
-4.55
252.606
15
5.85
ngắn hạn
1000.151
80
1087.175
82
8.7
1431.437
85
31.66
Dư nợ DNNQD tăng liên tục qua các năm, trong đó dư nợ ngắn hạn tăng nhanh chóng, cụ thể năm 2007 tăng 8.7% so với năm 2006 và đặc biệt năm 2008 tăng 31.66% so với năm 2007. Trong khi đó dư nợ trung và dài hạn thay đổi không đáng kể, chứng tỏ các DNNQD hiện nay đã được mở rộng quy mô sản xuất, không chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ như những năm 2004 trở về trước. Chính vì vậy nhu cầu vay vốn sẽ lớn để sản xuất các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao. Mặc dù vậy nhưng tiềm năng của các DNNQD vẫn chưa được khai thác hết, thời gian tới cần mở rộng cho vay nhiều ngành nghề, góp phần chuyển dịch cơ cấu. Các khoản tín dụng trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng dần được cải thiện trong tổng dư nợ phản ánh đúng thực tế các DNNQD vẫ gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn trung và giai hạn của SGD. Các khoản tín dụng trung và dài hạn có mức độ rủi ro lớn, đặc biệt là cho vay DNNQD bởi vậy các khoản vay trung và dài hạn thường có những đòi hỏi khắt khe hơn,, thủ tục và yêu cầu điều kiện đảm bảo chặt chẽ. Cần đẩy mạnh đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn đối với các DNNQD vì các doanh nghiệp này rất cần vốn để đầu tư cho máy móc trang thiết bị, dây chuyền công nghệ để đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa do DNNQD sản xuất ra.
2.2.2.3. Doanh số cho vay
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ, doanh số cho vay là chỉ tiêu mang tính thời kỳ. Trong kỳ, ngân hàng có thể thực hiện cho vay các đối tượng nhiều lần và quy mô có thể là lớn hơn hạn mức tín dụng rất nhiều, đảm bảo số tiền cho vay mỗi lần luôn nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức tín dụng. Doanh số cho vay của SGD I với DNNQD tăng lên liên tục qua các năm, được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.6: doanh số cho vay tại SGD I qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
số tiền
%
số tiền
%
%07/06
số tiền
%
%08/07
DNNN
3444.269
74.36
3828.315
73.33
11.15
4013.946
66.19
4.85
DNNQD
1187.679
25.64
1392.115
26.67
17.21
2050.468
33.81
47.29
doanh số cho vay
4631.948
100
5220.43
100
6064.414
100
Doanh số cho vay DNNN và DNNQD đã tăng dần qua các năm về số liệu tuyệt đối nhưng tốc độ tăng của hai khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh qua các năm lại không ổn định. Doanh số cho vay DNNN năm 2007 tăng 11.15% so với năm 2006, năm 2008 chỉ tăng 4.85% so với năm 2007 trong khi số liệu tuyệt đối vẫn tăng. Doanh số cho vay DNNQD tăng lên cả tốc độ lẫn tỷ trọng, năm 2007 tăng 17.21% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 47.29% so với năm 2007. Điều này được thể hiện dưới biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.3: doanh số cho vay của SGD qua các năm( đơn vị: tỷ đồng)
Quan sát biểu đồ trên ta thấy mặc dù đã có nhiều thay đổi nhưng doanh số cho vay các DNNQD vẫn thấp hơn doanh số cho vay các DNNN rất nhiều. Các DNNN có quan hệ tín dụng thường xuyên hơn, được cho vay nhiều lần hơn các DNNQD. Điều này cũng phản ánh chính xác thực tế hoạt động tín dụng tại sở khi mà cho vay khối DNNN vẫn chiếm quy mô lớn. Nhưng cũng cần nhận thấy rằng đã có những chuyển biến tích cực khi mà doanh số cho vay DNNQD đã tăng với tốc độ lớn hơn tỏng khi doanh số cho vay DNNN đã có tốc độ tăng trưởng chậm hơn, thậm chí không tăng mà còn giảm nữa. Xu hướng trên phản ánh chính xác diễn biến thực tế trong công tác tín dụng khi mà SGD I đang cố gắng tăng cường cấp tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh trong khi vẫn duy trì và củng cố mối quan hệ hiện có với khối quốc doanh.
2.2.2.4. Doanh số thu nợ
Cũng giống như doanh số cho vay, doanh số thu nợ cũng là chỉ tiêu mang tính thời kỳ, phản ánh tổng số tiền vay thu về trong kỳ. Hoạt động thu nợ của SGD được thể hiện trong bảng số liệu:
Bảng 2.7: doanh số thu nợ của SGD qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Số tiền
%
Số tiền
%
%07/06
Số tiền
%
%08/07
DNNN
3099.842
74.36
3516.109
72.76
13.43
3688.895
68.56
4.91
DNNQD
1068.911
25.64
1316.480
27.24
23.16
1692.248
31.44
28.54
Doanh số thu nợ
4168.753
4832.589
5381.143
Doanh số thu nợ của SGD I qua các năm có sự biến động tương đối giống như doanh số cho vay. Doanh số thu nợ của cả hai loại hình DNNN và DNNQD đều tăng lên về quy mô tuy nhiên tốc độ tăng lại khác nhau và tỷ trọng doanh số thu nợ của DNNN thì có xu hướng giảm còn tỷ trọng doanh số thu nợ của DNNQD thì tăng lên. Doanh số thu nợ của DNNN chiếm tỷ trọng 74.36% năm 2006, sang năm 2007 thì DNNN chiếm 72.76% và năm 2008 chiếm 68.56% doanh số thu nợ. DNNQD có tỷ trọng doanh số thu nợ tăng dần qua ba năm: năm 2006 chiếm 25.64%, năm 2007 chiếm 27.24% và năm 2008 chiếm 31.44%. Có được kết quả trên là do những quyết tâm của sở trong công tác thu nợ DNNN trong năm 2006, còn khối DNNQD do không có được những ưu đãi như khối DNNN nên việc trả nợ nghiêm túc và đầy đủ hơn, đúng hạn hơn. Doanh số thu nợ của SGD I được thể hiện rõ hơn ở biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 2.4: doanh số thu nợ của SGD I qua các năm( đơn vị: tỷ đồng)
Doanh số thu nợ của các DNNQD tăng lên là do hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày một tăng; do công tác thu nợ của ngân hàng được thực hiện tốt, công tác thẩm định doanh nghiệp trước khi cho vay được thực hiện tốt, công tác thẩm định doanh nghiệp trước khi cho vay được thực hiện một cách có hiệu quả.
