Đề tài Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk

Tình hình kinh tế, xã hội nước ta từ khi đổi mới đến nay đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng, tăng trưởng kinh tế khả quan, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khả năng hội nhập và cạnh tranh của nền kinh tế tăng lên cùng với những cải thiện đáng kể trong các lĩnh vực xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, lưu thông hàng hóa ngày càng được mở rộng cả về quy mô, phạm vi lẫn tính thường xuyên, liên tục. Do đó, hoạt động thanh toán bằng tiền mặt cũng dần dần không đáp ứng được nhu cầu của việc thanh toán nữa. Và cũng do đó, vai trò của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay đang ngày càng chiếm ưu thế với những lợi ích vượt trội, và đang có những đóng góp to lớn đới với sự phát triển của nền kinh tế. Người cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu là các ngân hàng thương mại, do đó, các ngân hàng thương mại đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế và ngày nay, ngành ngân hàng được coi là xương sống, là huyết mạch của nền kinh tế, có tầm quan trọng đặc biệt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Vì vậy, đi đôi với việc đổi mới cơ chế tổ chức, về nghiệp vụ ngành ngân hàng cũng đã tập trung cải tiến, trong đó có chế độ thanh toán không dùng tiền mặt. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thanh toán không dùng tiền mặt, trong những năm gần đây, ngành ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc trong công nghệ thanh toán nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới. Do đó, công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thực sự đã đi vào đời sống xã hội, đem lại những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triền của nền kinh tế thời kỳ đổi mới thì dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn bất cập về nhiều mặt, đặc biệt là hiện đại hóa công nghệ thanh toán và phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư. Điều này đặt ra cho ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng cũng như các nhà khoa học kinh tế phải tìm ra các giải pháp hữu hiệu để hoàn chỉnh dịch vụ này và tạo tiền đề để ngành ngân hàng mau chóng hội nhập chung vào mạng lưới thanh toán quốc tế. Xuất phát từ thực tiễn và tầm quan trọng của công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với nền kinh tế, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk”, nhằm tìm hiểu thực trạng của công tác thanh toán không dung tiền mặt ở đây, và mong muốn có thể đóng góp những ý kiến của mình cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của chi nhánh. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu - Tìm hiểu về lý luận thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. - Đánh giá thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk. - Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu - Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk. - Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 1.3.2.1 Không gian nghiên cứu Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk. 1.3.2.2 Thời gian nghiên cứu Dựa vào số liệu của 3 năm 2007, 2008, 2009.

doc78 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên kết với các đối tác chấp nhận thanh toán thẻ. Hiện nay chi nhánh đã liên kết được với 29 địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Các sản phẩm thẻ hiện nay của chi nhánh: - Thẻ ghi nợ nội địa, bao gồm: + Thẻ Vietcombank Connect24 + Thẻ Vietcombank SG24 - Thẻ ghi nợ quốc tế, bao gồm: + Thẻ Vietcombank Mastercard Debit - Phong Cách + Thẻ Vietcombank Connect24 Visa - Thẻ tín dụng quốc tế, bao gồm: + Thẻ Vietcombank Visa + Thẻ Vietcombank MasterCard + Thẻ Vietcombank American Express + Thẻ Vietcombank VietnamAirlines American Express (Bông Sen Vàng) Sự nổi bật lớn nhất về sản phẩm thẻ của VCB là sự kết nối vào hệ thống thanh toán smartlink với các ngân hàng lớn như: Techcombank, Eximbank, ABBank, VIB, ngân hàng Quân Đội, ACB… Hiện tại Smartlink đang vận hành một hệ thống xử lý thông tin với 28 ngân hàng thành viên tham gia, trong đó 21 ngân hàng đã triển khai kết nối thành công và hoạt động ổn định với số lượng xử lý trung bình của hệ thống đạt 400.000 giao dịch/ ngày, số lượng thẻ phát hành đạt gần 4 triệu thẻ và được chấp nhận thanh toán tại 2.500 ATM và hơn 15.000 đơn vị chấp nhận thẻ trên toàn Việt Nam. Đây cũng là yếu tố góp phần làm gia tăng sức hấp dẫn của thị trường thẻ của VCB. Bảng 3.9: Tình hình phát hành thẻ tại VCB Đăklăk Chỉ tiêu ĐVT 2007 % 2008 % 2009 % 2008/2007 2008/2007 +/- % +/- % Số lượng phát hành ATM 24h Thẻ 9.770 84,7 10.080 93,8 10.279 88,8 310 3,2 199 2,0 Thẻ ghi nợ quốc tế Thẻ 1.545 13,4 481 4,5 950 8,2 -1.064 -68,9 469 97,5 Thẻ tín dụng Thẻ 225 1,9 186 1,7 346 3,0 -39 -17,3 160 86,0 Doanh thu từ việc phát hành thẻ Triệu đồng 213.176 216.229 289.481 3.053 1,4 73.252 33,9 Doanh thu từ việc TT qua thẻ. Triệu đồng 75.296 53.216 156.216 -22.080 -29,3 103.000 193,6 ( Nguồn: Phòng dịch vụ và Thanh toán Quốc tế) Qua bảng cho thấy, số lượng thẻ ghi nợ nội địa phát hành tăng liên tục qua các năm, năm 2008 tăng 310 thẻ, tương ứng 3,2%; năm 2009 tăng 199 thẻ, tương ứng 2%. Sỡ dĩ số lượng thẻ ghi nợ nội địa luôn chiếm tỷ trọng cao và tăng qua các năm là do đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, hướng đến mọi đối tượng, đồng thời là do những chính sách khuyến khích của chi nhánh như mở thẻ miễn phí, kết hợp với các công ty để mở tài khoản và trả lương thông qua tài khoản… Tuy nhiên, số lượng thẻ phát hành ra tăng không đáng kể là do sự cạnh tranh, chia chỏ thị phần từ các chi nhánh khác và một bộ phận lớn dân cư chưa thấy được lợi ích thiết thực từ việc sử dụng thẻ ngân hàng. Số lượng phát hành thẻ tín dụng quốc tế và thẻ ghi nợ quốc tế còn hạn chế, chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh số phát hành thẻ. Việc tăng số lượng phát hành thẻ giúp tăng doanh thu cho chi nhánh từ việc phát hành thẻ qua các năm, tuy nhiên doanh thu từ việc thanh toán qua thẻ của khách hàng lại có nhiều biến động, giảm 22 triệu đồng năm 2008, tương ứng 29,3%, và tăng mạnh lại vào năm 2009, tăng 103 triệu đồng, tương ứng 193,6%. Doanh thu từ việc phát hành thẻ tăng 1,4% năm 2008 và tăng 33,9% năm 2009, doanh thu thanh toán qua thẻ giảm 29,32 % năm 2008 nhưng lại tăng mạnh lên đến 193% năm 2009, tăng 103 triệu đồng, tương uwngs,55%. Tuy nhiên, doanh thu từ việc phát hành thẻ và doanh thu từ việc thanh toán qua thẻ là không đáng kể, đóng góp một phần hết sức nhỏ trong tổng thu nhập của chi nhánh vì chi nhánh luôn xác định, phát hành thẻ là việc hướng đến mục tiêu lâu dài, và hướng đến những lợi ích thực sự từ việc mở rộng quy mô phát hành thẻ đó là tăng cường công tác huy động được vốn từ số dư trên tài khoản khách hàng, tăng sự tiếp xúc của khách hàng với các dịch vụ của chi nhánh, mở rộng thị phần khách hàng, và phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ về sau. Trên địa bàn và thành phố Buôn Ma Thuột, VCB chiếm ưu thế về thị phần thanh toán thẻ, luôn chiếm trên 50% thị phần thanh toán. Thẻ và những tiện ích của nó của VCB đã được khách hàng sớm biết đến, tin tưởng và sử dụng. