MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ . 3
Khái niệm về chính sách tiền tệ 3
1.1.
Định nghĩa chính sách tiền tệ . 3
1.1.1.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ 3
1.1.2.
Ổn định giá cả 3
1.1.2.1.
Ổn định tỷ giá hối đoái . 4
1.1.2.2.
Ổn đinh lãi suất 4
1.1.2.3.
Ổn định thị trường tài chính 5
1.1.2.4.
Tăng trưởng kinh tế 5
1.1.2.5.
Giảm tỷ lệ thất nghiệp . 5
1.1.2.6.
Mối quan hê giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ . 6
1.1.2.7.
Các công cụ của chính sách tiền tệ . 7
1.1.3.
Các công cụ gián tiếp . 7
1.1.3.1.
Các công cụ trực tiếp 12
1.1.3.2.
1.2. Bài học kinh nghiệm trong điều hành chính sách tiền tệ của Trung Quốc .14
CHưƠNG II: PHÂN TÍCH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2007-06/2010 . 22
Phân tích điều hành chính sách tiền tệ năm 2007 22
2.1.
2.1.1.
Tình hình kinh tế Việt Nam 2007 . 22
Diễn biến lạm phát . 22
2.1.1.1.
2.1.1.2.
Cán cân thương mại và cán cân thanh toán 24
Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam 25
2.1.2.
Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây
2.1.2.1.
bất lợi cho tăng trưởng kinh tế . 25
Dự trữ bắt buộc 26
2.1.2.2.
2.1.2.3.
Thực hiện chính sách lãi suất 27
Đánh giá chung 29
2.1.3.
Những kết quả đạt được 29
2.1.3.1.
Những hạn chế tồn tại . 30
2.1.3.2.
Phân tích điều hành chính sách tiền tệ năm 2008 33
2.2.
2.2.1.
Tình hình kinh tế Việt Nam 33
Xuất, nhập khẩu: 34
2.2.1.1.
2.2.1.2.
Thu chi ngân sách nhà nước . 34
Tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế 35
2.2.1.3.
2.2.1.4.
Lạm phát 36
Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam 37
2.2.2.
Điều hành thông qua nghiệp vụ thị trường mở 38
2.2.2.1.
Điều hành CSTT qua công cụ dự trữ bắt buộc . 39
2.2.2.2.
Điều hành lãi suất . 40
2.2.2.3.
Kiểm soát tăng trưởng và chất lượng tín dụng 42
2.2.2.4.
Điều hành tỷ giá . 43
2.2.2.5.
Đánh giá chung 44
2.2.3.
Phân tích điều hành chính sách tiền tệ năm 2009 . 46
2.3.
2.3.1.
Tình hình kinh tế năm 2009 . 46
2.3.1.1.
Tăng trưởng GDP . 46
Xuất, nhập khẩu và cán cân thanh toán . 47
2.3.1.2.
Tăng trưởng tín dụng 49
2.3.1.3.
2.3.1.4.
Lạm phát 49
Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam 50
2.3.2.
2.3.2.1.
Chính sách lãi suất . 51
2.3.2.2.
Chính sách tỷ giá 53
Dự trữ bắt buộc 56
2.3.2.3.
Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2009 57
2.3.3.
Phân tích điều hành chính sách tiền tệ sáu tháng đầu năm 2010 59
2.4.
2.4.1.
Tình hình kinh tế 59
2.4.1.1.
Tăng trưởng GDP . 59
2.4.1.2.
Lạm phát 60
2.4.1.3.
Cán cân thương mại . 60
Thị trường ngoại hối . 60
2.4.1.4.
Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam 61
2.4.2.
2.4.2.1.
Chính sách lãi suất . 61
2.4.2.2.
Chính sách tỷ giá 62
Dự trữ bắt buộc 63
2.4.2.3.
Đánh giá 63
2.4.3.
CHưƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẨ ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM 65
Triển vọng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới . 65
3.1.
Hoạt động thương mại . 65
3.1.1.
3.1.2.
Lãi suất 66
Thâm hụt ngân sách và nợ công cao . 67
3.1.3.
Kiến nghị trong điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới . 68
3.2.
Lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ . 68
3.2.1.
Nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ trong chính sách tiền tệ 72
3.2.2.
Nghiệp vụ thị trường mở . 73
3.2.2.1.
Quản lý lãi suất 74
3.2.2.2.
Dự trữ bắt buộc 75
3.2.2.3.
3.2.2.4.
Cho vay tái chiết khấu 76
Hạn mức tín dụng . 76
3.2.2.5.
3.2.3.
Kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa . 76
Nâng cao hiệu quả của công tác dự báo kinh tế 78
3.2.4.
KẾT LUẬN . 80
148 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g người mua
khi tỷ giá USD còn thấp khiến thị trường ngoại hối giảm bớt căng thẳng. Thêm vào đó
cán cân thanh toán tổng thể được cải thiện làm giảm tâm lý đầu cơ tích trữ USD trong nền
kinh tế và kỳ vọng USD sẽ tiếp tục tăng giá.
Nguyên nhân khác khiến thị trường ngoại hối diễn biến khá phức tạp đến từ
nguyên nhân khách quan. Vấn đề nợ công xảy ra tại nhiều quốc gia châu Âu như Hy lạp
hay Tây Ban Nha đã và đang làm giảm bớt cơ cấu tài sản bằng đồng EUR, gây ra tình
trạng dịch chuyển sang những danh mục đầu tư khác an toàn hơn, cụ thể là đồng USD và
các tài sản được định giá bằng đồng USD như trái phiếu chính phủ Mỹ. Điều này gây ra
khó khăn đối với việc ổn định tỷ giá trên thị trường ngoại hối Việt Nam.
2.4.2. Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam
Năm 2010, NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng, linh hoạt
theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng, kiềm chế lạm phát do Quốc hội
đề ra. Bên cạnh đó, thực hiện ổn định thị trướng ngoại hối, thị trường vàng trong nước;
tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng công tác thống kê, dự báo tiền tệ và cán cân
thanh toán quốc tế; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; kiểm soát chặt chẽ nợ quá
hạn, đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Cụ thể:
2.4.2.1. Chính sách lãi suất
Đầu năm 2010, NHNN đã ban hành thông tư số 07/2010/TT-NHNN, chính thức
cho phép các ngân hàng được áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận với các khách hàng vay
trung và dài hạn.Trong suốt quý I/2010, NHNN vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản 8%/năm,
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
104
lãi suất tái cấp vốn 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu 6%/năm. Với mức lãi suất cơ bản
8%/năm, lãi suất huy động của các NHTM phải thấp hơn 10.5%, tuy nhiên do lạm phát
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
105
lũy kế 12 tháng đã la 9.46%, do đó lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được chỉ xấp xỉ
1%. Mức lãi suất này không hấp dẫn nên huy động vốn ở các NHTM càng trở nên khó
khăn. Mức lãi suất cơ bản tiếp tục được duy trì các tháng sau đó, trái với sự mong đợi của
các NHTM. LSCB giữ nguyên trong khi trần lãi suất huy động không được dỡ bỏ khiến
cho huy động vốn trong các NHTM tiếp tục khó khăn và tín dụng tiếp tục tăng trưởng
thấp cho dù cơ chế lãi suất thỏa thuận đã được áp dụng từ tháng 2/2010.