Quan sát doanh số cho vay và doanh số thu nợ ngày càng cao của các DNNQD qua ba năm gần đây có thể khẳng định rằng quy mô cho vay của SGD I với DNNQD ngày càng lớn đồng nghĩa với đó là hoạt động cho vay DNNQD ngày càng được mở rộng.
2.2.2.5. Nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Bảng 2.8: cơ cấu nợ quá hạn của SGD I
Đơn vị: triệu đồng
chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Số tiền
%
Số tiền
%
%07/06
Số tiền
%
%08/07
Tổng NQH
750
100
918
100
87
100
DNNN
562
74,93
679
73,96
22,4
58
66,67
-91,46
DNNQD
188
25,07
239
26,04
27,13
29
33,33
-87,87
Tình hình nợ quá hạn năm 2007 tăng so với năm 2006 nhưng sang đến năm 2008, nợ quá hạn đã giảm một cách rõ rệt, có được kết quả này là do những cố gắng của cán bộ tín dụng, do sự điều chỉnh hợp lý của ngân hàng cũng như những cố gắng tích cực trong thu nợ xấu.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Đánh giá kết quả đạt được trong hoạt động mở rộng cho vay đối với DNNQD tại SGD I – BIDV.
Ngay từ những ngày đầu thành lập SGD I đã có nhiệm vụ là phục vụ các DNNN, các tổng công ty thuộc lĩnh vực xây lắp cơ bản. Bởi vậy, các hoạt động của sở trong thời gian trước thường thiếu tính đa dạng, không chủ động, thiếu tính tích cực, chỉ tập trung vào một số khách hàng truyền thống quen thuộc. Trong mấy năm trở lại đây nhận thức được những thay đổi của thị trường. cùng với những thay đổi rõ rệt và SGD I đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Hoạt động tín dụng là một trong số các mặt hoạt động thu được nhiều thành tích nhất của sở. Trước những thay đổi của thị trường, trong xu thế hội nhập, và trước sức ép cạnh tranh và do những thay đổi pháp lý, SGD I đã tiến hành đa dạng hóa các khách hàng của mình. Hoạt động cho vay DNNQD đã có những biến chuyển theo hướng thuận lợi cho các doanh nghiệp. Số lượng khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đến giao dịch ngày càng tăng, chất lượng của các khoản vay ngày một nâng cao. Số lượng DNNQD đến giao dịch với sở hiện nay có khoảng 100 doanh nghiệp tập trung vào một số doanh nghiệp như công ty cổ phần Alphanam, công ty cổ phần FPT, công ty Chinh Phông – Hải Phòng, công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hà Nội Hoạt động cho vay các DNNQD tập trung mạnh vào các CTCP, TNHH và các DNTN. Đây là một hướng đi rất hợp lý của sở trước xu hướng cổ phần hóa của các DNNN, khi mà số lượng các CTCP sẽ tăng nhanh chóng. Do xu hướng đầu tư vào thị trường Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước rất cần sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng. SGD I đã kịp thời nắm bắt kịp thời xu hướng này và thực hiện đẩy mạnh cho vay các CTCP, TNHH, TNTN dẫn đến sự tăng lên nhanh chóng của dư nợ cho các đối tượng doanh nghiệp t rên.
Dư nợ tín dụng, doanh số cho vay và doanh số thu nợ của các DNNQD đều tăng lên nhanh chóng qua các năm. Dư nợ DNNQD chiếm khoảng 27.68 tổng dư nợ. Doanh số cho vay và doanh số thu nợ DNNQD tăng lên cả về tốc độ và tỷ trọng, doanh số cho vay tăng từ 2% năm 2007 lên 14% năm 2008. Doanh số thu nợ DNNQD chiếm khoảng 28% trong tổng doanh số thu nợ. Có được những chuyển biến tích cực trên là kết quả của những thay đổi trong chính sách chỉ đạo của ngân hàng, do những nỗ lực và quyết tâm của cán bộ tín dụng phụ trách mảng tín dụng ngoài quốc doanh. Đồng thời đó là kết quả thực hiện của các giải pháp khuyến khích mạnh mẽ cho vay khối DNNQD ưu đãi về lãi suất, ưu đãi về bảo đảm tiền vay, cung cấp dịch vụ tiện ích đi kèm. Ngân hàng đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ trên tất cả các mặt hoạt động như tổ chức, chính sách khách hàng, đào tạo cán bộ thông qua việc áp dụng và dần hướng tới những thông số tài chính quốc tế của một ngân hàng chuẩn mực hiện đại đảm bảo hoạt động hiệu quả, an toàn.
Việc cấp tín dụng trung và dài hạn cho các DNNQD đã được cải thiện và nâng dần trong tổng dư nợ DNNQD của sở. Tín dụng trung, dài hạn DNNQD giảm từ 20% năm 2006 xuống còn 15% năm 2008, điều này chứng tỏ các điều kiện để cho vay trung và dài hạn là rất khắt khe, nhiều thủ tục rườm rà nên ngày càng có ít doanh nghiệp vay vốn dài hạn.
Dựa trên những phân tích trên cho thấy việc mở rộng cho vay của SGD I với các DNNQD đã có rất nhiều kết quả tốt đẹp, tạo tiền đề thuận lợi trong việc đẩy mạnh cho vay DNNQD, giảm tỷ trọng cho vay DNNN trong thời gian tới.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Những thành tích mà SGD I đã đạt được không phải là ít nhưng trong việc cấp tín dụng cho các DNNQD vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục:
Việc cấp tín dụng còn dựa nhiều vào điều kiện bảo đảm tiền vay nhất là bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố hàng hóa.
Tỷ trọng dư nợ DNNQD còn thấp khi so sánh với tỷ trọng dư nợ DNNN mặc dù SGD I đã có những điều chỉnh về chính sách tín dụng, các điều kiện ưu đãi hơn.