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thị phần của VCB đang bị cạnh tranh gay gắt bởi các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn, và hệ thống máy ATM của VCB cũng đang dần trở nên lạc hậu hơn so với một số máy của các ngân hàng khác. Đánh giá thực trạng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại VCB ĐăkLăk Những thành tựu đạt được trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt Ý thức được tầm quan trọng của việc mở rộng hoạt động thanh toán, phát triển hoạt động của ngân hàng bán lẻ, bằng những chủ truơng đúng đắn và có sự đầu tư thích hợp, chi nhánh đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công tác thanh toán, trong đó có TTKDTM. Có thể khái quát những kết quả đạt được như sau: * Tăng nhanh doanh số TTKDTM: Doanh số thanh toán của các hình thức TTKDTM tăng qua các năm, cụ thể năm 2008 doanh số TTKDTM là 32.394.970 triệu đồng, tăng 10.143.145 triệu đồng so với năm 2007, và năm 2009, doanh số TTKDTM là 44.008.000 triệu đồng, tăng 11.613.030 triệu đồng so với năm 2008. Trong đó, đóng góp lớn nhất vào tổng doanh số trên là ủy nhiệm chi (chiếm hơn 80%) bằng những ưu điểm trong thanh toán của nó. Một thành tích nữa đáng ghi nhận là hình thức thanh toán bằng thẻ đã có những bước phát triển lớn về doanh số. Số tài khoản mở tại chi nhánh của cá nhân cũng như tổ chức tăng lên, điều này cũng góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy hoạt động TTKDTM. * Ngày càng nâng cao chất lượng TTKDTM Để đáp ứng được những yêu cầu và mục đích của các chủ thể tham gia thanh toán, hệ thống thanh toán của chi nhánh đã không ngừng nâng cao chất lượng. Với những đầu tư đồng bộ trong cơ sở hạ tầng, công nghệ thiết bị, sự nâng cao không ngừng năng lực và chuyên môn của cán bộ công nhân viên,... chất lượng của công tác TTKDTM ngày càng nâng lên. Với hệ thống thanh toán điện tử liên hàng, các chứng từ giấy được thay thế bằng các chứng từ điện tử, do vậy giảm thời gian thanh toán, giảm chi phí thanh toán, đồng thời đảm bảo quá trình thanh toán diễn ra ít rủi ro hơn, an toàn và chính xác hơn. * Mạng lưới thanh toán ngày càng mở rộng hơn: Cùng với sự phát triển của cả hệ thống VCB, Chi nhánh VCB ĐăkLăk cũng không ngừng phát triển hoạt động của mình như mở ra thêm các phòng giao dịch mới ở những vị trí thuận lợi, triển khai các chương trình đẩy mạnh hoạt động thanh toán và ngân hàng bán lẻ như phát hành thẻ miễn phí, phát hành thẻ cho đối tượng là cán bộ công nhân viên công ty, là những người có nguồn thu nhập ổn định, phát triển các dịch vụ tích hợp như dịch vụ I-B@nking, dịch vụ SMS-B@nking từ năm 2008 với doanh số thanh toán không ngừng tăng lên… Bảng 4.1: Doanh số thanh toán qua dịch vụ I-B@nking và dịch vụ SMS-B@nking Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2008 2009 2009/2008 Số tiền % Số tiền % +/- % Dịch vụ I-B@nking 713 24,2 981 24,4 268 37,6 Dịch vụ SMS-B@nking 2.234 75,8 3.046 75,6 812 36,4 (Nguồn: Phòng tổng hợp) Với sự kế thừa những thành quả của VCB như sự kết nối vào hệ thống thanh toán Smartlink, 10.000 đơn vị chấp nhận thẻ, 1.250 máy ATM, gần 180 chi nhánh và điểm giao dịch rộng khắp toàn quốc, 1.400 ngân hàng và các chi nhánh Đại lý tại 100 nước trên thế giới… VCB ĐăkLăk cũng đã không ngừng nỗ lực để phát triển hoạt động thanh toán của mình, phát triển các phòng giao dịch mới, mở rộng thị phần khách hàng, tăng doanh số thanh toán, phát triển các dịch vụ thanh toán mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh toán của mình. 4.2.2 Hạn chế trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và nguyên nhân * Hạn chế trong hoạt động TTKDTM Bên cạnh những thành tựu đạt được như trên, chất lượng công tác TTKDTM tại chi nhánh vẫn chưa được nâng cao và bộc lộ một số vấn đề cần được nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với thực tế và đảm bảo xu hướng phát triển của ngân hàng nói chung và chi nhánh nói riêng. Thông qua việc tham khảo ý kiến của phụ trách phòng dịch vụ và thanh toán quốc tế, có thể đưa ra một số so sánh sau: Bảng 4.2 Một số hạn chế trong hoạt động TTKDTM của VCB - Các phương tiện thanh toán VCB Khác + Séc Thời hạn hiệu lực thanh toán séc: 30 ngày làm việc kể từ ngày ký phát. Theo thông lệ ở nhiều nước, thời hạn thanh toán séc là 06 tháng hoặc 01 năm. Thanh toán bằng séc có phạm vi khá hẹp, không cho thanh toán ngoài hệ thống, ngoài địa bàn thành phố nên bị hạn chế. Thủ tục luân chuyển séc chậm, còn tồn tại những quy định làm phức tạp thêm việc thanh toán của khách hàng. Các ngân hàng Singapo áp dụng là “mua séc ngoài địa bàn ”. Theo cách này khi người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng, ngân hàng sẽ thoả thuận mua lại tờ Séc đó + Thẻ thanh toán Máy ATM có giao diện dễ giao dịch, nhưng chưa tích hợp nhiều tiện ích mới: giao dịch bằng âm thanh, cảm ứng, máy ATM thông minh… Ở các nước, một số ngân hàng ở Việt Nam, có máy ATM thông minh cho phép chủ tài khoản gửi tiền ngay tại máy ATM, một lần có thể được 100 tờ với mệnh giá khác nhau… Việc máy ATM có kết hợp với âm thanh hướng dẫn hoặc cảm ứng đã được ứng dụng khá nhiều. Số điểm chấp nhận thanh toán thẻ ít, chưa có các chính sách để khuyến khích sự dụng thẻ trong thanh toán của khách cũng như chấp nhận thanh toán bằng thẻ của các chủ thể nhận thanh toán. Việc phối hợp với các chi nhánh, trả lương qua tài khoản phổ biến, nhưng sau khi trả xong nhân viên thường rút sạch tiền trong tài khoản cho việc tiêu dùng bằng tiền mặt. Việc sử dụng thẻ là khá xa lạ với số đông người dân. Chi nhánh mới chỉ có các chính sách tăng doanh số phát hành thẻ, chưa có những chính sách khuyến khích thanh toán qua thẻ Ở những nước phát triển, hệ thống máy POS được lắp đặt ở mọi nơi: Siêu thị, cửa hàng, xe bus… Việc dùng thẻ tín dụng hết sức phổ biến.