Bên cạnh đó, để ổn định lãi suất thị trường như NHNN đã yêu cầu các TCTD
không được huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng vượt quá 20% tổng huy động
vốn trên thị trường tín dụng; tiếp tục hỗ trợ thanh khoản thông qua nghiệp vụ thị trường
mở, SWAPS ngoại tệ, tái cấp vốn…cho các TCTD để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
trên thị trường liên ngân hàng; yêu cầu các TCTD báo cáo về lãi suất huy động và dư nợ
cho vay ngoại tệ cũng như đưa ra cảnh báo sẽ thanh tra các TCTD có lãi suất huy động
vượt quá 12%/năm; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng và chỉ đạo các NHTM nhà nước
tiếp tục nâng cao vị thế và giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn, từng bước điều chỉnh
giảm dần mặt bằng lãi suất cho phù hợp với diễn biến kinh tế và quy luật thị trường…
Chính những động thái điều hành chính sách tiền tệ cương quyết, linh hoạt và đúng hướng
đã đóng góp quan trọng vào việc ổn định lãi suất cũng như các chỉ số kinh tế vĩ mô, đồng
thời đưa tăng trưởng tín dụng trở lại nhịp độ bình thường: tháng 1 tăng 0.26%; tháng 2
tăng 2.09%, tháng 3 tăng 2.26%, tháng 4 tăng 1.64%, tháng 5 tăng 1.7%. Trước bối cảnh
hiện nay của kinh tế trong nước và quốc tế, mức tăng trưởng tín dụng dự kiến 10.52%
trong 6 tháng đầu năm là tương đối hợp lý.
2.4.2.2. Chính sách tỷ giá
Trước áp lực căng thẳng trên thị trường ngoại hối, trong Quý I/2010 NHNN đã áp
dụng một số biện pháp nhằm tăng nguồn cung ngoại tê cho nền kinh tế:
Quy định lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức
tín dụng là 1%/năm
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
106
Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng từ ngày 11/02/2010 lên mức
18,554 VND/USD (tăng 3.3.6% so với trước đó)
Bắt buộc 7 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải bán ngoại tệ cho các ngân
hàng nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ.
Nhờ đó, từ cuối tháng 3/2010 đến cuối tháng 6/2010, thị trường ngoại tệ và tỷ giá
USD/VND khá ổn định và diễn biến theo đúng định hướng của NHNN. Cụ thể, các
TCTD đã mua được ngoại tệ từ doanh nghiệp, sau đó TCTD đã bán lại cho NHNN, đồng
thời hoạt động thị trường ngoại tệ cũng được thông suốt.
2.4.2.3. Dự trữ bắt buộc
NHNN đã điều chỉnh giảm 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với kỳ hạn
dưới 12 tháng và giảm 1% đối với kỳ hạn trên 12 tháng.
2.4.3. Đánh giá
Trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện các biện pháp
chính sách tiền tệ tập trung vào việc thiết lập một mặt bằng lãi suất mới, ổn định theo xu
hướng giảm dần để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, NHNN kiểm soát chất lượng
cũng như tốc độ tăng trưởng tín dụng gắn với tăng trưởng nguồn vốn; từng bước hạn chế
những mất cân đối kỳ hạn vốn đã tồn tại từ lâu trong hệ thống ngân hàng thương mại
(NHTM) Việt Nam. Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ được kiểm soát chặt chẽ
gắn với tăng trưởng nguồn vốn ngoại để đảm bảo thanh khoản, góp phần đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ cho nhập khẩu hàng hóa thiết yếu, qua đó giảm áp lực lên tỷ giá. Mặt khác, để ổn
định thị trường ngoại hối, tăng cung ngoại tệ cho các NHTM và hạn chế việc găm giữ
ngoại tệ của các doanh nghiệp, NHNN đã sử dụng công cụ tiền tệ gián tiếp như hạ tỷ lệ
dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, hạ lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp và
nâng tỷ giá danh nghĩa lên thêm 3.36%; khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho
ngân hàng. Ngoài ra, NHNN cũng tiến hành đóng cửa sàn vàng, góp phần quan trọng ổn
định tỷ giá cũng như ổn định thị trường ngoại hối.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
107
Thực thi chính sách tiền tệ sáu tháng đầu năm 2010 tiếp tục vấp phải những khó
khăn phát sinh từ những vấn đề mang tính căn nguyên, đó là thâm hụt thương mại, thâm
hụt ngân sách kéo dài, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, nguy cơ lạm phát gia tăng và sự
phục hồi chưa chắc chắn của kinh tế thế giới. Vì vậy, để giải quyết căn bản những khó
khăn của CSTT, bên cạnh việc NHNN tiếp tục thực thi CSTT linh hoạt, thận trọng, phối
hợp động bộ các giải pháp tiền tệ và công cụ CSTT, tạo môi trường tiền tệ thuận lợi cho
hoạt động của các định chế tài chính, kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối, nhất là
hoạt động kinh doanh vàng, thì cần có sự phối hợp đồng bộ, tích cực của các chính sách
kinh tế vĩ mô khác để giải quyết tích cực giảm thâm hụt thương mại, thu hút đầu tư nước
ngoài, giảm thâm hụt ngân sách, thu hẹp sự chênh lệnh giữa tiết kiệm và đầu tư mà hiện
đang có xu hướng gia tăng và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư để giảm áp lực lạm phát. Đây
là những điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định bền vững kinh tế vĩ mô và hiệu lực
của chính sách tiền tệ.
Những thành tựu kinh tế đạt được trong 6 tháng đầu năm (tăng trưởng kinh tế đạt
mức 6.1-6.2%, cao hơn mức tăng của quí I, chỉ số giá tiêu dùng được kiểm soát ở mức
thấp, tương đối ổn định từ tháng 4 đến nay, FDI thực hiện tăng 10%...), cùng với các diễn
biến tiền tệ đã dần đi vào ổn định (nguồn vốn trên thị trường cơ bản là thông suốt, thanh
khoản của các ngân hàng được bảo đảm, tỷ giá tương đối ổn định, các NHTM đủ nguồn
ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của doanh nghiệp), là những điều kiện thuận lợi
cho việc thực thi CSTT những tháng cuối năm. Tuy nhiên, trong sáu tháng cuối năm,
CSTT vẫn tiếp tục phải thực hiện những bước đi thận trọng, chủ động, bởi vẫn còn nhiều
thách thức ở phía trước.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
108
CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẨ ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM
3.1. Triển vọng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
Qua những kết quả đạt được của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2010, có thể thấy
kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình khá mạnh mẽ để vượt qua cuộc khủng
hoảng đại suy thoái 2008-2009, khi sản xuất công nghiệp, hoạt động đầu tư và cầu tiêu
dung trong nước tăng khá mạnh so với cùng kỳ 2009, kỳ vọng mang lại mức tăng trưởng
cao cho nền kinh tế theo mục tiêu Chính phủ đặt ra (6,5% về GDP). Đồng thời biến động
tỷ giá khả năng vẫn kiểm soát được ở quanh mốc 19.000- 19.100VND/ USD, mặc dù áp
lực 2 quý cuối năm tương đối cao do nhu cầu ngoại tệ thanh toán hợp đồng nhập khẩu và
nhu cầu USD để trả nợ ngân hàng. Vì hiện tại Nhà nước đang tiến hành tăng dự trữ ngoại
hối (tính đến cuối tháng 6, dự trữ ngoại hối Việt Nam đã vào khoảng 9 tuần xuất khẩu và
đã đạt gần mức 12 tuần xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế). Động thái này tuy gây áp lực
lên tỷ giá trong ngắn hạn nhưng trong bối cảnh lượng cung dồi dào hiện tại, áp lực này
không phải là quá lớn. Còn tính về cuối năm, động thái này sẽ giúp nhà nước bình ổn tỷ
giá khi áp lực tỷ giá lên cao. Ngoài ra việc hạn chế tín dụng ngoại tệ hiện tại và lượng
kiều hối kỳ vọng sẽ tăng mạnh hơn trong những tháng cuối năm sẽ góp phần giảm bớt áp
lực tăng tỷ giá trong giai đoạn này.