Thời gian phê duyệt 1 món vay cũng như khoản giải ngân còn kéo dài, qua nhiều công đoạn.
Số lượng DNNQD có nhu cầu vay vốn lớn nhưng SGD vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ không được chú trọng cho vay.
Đóng góp của khu vực DNNQD vào thu nhập của SGD còn thấp.
Phương thức cho vay còn nhiều hạn chế, hầu hết là cho vay theo hạn mức, cho vay theo dự án đầu tư.
Chỉ tập trung vào cho vay DNNQD quy mô lớn, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất quy mô lớn. Cho vay các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ chưa được chú trọng.
Hoạt động cho vay DNNN vẫn chiếm phần lớn cơ cấu cho vay của sở trong khi đó rủi ro từ cho vay các doanh nghiệp này là rất lớn, các dự án trọng điểm không áp dụng đầy đủ các biện pháp về bảo đảm dẫn đến dư nợ có tài sản đảm bảo chưa cao.
Chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vay vốn của khách hàng. Các DNNQD có nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn nhưng SGD I vẫn chưa cung cấp kịp thời các khoản vay trung và dài hạn, nếu cấp thì lại có những đòi hỏi khắt khe về tài sản đảm bảo.
Các sản phẩm tín dụng và dịch vụ đi kèm còn thiếu tính đa dạng, đồng bộ và đơn điệu. Chính sách lãi suất chưa thực sự linh hoạt và còn cao hơn khi so sánh với lãi suất mà DNNN phải trả khi vay vốn.
2.3.2.2. Nguyên nhân.
Nguyên nhân từ phía SGD I
Các quy định về cho vay DNNQD chưa cụ thể và chưa mang tính thống nhất cao. Các vấn đề như chính sách khách hàng, chính sách tín dụng chưa được chú trọng đúng mức. SGD còn chưa thực sự mặn mà cho vay DNNQD, còn có sự phân biệt đối xử khi cho vay căn cứ vào quy mô khoản vay. Các doanh nghiệp phải có nhu cầu vay vốn ở mức độ tương đối mới được chú trọng cho vay.
Các chính sách về cho điểm khách hàng, thẩm định tài chính dự án thiếu tính chuyên môn hóa và còn mang tính chung chung nên hiệu quả đánh giá chưa cao, tốn nhiều thời gian và chi phí cho các cán bộ tín dụng khi đánh giá khoản vay. Công tác thẩm định, quản lý sau cho vay nhiều khi chưa thực sự hiệu quả., chưa được xem xét cẩn thận.
Thủ tục cho vay quá rườm rà, qua nhiều khâu, phân cấp ủy quyền cấp tín dụng của ngân hàng còn chưa hợp lý dẫn tới trường hợp để có được chữ ký của người có thẩm quyền thì làm chậm tiến độ xem xét, giải ngân. Thời gian ra các phán quyết tín dụng còn kéo dài gây ra ảnh hưởng xấu cho cả khách hàng và ngân hàng.
Các chính sách khách hàng cũng như lãi suất, tài sản đảm bảo, chính sách về kỳ hạn trả nợ chưa khoa học và thiếu tính khoa học. Chính sách lãi suất còn thiếu tính cập nhật thì trường, lãi suất đôi khi còn cao hơn các NHTM trên cùng địa bàn. Chính sách tài sản đảm bảo chưa linh hoạt, còn mang nặng tâm lý coi trọng tài sản đảm bảo mà thiếu sự đánh giá công bằng về tính hiệu quả của doanh nghiệp và phương án trình vay vốn. Ngân hàng vẫn quá coi trọng tài sản đảm bảo, điều kiện tín chấp Mối quan hệ ngân hàng với khách hàng vẫn mang nặng tính hình sự do những e ngại về rủi ro của ngân hàng.
Các quy định về kỳ hạn trả nợ thiếu tính linh hoạt đa dạng. Trong khi các NHTM khác thực hiện cho vay theo nhiều kỳ hạn thì SGD I vẫn chưa chú trọng phân loại kỳ hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ nên làm mất đi lợi thế cạnh tranh với các NHTM khác.
Hệ thống thông tin tín dụng chưa hiệu quả và đầy đủ, chưa tạo ra được tính hai chiều trong thông tin. Khách hàng là các DNNQD còn thiếu thông tin về các loại hình dịch vụ của sở, tình công khai chưa cao có tác động, ảnh hưởng xấu tới mối quan hệ khách hàng và ngân hàng.
Công tác marketing, nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị trường còn thiếu, chưa được chú trọng; dẫn tới các sản phẩm cung cấp chưa đáp ứng được nhu cầu khách hàng, phương thức cho vay còn kém đa dạng, các dịch vụ cung cấp chưa làm nổi bật tính đặc thù của sản phẩm tín dụng mà SGD cung cấp.
Cán bộ tín dụng nhiều người còn trẻ nên thiếu kinh nghiệm thực tế, chưa có bản lĩnh vững vàng, còn có những hiện tượng xảy ra liên quan đến tiêu cực khi cho vay các khách hàng.
Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn kém gây ảnh hưởng xấu tới cách nhìn nhận, đánh giá của ngân hàng với đối tượng doanh nghiệp này đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Do thiếu vốn, thiếu tính chuyên nghiệp và hiểu biết trong quản lý, do công nghệ lạc hậu, do khai thác thông tin thị trường chưa tốt nên sản phẩm sản xuất ra còn nhiều hạn chế, không tiêu thụ được do đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
Các phương án sản xuất kinh doanh trình xin vay vốn, các báo cáo tài chính chưa đầy đủ, thiếu tính minh bạch, nhiều thông tin khách hàng cung cấp thiếu tính chính xác làm cán bộ tín dụng mất thời gian và chi phí lớn để đánh giá, xác minh. Các DNNQD thường không có khả năng tài chính để đáp ứng đầy đủ yêu cầu về tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo nợ vay, nhiều tài sản thiếu căn cứ pháp lý nên rất khó khăn cho ngân hàng khi tiến hành cho vay.
Nhiều chủ doanh nghiệp khi vay vốn chưa xác định được mục địch sử dụng vốn hợp lý, nhiều trường hợp ngay từ khi vay vốn đã có ý định chiếm dụng vốn dẫn tới giảm uy tín của các khách hàng khác đối với ngân hàng.