+ Thực hiện trả lương thông qua tài khoản, việc sử dụng thẻ thanh toán, thẻ tín dụng phổ biến ở nhiều nước. Ở Singapore, chủ thẻ được hưởng nhiều ưu đãi: giảm giá trên hóa đơn, tích điểm tặng quà, đổi phiếu ăn uống, phiếu đỗ xe… khuyến khích người dân dùng thẻ ngân hàng trong thanh toán. Ở Hàn Quốc, hộ kinh doanh sẽ được giảm thuế VAT nếu họ chấp nhận cho khách hàng thanh toán bằng thẻ Sử dụng thẻ băng từ, còn một số hạn chế, nên có thể bị lợi dụng và giả mạo. Sử dụng thẻ thông minh, thông qua chip điện tử, giao dịch nhanh, chính xác, an toàn. - Dịch vụ ngân hàng điện tử Sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, chủ tài khoản phải nhắn tin SMS đến tổng đài xin mật khẩu cho lần giao dịch đó. Sử dụng Token bảo mật, Token là một thiết bị nhỏ như móc chìa khóa, mỗi lần bấm nút sẽ cung cấp mật khẩu dùng mới, rất tiện lợi. Thanh toán qua ngân hàng chủ yếu là chuyển khoản, các dịch vụ thanh toán trực tuyến chưa phát triển, việc sử dụng các dịch vụ SMS B@nking, Internet B@nking,… chủ yếu là để tra cứu số dư và mua card điện thoại Việc thanh toán các giao dịch khác rất phổ biến, nhất là thanh toán mua bán hàng hóa trực tuyến. Các dịch vụ thanh toán trực tuyến rất phát triển ở nhiều nước: Dich vụ thanh toán trực tuyến Paypal phát triển ở nhiều nước trên thế giới, với Paypal, khách hàng có thể gửi tiền, nhận tiền, thanh toán tiền cho các giao dịch và có thể đòi lại số tiền sau khi gửi tiền đến tài khoản khác. Ở Canada có dịch vụ Email Money Tranfer chuyển tiến qua thư điện tử, Mỹ có E-check séc điện tử… - Thủ tục thanh toán Việc chuyển tiền từ tài khoản thẻ sang tài khoản tiết kiệm và tiền gửi khác và nược lại được thực hiện thông qua nhiều công đoạn ở phòng giao dịch. Khách hàng có thể tự động chuyển tiền trong tài khoản tiền gửi thanh toán của mìnhsang tài khoản tiết kiệm và ngược lại. Ở Hàn Quốc, sổ tiết kiệm có băng từ, do đó chủ thẻ có thể thanh toán hàng hóa bằng tiền từ sổ tiết kiệm của mình. Phí cho các giao dịch bằng tiền mặt cao hơn phí chuyển khoản, nhưng vẫn ở mức vừa phải, phù hợp với mặt bằng phí chung trên thị trường. Một số nước như Nauy, các ngân hàng sẽ thu phí rất cao cho các giao dịch bằng tiền mặt, qua đó hạn chế việc thanh toán bằng tiền mặt Thanh toán séc cá nhân chủ yếu dùng thẻ thanh toán, ủy nhiệm chi, với thủ tục và nhiều thao tác, khiến nhiều người dân ngại tiếp xúc công nghệ Ngân hàng Thủ tục thanh toán đơn giản, phổ biến trong dân cư. Ở Nhật, sử dụng ví di động là phổ biến, chủ tài khoản chỉ việc quét điện thoại qua đầu đọc thẻ để mua hàng mà không cần rút ví khỏi túi. Ngoài ra, công tác thanh toán ở chi nhánh còn một số hạn chế sau: - Danh mục thanh toán của chi nhánh chưa phong phú: Danh mục thanh toán còn bó hẹp trong một số hình thức. Như uỷ nhiệm chi chiếm tỷ trọng đến 90%, trong khi các hình thức khác chưa được khai thác hết công dụng và tính năng vốn có (Séc một công cụ thanh toán truyền thống lại không được ưa chuộng vì khá phức tạp trong ghi sổ, sử dụng…). Đây là hạn chế không chỉ có ở chi nhánh VCB ĐăkLăk mà ở hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay. - Phạm vi tham gia TTKDTM còn bó hẹp ở một số đối tượng nhất định: Cán bộ, công nhân viên chức trong việc sử dụng hình thức chuyển tiền lương qua tài khoản cá nhân cũng chỉ được vài ngày lại rút ra hết, từ đó nội dung kinh tế của tài khoản chưa được thể hiện và phát huy tác dụng. Điều đó có thể giải thích phần nào do thu nhập của họ chưa cao và việc tiêu dùng ngoài xã hội vẫn chưa thể “tách ra” khỏi tiền mặt. Một số đối tượng tham gia buôn bán lớn, những người có thu nhập cao lại chưa tham gia. Do việc tế nhị trong bí mật tài chính, kinh doanh, sợ đánh thuế thu nhập. Vì vậy đây chính là đối tượng vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Bộ phận lớn dân cư chưa thấy nhu cầu cần thiết, chưa thấy được lợi ích của chính họ và xã hội khi mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. - Còn tồn tại sai sót trong tác nghiệp: Vẫn diễn ra nhiều sai sót, dẫn đến sự thanh toán chậm trễ như lỗi của hệ thống máy tình, máy ATM… Việc bị mất thông tin, nuốt thẻ, máy ATM hỏng còn xảy ra phổ biến… * Nguyên nhân của những hạn chế: Những hạn chế trên bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau: - Nguyên nhân chủ quan + Vận dụng Marketing ngân hàng vào thực tế còn hạn chế và chưa có sự đầu tư thoả đáng. Một thực tế hiện nay cho thấy việc nghiên cứu và ứng dụng Marketing ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng thương mại là một quá trình khó khăn, phức tạp và tốn kém. Không phải ngân hàng nào cũng có thể thực hiện được cũng bởi do những giới hạn về vốn và con người. Tại chi nhánh, hoạt động Marketing vẫn chưa được chú trọng như một chiến lược trong việc thu hút khách hàng và nghiên cứu thị trường. + Cơ sở vật chất và công nghệ còn đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn tất. Khu giao dịch, hệ thống trang thiết bị máy móc là một trong những nhân tố quan trọng để nâng cao hình ảnh của ngân hàng. Với vị trí đẹp và tiện lợi như của Chi nhánh thì đó quả là một lợi thế. Chi nhánh cũng không ngừng phát triển cơ sở vật chất hạ tầng và công nghệ thanh toán. Tuy nhiên, nhiều thiết bị đã trở nên cũ và lạc hậu, và ít được quan tâm bổ sung và phát triển. Điều này không chỉ là tình hình riêng của Chi nhánh mà đó là do tình hình chung của toàn hệ thống VCB vì những khó khăn trong công tác tìm đối tác nước ngoài liên kết vốn. + Trình độ của đội ngũ cán bộ là công tác TTKDTM chưa thật đồng đều. Cùng với việc mở rộng các phòng giao dịch, Chi nhánh phải không ngừng tuyển dụng và đào tạo những cán bộ mới, bên cạnh đó, chi nhánh thuờng xuyên cử cán bộ đi đào tạo thêm, do đó, có thể gây nên tình trạng thiếu nhân lực có kinh nghiệm tạm thời. Vì vậy có thể gây thêm khó khăn cho quá trình thanh toán của Chi nhánh. Nguyên nhân khách quan: Đây cũng chính là những nguyên nhân gây lên khó khăn mà không chỉ Chi nhánh gặp phải trong hoạt động TTKDTM: + Thói quen dùng tiền mặt trong dân cư và nhận thức về hoạt động TTKDTM: Thanh toán và chi tiêu bằng tiền mặt trở nên quá ăn sâu vào thói quen trong dân cư không chỉ đối với những người có thu nhập thấp mà còn với cả những người có thu nhập cao. Đa số dân chúng chưa thực sự có hiểu biết về hoạt động TTKDTM. Họ chưa cảm nhận được lợi ích khi sử dụng dịch vụ này cũng như chưa hiểu khi nào có thể sử dụng séc, thẻ. Tâm lý của mọi người nhất là các hộ kinh doanh, các tiểu thương, cán bộ nhân viên chức còn ngần ngại không muốn dùng séc, thậm chí họ ngại tới ngân hàng. Bởi những chi tiêu của cán bộ, công nhân viên chức thường nhỏ vài chục ngàn đồng một ngày, ở các nơi chợ nhỏ còn buôn thúng bán bưng thì khó có thể thực hiện thanh toán bằng séc. Các khách hàng là doanh nghiệp chưa tích cực thanh toán qua Ngân hàng: Đối với các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh chưa chấp hành nghiêm chế độ TTKDTM qua ngân hàng. Nguyên nhân do việc phải minh bạch tài chính và thuế thu nhập. Đây cũng là thực trạng chung của các doanh nghiệp hiện nay. Thậm chí cả các doanh nghiệp cũng chỉ sử dụng một hoặc hai công cụ thanh toán nào đó chỉ theo thói quen mà chưa có sự lựa chọn cho phù hợp với đặc điểm quan hệ kinh tế cụ thể. Lòng tin và sự tín nhiệm trong TTKDTM giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh còn thấp do tình trạng TTKDTM trong nhiều năm trước đây giữa các đơn vị không tốt đã chiếm dụng, nợ nần dây dưa không chịu thanh toán dẫn tới chiếm đoạt tài sản của nhau, mặt khác khi có tình trạng trên xảy