Tuy nhiên kinh tế Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những rủi ro không nhỏ
trong ngắn hạn trước một số vấn đề còn tồn tại và những bất ổn trên thế giới khiến tăng
trưởng cả kinh tế Việt Nam có thể sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn.
3.1.1. Hoạt động thƣơng mại
Những bất ổn tại khu vực châu Âu khiến đồng Euro mất giá mạnh trên thị trường
quốc tế gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất nhập khẩu của nhiều nước, trong
đó có Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh đồng tiến này được dự báo khó hồi phục trong
ngắn hạn và có khả năng có thể mất giá thêm do những bất ổn tại Châu Âu chưa được
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
109
giải quyết triệt để và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
110
Trước hết, tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này sẽ chịu ảnh
hưởng không nhỏ khi hầu hết các đơn hàng ký kết bằng đồng Euro, trong khi đồng tiền
này mất giá mạnh so với đồng VND và USD. Ngoài ra, việc đồng Euro mất giá so với
nhiều đồng tiền khác trên thế giới trong bối cảnh lực cầu tiêu dùng tại châu Âu vẫn còn
yếu và một số Chính phủ các nước lại thực hiện thắt chặt chính sách tài khóa sẽ khiến
hàng hóa của các nước khác vào khu vực Châu Âu trở nên khó khăn hơn. Vì vậy sẽ buộc
các nước này phải tìm kiếm thị trường thay thế, kéo theo đó là mức độ cạnh tranh trên
các thị trường khác (cả trên thị trường Việt Nam) sẽ gia tăng trong khi khả năng cạnh
tranh của nhiều hàng hóa của Việt Nam còn ở mức yếu.
Về hoạt động nhập khẩu, một số doanh nghiệp Việt Nam sẽ được lợi khi nhập máy
móc thiết bị từ châu Âu về với giá thấp. Nhưng đi cùng với đó là khả năng gia tăng khối
lượng nhập khẩu hàng tiêu dùng chất lượng cao, đồ công nghệ, điện tử… với giá trị lớn,
sẽ gia tăng áp lực nhập khẩu. Ngoài ra việc thực hiện miễn giảm thuế nhập khẩu từ
1/6/2010 đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Indonesia, Thailan, Ấn độ…cũng gia tăng
áp lực nhập siêu. Ngoài ra, Chính phủ có thể tiếp tục xuất vàng trong thời gian tới để cân
đối cán cân thương mại nhưng sẽ không thể kéo dài hoạt động này vì dễ gây mất cân đối
cung cầu vàng trong nước và dễ gây bất ổn tỷ giá khi có biến động mạnh về xu hướng
tăng của giá vàng thế giới.
3.1.2. Lãi suất
Với mức tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm mới chỉ đạt 10,52% so với cuối
năm 2009, tương đối thấp so với mục tiêu 25% trong năm 2010.Trong khi đó mặt bằng lãi
suất vẫn tương đối cao, chưa hấp dẫn nhu cầu vay vốn đầu tư, nhiều chuyên gia cho rằng
Ngân hàng nhà nước sẽ đẩy mạnh bơm vốn giá rẻ vào nền kinh tế thông qua nghiệp vụ thị
trường mở nhằm hỗ trợ các ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất hiện tại, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng tín dụng và hoạt động mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
phấn đấu đạt mức tăng trưởng GDP mục tiêu 6,5% trong năm nay. Tuy nhiên, mặt bằng
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
111
lãi suất sẽ khó có thể giảm nhanh (giảm lãi suất cho vay về mức 12%/ năm, và lãi suất
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
112
huy động mức 10%/năm). Và sẽ mất ít nhất một khoảng thời gian khoảng 2 đến 3 tháng
do hiện nay còn tồn tại một số vấn đề:
Thứ nhất, tuy lạm phát trong tháng 5 và tháng 6 đều ở mức tăng nhẹ, nhưng tính
mức lạm phát chung vẫn đang và sẽ ở mức cao hơn mức mục tiêu 8% đã điều chỉnh trong
cuộc họp thường kỳ đầu tháng 5. Trong khi đó, giá hàng hóa và nguyên liệu tuy giảm
trong những tháng gần đây nhưng một số vẫn đang chững lại ở mức cao, theo đó, chi phí
đầu vào cho sản xuất trong nước giảm đi không nhiều (phần lớn nguyên liệu sản xuất
trong nước là hàng nhập khẩu). Đồng thời một số nước trong khu vực châu Á mà Việt
Nam hay nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào (Trung Quốc, Ấn Độ) đang phải đối mặt với
nguy cơ lạm phát cao quay trở lại. Vì vậy chính phủ sẽ khó cung một lượng tiền qua lớn
trong một thời gian ngắn để hạ nhanh mặt bằng lãi suất xuống thấp như mong muốn, mà
sẽ phải cung ứng từ từ nhằm tránh các cú sốc cho thị trường.
Thứ hai, kênh huy động vốn từ dân cư và tổ chức của các ngân hàng gặp không ít
khó khăn, khi thời điểm quý II là thời điểm mà các doanh nghiệp cần đầu tư đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh và cần rút tiền, vay vốn thực hiện các dự án này. Trong khi đó kênh huy
động vốn từ dân cư đang chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ kênh đầu tư từ bất động sản
với khả năng sinh lời cao trong bối cảnh giá đất có nhiều dấu hiệu sốt lên với nhiều dự án
mở rộng khu đô thị. Vì vậy các ngân hàng khó hạ lãi suất huy động xuống ngay mức
10%/năm, vì như vậy sẽ tự làm khó khăn hơn hoạt động huy động vốn. Theo đó việc hạ
lãi suất cho vay càng khó khăn hơn, vì lãi suất cho vay càng thấp thì ngân hàng càng thu
lợi ít hơn.