Nguyên nhân khác
Do tính định hướng trong các văn bản pháp luật với hoạt động của các DNNQD còn chưa rõ ràng. Sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp còn xảy ra tương đối phổ biến.
Những biến động bất lợi của thị trường giá cả tới rủi ro cho người kinh doanh nhất là khi họ chưa đủ trình đọ dự đoán được xu thế của thị trường. Giá nguyên vật liệu, nhiên nguyên liệu cao, lạm phát tăng làm cho các chi phí của doanh nghiệp tăng cao trong khi sản phẩm bán ra có thể không tăng được giá do cạnh tranh dẫn tới khả năng trả nợ giảm, các DNNQD dè dặt trong đầu tư vào các ngành công nghiệp và chế biến hàng hóa có chất lượng cao.
Các NHTM khác cùng các ngân hàng liên doanh đang trong quá trình mở rộng mạnh mẽ việc cung ứng vốn cho các DNNQD làm cho cạnh tranh ngày một gay gắt nên đã gây ra nhiều bất lợi cho SGD I tăng cường cấp tín dụng cho DNNQD.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD
TẠI SGD I – BIDV
3.1. Định hướng trong phát triển cho vay đối với các DNNQD tại SGD I – BIDV
3.1.1. Mục tiêu của SGD I
Trong thời gian tới hoạt động kinh doanh của BIDV tập trung vào ba mục tiêu cơ bản là:
Cải cách triệt để trong quản trị điều hành lẫn tác nghiệp gắn với đầu tư, khai thác và ứng dụng các công nghệ tiên tiến cùng nguôn lực sẵn có, đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doang tiến dần theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Tăng tốc phát triển.
Cổ phần hóa thành công BIDV.
Để thực hiện được mục tiêu chung đó SGD xác định rõ mục tiêu phấn đấu và trọng tâm công tác như:
Đẩy mạnh một số nội dung hợp tác cùng tổng công ty, các khách hàng lớn của sở trên các mặt tín dụng, huy động vốn, dịch vụ.
Nghiên cứu rà soát mục tiêu phân loại nợ và trích lập dự phòng, đánh giá quá trình giải ngân, thu nợ đảm bảo, kiểm soát cơ cấu tín dụng theo kế hoạch.
Phát huy ưu thế sẵn có trong viecj cung cấp các dịch vụ truyền thống, mở rộng và đa dạng hoasdanh mục sản phẩm, tập trung vào sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
3.1.2. Định hướng mở rộng cho vay các DNNQD trong thời gian tới tại SGD I.
Hoạt động tín dụng bên cạnh việc tiếp tục thực hiện phục vụ tốt khách hàng truyền thống, các tổng công ty với các dự án lớn thuộc khối quốc doanh sẽ thực hiện phát triển tín dụng dịch vụ đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất đặc biệt là trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp mà được thị trường chấp nhận.
Quy định mức lãi suất cho vay tối thiểu phù hợp với các nngana hàng thương mại quốc doanh trên từng địa bàn, đặc biệt là địa bàn có tính cạnh tranh cao. Điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất trung dài hạn với cùng khách hàng vay bằng ngoại tệ.
Có chính sách tài sản đảm bảo linh hoạt đối với khách hàng lớn, hoạt động kinh doanh hiệu quả, khách hàng truyền thống của ngân hàng.
3.2. Giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNNQD tại SGD I – BIDV
3.2.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với DNNQD tại SGD I
Nền kinh tế nước ta đang phát triển và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, các doanh nghiệp ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Đối tượng khách hàng mà ngân hàng phục vụ ngày càng đa dạng và phong phú. Hiện nay, tại SGD I khối tín dụng chia làm hai khối tín dụng quốc doanh và ngoài quốc doanh. Tín dụng quốc doanh chuyên thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến khôí doanh nghiệp nhà nước, khối tín dụng ngoài quốc doanh thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chuyên trách cho vay ngoài quốc doanh. Bởi vậy có thể thấy đối tượng phục vụ của bộ phận tín dụng ngoài quốc doanh là rất lớn. Tuy nhiên trong khi tiến hành phân tích khách hàng thì chưa có sự phân chia rạch ròi.
Trong hồ sơ tín dụng của BIDV đã có quy trình tín dụng và quản lý chung cho toàn hệ thống, đó là quy trình thống nhất nên mang tính chiến lược cao và để thực hiện được dễ dàng ngân hàng thường có các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên do đối tượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất đa dạng nên SGD củng như ngân hàng cần phân chia các doanh nghiệp, các phương án vay vốn theo mức độ khách nhau để thực hiện một cách chuyên môn hóa hơn, tưc là cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn của sở giao dịch với khối tín dụng ngòai quốn doanh. Sau đây xin dưa ra một số gợi ý sau:
Ngân hàng và SGD nghiên cứu và đưa ra sự xếp hạng cụ thể hơn về quy mô của doanh nghiệp củng như quy mô của phương án vốn vay theo các mức lũy tiến để từ đó đối chiếu hồ sơ cần hoàn thành, phân cấp thực hiện, cần hoàn thiện hệ thống xếp hạng doanh nghiệp để phù hợp với đặc điểm của các DNNQD ở Việt Nam.
Từ việc xem xét đối chiếu nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp theo quy định chung sẽ ảnh hưởng đến các mặt hoạt động khách như thủ tục hồ sơ cần chuẩn bị, thủ tục thẩm định dự án, các bộ phận và các cá nhân chuyên trách Nếu có sự phân chia cụ thể thì chi phi cho việc đánh giá khách hàng giảm bớt, thời gian thực hiện giữa khách hàng và ngân hàng giảm, số lượng cán bộ chuyên trách củng giảm.
