Đề tài Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm thép Việt Nam

Ngược lại khi cung một hàng hoá nào đó trên thị trường thấp hơn cầu của hàng háo thì hàng hoá đó trở nên khan hiếm trên thị trường, giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuât mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất cảu những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàn toàn tự nhiên. Không theo và không cần bất cứ một mẹnh lệnh hành chinh nào cả của cơ quan nhà nước. Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến cải tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hạn giá thành và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn có hiệu quả, đông thời có những doanh nghiệp bị phá sản. Nhưng đối với xã hội phá sản doanh nghiệp khôn hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hoọi sẽ được chuyển sang cho các nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả hơn. vì vậy phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà làa sự huỷ diệt sáng tạo. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu qủa còn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội hơ là phá sản.

doc29 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu khách quan. Đối với một doanh nghiệp, điều kiện duy nhất duy trì sự tồn tại và phát triển là phải có những vị trí nhất định, chiếm lĩnh những phần thị trường nhất định.Muốn vậy các doanh nghiệp phải luôn luôn vận động biến đổi với tốc độ ít nhất là ngang bằng với đối thủ cạnh tranh. Vấn đề này lại càng trở nên gay gắt bức thiết hơn đối với các doanh nghiệp trong thời kỳ mở cửa hôị nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là khi Vịêt Nam tham gia AFTA, tiến tới là thành viên của WTO. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp Vịêt Nam sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều khi mà các rào cản cạnh tranh bị xoá bỏ và các nhà đầu tư nước ngoài vào nhiêug hơn. Nhận thức được điều này, tôi thấy việc nghiên cứu đề tài cạnh tranh có ý nghĩa thiết thực và rất cần thiết. Qua việc nghiên cứu này chúng ta có thể thấy được thực trạng và khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế cũng như các sản phẩm của Vịêt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp giúp đẩy mạnh phát triển các ngành này. Tuy nhiên đây là một đề tài rất rộng, để việc nghiên cứu hiệu quả hơn, chúng ta nên đi sâu vào một ngành, một sản phẩm cụ thể nào đó. Như chúng ta đã biết với mục tiêu sây dựng nước ta thành một nước công nghiệp đến năm 2010, thì sự phát triển của ngành công nghiệp là một trong nhnữg ván đề được qua tâm hàng đầu. Trong số các sản phẩm công nghiệp thì sản phẩm thép lại được coi là một sản phẩm chiến lựơc trong quá trình CNH – HĐH đất nước. Do đó chúng ta cần có những giải pháp để vừa phát triển mạnh ngành này vừa không để lại những sai lầm sau này mà nền kinh tế phải gánh chịu. Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã cố gắng hết sức để đạt được kết quả tốt. Song chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Mong các thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em đạt được kết quả tốt hơn và em chân thành cảm ơn các thầy cô đã nhiệt tình hướng dẫn em thực hiện đề tài này, đặc biệt là thầy giáo: GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn Chương 1 Khái quát về cạnh tranh và cạnh tranh sản phẩm 1.1. Khái quát về cạnh tranh 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh Trong thời đại ngày nay người ta luôn đặt ra những câu hỏi về cạnh tranh trong kinh tế như tại sao lại có khả năng cạnh tranh cao hay thấp? Tại sao lại thành công hay thất bại trong kinh doanh? Cạnh tranh đã trở thành một trong những vấn đề được quan tâm nhất của các Chính phủ và nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Tuy nhiên, không thể dễ dàng để có thể thống nhất được một khái niệm cạnh tranh nhằm đánh giá chung cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành các doanh nghiệp, các quốc gia , ở những góc độ xem xét khác nhau thì các mục cơ bản đặt ra khác nhau. Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là duy trì sự tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở canh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân. Khả năng cạnh tranh trước tiên là một khái niệm được dùng hạn chế trong phạm vi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có khả năng cạnh tranh và được đánh giá là có thể đứng vững cùng vơ- các nhà sản xuất khác, với các sản phẩm thay thế hoặc bằng cánh đưa ra các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn cho sản phẩm cúng loại, hoặc bằng cách cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. nói chung khi xác định tính cạnh tranh ( khả năng canh tranh ) của mỗi doanh nghiệp của một ngành cần xét đền tiềm năng sản xuất một hàng hoá hay dich vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp Nhiều định nghĩa về cạnh tranh đã được các tổ chức kinh tế, nhiều cuộc họp bàn về kinh tế đưa ra. Trong đó có một định nghĩa mà nó phản ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia nằm trong mối liên hệ trực tiếp với cạnh tranh của các doanh nghiệp, và lợi thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong họat động kinh doanh kinh tế, xác định cả mức thu nhập, việc làm và mức sống. Đó là định nghĩa do diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD đưa ra, nội dung định nghĩa: “ Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, và vùng việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong những điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Nhưng cạnh tranh cũng có thể hiểu theo nghĩa cụ thể hơn, trong một phạm vi hẹp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành lấy một nhân tố sản xuất, một khách hàng nhằm nâng cao vị thể của mình trên thị trường, để có thể đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể nào đó mà doanh nghiệp đã đặt ra. Song để hiểu rõ hơn về cạnh tranh chúng ta cần thấy được vai trò của cạnh tranh cũng như những tiêu cực mà nó gây ra. Từ đó hiểu được sự cần thiết của cạnh tranh trong cơ chế thị trường. 1.1.2. Những tích cực do cạnh tranh tạo ra Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác song xét dưới góc độ toàn xã hội cạnh tranh lhôn có tác động tích cực. Nó là năng lực phát triển kinh tế thị trường. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng. Tương tự như những nhận định trong lý thuyết về bàn tay vô hình của nhà kinh tế học AdamSmit. Tầm quan trọng của những chức năng này có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thịo trường. Khi cung của hàng hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những tổ chức kinh doanh nào đủ khả nanưg cải tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán sản phẩm mới có thể tồn tại. do đó, cạnh tranh là động lực thúc đẩy việc ứng dụng khoa học tiên tiến trong sản xuất. Ngược lại khi cung một hàng hoá nào đó trên thị trường thấp hơn cầu của hàng háo thì hàng hoá đó trở nên khan hiếm trên thị trường, giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuât mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất cảu những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàn toàn tự nhiên. Không theo và không cần bất cứ một mẹnh lệnh hành chinh nào cả của cơ quan nhà nước. Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến cải tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hạn giá thành và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn có hiệu quả, đông thời có những doanh nghiệp bị phá sản. Nhưng đối với xã hội phá sản doanh nghiệp khôn hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hoọi sẽ được chuyển sang cho các nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả hơn. vì vậy phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà làa sự huỷ diệt sáng tạo. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu qủa còn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội hơ là phá sản. Do vậy, cạnh tranh hướng việc sử dụng các nguồn lực vào những nơi có hiệu quả nhất. Đồng thời cạnh tranh tác động một cách tích cực đên phân phối thu nhập, nó hạn chế hành vi bóc lột trên cơ sở quyền lực thị trường và việc hình thành thu nhập không tương xứng với năng suất. Và là động lực thúc đẩy đổi mới. Tuy nhiên bên cạnh những tích cực đó, cạnh tranh cũng gây ra nhiều hạn chế khó khăn. 1.1.3. Những hạn chế do cạnh tranh gây ra Như chúng ta đã nhận thấy ở trên, cạnh tranh có rất nhiều tác động tích cực đến kinh tế – xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nước đều cố gắng duy trì cơ chế cạnh tranh trong nền kinh tế. Có thể coi cạnh tranh là động lực thúc đẩy tăng trưởng và tiến bộ kỹ thuật. Do vậy, cạnh tranh tạo điều kiện để tăng trưởng, để có cuộc sống khá hơn.Mặt này chúng ta không thể phủ nhận và không thể được loại bỏ. Nhưng mặt khác, cạnh tranh cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực. Cụ thể, có những tác động chính sau: Cạnh tranh là cản trở mục tiêu công bằng xã hội . cạnh tranh là điều kiện đem lại hiệu quả của họat động kinh tế. Mà nâng cao hiệu quả họat động kinh tế là phương sách tốt nhất để giúp cải thiện cuộc sống. Nhưng không phải vì thế mà không quan tâm đên xây dựng công bằng xã hội. Bởi vì, xét cho cùng sản xuất nói chung, tăng trưởng nói riêng là nhằm mục đích tối vao phục vụ cuộc sống con người theo hướng tốt đẹp hơn. Mọi sự tăng trưởng không chỉ cùng muc tiêu phục vụ con người, sớm hay muộn cũng bị loại bỏ. Lịch sử của các cuộc chiến tranh và diễn biến đàm phán vũ khí hạt nhân hiện nay là những ví dụ hùng hồn chứng minh điều đó. Trong khi đó, cạnh tranh nmang bản chất là kẻ mạnh thắng kẻ yếu, người may mắn thắng kẻ rủi ro, người thông minh thắng kẻ khờ khạo Cạnh tranh đối lập với sự hợp tác giúp đỡ, do vậy cơ chế cạnh tranh khong dung hòa trong nó sự công bằng cho những kẻ có thế lực, điểm xuất phát và lợi thế khác nhau. Chính vì thế ở các nước Tư Bản phát triển, Nhà nước một mặt khuyến khích cạnh tranh để tìm kiếm hiệu quả, mặt khác, phải có một cơ chế trợ cấp, từ thiện nào đó để giúp đỡ người thất nghiệp, người nghèo nhằm tránh xảy ra xung đột gay gắt và mất ổn định xã hội do quá mất công bằng tạo ra. Bên cạnh đó, luật pháp không bao giờ có thể đảm bảo không có kẽ hở cho cạnh tranh không lành mạnh tồn tại. để có được lợi thế hơn trong cạnh tranh, các tổ chức kinh doanh có tiềm lực tài chính mạnh có thể dùng đồng tiền đê làm sai lệch luật pháp, lái luật pháp đi theo hướng có lợi cho mình, thậm chí tha hoá, vô hiêụ hoá các cá nhân, tổ chức có ảnh hưởng đến quá trinhf lập pháp và hành pháp. Ngoài ra các tổ chức kinh doanh có thể sẽ lợi dụng những kẽ hở của luật pháp để kinh doanh. luật pháp Nhà nước chỉ được xây dựng đồng bộ, đầy đủ nhưng vẫn còn những kẽ hở, ở lĩnh vực nào thiếu luật hoặc luật chưa hoàn thiện thì ỏ đó xuất hiện tình trạng tiêu cực hay “luật rừng”. Khi văn bản luật chồng chéo, không đồng bộ thì các doanh nghiệp tìm kiếm cách thức tạo ra lợi nhuận, lợi thế nhằm tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp vươn lên ( các thủ đoạn thường thấy nhất là lợi dụng sơ hở trong luật thuế, hay trong nghiệp vụ ngân hàng và thế chấp, cho vay, bảo hiểm). Những thủ đoạn này dễ thấy nhất ở các quốc gia vừa mới bứơc vào nền kinh tế thị trường với một hành lang pháp lý còn lỏng lẻo. Cạnh tranh một tác nhân tác động đến sự phân hoá giàu nghèo tương đối trong xã hội. Tuỳ thuộc vào năng lực quản lý, vào công nghệ và nhiều yếu tố biến đổi khác, luôn có hiện tượng một số doanh nghiệp khá lên, một số doanh nghiệp kém hơn, một số doanh nghiệp khác có nguy cơ phá sản thực sự. Có nghĩa là sẽ có người mất điều kiện có thu nhập và có người thu nhập nhiều hơn. Như vậy, cạnh