3.1.3. Thâm hụt ngân sách và nợ công cao
Chỉ tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2010, thâm hụt ngân sách theo con số công
bố đã lên mức 20,000 tỷ đồng, gần tương đương với mức thâm hụt ngân sách 6 tháng đầu
năm trước, trong khi thâm hụt ngân sách 2009 vừa qua đã là hơn 110 nghìn tỷ đồng,
tương đương 6,9% GDP, đồng thời nợ nước ngoài cũng lên mức khá cao gần 50% GDP
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
113
và dự kiến tiếp tục sẽ tăng trong thời gian tới khi nguồn vốn ODA trong những năm gần
đây, chỉ có một số ít dưới dạng viện trợ không hoàn lại, phần lớn dưới dạng vay vốn. Sự
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
114
gia tăng trong nợ công và thâm hụt ngân sách theo chính phủ hiện tại là chưa đáng lo
ngại, nhưng thực chất đây sẽ là rào cản không nhỏ trong hoạt động huy động vốn ngoại tệ
trong thời gian tới trước những bất ổn đang diễn ra tại châu Âu do tình trạng nợ công và
thâm hụt ngân sách quá cao.
3.2. Kiến nghị trong điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới
Từ những kinh nghiệm rút ra trong công tác điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn
2007 đến nửa đầu năm 2010 và những đánh giá về triển vọng tình hình kinh tế Việt Nam
thời gian tới, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong
điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Cụ thể:
3.2.1. Lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ
Lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ là việc làm đầu tiên và quan trọng nhất
trong điều hành chính sách tiền tệ. Việc không xác định được mục tiêu của chính sách
tiền tệ hoặc xác định mục tiêu không rõ ràng sẽ dẫn đến việc lúng túng, đối phó trong quá
trình thực hiện chính sách. Về lý thuyết, khi điều hành chính sách tiền tệ thì có thể theo
một trong các quy tắc sau:
Quan điểm của Milton Friedman cho rằng tốc độ tăng cung tiền cần phải giữ cố
định tại một mức tăng trưởng cố định. Đây là một quy tắc khá đơn giản và dễ dàng trong
thực hiện. Cơ sở cho chính sách này là sự thay đổi của cung tiền một cách thường xuyên
có thể gây ra những biến động kinh tế lớn. Sự tăng trưởng cung tiền chậm và cố định của
cung tiền sẽ giúp ổn định sản lượng, giá cả và việc làm. Tuy nhiên, tăng trưởng cung tiền
ổn định sẽ giúp ổn định tổng cầu chỉ khi nền kinh tế có tốc độ lưu chuyển tiền ổn định.
Tốc độ lưu chuyển tiền ổn định chỉ có được trong thời kỳ tổng cầu tương đối ổn định. Vì
vậy, hầu hết các nhà kinh tế cho rằng chính sách tiền tệ cần thay đổi để điều chỉnh với
những cú sốc của nền kinh tế. tuy nhiên, chính sách tiền tệ như vậy sẽ giúp nền kinh tế đạt
được hiệu quả trong dài hạn là kiềm chế lạm phát. Trong thực tế, các quốc gia như Thái
Lan, Phillipin và Indonesia trong thời gian từ năm 2000 đến nay đã theo đuổi chính sách
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
115
này và lạm phát ở các quốc gia này được giữ ở mức ổn định, không có những biến động
lớn kể cả khi giá cả của nguyên vật liệu thế giới tăng cao.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
116
Quy tắc thứ hai là đặt mục tiêu cho GDP danh nghĩa. Khi GDP đang nghĩa ở mức
cao hơn so với mục tiêu đặt ra thì NHTW giảm tăng trưởng tiền tệ để kiềm chế tổng cầu.
Khi GDP danh nghĩa đang ở mức thâp hơn so với mục tiêu thì NHTW tăng cung tiền để
kích thích tổng cầu. Ưu điểm của chính sách này là có thể dẫn đến sự ổn định trong sản
lượng về việc làm. Tuy nhiên, vì theo đuổi mục tiêu GDP danh nghĩa, không theo đuổi
mục tiêu lạm phát nên lạm phát không còn hoàn toàn trong tầm kiểm soát của NHTW.
Quy tắc thứ ba của chính sách tiền tệ là đặt mục tiêu cho lạm phát. NHTW sẽ
thông báo mức lạm phát mục tiêu và điều chỉnh cung tiền để điều chỉnh lạm phát trở lại
mức mục tiêu đã đề ra. Ưu điểm của chính sách này là cho phép chính sách tiền tệ điều
chỉnh theo những thay đổi của tốc độ lưu chuyển tiền tệ. Các NHTW thường không đặt
mục tiêu lạm phát ở một con số cụ thể mà trong một khoảng nhất định. Trong thực tế,
NHTW các nước như Canada, Australia, Anh đã theo đuổi chính sách này.
Ba quy tắc trên phải được nhất quán thực hiện trong dài hạn. Khi các quy tắc này
được áp dụng, hai mục tiêu chủ yếu là lạm phát và tăng trưởng sẽ mâu thuẫn với nhau
trong ngắn hạn hay nói cách khác NHTW sẽ không thể đạt được nhiều mục tiêu cung một
lúc. NHTW phải chấp nhận hy sinh một mục tiêu. Khi theo đuổi một mục tiêu thì rõ ràng
mục tiêu kia không thể kiểm soát được. Điều này đã được chứng minh trong cả lý thuyết
và thực nghiệm. Tuy nhiên, trong dài hạn, các mục tiêu này không mâu thuẫn với nhau.
Với lạm phát ở mức ổn định, vừa phải thì việc nâng cao mức tăng trưởng, ổn định việc
làm sẽ dễ dàng được thực hiện. Chính vì vậy, việc kiên trì theo đuổi một mục tiêu, thể
hiện tính nhất quán là việc làm cần thiết của nhà hoạch định chính sách tiền tệ.
Có thể thấy trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến thời điểm hiện tại, chính sách
tiền tệ của Việt Nam không tuân theo quy tắc khi đặt mục tiêu cho chính sách tiền tệ.
Năm 2007 Chính phủ đặt chỉ tiêu: tăng trưởng ở mức 8.5% và lạm phát dưới 8.5%. Năm
2008, Chính phủ đặt chỉ tiêu GDP tăng trưởng 8,5-9%, lạm phát thấp hơn tốc độ tăng
trưởng GDP. Năm 2009, Chính phủ đặt chỉ tiêu GDP tăng trưởng 7%, lạm phát thấp hơn
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
117
15%. Năm 2010, Chính phủ đặt chỉ tiêu GDP tăng trưởng 6.5%, lạm phát ở mức 7%. Việc
Chính phủ đặt hai mục tiêu tăng trưởng và lạm phát cùng một lúc là điều làm cho chính
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
118
sách tiền tệ gặp nhiều khó khăn, dẫn đến lúng túng khi điều hành vì chính sách tiền tệ
không biết phải lựa chọn mục tiêu nào. Điều này đã được thể hiện rõ trong việc điều hành
chính sách như đã phân tích trong hai năm 2007 và 2008. Kết quả là cả GDP và mức lạm
phát đều không đạt được chỉ tiêu. Năm 2009, tăng trưởng kinh tế cũng không đạt được chỉ
tiêu nhưng lạm phát chỉ ở mức 6.88%. Chỉ tiêu lạm phát đạt được là do hiện tượng giảm
phát diễn ra trên toàn cầu. Đó lại là chỉ tiêu có thể dự đoán được sau khủng hoảng nhưng
chỉ tiêu ban đầu lại là quá cao, lên đến 15%. Điều này gây ra sự bất ổn trong nền kinh tế
vì mức lạm phát 15% là mức rất cao. Năm 2010, với những diễn biến đầu năm Chính phủ
lại phải điều chỉnh chỉ lạm phát, có nghĩa là chỉ tiêu đặt ra ở đầu năm không thể thực hiện.