Phân cấp thẩm quyền quyết định tín dụng
Việc phân cấp thẩm quyền quyết định tín dụng có tác động trực tiếp đến việc quản lý, kiểm soát các khoản vay. Với các khoản vay nhỏ, sau khi xem xét, cho điểm khách hàng nếu hồ sơ vay được chấp nhận thì có thể thực hiện các công việc cần thiết để giải ngân, không cần qua bộ phận thẩm định, tái thẩm định và các phòng ban liên quan để tiết kiệm thời gian và chi phí. Để thực hiện tốt congon tác giải ngân,giảm nguy cơ rủi ro cần đưa ra quy định về mức phán quyết khoản vốn giải ngân của một nhóm người, ban giám đốc, hội đồng quản trị Việc phân cấp ủy quyền ra quyết định tín dụng còn đặc biệt có ý nghĩa trong hoạt động của các chi nhánh. Thực hiện phân cấp thẩm quyền ra quyết định tín dụng đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động và gán liền quyền lợi và trách nhiệm của người ra quyết định.
Đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp thương mại và dịch vụ.
Nhu cầu vay vốn của khách hàng rất phong phú hiện nay SGD I chú trọng cho vay trong lĩnh vực sản xuất, quy mô doanh nghiệp phải lớn. do vay SGD đã bỏ qua một số lượng không nhỏ khách hàng thuộc khu vực thương mại và dịch vụ, các doanh nghiệp tham gia vào giao dịch xuất nhập khẩu. xu hướng hiện nay các ngân hàng đang tập trung cho vay doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu do làn sóng đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam. Ngân hàng và SGD I cần xác định lại chích sách cho vay các đối tượng, cần đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, các doanh nghiệp sản xuất thương mại và dịch vụ.
3.2.2. Hoàn thiện chính sách marketing.
Kinh doanh tiền tệ là phạm trù hết sức trừu tượng rất khó đánh giá, xem xét một cách cụ thể. Khách hàng rất khó khăn trong việc nhìn nhận đâu là một ngân hàng thực sự kinh doanh hiệu quả, những dịch vụ ngân hàng cung cấp hoàn hảo đến mức nào. Hình ảnh và uy tín của ngân hàng trong tâm trí khách hàng là cơ sở cho việc quyết định lựa chọn sản phẩm của ngân hàng cung cấp. Để tạo ra ấn tượng với khách hàng cần hoàn thiện chính sách marketing của ngân hàng, công tác marketing cần chuyên nghiệp hơn. Để thực hiện chính sách marketing cần thực hiện một số giải pháp sau:
32.2.1. Thành lập một số bộ phận chuyên môn hóa về hoạt động marketing ngân hàng.
Hoạt động marketing của ngân hàng thương mại nước ta thực hiện chưa thực sự chuyên nghiệp, thiếu tính thống nhất. Với khối ngân hàng thương mại nhà nước thì hoạt động marketing còn rất nhiều hạn chế. Thực tế hầu như cán bộ tín dụng nào cũng phải đảm nhiệm thêm vai trò của một cán bộ marketing, bởi vậy các hoạt động tìm kiếm khách hàng, tiếp thị khách hàng đều do cán bộ tín dụng thực hiện. Hoạt động marketing thiếu tính chuyên nghiệp dẫn tới những tổn thất to lớn cho cả ngân hàng và khách hàng. Biện pháp có tác động mạnh tới hoạt động mở rộng cho vay với đối tượng DNNQD là đẩy mạnh hoạt động marketing ngân hàng, tạo ra hấp dẫn cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Để tiến hành tìm hiểu nhu cầu của khách hàng vào các sản phẩm tín dụng cũng như các sản phẩm khác của ngân hàng cần tiến hành việc phân tổ, lập các đội nghiên cứu thị trường. Dựa trên các tiêu thức được lựa chọn, nghiên cứu mang tính khoa học cao các cán bộ marketing sẽ giúp cán bộ tín dụng nắm được thông tin chính xác về khách hàng của mình từ đó tạo ra mối quan hệ, sự hiểu biết giữa ngân hàng và khách hàng. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các DNNQD rất phong phú và đa dạng, nhu cầu về vốn luôn luôn biến động trong khi các điều kiện cơ sở pháp lý cho các DNNQD còn chưa được thực hiện tốt nên đối với ngân hàng thì thị trường cho vay các DNNQD rất đa dạng nhưng cũng rất phức tạp do vậy việc thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu về khách hàng giúp ngân hàng hiểu hơn về các DNNQD, nắm bắt được nhu cầu, thực trạng kinh doanh trên thị trường, việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Có như vậy hoạt động cho vay của ngân hàng mới có hiệu quả và chất lượng cao hơn, cạnh tranh được với các ngân hàng khác trên địa bàn.
3.2.2.2. Xây dựng chiến lược sản phẩm hấp dẫn
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Muốn khách hàng nhớ tới mình cần phải cho khách hàng thấy sự mới mẻ, đa dạng của các sản phẩm ngân hàng. Sản phẩm của ngân hàng không thể da dạng như nhiều ngành nghề khác do những ràng buộc tương đối khắt khe của ngân hàng nhà nước, của chính phủ. Sản phẩm tín dụng càng khó da dạng hơn đưa ra một sản phẩm tín dụng mới là rất khó khăn bởi vậy cách làm hiệu quả được nhiều ngân hàng áp dụng là cải tiến sản phẩm đã có. Để thực hiện được mục tiêu cung cấp sản phẩm tốt nhất ngân hàng cần tiến hành các biện pháp:
Đa dạng thời hạn cấp tín dụng và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng kèm.
Thực hiện mở rộng hình thức cấp tín dụng bằng cách đa dạng về thời hạn cho vay: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn theo các kỳ hạn đa dạng hơn đi kèm các dịch vụ tiện ích hoặc khuyến mãi. Mở rộng và đa dạng danh mục sản phẩm dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Thực hiện cung cấp các sản phẩm dịch vụ đi kèm như mở tài khoản giao dịch và quản lý hộ khách hàng, thực hiện chi trả lương thông qua sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng
Đa dạng hóa hình thức cấp tín dụng
Ngân hàng có thể mở rộng cho vay thông qua mở rộng hình thức tài trợ. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, với đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn là quy mô vốn nhỏ, thiếu công nghệ và rất cần vốn để mở rộng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh Ngân hàng cần đặc biệt lưu tâm trong việc cho vay với đối tượng này. Hình thức có hiệu quả mà ngân hàng có thể tiến hành khi cho vay DNNQD là mở rộng cho vay đồng tài trợ và cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Cho vay đồng tài trợ
Đây là hình thức cho vay mà sở giao dịch nên tập trung vào thực hiện trong thời gian tới do những ưu điểm của nó và do diễn biến của nền kinh tế. Trong mấy năm trở lại đây đã xuất hiện rất nhiều các DNNQD có nhu cầu vay những khoản vốn lớn, mức độ rủi ro tương đối cao và SGD muốn chia sẻ bớt nguy cơ rủi ro nên sở đứng ra trở thành “ngân hàng đầu mối” kêu gọi sự hợp tác của các ngân hàng khác, các tổ chức tài chính khác. Các ngân hàng và tổ chức tài chính sẽ cùng nhau phân chia lợi nhuận, các khoản thu từ dự án dựa trên cơ sở vốn góp ban đầu.
Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng
Ưu thế của BIDV là trong lĩnh vực xây lắp, xây dựng cơ bản nhưng hoạt động này chỉ tập trung vào các tổng công ty xây dựng nhà nước và tập trung vào cho vay trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn các công trình là hình thức cho vay ngắn hạn có đảm bảo, các khoản vay này cung cấp vốn cho bên thị công để thuê công nhân,thuê thiết bị xây dựng, mua nguyên vật liệu và giải phóng mặt bằng. Trước đây các khoản vay dành cho lĩnh vực xây dựng thường là dài hạn và khách hàng sau khi vay vốn thực hiện tự phân bổ khoản vay. Hình thức cho vay này mang tính cụ thể hơn, mục đích vay vốn cụ thể tạo thuận lợi cho việc kiểm soát khoản vay. Các DNNQD có nhu cầu xây dựng các tòa nhà văn phòng cho chính doanh nghiệp, xây dựng để bán hoặc cho thuê, đặc biệt xu hướng xây dựng các cao ốc tòa nhà cho thuê đang dần định hình và phát triển ở nước ta sẽ tạo ra nhiều cơ hội để mở rộng hình thức cho vay ngắn hạn các công trình. Các khoản cho vay dành cho DNNQD thường đòi hỏi khắt khe về tài sản đảm bảo do vậy khi cấp các khoản cho vay ngắn hạn thì đòi hỏi về tài sản đảm bảo sẽ giảm bớt tạo thuận lợi cho DNNQD. Các DNNQD sẽ là đối tượng để thực hiện mở rộng cho vay thông qua hình thức cấp tín dụng ngắn hạn các công trình do những ưu điểm của hình thức này và do hình thức này phù hợp với các DNNQD.
3.2.2.3. Xây dựng chính sách giao tiếp khuyếch trương
Do những thay đổi mạnh mẽ trong thời gian qua, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có sự cạnh tranh rất gay gắt nhất là khi chúng ta đang tiến hành mở cửa thị trường tài chính ngân hàng. Muốn thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị để khách hàng nhớ tới và khi có nhu cầu muốn thực hiện với ngân hàng. SGD có thể thực hiện tuyên truyền qua các kênh trực tiếp và gián tiếp. Kênh trực tiếp có nghĩa các cán bộ, công nhân viên là người cung cấp thông tin cho khách hàng, cho người thân, bạn bè về hoạt động của sở. Kênh gián tiếp được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại chúng như: truyền hình, trang web, báo viết Nội dung của các chính sách nên tập trung ngắn gọn dễ nhớ nhưng phải đầy đủ thông tin.
3.2.3. Thực hiện tốt chính sách ngân hàng.
Chính sách khách hàng là chính sách có tác động trục tiếp đến quyết định lựa chọn khách hàng. Chính sách khách hàng bao gồm nhiều chính sách tiếp thị sản phẩm, chính sách lãi suất Dựa trên những chính sách chung đó SGD sẽ đưa ra các chính sách ưu đãi đặc biệt dành cho khách hàng vip, khách hàng truyền thống. Dựa trên mức độ xếp hạng doanh nghiệp thì khách hàng có thể được áp dụng những chính sách ưu đãi khác nhau. Mặc dù có những quy định cụ thể như vậy nhưng thực tế các DNNQD chưa thực sự có được những ưu đãi của SGD. Khi mở rộng cho vay DNNQD có hai chính sách cần được quan tâm hàng đầu là chính sách lãi suất và chính sách đảm bảo tiền vay.
3.2.3.1. Chính sách lãi suất: cần thực hiện da dạng hóa lãi suất cho vay.
Lãi suất là nhân tố đầu tiên khách hàng quan tâm khi đưa ra quyết định của mình vì lãi suất là giá cả của khoản tín dụng khi vay vốn khách hàng luôn mong muốn có được sản phẩm với giá rẻ nhất còn ngân hàng là nhà cung cấp lại kỳ vọng bán được sản phẩm với giá cao nhất. Lợi ích của hai bên khách hàng và ngân hàng trái ngược nhau, bởi vậy ngân hàng cần nghiên cứu và đưa ra lãi suất phù hợp, thỏa mãn lợi ích của cả hai bên ngân hàng và khách hàng đồng thời phải đảm bảo cạnh tranh được với các ngân hàng khác. DNNQD rất đa dạng về hình thức sơ hữu, quy mô, bởi vậy chính sách lãi suất cần linh hoạt theo đối tượng khách hàng.
Chính sách lãi suất cần đa dạng theo mức vốn vay và thời hạn vay vốn. Nếu khách hàng vay với quy mô lớn thì lãi suất cho vay cần phải nhỏ hơn khi các đối tượng khác mặc dù thời hạn vay bằng nhau, lãi suất phải giảm dần khi quy mô khoản vay tăng. Lãi suất đưa ra phải đảm bảo lãi suất cho vay ngắn hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, đồng thời thực hiện chia nhỏ các khoảng thời gian cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thành các khoảng nhỏ hơn với mức lãi suất áp dụng khác nhau.