ra, các đơn vị thưa kiện tới các cơ quan có thẩm quyền, tòa án nhưng chẳng cải thiện được là bao. + Nguyên nhân từ hệ thống ngân hàng thương mại: Một vấn đề hiện tại cơ bản đang làm chậm tiến độ của việc triển khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt nằm ở định hướng phát triển và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại. Thể hiện qua những yếu tố sau: Chậm trễ trong việc kết nối hệ thống thanh toán thống nhất giữa các ngân hàng thương mại: Nếu không tạo ra một hệ thống kết nối thanh toán thống nhất giữa các ngân hàng thương mại thì sẽ gây khó khăn và bất tiện cho người sử dụng dịch vụ khi phải mở nhiều tài khỏan tại các Ngân hàng khác nhau. Cần phải thay đổi cách nhìn về phát triển các dịch vụ thanh toán hiện tại: Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đều bị thua lỗ trong mảng kinh doanh thẻ và trong tương lai nếu vẫn tiếp tục triển khai như hiện tại thì sẽ tiếp tục bị lỗ. Các ngân hàng thương mại đang chạy đua trong việc mở rộng mạng lưới và phát triển hệ thống máy ATM nhưng việc phát triển này vừa gây ra lãng phí lại không hiệu quả. Số thẻ ATM thực sự được sử dụng chỉ khoảng vài chục ngàn người, việc phát triển hệ thống thẻ ATM chưa giải quyết được triệt để vấn đề thanh toán không dùng tiền mặt vì khi người dân rút tiền từ thẻ ATM họ sẽ lại dùng tiền mặt để thanh toán, hiện tại các ngân hàng thương mại mới kết nối hệ thống máy ATM thống nhất. Trong khi, điều cần phát triển nhất là các máy POS thì các ngân hàng thương mại chưa thực sự chú trọng, chi phí một máy POS chỉ khoảng vài triệu và có thể giảm xuống vài trăm ngàn (nếu trong nước sản xuất hoặc chính phủ hỗ trợ), nếu các máy POS đó được đặt khắp mọi nơi từ các chợ, siêu thị, cơ quan trường học... và với một hệ thống POS được kết nối thống nhất giữa các ngân hàng thì sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho người dân trong việc thanh toán không dùng tiền mặt. Máy POS không những có đăc điểm chi phí rẻ, dễ sử dụng, nhỏ gọn và dùng được các chức năng, thanh toán, truy vấn số dư… Các sản phẩm được thiết kế còn bất tiện và hạn chế trong việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu chỉ cần duy nhất một thẻ ATM và số tài khoản, và khách hàng có thể kiểm tra toàn bộ các sản phẩm mình có thông qua thẻ ATM và E-banking, chuyển, rút tiền đơn giản thông qua máy ATM hoặc E-banking và khi giao dịch không phải mang theo bất cứ giấy tờ nào thì việc sử dụng thẻ sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Các ngân hàng thương mại chưa mạnh dạn trong việc triển khai E- banking. Khi thực hiện giao dịch E-banking tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam thường phải nhập tới 3 vòng mật khẩu, kèm theo phải sử dụng các thiết bị bảo mật. + Nguyên nhân từ phía Nhà nước: Nhà nước chưa có quy định bắt buộc công dân phải mở tài khoản và thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Các ngành như điện nước, viễn thông, thuế có liên quan tới dịch vụ thanh toán chưa mặn mà với chủ trương này, chưa ủng hộ tích cực, chưa tạo điều kiện cần thiết cho các dịch vụ thanh toán cá nhân qua tài khoản mở tại ngân hàng. Môi trường pháp lý chưa đảm bảo: hệ thống pháp lý hiện hành đã tạo ra một số cơ sở cho hệ thống thanh toán nhưng không đầy đủ. Việc xây dựng luật và quy chế, kể cả mức độ chắc chắn trong việc xác định và xác lập các quyền cần thiết để giảm tối thiểu tranh chấp cũng như các quyền khi tranh chấp xẩy ra còn nhiều hạn chế. Thực tế, cho thấy thiếu hụt đáng kể về môi trường pháp lý chung: chưa có Luật séc, Luật phá sản không được hỗ trợ bằng các quy chế, quyền bồi thường bị hạn chế. Một số qui định cho các công cụ TTKDTM còn chưa phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế cũng như thông lệ quốc tế quy định. Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk Một số yêu cầu để phát triển hoạt động thanh toán. * Thời gian thanh toán nhanh: Thời gian thực hiện một món thanh toán, chuyển tiền là khoảng thời gian kể từ khi chỉ định thanh toán được chủ thể trả tiền đưa ra cho đến khi chủ thể được hưởng nhận đủ tiền trên tài khoản. Thời gian thanh toán được các chủ thể tham gia thanh toán đặc biệt quan tâm, vì nó tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đến khả năng quản lý và hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp, tổ chức, dân cư và bản thân các Ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với chức năng là những trung gian thanh toán. Thời gian thanh toán càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ, nhất là hoạt động của thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán với tỷ giá, giá cả của các chứng khoán giao động từng giờ trên thị trường, nếu một khoản thanh toán chậm trễ sẽ dẫn đến những thiệt hại lớn cho người giao dịch bởi sự biến động của tỷ giá, giá cả chứng khoán trên thị trường gây ra. Vì vậy, tổ chức thanh toán qua ngân hàng trước hết phải đảm bảo thực hiện được yêu cầu thanh toán nhanh, ổn định để các chủ thể tham gia thanh toán có thể quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình. * Chi phí thanh toán thấp: Chi phí cho một giao dịch thanh toán là các chi phí bằng tiền và chi phí cơ hội có liên quan bao gồm: phí dịch vụ thanh toán, chi phí về thời gian giao dịch, những thủ tục giao dịch phải thực hiện,... mà người sử dụng các phương tiện TTKDTM phải chịu. Giảm chi phí thanh toán sẽ kích thích nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng của tất cả các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Bằng cách đó các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán mới có thể từng bước mở rộng kinh doanh dịch vụ và phát triển TTKDTM trong nền kinh tế. * Đảm bảo quá trình thanh toán chính xác, an toàn và ổn định Hệ thống thanh toán qua ngân hàng phải luôn khẳng định được quá trình thanh toán chính xác, an toàn và ổn định vì đây là yêu cầu cơ bản đảm cho khách hàng luôn tin tưởng khi sử dụng các phuơng tiện thanh toán không tiền mặt qua Ngân hàng. Đồng thời đây cũng là yêu cầu bắt buộc mà các giao dịch thương mại, dịch vụ trong nền kinh tế yêu cầu. Mặt khác, tổ chức thanh toán chính xác, an toàn và ổn định giúp các Ngân hàng và khách hàng quản lý được nguồn vốn trong thanh toán, tránh được các rủi ro có thể xảy ra. * Hệ thống thanh toán phải là hệ thống mở Các hệ thống thanh toán qua ngân hàng phát triển đều được thiết kế, xây dựng trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, do đó hệ thống cần phải được thiết kế là hệ thống mở để các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có thể kết nối trực tiếp tham gia thanh toán qua mạng trong phạm vi cả nước và với các quốc gia khác. 4.3.2 Một số giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk 4.3.2.1 Nhóm giải pháp chung: * Phát triển Marketing ngân hàng: Không thể phát triển hoạt động thanh toán nếu