Như vậy qua bốn năm, chỉ tiêu lạm phát không thể hoàn thành trong 3 năm, chỉ tiêu tăng
trưởng cũng không thể hoàn thành trong 3 năm. Nguyên nhân rõ ràng là do Việt Nam đã
không tuân theo quy tắc khi đặt ra mục tiêu cho nền kinh tế. NHTW với lãi suất và cung
tiền có vai trò rất quan trọng trong kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế liên tục
không đạt được chỉ tiêu đề ra sẽ gây ra tâm lý nghi ngờ và thích nghi với những điều
không chắc chắn của công chúng với năng lực điều hành chính sách của NHTW, nhất là
trong việc kiềm chế lạm phát.
Sự nghi ngờ này là có thực thể hiện qua sự kỳ vọng về lạm phát của người dân
trong nền kinh tế. Lạm phát hiện tại phụ thuộc vào mức cung tiền hiện tại và mức cung
tiền tương lai (Phụ lục 2). Khi NHTW không thực hiện theo những gì đã công bố với
công chúng, còn được gọi là tính bất nhất của chính sách thì công chúng sẽ nghi ngờ
những công bố của NHTW trong tương lai. Ngược lại, nếu NHTW nỗ lực theo đuổi chính
sách như đã công bố thì sẽ dễ dàng khi điều hành chính sách vì người dân có niềm tin vào
NHTW và điều chỉnh ngay kỳ vọng về lạm phát ngay ở thời điểm ban hành chính sách
kiềm chế lạm phát, không phải chờ đến khi chính sách được thực hiện. Minh chứng cho
nhận định này là lạm phát được kiềm chế rất thành công ở Hoa Kỳ đầu những năm 1980
dưới thời của Chủ tịch Cục dự trữ liên Bang Hoa Kỳ Paul Volcker.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
119
Kỳ vọng cao về lạm phát ở Việt Nam là có thực, đã thể hiện trong năm 2007 và
2008 khi giá cả tăng cao một cách vô lý, không theo quy luật cung cầu. Các chủ thể kinh
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
120
doanh đã đẩy giá hàng hóa, nhất là lương thực, thực phẩm theo tâm lý, có hiện tượng gian
lận, kiếm lời bất chính, gây ra sự không chắc chắn, tổn hại cho nền kinh tế. Và thực tế,
nhà điều hành chính sách ở Việt Nam cũng có những sự bất nhất trong điều hành chính
sách. Từ đầu năm 2007, NHNN đã công bố sẽ không mua vào một lượng lớn ngoại tệ
nhưng sau đó lại mua vào 9 tỷ USD, đưa một lượng tiền rất lớn ra lưu thông. Năm 2008,
từ đầu năm, Chính phủ công bố chỉ phát hành tín phiếu bắt buộc cho các tổ chức tín dụng
thì lên đến khi thực hiện lương tín phiếu bắt buộc với lãi suất quá thấp so với thị trường
đã gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng. Năm 2009, việc bất ngờ thay đổi cam kết về lãi
suất cơ bản của thống đốc NHNN Việt Nam lại gây ra sự nghi ngờ, mất lòng tin của công
chúng đối với NHTW, gây ra sự bất ổn đối với thị trường tài chính và nền kinh tế trong
thời điểm đó. Mặc dù, tình hình kinh tế có nhiều biến động, phải thực hiện linh hoạt
nhưng rõ ràng việc không thực hiện theo những gì đã công bố sẽ gây khó khăn cho
NHTW trong việc điều hành kinh tế.
Nguyên nhân sâu xa của tính bất nhất trong thực hiện chính sách của NHTW là
NHTW không có được sự độc lập trong việc đặt ra mục tiêu kinh tế. NHTW không đặt
được mục tiêu một cách độc lập sẽ thụ động, đối phó trước những biến động kinh tế. Việc
đối phó sẽ khiến cho việc thực hiện những công bố gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, tính bất
nhất hay tính không nhất quán sẽ xảy ra, gây khó khăn cho điều hành chính sách tiền tệ.
Ngoài ra, một vấn đề mà NHTW cần lưu ý đó là vấn đề xác định mục tiêu là mức
lãi suất hay cung tiền. Khi đặt ra mục tiêu lãi suất thì không thể cùng đạt được cả mục tiêu
về mức tăng cung tiền, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng. Ngược lại, khi đặt mục
tiêu về cung tiền thì không thể đồng thời đạt được mục tiêu lãi suất. Việc đặt ra một mục
tiêu, sau đó bắt buộc hệ thống ngân hàng thực hiện mục tiêu còn lại chỉ làm cho hệ thống
thêm bất ổn, tiềm tàng rủi ro.
Với những lập luận trên, trong thời gian tiếp theo, chính sách tiền tệ và NHTW cần
đạt được những điều sau:
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
121
Chỉ đặt mục tiêu duy nhất cho chính sách tiền tệ và kiên trì thực hiện mục tiêu đó.
Việc đặt ra nhiều mục tiêu cho chính sách tiền tệ sẽ dẫn đến việc lúng túng trong điều
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
122
hành chính sách, không thể hoàn thành được các mục tiêu. Đối với Việt Nam, lạm phát
trong hai năm 2007 và 2008 đã gây ra những tổn thương lớn cho nền kinh tế, tình hình
kinh tế năm 2009 và 2010 còn chứa nhiều bất ổn. Vì vậy ổn định giá trị đồng tiền, tạo nền
tảng vững bền cho nền kinh tế nên là lựa chọn của NHTW. Mục tiêu duy nhất, lạm phát
nên là lựa chọn của NHTW trong thời gian sắp tới.
Lựa chọn một mục tiêu duy nhất cho chính sách tiền tệ là mức lãi suất, hoặc cung
tiền. Không để tồn tại hiện tượng đặt đồng thời hai mục tiêu.
Các công bố của cơ qua điều hành chính sách cần được nhất quán thực hiện để lấy
được lòng tin của công chúng. Các công bố nên hướng về những mục tiêu dài hạn, mang
tính chất định hướng, không nên mang tính cụ thể như đã thực hiện trong các năm như đã
phân tích ở trên.