3.2.3.2. Chính sách bảo đảm tiền vay
Ngân hàng cho vay dựa trên tài sản đảm bảo do nguy cơ rủi ro tiềm ẩn. Các DNNQD vốn tự có nhỏ, nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh lại rất lớn, tài sản có giá trị không cao, đồng thời không phải tài sản nào cũng được ngân hàng chấp nhận là tài sản đảm bảo cho nên các DNNQD gặp nhiều khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Vì thế ngân hàng cần đa dạng và linh động khi đưa ra các yêu cầu về tài sản đảm bảo trong cho vay để các DNNQD tiếp cận vốn của ngân hàng dễ dàng hơn. Đối với khách hàng là những doanh nghiệp mới có quan hệ tín dụng với khách hàng thì ngân hàng tiến hành thẩm định chặt chẽ, đánh giá đúng đắn, chính xác hiệu quả kinh doanh để đưa ra mức tài sản thế chấp hợp lý trên số vốn vay. Đối với các doanh nghiệp truyền thống có uy tín, năng lực trả nợ cao thì khi cho vay có tạo chiều sâu, mang tính gợi mở ý tưởng cho những hình thức mới, tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng trao đổi kinh nghiệm trong quá trình làm việc thực tế.
Tuyển mộ và đào tạo cơ bản với cán bộ tín dụng mới. Những cán bộ tín dụng là những người mới tốt nghiệp, sinh viên năm cuối là những người có lòng nhiệt tình. Bởi vậy ngân hàng cần có chính sách tuyển mộ phù hợp để có thể nắm bắt được năng lực thực sự của họ đồng thời mang tính khám phá, tìm hiểu được tính cách và phẩm chất của họ. Sau khi tuyển chọn được đội ngũ cán bộ tín dụng mới cần tiến hành đào tạo về nghiệp vụ thực tế, chủ yếu là gắn liền thực tế hoạt động của ngân hàng với lý thuyết chung. Đồng thời trong thời gian đầu có thể cử những cán bộ có kinh nghiệm và chuyên môn vững hướng dẫn cán bộ mới.
Giao kế hoach cụ thể cho từng cán bộ tín dụng, đồng thời có chính sách khen thưởng, kỷ luật công bằng với các cán bộ phụ trách cho từng món vay cụ thể. Phải có sự đánh giá công bằng, chính xác khi rủi ro xảy ra, người vay không trả được nợ. Phải xem xét kỹ lưỡng rủi ro, sai sót phát sinh từ khâu nào để quy trách nhiệm cho chính người làm sai. Giao trách nhiệm cho cán bộ tín dụng khi cho vay cần đi kèm với những chế độ ưu đãi, khuyến khích kịp thời như những chính sách về tiền lương tiền thưởng SGD có thể thực hiện việ giao chỉ tiêu cụ thể về quy mô khoản vốn cho vay được trong một năm của một cán bộ tín dụng, nếu thực hiện cho vay vượt mức quy định thì sẽ có các chế độ thưởng tương xứng, đồng thời phải đảm bảo về tính an toàn của khoản vốn đã giải ngân, tránh tình trạng cho vay tràn lan nhưng chất lượng không đảm bảo.
Để đào tạo sâu hơn các nghiệp vụ liên quan nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các nghiệp vụ tín dụng chính, giúp cán bộ tín dụng nâng cao năng lực, nắm bắt được công nghệ thông tin kịp thời nhanh chóng. Phân tích tài chính doanh nghiệp là một hoạt động rất phức tạp đòi hỏi người thực hiện phải có hiểu biết sâu về kế toán doanh nghiệp đồng thời phải có những đánh giá phân tích sắc bén dựa các số liệu của doanh nghiệp đã được phân tích bằng công cụ toán học. Muốn thực hiện được công trên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kỹ năng thành thạo về sử dụng các phần mềm kế toán các hàm toán học và có những hiểu biết về thị trường để đưa ra những kết quả phân tích có độ chính xác lớn.
Hàng năm cần đánh giá lại chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng. khuyến khích và nêu gương những cán bộ tín dụng giỏi, những tập thể có thành tích tốt.
Bố trí các công việc một cách hợp lý, phù hợp trình độ, năng lực của từng cán bộ để phát huy năng lực của họ và khắc phục những điểm yếu.
3.2.5. Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng tốt.
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cho vay đúng hạn, định lượng được rủi ro một cách chính xác, có dự báo về diễn biến thị trường. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những nguồn sẵn có của ngân hàng, hoặc từ những tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước, từ các nguồn khác. Sở giao dịch có thể thực hiện trao đổi thông tin với các bộ phận, đơn vị khác trực thuộc BIDV, trao đổi với các tổ chức tín dụng khác, với các tổ chức kinh tế.
SGD I nên phát triển mạng lưới nội bộ, tổ chức thông tin nội bộ đồng thời phải đẩy mạnh việc cung cấp thông tin tín dụng cho các đối tượng thông qua các bản tin, phương tiện truyền thông. Tham gia đầy đủ vào hệ thống thông tin tín dụng chung của ngân hàng nhà nước, nghiêm túc thực hiện các quy định, quy chế thông tin tín dụng do NHNN và BIDV ban hành. Cần từng bước cung cấp các thông tin một cách rõ ràng và công khai hơn để tạo cảm giác tính an toàn và tính minh bạch của thông tin cung cấp.
3.2.6. Tăng cường công tác huy động vốn
Ngân hàng thực hiện huy động vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình mà chủ yếu là cho vay, nói cách khác ngân hàng đi vay để cho vay. Bởi vậy muốn mở rộng cho vay nhất là cho vay DNNQD cần một cơ chế rất đa dạng và linh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn củng như đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. SGD có quy mô huy dộng vốn ngày một lớn hơn tuy nhiên nguốn vốn lại tập trung ở các tổ chức kinh tế lớn nên tạo ra sức ỳ lớn. nếu một khách hàng lớn không thực hiện gửi tiền ở SGD thì rất nhiều khó khăn khi tìm nguồn mới. bởi vậy cần đa dạng các nguồn tiền gửi nhất là huy động từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các nguồn gửi tiền mới. Có thể thực hiện bằng việc tăng cường các điểm giao dịch, mở rộng ngân hàng, có chính sách khuyến mãi.
Mở nhiều hình thức huy động với nhiều mức lãi suất, nhiều thời hạn, phương thức gửi và thanh toán khác nhau.
Tiến hành bằng cách mở rộng và nnnga cao chất lượng dịch vụ liên quan đến các loại tài khoản như: tài khoản séc, tài khoản tiền gửi
Phát triển và đa dạng hóa các công cụ huy động vốn trung và dài hạn như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên một năm.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. kiến nghị với chính phủ
Các DNNQD gặp nhiều khó khăn do các quy định phức tập chồng chéo của chính phủ, nhà nước. bởi vậy chính phủ cần nghiên cứu và trình quốc hội thông qua, ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về việc tổ chức cũng như quản lý DNNQD.