không hướng đến khách hàng. Khách hàng là chủ thê của hoạt động thanh toán. Sự hài lòng và thỏa mãn sẽ giữ chân khách hàng, vì hiện nay, sự cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng là rất lớn, và khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn. Chi nhánh phải đề ra được chiến lược phát triển mạng lưới, mở rộng khách hàng, thành lập bộ phận tiếp thị ngân hàng nhằm tiếp cận thị trường. Qua đó thu thập và phân tích đầy đủ thông tin thị trường nhằm phân loại đối tượng khách hàng, tìm hiểu và nắm được các nhu cầu của khách hàng để tạo thêm các sản phẩm dịch vụ đáp ứng cho khách hàng. Thực sự, những tiện ích các phương tiện thanh toán qua ngân hàng mang lại là rất to lớn. Nhưng khách hàng, những ngừoi được hưởng lợi nhiều nhất từ các dịch vụ đó lại chưa thực sự tiếp cận và khai thác những tiện ích đó. Việc khách hàng ít có cơ hội tiếp xúc thông tin như vậy một phần là do hạn chế công tác Marketing của chi nhánh. Nếu khi khách hàng mở tài khoản, chi nhánh có thể cung cấp thêm cho khách hàng những tiện ích đi kèm thông qua tư vấn, các thông tin trên các brochure và các phương tiện truyền thông khác, qua đó khuyến khích khách hàng sử dụng những tiện ích đi kèm, tăng lượng khách hàng sử dụng, đồng thời tăng thu nhập cho chi nhánh từ việc thu phí các dịch vụ bổ trợ. Không chỉ hướng tới khách hàng, mà cần phải hướng đến cả đối tác của khách hàng. Không thể kêu gọi khách hàng thanh toán điện, nước, điện thoại… khi không phối hợp tốt với các đơn vị chủ quản được. Việc phối hợp tốt, đồng bộ và nhịp nhàng sẽ mang lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng. Khi đã thiết lập được những mối quan hệ với khách hàng thì việc duy trì, phát triển và khai thác hiệu quả các mối quan hệ đó là vô cùng quan trọng. Trơng đó, yếu tố uy tín là vô cùng quan trọng. Uy tín không chỉ đơn giản là “nói lời, giữ lời”, uy tín còn thể hiện trong việc thể hiện năng lực không ngừng lớn mạnh của bản thân ngân hàng. Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá, chi nhánh cần chú trọng phương án lựa chọn công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng và phát huy sức cạnh tranh của sản phẩm, thực hiện tốt việc nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh tiếp thị và tăng cường quảng bá thương hiệu nhằm giữ vững và mở rộng thị phần, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến mẫu mã và chất lượng sản phẩm, phát triển các dịch vụ bổ sung, quan tâm đến chất lượng dịch vụ hậu mãi nhằm nâng cao uy tín và tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng. * Tăng cường công tác huy động vốn Nguồn vốn là yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh và tính chủ động của ngân hàng. Việc có nguồn vốn mạnh, ổn định sẽ giúp cho ngân hàng thuận lợi rất nhiều trong việc điều hòa và phát triển các hoạt động của mình, trong đó có công tác thanh toán. Trong đó, nguồn tiền gửi thanh toán là một nguồn vốn quan trọng để phát triển hoạt động thanh toán. Đây là nguồn vốn có lãi suất huy động rất thấp, do đó, nó có thể mang lại lợi nhuận cao cho chi nhánh. Tuy nhiên, để sử dụng tốt nguồn vốn này, chi nhánh cần đảm bảo sự ổn định của nó. Việc tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trả lương qua tài khoản, mở tài khoản cho các tổ chức, cá nhân là một việc làm mang lại hiệu quả cao cho công tác huy động nguồn vốn này, đã và đang đựơc chi nhánh áp dụng khá hiệu quả. Tiếp cận nhiều hơn với khách hàng, đưa lại cho khách hàng những ưu đãi riêng như miễn phí phát hành cho tập thể, ưu đãi về thời gian chờ phát hành, phổ biến những dịch vụ đi kèm,... có thể giúp chi nhánh thu hút được nhiều khách hàng hơn, đặc biệt là từ cán bộ công nhân viên các doanh nghiệp, vì họ là những người có nguồn thu nhập ổn định, và có khả năng phát triển nhiều tiện ích đi kèm như dịch vụ mua hàng trả góp, dịch vụ thanh toán tiền điện, nước và các chi phí sinh hoạt khác… Để thúc đẩy hoạt động thanh toán, việc mở rộng tài khoản cá nhân là rất cần thiết. Thủ tục đơn giản, thuận tiện, tiết kiệm thời gian, chi phí cho khách hàng, sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác thanh toán của chi nhánh. Trên cơ sở đó, cũng góp phần đóng góp vào công tác huy động vốn của chi nhánh, thông qua số dư thường xuyên của các tài khoản thanh toán, tiền gửi ký quỹ. Đẩy nhanh hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ thanh toán Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thanh toán hiện nay, cùng với sự ứng dụng mạnh mẽ của nó trong mọi lĩnh vực, trong đó có ngành ngân hàng, nếu không kịp thời nắm bắt công nghệ, ngân hàng đó sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Đặc biệt là trong hoạt động thanh toán, khi thời gian thực hiện là một yêu cầu quan trọng. Chỉ cần những sơ suất nhỏ có thể khiến cho khách hàng mất niềm tin lâu dài. Do đó, nghiên cứu và phát triển công nghệ trong hoạt động thanh toán là hết sức cần thiết. Nâng cao tốc độ đường truyền thông tin, phát triển bộ phận IT, xử lý nhanh các sự cố máy tính, đảm bảo việc thanh tóan được vận hành một cách thường xuyên, liên tục, phát triển SMS-B@nking, Phone-B@nking, Internet-B@nking và các tiện ích mới. Việc phát triển công nghệ thông tin phải gắn với nhu cầu của khách hàng. Đó là sự tiện lợi của khách hàng khi sử dụng. Ví dụ việc tích hợp phần mềm cảm ứng hay âm thanh trên máy ATM hỗ trợ trong quá trình sử dụng thẻ đựoc một số ngân hàng áp dụng khá thành công hiện nay cũng đáng để học hỏi. Ví dụ như một số ngân hàng còn có máy ATM cho phép gửi tiền mặt vào tài khoản trực tiếp tại máy ATM, tiết kiệm thời gian cho khách hàng, đây cũng là một sang tạo mới và rất có tính ứng dụng… Củng cố hoàn thiện hệ thống thanh toán liên hàng vì hệ thống này xử lý thanh toán bù trừ động các khoản thanh toán điện tử phát sinh trong cả nước giữa các Ngân hàng khác hệ thống với nhau. Việc thanh toán bù trừ tự động bằng điện tử và các trung tâm xử lý thanh toán bù trừ tự động bằng điện tử sẽ giúp cho quá trình thanh toán được đảm bảo an toàn, chắc chắn, nhanh chóng, kịp thời. Hiện nay, chi nhánh có wepsite riêng của mình với địa chỉ vietcombank.com, do đó. Khách hàng có thể tiếp cận nhiều hơn với những thông tin về chi nhánh và các dịch vụ chi nhánh cung ứng. Tuy nhiên, chi nhánh nên đầu tư nhiều hơn vào trang wep của mình, cung cấp các thông tin rõ ràng và chi tiết hơn, trong đó có các thông tin về quy trình thanh toán, việc này sẽ giúp cho khách hàng dễ dàng hơn trong giao dịch, và giúp tiết kiệm thời gian giải thích cho khách hàng của cán bộ nhân viên chi nhánh. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên: Trong hoạt động kinh doanh con người đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, thì trong hoạt động ngân hàng vai trò này cũng mang yếu tố sống còn. Chi nhánh cần đề ra những chính sách hợp lý về đào tạo nguồn nhân lực để tạo ra nội lực phát triển cho chi nhánh nói chung, và cho sự phát triển của hoạt động thanh toán nói riêng. Đối với thanh toán viên phải có đủ năng lực trình độ, chuyên môn vững chắc. Ngoài việc hiểu biết các nghiệp vụ của ngân hàng, thanh toán viên cần phải nắm vững các thể lệ thanh toán, các quy trình của từng hình thức thanh toán và sử dụng thành thạo vi tính và ngoại ngữ: - Cử cán bộ tham gia lớp học về hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán. Đồng thời, chi nhánh cũng tự tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn để đào tạo sâu hơn về chuyên môn thanh toán không dùng tiền mặt, mời các chuyên gia giỏi về giảng dạy để các thanh toán viên có điều kiện trau dồi về nghiệp vụ và kinh nghiệm. Chi nhánh cũng nên có kế hoạch trích một phần lợi nhuận cho công tác đào tạo cán bộ. Việc này đã và đang đựoc chi nhánh áp dụng có hiệu quả, do đó, chi nhánh nên tiếp tục phát huy và quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo chuyên sâu cho nhân viên. - Cử người tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn về thanh toán trong nước cũng như ngoài nước để tiếp cận với kiến thức hiện đại. Tổ chức các đợt tham quan các ngân hàng trong nước cũng như ngoài nước để học tập điểm mạnh của họ. - Khi có kế hoạch tuyển thêm cán bộ, chi nhánh cũng cần tổ chức các kỳ thi mang tính nghiêm túc, chất lượng đánh giá đúng đắn năng lực để có thể tuyển được những cán bộ trình độ. Ngoài ra, như ta biết hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt phải dựa trên nền tảng kỹ thuật tin học. Do đó muốn phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, chi nhánh phải tập trung đào tạo sử dụng và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. 4.3.2.2 Các giải pháp cụ thể cho từng hình thức thanh toán * Đối với thanh toán bằng Séc: Khi chủ tài khoản dùng séc để rút tiền mặt thì nên cho phép chỉ cần trả cho “chính mình”, không cần ghi đầy đủ các yếu tố như khi phát hành cho người khác, tạo sự thoải mái và tiện ích cho chủ tài khoản. Mặc dù thời hạn hiệu lực thanh toán của séc theo Nghị định 159/CP là 30 ngày, đã thay đổi so với thời hạn 15 ngày theo Nghị định 30/CP, nhưng Chi nhánh cũng cần xem xét các trường hợp cụ thể, có thể gia hạn thời gian lâu hơn kể từ ngày ký séc đến ngày nộp séc vào tổ chức thanh toán nếu có thể, và có thể không quá cứng nhắc đối với những khách hàng thân thuộc và có uy tín. Hiện nay, séc được phép chuyển nhượng nên nếu kéo dài thời hạn hiệu lực của tờ séc. Theo các chuyên gia, không cần ghi địa chỉ người phát hành séc vì họ đã có tài khoản tín dụng, và địa chỉ của họ đã lưu trong hồ sơ mở tài khoản. Cũng không cần ghi số chứng minh nhân dân của người thụ hưởng trên tờ séc vì một khi séc đã cho phép chuyển nhượng thì người thực sự trình séc lãnh tiền ở ngân hàng có thể không phải là người thụ hưởng có tên ghi trên séc, còn với séc vô danh thì người nào trình séc người đó lĩnh tiền. Đối với hình thức séc chuyển khoản, hiện nay, việc sử dụng séc chuyển khoản vẫn bó hẹp trong phạm vi địa bàn một tỉnh, thành phố giữa các khách hàng có tài khoản tại cùng một ngân hàng hoặc khác ngân hàng nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn. Với việc áp dụng thanh toán qua mạng máy vi tính trong các hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng mở rộng và tạo điều kiện hình thành trung tâm thanh toán bù trừ séc trên phạm vi toàn quốc, ngành ngân hàng nên mở rộng phạm vi thanh toán séc chuyển khoản. Chi nhánh có thể đề xuất giải pháp cung ứng trước cho khách hàng một loại dịch vụ như ở các ngân hàng Singapo áp dụng là “mua séc ngoài địa bàn ”. Theo cách này khi người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng, ngân hàng sẽ thoả thuận mua lại tờ Séc đó với giới hạn tối đa và ghi Có ngay vào tài khoản người được hưởng số tiền tương ứng đồng thời trích phí hoa hồng thanh toán của ngân hàng. Trường hợp tờ Séc bị từ chối thanh toán ngân hàng sẽ ghi Nợ lại vào tài khoản của khách hàng, trả lại Séc cho khách hàng để xử lý theo luật định. Hình thức này giống như chiết khấu có truy đòi một thương phiếu. Để đảm bảo an toàn, ngân hàng khi nhận Séc sẽ ký kết một thoả thuận về hình thức mua lại Séc với các khách hàng có uy tín, luôn đảm bảo khả năng thanh toán, đồng thời ngân hàng phải nắm được rõ thông tin về người phát hành Séc qua mạng máy vi tính của hệ thống. Tuy thủ tục đơn giản nhưng người mua cũng rất dè dặt khi sử dụng loại séc chuyển khoản, bởi lẽ khi phát hành séc quá số dư người phát hành sẽ bị phạt. Để khắc phục nhược điểm này, Chi nhánh nên cho phép khách hàng có thể dư nợ hay phát hành séc quá số dư theo lãi suất nợ ngắn hạn, thời điểm tính lãi kể từ khi Chi nhánh thực hiện thanh toán số tiền quá số dư cho bên thụ hưởng. Khi khách hàng phát hành séc quá số dư, họ phải trả lãi suất cao nhưng còn dễ chịu hơn nhiều so với việc phát hành quá số dư và phạt chậm trả. * Về uỷ nhiệm thu: - Nếu ủy nhiệm thu hướng đến nhều khách hàng cùng một lúc, ví dụ như ủy nhiệm thu tiền điện, nước, điện thoại… thì sẽ rất hiệu quả, vừa có lợi cho bên thu và bên chi trả. Tuy nhiên, việc thực hiện hiện nay rất khó khăn, mà chỉ có thể thông qua ủy nhiệm chi của các cá nhân trả tiền riêng lẻ. Do đó, chi nhánh cần có biện pháp để người thụ hưởng có thể lập ủy nhiệm thu định kỳ nhờ chi nhánh thu hộ những khoản thu có tính chất định kỳ thường xuyên mà bên trả tiền chưa áp dụng hình thức thanh toán ủy nhiệm chi định kỳ. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu chỉ có lợi cho người cung ứng dịch vụ với điều kiện mọi người dân đều có mở tài khoản tại ngân hàng. Xây dựng quy trình chuyển thu nhập của khách hàng vào tài khoản một cách tiện lợi cho khách hàng, để khách hàng hàng kỳ lĩnh lương không phải đến ngân hàng làm thủ tục nộp tiền vào rất mất thời giờ. Chi nhánh nên liên hệ với các cơ quan chi trả thu nhập của khách hàng thương lượng để thực hiện hợp đồng thu hộ. Bên cạnh đó, chi nhánh cần thương lượng với các khách hàng thụ hưởng như bưu điện, cơ sở thu thuế, cấp nước thực hiện các hợp đồng thu hộ. Nếu chi nhánh làm được những việc này thì khách hàng thanh toán qua chi nhánh sẽ nhận được những tiện ích rất lớn. Một điều cần thiết khác đó là thủ tục thanh toán ủy nhiệm thu cần được đơn giản hoá, dễ hiểu và sử dụng. * Về uỷ nhiệm chi: Uỷ nhiệm chi ở chi nhánh là hình thức được sử dụng nhiều nhất về doanh số, tuy nhiên, khách hàng luôn ưa thích thanh toán uỷ nhiệm chi với các món có doanh số lớn và xa. Chi nhánh nên áp dụng hình thức thanh toán ủy nhiệm chi để thanh toán các khoản mang tính chất ổn định thường xuyên như: nộp thuế, bảo hiểm, tiền điện… Việc này rất phổ biến tại các nước khác, mang lại sự tiện lợi cho khách hàng, cả ngừoi thu nợ và chủ thể thanh toán, còn ở nước ta, việc này còn chưa được ứng dụng nhiều. * L/C: Khi hội nhập nền kinh tế