Tạo điều kiện cho NHTW có được tính độc lập cần thiết trong điều hành chính
sách tiền tệ. NHTW nên được độc lập tương đối trong đặt ra mục tiêu và hoạch định
chính sách. Với một tầm nhìn dài hạn thì một NHTW độc lập cùng với một mục tiêu
chính sách rõ ràng sẽ mang lại nền tảng vĩ mô tốt, hỗ trợ đắc lực cho tăng trưởng kinh tế.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ trong chính sách tiền tệ
Trong giai đoạn từ năm 2007 đến nửa đầu năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã sử
dụng kết hợp đồng thời nhiều công cụ nhằm đạt được mục tiêu trong điều hành chính sách
tiền tệ như kết hợp công cụ trực tiếp (khung lãi suất, chính sách quản lý ngoại hối..) với
công cụ gián tiếp (tỷ giá, nghiệp vụ thị trường mở…). Đây là việc là bình thường cả
phương diện lý thuyết và cả thực tiễn, cũng không có nguyên tắc nào quy định về vấn đề
này. Tuy nhiên, thị trường là nơi rất nhạy cảm và là nơi phản ánh sức sống của nền kinh
tế. Diễn biến cùng với những phản ứng mãnh liệt của thị trường vào những tháng đầu
năm 2008 và những dư âm của nó cho đến hôm nay đã cho các nhà hoạch định chính sách
bài học sâu sắc về vấn đề này, đó là cần phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định
liên quan đến sự vận động của tiền tệ. NHNN cần phải quan sát kỹ diễn biến thị trường,
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
123
dự kiến được những phản ứng có thể của thị trường để cân nhắc về loại công cụ sử dụng,
mức độ cần thiết, liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ, tránh những giải
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
124
pháp sốc. NHNN phải nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ
bám sát thực tiễn Việt Nam; phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới chính sách tiền tệ. Hệ
thống các công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ, phối hợp, thúc
đẩy lẫn nhau, tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau. Cụ thể:
3.2.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hữu hiệu nhất trong các công cụ của CSTT.
Nghiệp vụ thị trường mở có những đặc điểm như linh hoạt và chính xác, dễ dàng đảo
ngược, tiến hành nhanh chóng và không vướng phải sự chậm trễ. Khi nghiệp vụ thị
trường mở được áp dụng thì mức cung tiền và lãi suất sẽ dễ dàng được điều chỉnh theo
mục đích của ngân hàng Trung ương. Thực tiễn cho thấy, nghiệp vụ thị trường mở chưa
phát huy được hiệu quả là do số lượng thành viên tham gia vào thị trường không lớn, tính
thanh khoản không cao. NHNN chỉ có thể bắt các Ngân hàng thương mại tham gia vào thị
trường bằng cách quy định mua một lượng tín phiếu bắt buộc nhất định như đã làm như
năm 2008. Điều này gây khó khăn lớn cho các tổ chức tín dụng trong việc cân đối vốn và
trong hoạt động cho vay. Việc thực hiện những chính sách bất ngờ, không theo lộ trình đã
thông báo từ trước như vậy đã gây ra những tổn thương cho hệ thống tài chính và cho nền
kinh tế. Do đó để phát huy vai trò của công cụ này, trong thời gian tới NHNN cần phải:
Theo dõi, tính toán, dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng, diễn biến lạm phát
lãi suất, đầu tư…để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào thị trường mở như
thế nào (mua bán tín phiếu), liều lượng là bao nhiêu.
NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị trường mở
và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở.
Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở như làm đại lý phát
hành tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát
hành các loại chứng chỉ tiền gửi… ; nghiên cứu để điều chỉnh tỷ lệ giá trị giao dịch các
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
125
giấy tờ có giá được tham gia trong mỗi lần giao dịch tái cấp vốn cho phù hợp với tình
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
126
hình thực tế. Cần đa dạng hóa về chủng loại và kỳ hạn của các loại hàng hóa để tăng tính
hấp dẫn, thu hút sự tham gia của các thành viên.
NHNN cần tiếp tục hoàn thiện các quy chế, quy trình nghiệp vụ thị trường tiền tệ,
phối hợp với Trung tâm lưu ký Chứng khoán trong việc lưu ký giấy tờ có giá để hoạt
động thị trường tiền tệ diễn ra thuận lợi nhất, hỗ trợ tối đa cho TCTD trong việc đảm bảo
nhu cầu thanh khoản, giữ vững an toàn hệ thống.
Các TCTD cần nâng cao chất lượng quản lý vốn khả dụng và cung cấp số liệu dự
kiến vốn khả dụng hàng ngày cho NHNN; đẩy mạnh trao đổi thông tin và khả năng liên
kết giữa các TCTD để hỗ trợ đảm bảo an toàn thanh toán. Đặc biệt, cần có kế hoạch đầu
tư hợp lý vào các giấy tờ có giá làm công cụ dự trữ thứ cấp để khi cần thiết có thể tham
gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ nói chung và nghiệp vụ thị trường mở nói riêng.
Phát triển đồng bộ của các thị trường khác, đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân
hàng và thị trường thứ cấp để thị trường mở hoạt động có hiệu quả.
3.2.2.2. Quản lý lãi suất
Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất. Bởi vì, mặc dù
mỗi công cụ có những đặc tính, khả năng tác động đến thị trường theo những cách khác
nhau, với mức độ cũng không giống nhau, song cho dù công cụ nào thì tín hiệu cuối cùng
của nó sau khi phát ra cũng dẫn đến sự thay đổi về giá - lãi suất, dù đó là tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc hay mua tín phiếu bắt buộc… Việc điều chỉnh lãi suất cần linh hoạt, gắn với thị
trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người
vay tiền để tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn cao
hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh
tế. Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất
ngắn hạn trong từng thời kỳ. Việc duy trì các mức lãi suất ưu đãi cho các đối tượng dân
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
127
cư gặp điều khó khăn là phù hợp; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
128
kênh tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc doanh.
NHNN cũng cần duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách
hợp lý, từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên đất Việt Nam.
3.2.2.3. Dự trữ bắt buộc
Công cụ quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một công cụ mạnh trong chính sách tiền
tệ, có ảnh hưởng lớn đến lượng tiền cung ứng. Đây là công cụ thiếu linh hoạt. NHTW rất
khó có thể thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi
dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, việc thương xuyên sử dụng công cụ này sẽ khiến cho các ngân
hàng gặp khó khăn trong công tác nguồn vốn. Do vậy, trong cơ chế thị trường thì NHNN
cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đưa ra phải phù
hợp với diễn biến thị trường tiền tệ, với mục tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các tổ
chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Ngoài ra, NHNN cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành
dự trữ bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế dự trữ để
đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính, thực hiện tốt mục tiêu CSTT. Đồng thời,
NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các qui chế dự trữ
như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho
số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài
chính NHNN.