Chính phủ cần phải làm rõ hơn về klhais niệm thế nào là DNNQD vì có thể hiểu khái niệm về DNNQD theo nhiều phương diện. DNNQD bao gồm hay không bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay không. Cần thấy rõ vai trò của các DNNQD trong việc phát triển kinh tế củng như các hoạt động khác của xã hội. từ đó tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Thực hiện các chính sách hỗ trợ các DNNQD phát triển. do các DNNQD thiếu kinh nghiệm trong đào tạo nhân lực, kỷ thuật và tìm kiếm thông tin, thị trường. chính phủ có thể cho phép và thành lập các tổ chức tư vấn trợ giúp các DNNQD trong việc hoàn tất thủ tục thành lập doanh nghiệp, tìm kiếm nhà cung cấp. Thực hiện cải cách hành chính đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNQD.
Thúc đẩy sự hình thành và hoạt động của các tổ chức bảo lãnh, định giá. Có được sự đánh giá của các tổ chức định giá là một cơ sở quan trọng và đáng tin cậy cho ngân hàng khi cấp tín dụng đồng thời giảm chi phí cho ngân hàng khi thẩm định tài chính. Sự bảo lãnh của các tổ chức có uy tín, có sự bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ giúp các DNNQD có được rất nhiều thuận lợi khi vay vốn.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước
Thực hiện hoàn thiện các chính sách tiền tệ, điều chỉnh các chính sách tiền tệ linh hoạt và chủ động. Tránh tình trạng các quy định chồng chéo và mâu thuẫn. Các chính sách cần mang tính cập nhật với diễn biến tình hình trong nước và quốc tế.
Tiếp cận kịp thời và nhanh chóng với các quy định mới của quốc tế để có sự nghiên cứu, ban hành các quy định chung cho các ngân hàng lấy làm cơ sở để thực hiện.
Thu hút kêu gọi các dự án, chương trình của quốc tế hỗ trợ ngành tài chính, ngân hàng trong nước về đào tạo nhân lực, trình độ quản lý, nghiệp vụ. Tổ chức các buổi hội nghị, các cuộc tiếp xúc trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế lớn.
Thực hiện cải tổ có hiệu quả, cơ cấu lại ngành ngân hàng.
Nâng cấp, hiện đại hóa trang thiết bị cho các ngân hàng, nâng cấp hệ thống thông tin cho toàn ngành. Đồng thời phải đảm bảo tính an toàn, bảo mật cho các dữ liệu của ngành, của các ngân hàng trong nước.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các ngân hàng để hạn chế sai sót, rủi ro trong hoạt động các ngân hàng. Thực hiện nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ thông tin, thủ tục cấp tín dụng, phát hiện sớm và kịp thời những sai phạm mà ngân hàng có thể mắc.
3.3.3 Kiến nghị với ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là cơ quan lãnh đạo cao nhất của SGD I vì vậy để hoạt động cho vay của SGD I đối với các DNNQD thì ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thay đổi cách nhìn nhận của ngân hàng đối với hoạt động cho vay các DNNQD, từ đó có những thay đổi điều chỉnh hướng dẫn cụ thể hoạt động cho vay của các DNNQD. Những quy định về chính sách, quy trình tín dụng cho DNNQD cần cụ thể và rõ ràng hơn, hoàn thiện chính sách tín dụng cũng như chính sách khách hàng nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay DNNQD.
Xây dựng cơ chế phán quyết tín dụng phù hợp, theo hướng giảm thời gian giải quyết khoản vay.
Hỗ trợ SGD trong đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ, công nhân viên đặc biệt là các cán bộ tín dụng. Tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học trong nội bộ ngân hàng với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn nhằm trao đổi kinh nghiệm nắm bắt thông tin.
Hoàn thiện sản phẩm dịch vụ tín dụng và các dịch vụ đi kèm hướng tới cung cấp cho các DNNQD dịch vụ trọn gói.
Hoàn thiện công tác thu thập, xử lý thông tin tín dụng và sử dụng có hiệu quả thông tin đó.
KẾT LUẬN
Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng tài chính đã và đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể phát triển được khi làm chủ ngay trên sân nhà trước khi bị các tập đoàn tài chính nước ngoài cạnh tranh. Muốn thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra SGD I cũng như ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cần đa dạng khách hàng, đa dạng dịch vụ cung cấp. Việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ giúp ngân hàng linh hoạt hơn giảm khả năng rủi ro khi vốn tín dụng chỉ tập trung vào một số ít đối tượng và tăng cường các quan hệ tín dụng mới. Thực hiện tốt điều này sẽ giúp cho SGD I – BIDV có được lượng khách hàng đủ lớn và củng cố được vị trí của mình trong tình hình cạnh tranh gay gắt của các NHTM.
Bài viết chủ yếu phân tích vào những đặc điểm, vai trò DNNQD tạo cơ sở cho thấy sự cần thiết phải mở rộng cho vay DNNQD. Đồng thời qua việc phân tích thực trạng cho vay tại sở để đưa ra một số giải pháp nhằm đưa ra một tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá và cho điểm tín dụng khách hàng, thực hiện phân loại khách hàng trên cơ sở đó có sự phân cấp ủy quyền ra quyết định tín dụng một cách rõ ràng, cụ thể giảm thời gian ra quyết định tín dụng và giải ngân. Muốn đẩy mạnh cho vay DNNQD cần đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ, đồng thời thực hiện đa dạng hóa các hình thức cho vay. Ngoài ra bài viết nêu một số giải pháp về hoàn thiện công tác maketing và đưa ra một số gợi ý về thực hiện đa dạng thời hạn cấp tín dụng. Bên cạnh đó bài viết đã nêu một số kiến nghị với các cơ quan chức năng có thẩm quyền về việc hoàn thiện các hoạt động của ngân hàng.
Em xin chân thanh cảm ơn Th.s Đặng Anh Tuấn và các anh chị ở SGD I – BIDV đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2707.doc