thế giới, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, doanh số thanh toán quốc tế ngày càng tăng, thì công tác thanh toán xuất nhập khẩu ngày càng phải được coi trọng. Trong thanh toán quốc tế, L/C là một công cụ phổ biến và hiệu quả, mang lại lợi ích to lớn cho các bên tham gia thanh toán, và mang lại thu nhập cho NH thông qua phí dịch vụ mở L/C, sủa đổi L/C, thanh toán L/C, phí bảo lãnh, lợi nhuận từ chiết khẩu L/C… Nhưng L/C là một hình thức thanh toán có thủ tục hết sức chặt chẽ và khá phức tạp, mà không phải bất cứ doanh nghiệp hay khách hàng nào cũng có thể biết tường tận được. Do đó, để mở rộng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng mình, chi nhánh cần có những lộ trình cụ thể để tiếp xúc với khách hàng, đặc biệt là những khách hàng xuất nhập khẩu với quy mô lớn, hướng dẫn chi tiết cho họ, có những ưu đãi đặc biệt cho họ như giảm mức ký quỹ mở L/C cho những khách hàng lớn và uy tín, chiết khấu L/C cấp vốn kịp thời cho khách hàng. Bên cạnh đó, chi nhánh nên đẩy mạnh các hoạt động bổ trợ như cải tiến kỹ thuật công nghệ, cần sử dụng hiệu quả mạng thanh toán SWIFT, giải quyết tốt vấn đề luân chuyển chứng từ; Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu bằng cách chủ động tìm kiếm khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tăng cường công tác tư vấn và đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo để củng cố khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng tiềm năng; Đa dạng hóa các ngoại tệ trong kinh doanh và dịch vụ, vì hiện nay, thị trường châu Á đang phát triển nhanh chóng với những cường quốc như Trung Quốc, Hàn Quốc,… Hoạt động mua bán xuất nhập khẩu diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, nhu cầu về ngoại tệ tăng lên rất nhiều cả về số lượng và loại tiền dùng thanh toán. Đồng thời, Chi nhánh cũng cần phân tích và nắm rõ đối thủ cạnh tranh của mình, từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp để thu hút khách hàng; Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, đảm bảo cải tiến thủ tục thanh toán, thuận tiện nhất cho khách hàng, vừa đảm bảo an toàn cho quá trình thanh toán, nâng cao uy tín của khách hàng. *Về thanh toán thẻ: Chi nhánh cần tăng cường hệ thống máy ATM và các điểm chấp nhận thẻ. Việc nâng hệ thống máy ATM và các điểm thanh toán thẻ sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sử dụng thuận tiện cho chủ thẻ. Chi nhánh cần tăng cường sự liên kết hợp tác với các ngân hàng khác để phát triển thị trường thẻ nói chung của Việt Nam. Bên cạnh việc mở rộng các điểm chấp nhận thẻ, chi nhánh cần hướng đến việc hiện đại hoá công nghệ thẻ. Các loại thẻ thanh toán tại chi nhánh chủ yếu vẫn sử dụng công nghệ thẻ từ, công nghệ này có ưu điểm là sản xuất đơn giản, giá hành rẻ nhưng dễ bị xâm nhập, không đảm bảo an toàn cho chủ thẻ. Vì vậy chi nhánh nên chuyển sang sử dụng thẻ điện tử . Dòng thẻ này sẽ chống được các sao chép thông tin vì thế sẽ đảm bảo an toàn cho chủ thẻ và cho cả ngân hàng phát hành thẻ. Đồng thời, chi nhánh cũng cần có sự phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông trong hoạt động thanh toán thẻ. Chi nhánh nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung cần phải tích cực chủ động phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông để phát triển công nghệ thanh toán thẻ, tích hợp những dịch vụ mới đem lại cho khách hàng sử dụng thẻ những tiện ích thiết thực. Trước mắt là đảm bảo không bị gián đoạn nghẽn mạch đường truyền của hệ thống ATM vào thời gian cao điểm. Để thu hút nhiều hơn những khách hàng đến với chi nhánh, việc phát hành thẻ phải đa dạng, nhiều chủng loại.Trong cơ chế thị trường nhà sản xuất không thể bán cái mình có mà phải bán cái người mua cần. Thẻ ngân hàng cũng vậy, các ngân hàng phát hành phải quan tâm đến nhiều đối tượng khách hàng để có thể phát hành đa dạng nhiều chủng loại thẻ. Các loại thẻ phải có các mệnh giá khác nhau, có loại thẻ ghi danh, có loại thẻ vô danh. Với một tấm thẻ vô danh có thể trở thành một món quà rất văn hoá, rất có ý nghĩa để tặng bạn bè, người thân .Thẻ phải có thiết kế trang trí màu sắc bắt mắt để phục vụ giới trẻ nhưng cũng cần có những loại sang trọng, lịch sự để phục vụ các khách hàng VIP. Thẻ nên có ảnh của chủ thẻ để trong một số trường hợp có thể thay thế giấy tờ tuỳ thân cho chủ thẻ. Để tăng thêm tính hấp dẫn cho dịch vụ thanh toán của chi nhánh, một trong những tiện ích mà một số thẻ của các ngân hàng khác phát hành trong thời gian gần đây là thấu chi hoặc cấp tín dụng cho khách hàng. Ở thẻ của VCB, khách hàng chỉ có thể tiếp cận tiện ích này ở một số loại thẻ đặc biệt như tín dụng quốc tế: Visa, MasterCard và American Express, có thể coi là dòng thẻ giành cho khách hàng VIP, còn dòng thẻ phổ thông như Vietcombank Conect24 thì khách hàng chưa được sử dụng dịch vụ này. Do đó, để hấp dẫn khách hàng, chi nhánh nên có thêm những tiện ích trên, và để đảm bảo an toàn, chi nhánh có thể phân khúc khách hàng ngay từ đầu, chẳng hạn phân khúc theo nghề nghiệp thành các đối tượng như sinh viên, công nhân viên,…; hoặc phân khúc theo thu nhập, từ đó đưa ra hạn mức phù hợp và các chương trình Marketing hợp lý, vừa mở rộng quy mô tín dụng của chi nhánh, vừa mở rộng phạm vi khách hàng. Phần thứ năm: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Thanh toán là một trong những chức năng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng ngày nay, và nó cũng đang thể hiện những tác động tích cực và to lớn đối với sự luân chuyển vốn của nền kinh tế, góp phần quan trong vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Do đó, không ngừng mở rộng phạm vi và chất lượng công tác thanh toán, trong đó, trọng tâm là công tác TTKDTM là trách nhiệm to lớn, là nhiệm vụ hàng đầu của ngành Ngân hàng hiện nay trong tiến trình phát triển chung của kinh tế đất nước và thế giới. Đối với chi nhánh VCB ĐăkLăk, trong những năm qua, Chi nhánh cũng đã không ngừng nỗ lực để phát triển công tác thanh toán của mình. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh VCB ĐăkLăk đã khẳng định được rõ tầm quan trọng của nó trong thanh toán giữa các đơn vị kinh tế nói riêng cũng như toàn bộ quá trình lưu thông tiền tệ của nền kinh tế nói chung. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh đã trở nên quen thuộc hơn với mọi người, nó đã góp phần không nhỏ vào những thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với những đặc điểm tiện lợi, an toàn và nhanh chóng hình thức này đã làm tăng nhanh quá trình, chu chuyển vốn, giảm thời gian ứ đọng vốn của doanh nghiệp, đồng thời giúp chi nhánh tăng khả năng kiểm soát của mình đối với quá trình lưu thông tiền tệ. Sự gia tăng không ngừng về khách hàng và doanh số thanh toán cả trong nước và quốc tế, thương hiệu ngân hàng được định vị dù cho phải chịu những tác động từ sự khó khăn của nền kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác cũng đã ghi nhận thành quả của những nỗ lực từ cán bộ công nhân viên của Chi nhánh trong công tác thanh toán. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số vướng mắc đòi hỏi Chi nhánh phải nghiên cứu để đưa ra những giải pháp giải quyết thích hợp, nhằm hoàn thiện công tác thanh toán của mình, phục vụ khách hàng tốt hơn, đáp ứng kịp thời những yêu cầu của nền kinh tế. Nhận thức rõ vấn đề trên với chi nhánh VCB ĐăkLăk đã có những cố gắng để phục vụ một cách tốt nhất những khách hàng của mình khi họ có nhu cầu thanh toán, góp phần làm cho các hình thức TTKDTM ngày càng được mọi người sử dụng rộng rãi. Qua đó đem lại những tiện lợi cho khách hàng, lại vừa có điều kiện nâng cao uy tín của khách hàng và tăng thêm doanh thu hàng năm cho chi nhánh, vừa đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế nói chung. 5.2 Kiến nghị 5.2.1 Đối với ngân hàng Nhà nước Với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng Nhà nước vừa là người đề ra các quy định, vừa là người theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện các quy định đó. Đồng thời, với vị trí là đầu mối của các ngân hàng thương mại, ngân hàng nhà nước cũng thực hiện vai trò trung gian thanh toán cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng cũng như lập ra các trung tâm thanh toán bù trừ. Để thúc đẩy vai trò đó của mình, ngân hàng nhà nước cần giải quyết một số vấn đề: - Từng bước hoàn thiện hệ thống thanh toán: ngân hàng nhà nước cần mở rộng thực hiện dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. - Hoàn thiện môi trường pháp lý là yêu cầu bức xúc đối với hoạt động NH và thanh toán điện tử trước yêu cầu hội nhập AFTA và gia nhập WTO của Việt Nam, đặc biệt trước thách thức và nhu cầu phát triển thương mại điện tử. Cụ thể: + Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý, lưu trữ chứng từ điện tử, chữ ký điện tử trong các hoạt động thanh toán của các ngân hàng và tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế và cá nhân. + Sửa đổi và sớm ban hành quy chế, quy trình xử lý nghiệp vụ kế toán và các văn bản có liên quan đến công tác thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp với công nghệ mới, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại triển khai dự án của WB - Hiện đại hoá Ngân hàng và các hệ thống thanh toán, quản lý khách hàng tập trung, giao dịch một cửa... + Xác định các hình thức thanh toán, thủ tục mở tài khoản và thanh toán của dân cư với phương châm nhanh chóng, đơn giản, an toàn, chi phí thấp. + Cần tiến tới xây dựng Luật Giao dịch điện tử, chứng từ điện tử, chữ ký điện tử…nhằm đảm bảo cho sự ra đời và ứng dụng trong thực tế của các dịch vụ của Ngân hàng điện tử như: Thẻ thanh toán, Internet - Banking, E- Banking… + Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước cần trao quyền tự chủ tài chính lớn hơn theo nguyên tắc thị trường cho các ngân hàng thương mại, để các ngân hàng có chính sách thu hút nhân tài. + Tạo điều kiện cho phép các ngân hàng chi nhánh mở thêm các phòng giao dịch. Mở thêm các phòng giao dịch tuy làm tăng chi phí nhưng nó có tác dụng tạo ra hình ảnh của một ngân hàng có quy mô lớn từ đó tạo niềm tin cho khách hàng trong việc sử dụng ngân hàng như là một người trung gian trong thanh toán. - Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể để định hướng phát triển và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại. Hiện nay, các ngân hàng thương mại vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau. Nhưng sự hợp tác đó còn chưa chặt chẽ, gây khó khăn cho công tác thanh toán và lãng phí cho bản thân các ngân hàng. Do đó, ngân hàng nhà nước nên có những biện pháp, chỉ thị cụ thể để việc hợp tác giữa các ngân hàng thực sự chặt chẽ và khoa học, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán qua ngân hàng. 5.2.2 Đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Trải qua hơn 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm tháng 12/2009, VCB là ngân hàng lớn thứ 2 theo chỉ tiêu về tổng tài sản cũng như lợi nhuận đạt được trong toán bộ các Ngân hàng Việt Nam. Đến nay, VCB đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng , là ngân hàng đứng đầu về dịch vụ thanh toán Quốc tế và kinh doanh tiền tệ với hơn 30% thị phần. VCB là ngân hàng đầu tiên phát hành thẻ tín dụng tại Việt Nam năm 1996 và kể từ đó trở thành nhà cung cấp thẻ lớn nhất với hơn 45% thị phần thẻ cả nước. VCB đã tạo dựng cho mình một hệ thống ATM và liên minh thẻ riêng biệt. Với những thành tựu to lớn đã đạt được của Vietcombank về hoạt động chung cũng như công tác thanh toán, VCB đang có những lợi thế hết sức to lớn trong hoạt động thanh toán của mình. Tuy nhiên, ngân hàng không phải chỉ dừng lại ở đó, mà ngân hàng còn phải đầu tư thời gian, công sức, tiền bạc cho mọi mặt hoạt động của mình, trong đó có công tác thanh toán để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khách hàng. Ngân hàng cần có những định hướng lâu dài trong hoạt động của mình, từ đó, xây dựng lộ trình cụ thể cho từng chi nhánh, cơ sở hoạt động. Quan tâm mọi mặt hoạt động của các chi nhánh trực thuộc, hỗ trợ chi nhánh trong công tác đào tạo cán bộ (ngắn hạn, dài hạn, trong nước, nước ngoài) nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hỗ trợ về công nghệ, kỹ thuật, vốn… đảm bảo hoạt động ổn định của chi nhánh. Cải tiến và hoàn thiện những quy định trong công tác thanh toán của cả hệ thống, hợp tác với các đối tác trong nước và nước ngoài, tăng cường kinh nghiệm và vốn đầu tư cho mọi mặt hoạt động ngân hàng. 5.2.3 Đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk Với những thành tựu mà chi nhánh đã đạt được trong thời gian qua trong công tác thanh toán nói riêng và các hoạt động của NH nói chung, chi nhánh cần tiếp tục kế thừa và phát huy, tạo cơ sở cho sự phát triển cao hơn nữa về sau. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chi nhánh cũng gặp một số hạn chế trong quá trình thực hiện công tác TTKDTM, một phần là do nguyên nhân xuất phát từ chi nhánh, phần khác là do những nguyên nhân khách quan bên ngoài tác động vào. Đối với những nguyên nhân chủ quan, chi nhánh cần nghiên cứu, tìm hiểu đề ra hướng khắc phục hợp lý. Đồng thời, chi nhánh cũng cần hợp tác tốt với các ngân hàng khác, các cơ quan ban ngành chức năng, ngân hàng Trung ương và chính phủ để có biện pháp hiệu quả để khắc phục những hạn chế do những nguyên nhân khách quan bên ngoài. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chi nhánh phải hoàn thiện, đổi mới và mở rộng hơn nữa công tác TTKDTM, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh, đồng thời đóng góp tích cực vào sự phát triền chung của nền kinh tế và của đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20120304.doc
Tài liệu liên quan