Trong thời gian trước mắt, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có
thể cần giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình
huy động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Trong tương lai, khi thị trường tiền
tệ, thị trường vốn đã phát triển, các công cụ khác có thể phát huy tác dụng một cách một
cách mạnh mẽ thì ngân hàng Nhà nước nên giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
129
để họ được linh động, mạnh dạn hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
130
3.2.2.4. Cho vay tái chiết khấu
Cùng với xu hướng tự do hoá lãi suất thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ
ngày càng tăng lên, trở thành một công cụ gián tiếp điều tiết lãi suất thị trường một cách
hữu hiệu, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Trong giai đoạn 2007 đến nửa đầu năm 2010, công cụ cho vay tái chiết khấu được
sử dụng khá hiệu quả, đặc biệt trong năm 2008 khi NHNN thực hiện hỗ trợ vốn cho hệ
thống NHTM. Trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy ưu điểm của công cụ này, NHNN
nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án cho vay tái cấp vốn, tái
chiết khấu vì điều này ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả việc điều chỉnh mức cung tiền.
Đồng thời, cần phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lượng) để NHNN
có cơ sở chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu, tạo ra tín
hiệu tốt đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM.
3.2.2.5. Hạn mức tín dụng
NHTN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần phải theo
dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ can thiệp vào hoạt
động này trong điều kiện cụ thể.
3.2.3. Kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa (CSTK) tác động đến chi tiêu Chính phủ, đến tiêu dùng và đầu
tư thông qua hệ thống thuế và chi tiêu chính phủ, xét đến cùng là tác động đến tổng cầu.
Chính sách tiền tệ (CSTT) tác động đến đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu ròng bằng cách tác
động đến lãi suất và cung tiền, qua đó tác động đến tổng cầu. Cả hai chính sách đều tác
động đến tổng cầu nhưng mỗi chính sách lại gây ra những sự thay đổi khác nhau trong
thành phần của tổng cầu theo các cơ chế khác nhau. Việc kết hợp hai chính sách nhằm
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
131
biến đổi các thành phần của tổng cầu có vai trò quan trọng trong điều tiết nền kinh tế.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
132
Khi tổng cầu ở mức thấp, có thể dùng chính sách tài khóa mở rộng và tiền tệ mở
rộng để nâng cao tổng cầu. Khi tổng cầu ở mức cao thì có thể dùng chính sách tài khóa
thắt chặt và tiền tệ thắt chặt để kiềm chế tổng cầu. Khi tổng cầu ở mức vừa phải thì có thể
sử dụng hỗn hợp chính sách tài khóa mở rộng - tiền tệ thắt chặt hoặc tài khóa thắt chặt -
tiền tệ mở rộng để biến đổi tổng cầu cho phù hợp với mục tiêu kinh tế và các chỉ tiêu, hạn
mức của các chính sách.
Trong thực tế, việc phối hợp CSTT và CSTK ở Việt Nam đã có những chuyển biến
tích cực, nhất là trong việc chỉ đạo điều hành giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Bộ
Tài chính, có sự phối hợp trong việc phát hành tín phiếu kho bạc, xác định lãi suất phát
hành trái phiếu Chính phủ, Luật NHNN cũng đã qui định là không phát hành tiền để bù
đắp thâm hụt ngân sách, tiền gửi kho bạc phải gửi tại NHNN. Hàng năm, Quốc hội thông
qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu và khống chế mức thâm hụt ngân sách trong tỉ lệ
nhất định, việc chỉ đạo điều hành của Chính phủ cũng đảm bảo sự nhất quán giữa mục
tiêu CSTT và CSTK. Đây là việc làm cần thiết, cần được phát huy trong thời gian sắp tới.
Tuy nhiên, chính sách tài khóa và tiền tệ vẫn còn thiếu sự phối hợp trong quá trình điều
hành, chưa có sự nhất quán giữa việc xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ với chính
sách lãi suất của NHNN. Bên cạnh đó, NHNN cũng không nắm được các khoản thu chi
lớn của ngân sách nhà nước, nên bị động trong việc kiểm soát cung tiền trước tác động
của các dòng tiền trong khu vực Chính phủ. Để đảm bảo hiệu quả phối hợp giữa CSTT và
CSTK, cần có sự thống nhất trong các chính sách nhằm đảm bảo mục tiêu chung, đồng
thời cân nhắc tác động trái chiều của các chính sách, tăng cường trao đổi thông tin giữa
Bộ Tài chính và NHNN để làm cơ sở xây dựng và thực thi các biện pháp chính sách một
cách có hiệu quả và kịp thời.
Hiện tại, nền kinh tế thế giới còn chứa nhiều bất ổn. Vấn đề nợ công của châu Âu
còn chưa rõ ràng và lực cầu của các nền kinh tế vẫn còn yếu sau giai đoạn khủng hoảng,
không loại trừ khả năng suy thoái sẽ quay trở lại. Các gói kích thích kinh tế trong năm
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
133
2009 thực chất là việc kết hợp chính sách tiền tệ mở rộng và tài khóa mở rộng nhằm kích
thích tổng cầu. Những gói kích thích kinh tế có vai trò tích cực trong hỗ trợ tăng trưởng
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
134
kinh tế trong năm 2009. Tuy nhiên, hệ quả của gói kích thích kinh tế sẽ biểu hiện thông
qua lạm phát và thâm hụt ngân sách. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc điều hành kinh tế
trong giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, đối với các gói kích thích kinh tế, cần tăng cường kiểm
soát chất lượng các khoản tín dụng hỗ trợ lãi suất, kiểm soát tín dụng cho các mục tiêu
kinh doanh chứng khoán và bất động sản, tránh gây tổn thương cho hệ thống tài chính
trước những biến động giá của tài sản và sự thiếu hiệu quả của các dự án đầu tư. Việc rút
kinh nghiệm và đánh giá hiệu quả từ các gói kích thích kinh tế là việc làm cần thiết trong
giai đoạn hiện nay.
Về dài hạn, cần cải cách cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các
khoản chi tiêu, có biện pháp giảm thất thoát trong chi tiêu đối với các dự án và công trình
lớn nhưng không hiệu quả, đảm bảo yêu cầu kiểm soát chi tiêu hiệu quả hơn là chỉ nhằm
mục tiêu kiểm soát việc chấp hành chế độ. Có biện pháp quyết liệt về cải cách doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đặc
biệt là vốn ngân sách nhà nước. Rà soát lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, xử lý kiên
quyết các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Cần tính đến ảnh hưởng tiêu cực của chính sách
vay nợ nước ngoài liên quan đến tỉ giá, hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại,
không để ảnh hưởng xấu đến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả của công tác dự báo kinh tế
Lạm phát hiện tại là phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của thời kỳ trước. Lạm phát
trong hai năm 2007 và 2008 đã chứng minh cho nhận định này. Việc dự báo tốt lạm phát
trong thời gian sắp tới có vai trò quan trọng trong điều hành chính sáh tiền tệ.
Chính sách tiền tệ luôn có một độ trễ nhất định. Nguyên nhân là do cơ chế lan
truyền của chính sách. Chính sách tiền tệ tác động đến lãi suất và cung tiền, qua đó ảnh
hưởng đến đầu tư. Việc đầu tư của các hãng kinh doanh thường được lên kế hoạch theo
một năm, nửa năm. Việc điều hành chính sách tiền tệ không có lộ trình từ trước sẽ không
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
135
mang lại hiệu quả cao. Để chính sách tiền tệ thực sự phát huy tác dụng thì chính sách tiền
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
136
tệ phải đi trước, phải chủ động trong thực hiện. Điều này chỉ thực hiện được khi làm tốt
công tác dự báo kinh tế.
Đoàn trường Đại học Ngoại thương
Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học
NT-302, trường Đại học Ngoại thương
91 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: svnckh@gmail.com
137
KẾT LUẬN
Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, điều này
mang lại rất nhiều cơ hội song cũng không ít thách thức cho nền kinh tế Việt Nam. Để giữ
vững mục tiêu phát triển của đất nước các nhà hoạch định chính sách cần hết sức thận
trọng việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tê phù hợp với mỗi thời kỳ.
Đề tài nhóm nghiên cứu thực hiện đã phản ánh mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ
với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Có thể thấy, trong suốt giai đoạn
2007 đến nay, mặc dù nền kinh tế Việt Nam vấp phải nhiều khó khăn thách thức tuy
nhiên, nhìn chung chính sách tiền tệ đã đạt được các mục tiêu cơ bản của nó. Mặc dù vậy,
việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ vẫn còn rất nhiều điều bất cập.
Qua mối quan hệ giữa việc thực thi chính sách tiền tệ với các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, có thể rút ra bài học đó là trong việc hoạch
định và thực thi chính sách tiền tệ, NHNN cần hết sức quan tâm tới ảnh hưởng, tác động
của chính sách đối với sự phát triển kinh tế trong dài hạn. Và để đạt được các mục tiêu cơ
bản của chính sách tiền tệ, NHNN phải không ngừng rút ra các kinh nghiệm và bài học từ
quá khứ, đồng thời phải có sư độc lập trong việc hoạch định chính sách. Ngoài ra, các
công cụ của chính sách tiền tệ cần đươc hoàn thiện hơn; cần có sự phối hợp nhip nhàng
giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để chính sách tiền tệ có thể mang lại những
động lực tích cực cho nền kinh tế phát triển bền vững.
1
1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Tài chính - Tiền tê - Ngân hàng, NXB Thống
kê, 2008
PGS.TS Nguyễn Văn Công, Bài giảng và thực hành kinh tế vĩ mô II, NXB Lao động
Điểm lại tình hình phát triển kinh tế Việt Nam-Ngân hàng Thế giới năm, 2009
ThS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Tác động của lãi suất đến tăng trưởng, lạm phát và vai
trò điều tiết lãi suất thị trường của NHTW, 2008.
TS.Châu Đình Phương, Thực thi chính sách tiền tệ năm 2007-Những thách thức phải
đối mặt, Tạp chí ngân hàng, số 2+3/2008
Tài liệu Tiếng Anh:
Business Monitor International Ltd, Vietnam business forecast report, includes 10-
year forecast to 2019, 2009.
Ulrich Camen, Monetary in Vietnam, the case of a transition country
Milton Friedman, The role of moneytary policy.
Các website:
2
2
Phụ lục 1:
Mối quan hệ giữa cán cân thƣơng mại, đầu tƣ và tiết kiệm
Trong một nền kinh tế đóng không có hoạt động xuất nhập khẩu ta có:
Y = C + I + G (1)
Trong đó, Y là thu nhập quốc dân, C là tiêu dùng, I là đầu tư, và G là chi tiêu chính phủ.
Đẳng thức (1) ở trên được viết lại là
Y - C – G = I (2)
Y – C – G là tiết kiệm, gọi là S. Ta sẽ có S = I. Như vậy trong nền kinh tế đóng, bao giờ
cũng có sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư.
Trong nền kinh tế mở có các hoạt động XNK, nên đẳng thức (2) sẽ được viết như sau
Y = C + I + G + (EX-IM) (3)
Trong đó EX là xuất khẩu, IM là nhập khẩu.
Số chênh lệch (EX-IM) là thâm hụt/thặng dư thương mại.
Đặt NX (net export) = EX-IM , ta có:
NX = Y – C – G – I (4)
Vì (Y – C – G) chính là tiết kiệm S. Nên ta có thể viết là
NX = S – I (5)
Đẳng thức (5) cho biết một quốc gia có thặng dư thương mại là do có tỷ lệ tiết kiệm lớn
hơn đầu tư.
3
3
Hàm cầu tiền được xác định:
Phụ lục 2: Mô hình Cagan13
Trong đó, mt là hàm logarit của số lượng tiền tệ tại thời điểm t.
(1)
Phương trình là hàm logarit của mức giá cả tại thời điểm t, y là tham số đo độ nhạy cảm
của hàm cầu tiền đối với mức giá cả.
Do vậy, (mt – pt) là hàm logarit của cân bằng tiền thực tế, và (pt+1 – pt) là tỷ lệ lạm phát
giữa thời kỳ t+1 và t. Phương trình trên chỉ ra rằng: khi lạm phát tăng 1% thì lượng tiền
thực tế giảm y%.
Một số giả định cho hàm cầu tiền:
Để loại bỏ mức tăng sản lượng là một nhân tố của cầu tiền, chúng ta giả định sản
lượng là một hằng số.
Do quan tâm đến tỷ lệ lạm phát hơn là lãi suất danh nghĩa, giả định rằng lãi suất
thực tế là một hằng số.
Do quan tâm đến lạm phát thực hơn là lạm phát kỳ vọng, giả định rằng sự dự tính
trước là hoàn hảo.
Để thể hiện mức giá cả là một hàm của lượng tiền hiện tại và tương lai, (1) được viết lại
như sau:
(2)
Phương trình (2) thể hiện rằng mức giá hiện tại pt là bình quân gia quyền của lượng cung
tiền hiện tại và mức giá trong thời kỳ tiếp theo pt+1.
Mức giá của thời kỳ tiếp theo được xác định tương tự:
13
Milton Friedman, The Monetary Dynamics of Hyperin ation/Studies in the Quantity Theory of Money, University
of Chicago Press, 1956
4
4
(3)
Thay (3) vào (2) ta có:
(4)
Tương tự thể hiện pt+2, pt+3,….. ta có:
(5)
Phương trình (5) thể hiện lạm phát hay mức giá hiện tại phụ thuộc vào mức cung tiền hiện
tại và mức cung tiền tương lai.
Vì tương lai không chắc chắn, nên hàm cầu tiền được viết lại như sau:
Trong đó, Ept+1 là kỳ vọng về mức giá.
(6)
Phương trình (6) chỉ ra rằng cân bằng tiền thực tế phụ thuộc vào kỳ vọng về lạm phát.
Phương trình (6) bây giờ giống dạng với phương trình (1).
Lặp lại tương tự những bước ở trên ta có:
5
5
(7)
Phương trình (7) chỉ ra rằng mức giá hiện tại phụ thuộc vào mức cung tiền hiện tại và kỳ
vọng vào mức cung tiền tương lai.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- YRCGiai phap nang cao hieu qua dieu hanh chinh sach tien te cua Viet Nam.pdf