tranh làm sâu sắc hơn sự khác biệt về thu nhập giữa những người, những tầng lớp, những giới có năng lực, điều kiện và cơ hội khác nhau. Đôi khi nó tạo a cả sự chênh lệch rất lớn giữa người mất hết và người được cả. Cạnh tranh có thể dẫn đến độc quyền kinh doanh. Độc quyền trong kinh doanh là việc một doanh nghiệp hay một tập đoàn kinh tế với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Đó là ước mơ của hầu hết các doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều ước muốn tồn tại và phát triển mà không phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh khác. Độc quyền trong kinh doanh thường gây ra những hậu quả tiêu cực đối với nên kinh tế quốc dân. Nó là nhân tố kìm hãm động lực phát triển của nên kinh tế. Bởi lẽ, với thế độc quyền, người sản xuất không cần quan tâm đến cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất và phương thức quản lý mà vẫn thu được lợi nhuận đặc biệt cao. Độc quyền trong kinh doanh sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn cao, làm ảnh hưỏng đến lợi ích của người tiêu dùng. Độc quyền trong kinh doanh là yếu tố hạn chế tự do kinh doanh và văn minh thương mại. Cạnh tranh là một nguyên nhân làm tăng ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Cạnh tranh là động lực của đổi mới. Nó thúc đẩy những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Cùng với những ứng dụng này làm cho các doanh nghiệp, các ngành phát triển rất nhanh cả về quy mô, phạm vi, tốc độ và cơ cấu. Năng suất lao động ngày càng cao. Hàng loạt những ngành mới ra đời. Điều này dẫn đến việc khai thác sử dụng tài nguyên với một khối lượng lớn hơn trứơc đó rất nhiều lần, làm cho nguồn tài nguyên trở nên cạn kiệt. Cùng với đó là lượng chất thải từ sản xuất và tiêu dùng ngày càng tăng lên, mứ độ ô nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng. Trong khi cạnh tranh, các chủ thể kinh tế thường vì lợi ích trước mắt mà khai thác sử dụng tài nguyên không hợp lý, thậm chí khai thác bừa bãi. Bên cạnh đó, do chỉ tập trung vào những lợi ích phát triển kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình trên thị trường, các chủ thể kinh tế tìm mọi cách giảm chi phí, tăng lợi ích cho mình nên họ ít quan tâm đến việc tăng cường xử lý chất thẩi để bảo vệ môi trường. Mặc dù những hạn chế trên, nhữn những lợi ích to lớn mà nó mang lại, cùng với những lý do khác, cạnh tranh trở thành tất yếu trong cơ chế thị trường không những đối với từng doanh nghiệp, mà còn đối với từng ngành, từng quốc gia, khu vực. Do đó vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là làm sao vừa duy trì cơ chế cạnh tranh trong nền kinh tế, vừa nâng cao vị thế của mình trên thị trường quốc tế trong thời đại kinh tế hội nhập hiện nay. Đồng thời có biện pháp khắc phục được những tiêu cực của cạnh tranh. 1.1.4. Cạnh tranh – Tất yếu trong cơ chế thị trường Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Trên góc độ doanh nghiệp, trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Điều kiện duy nhất duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường là doanh nghiệp đó phải có những vị thế nhất định, chiếm lính những phần thị trường nhất định. Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn bị các đối thủ khác bao vây. Vì vậy, để tồn tại trong thị trường doanh nghiệp luôn phải vận động biến đổi với tốc độ ít nhất là ngang bằng với đối thủ của mình. Trên thực tế ta thấy rõ những thập kỷ vừa qua, thế giới kinh doanh sống trong môi trường biến động không ngừng, mà mà những giao động của nó làm cho các nhà kinh tế phải ngạc nhiên, mọi dự đoán đều không vượt quá năm năm. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, các quốc gia tăng nhanh. Hầu hết các thị trường đều được quốc tế hoá. Chỉ có những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh mới có thể tồn tại trong thị trường này. Vì vây, cạnh tranh là vấn đề tất yếu đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nếu không có khả năng cạnh tranh thì sớm muộn sẽ bị đối thủ tiêu diệt. Trên góc độ quốc gia, việc duy trì cơ chế cạnh tranh sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh, cải tiến đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản lý. Từ đó nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội. Đồng thời, nó hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất, tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực xã hội. Cạnh tranh cũng tác động tích cực tới phân phối thu nhập. Do đó, cạnh tranh là điều kiện để nâng cao hiệu quả của họat động kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Trong thời đại thị trường được quốc tế hoá hiện nay, và cạnh tranh là điều kiện để thị trường trong nước ngày càng phát triển. Tạo ra sự thu hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào kinh doanh. Đây là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia. Đồng thời, việc các nhà đầu tư nước ngoài vào kinh doanh sẽ gây ra ấp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận. Do vậy họ sẽ tìm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình để thu được nhiều lợi nhuận nhất, các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại và phát triểnbuộc phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Đó cũng là hy vọng của quốc gia, bởi khi các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài thì sẽ đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Đồng thời cũng tránh được nguy cơ các nhà đàu tư nước ngoài chi phối thị trường và do đó có thể chi phối các quyết định chính sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước cần vươn ra thị trường quốc tế, làm cho sản phẩm của mình cạnh tranh đựơc trên thị trường này, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu tăng lợi ích cho quốc gia. Sau đây chúng ta sẽ xem xét cạnh tranh trên góc độ cụ thể hơn. Đó là cạnh tranh sản phẩm. 1.2. Khả năng canh tranh của sản phẩm 1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh của sản phẩm Sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất, là nỗ lực sản xuất của doanh nghiệp, và nó là cái mà doanh nghiệp hy vọng sẽ đem lại lợi ích cho mình. Các doanh nghiệp luôn mong muốn sản phẩm của mình tìm được chỗ đứng trên thị trường, được khách hàng chấp nhận. Chữ tín của sản phẩm quyết định chữ tín của doanh nghiệp và tạo lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh. Như vậy, muốn sản phẩm của mình có khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp cần xây dựng chữ tín cho bsản phẩm đó. Có thể hiểu khái quát khả năng cạnh tranh của sản phẩm là khả năng giành dật được lợi thế về thị phần so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Cụ thể hơn, khả năng cạnh tranh của sản phẩm là khả năng tạo ra những lợi thế so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trong việc đáp ứng các đòi hỏi của thị trường, và được thị trường chấp nhận. Do tính chất quyết định của sản phẩm đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Không còn cách nào khác đối với doanh nghiệp là phải tìm mọi biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm mình. Chúng ta sẽ xem xét một số mặt chủ yếu đánh giá nỗ lực của doanh nghiệp trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh cuả sản phẩm. 1.2.2. Tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thường được đánh giá thông qua các tiêu thức chủ yếu sau: Chất lượng sản phẩm: Là một trong những nhân tố quan trong nhất quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Tuỳ theo từng sản phẩm khác nhau với các đặc điểm khác nhau mà chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm khác nhau. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường. Nếu sự chênh lệch về chất lượng sản phẩm giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh trạnh lớn hơn chênh lệch về các yếu tố khác thì khách hàng sẽ đến với sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn so vơi đối thủ cạnh tranh. Vì sản phẩm của doanh nghiệp đem lại niều lợi ích hơn cho người tiêu dùng. Khi đó, việc chiếm được một phần thị trường lớn nằm trong khả năng của doanh nghiệp. Bao bì của sản phẩm cũng là một trong những công cụ cạnh tranh trong kinh doanh. Đặc biệt là đối với những sản phẩm có giá trị sử dụng cao hoặc lương thực thực phẩm. Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm cho phù hợp. Cơ cấu thường thay đổi theo sự thay đổi cảu thị trường. Đặc biệt là những cơ cấu có xu hướng phù hợp với ngươì tiêu dùng. Bao bì hiện nay khồn chỉ có chức năng bảo vệ sản phẩm, tạo ra sự thuận tiện trong việc bảo quản sử dụng mà còn có chức năng marketing. Nó giúp cung cấp thông tin về sản phẩm, về doanh nghiệp, là công cụ để gây sự chú ý của khách hàng, kích thích tiêu thụ, tạo uy tín và ấn tượng cho sản phẩm của doanh nghiệp. Khi sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra được những lợi thế trên so với đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có ưu thế trong cạnh tranh. Nhãn mác, uyb tín cảu sản phẩm là một công cụ dùng để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng. Doanh nghiệp xây dựng được uy tín về hình ảnh, nhãn mác của mình trên thị trường thì doanh ngiệp sẽ thu hút được người tiêu dùng về phía mình và họ sẽ tìm mua những sản phẩn của doanh nghiệp. Do vậy, sản phẩm của doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao. Giá là một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nếu như chênh lệch về giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn đối thủ cạnh tranh . Vì lẽ đó, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng và cũng có nghĩa là sản phâmr của doanh nghiệp có vị thế cạnh tranh ngày càng cao. Tuy nhiên, để đạt được mức giá thấp doanh nghiệp cần phải xem xét khả năng hạ giá sản phẩm của đơn vị mình. Có càng hiều khả năng hạ giá sẽ có nhiều lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. Khả năng hạ giá phụ thuộc vào các yếu tố: Chi phí về kinh tế thấp, khả năng bán hàng tốt, do đó khối lượng hàng bán lớn, khả năng về tài chính. Hệ thống kênh phân phối và bán hàng cũng có vai trò quan trọng trong cạnh tranh. Khả năng đa dạng hoá các kênh phân phối phù hợp với sự đa dạng của cơ cấu sản phẩm tạo ra hiệu quả cao trong tiêu thụh sản phẩm. Việc phân định đâu là kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa trong việc quyết định trong việc tối thiểu hoá chi phí giành cho tiêu thụ sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp sử dụng các đại lý độc quyền thì việc tìm được các doanh nghiệp thương mại làm đại lý cho doanh nghiệp có đủ sức chi phối được lượng bán hàng trong kênh trên thị trường có ý nghĩa rất quan trọng, cũng như việc có được kênh phân phối chủ đạo, chiếm tỷ lệ chính trong tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm của mình đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều kênh phân phối và trực tiếp quản lý các kênh phân phối. Doanh nghiệp cũng có thể nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình nếu thành lập được hệ thống bán hàng phong phú, hiện đại, có khả năng kết dính các kênh phân phối với nhau, có khả năng hợp tác giữa những người bán hàng trên thị trường, có các dịch vụ trước và sau bán hàng hơp lý, kết hợp hợp lý giữa phương thức bán và phương thức thanh toán sao cho đảm bảo lợi ích của người bán và người mua, người tiêu dùng tốt nhất và công bằng nhất. Tính độc đáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên thị trường đều mang một chu kỳ sống nhất định, đặc biệt “ vòng đời” của nó sẽ rut ngắn khi xuất hiện cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, các doanh nghiệp dùng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp thường xuyên cải tiến mọi mặt cảu sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tuung ra thị trường những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ. Sự thay đổi thường xuyên mẫu mã, nhãn hiệu hàng hoá cũng như việc không ngừng nâng cao chất lượng, tính năng sản phẩm sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà doanh nghiệp cần phải chú ý để có biện pháp hữu hiệu nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm Không thiếu những lý giải về khả năng cạnh tranh cũng như những yếu tố quyết định của cạnh tranh dẫn đến thành công hay thất bại ở một số doanh nghiệp, một số ngành, một số các quốc gia. Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm có phạm vi rất rộng. Tuy nhiên, thông thường có các nhân tố chủ yếu sau: Năng suất lao động. Đây là yếu tố phản ánh trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ cho sản xuất. Nếu máy móc thiết bị được trang bị hiện đại, trình độ tay nghề của công nhân cao phù hợp với trình độ máy móc thiết bị và có trình độ tổ chức quản lý tốt thì công việc quản lý kinh doanh sẽ suôn sẻ, năng suất lao động sẽ cao, tạo ta được nhiều lợi thế so với đối thủ, khẳng định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để đạt được điều đó cần phải kết hợp nhuần nhuyễn cả ban yếu tố trên. Thiếu một trong ba yếu tố đó ( máy móc thiết bị, lao động và tổ chứ quản lý ) thì khó đạt được một sức cạnh tranh có thể chiến thắng trên thị trường. Bối cảnh kinh tế vĩ mô ( khi chúng ta xem xét cạnh tranh quốc tế ). Các thiết chế chính trị và luật pháp xác lập bôi cảnh tỏng thể. Môi trường chính tị ổn định và thiết chế chính rị vưng chắc là những điều kiện tiên quyết đối với cạnh tranh. Các chính sách kinh tế vĩ mô như vai trò hạn chế của Chính phủ trong nền kinh tế, sự mở cửa các thị trường quốc tế thúc đẩy thị trường trong nước phát triển. Tuy nhiên, sự vững chắc của các yếu tố trên vẫn chưa đủ để đảm bảo cho sự cạnh tranh. Vì vậy, muốn có sự gia tăng bền vững trong năng suất và cạnh tranh chúng ta phải xem xét cách thức mà năng suất có thể được nâng cao trong doanh nghiệp cũng như ở cấp độ ngành. Họat động và chiến lược của doanh nghiệp. Họat động hiệu quả là cái đầu tiên và cơ bản nhất quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, là phải có chiến lược hợp lý nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh hiệu quả cho sản phẩm. Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên lợi thếa lao động rẻ tiền và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả của nó là năng suất thấp. Vì vậy, muốn nâng cao cạnh tranh, chúng ta cần có sự thay đổi về chiến lược. Lợi thế phải chuyển từ lợi thế so sánh sang lợi thế cạnh tranh dựa trên năng lực đổi mới của các doanh nghiệp và khả năng của chúng trong việc nâng cấp hoặc thay đổi các sản phẩm và quy trình. Sự linh họat: Yếu tố này biểu hiện sự nhạy bén của lãnh đạo doanh nghiệp. Muốn thàng công trong cạnh tranh thì doanh nghiệp ( hay ngành ) phải chủ đọng dự đoán được những biến động của thị trường, đi trước đối thủ cạnh tranh trong việc đáp ứng những thay đổi nhu cầu đó. Không chỉ thế, doanh nghiệp cần phải đưa ra những loại sản phẩm mới thay thế sản phẩm của đối thủe cạnh tranh, thậm chí phải thường xuyên thay đổi chủng loại sản phẩm của chính mình theo xu hướng ngày càng tốt hơn về chất lượng rẻ hơn về giá thành. Vị thế của doanh nghiệp ( ngành ) trên thị trường: Biểu hiện ở thị phần mà doanh nghiệp chiếm lĩnh, uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, bạn hàng, thậm chí là cả với đối thủ cạnh tranh. Đây là tái sản vô hình đặc biệt quan trọng. Nó tạo ra lợi thế to lớn cho doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh. Nếu doanh nghiệp có ưu thế hơn đối thủ ở trên thị trường thì doanh nghiệp càng có khả năng mở rộng được thị phần, nâng cao doanh số, tăng lợi nhuận. Những nhân tố trên có tác động rất lớn đến việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp ( hay ngành nào đó ). Chương 2 Khả năng cạnh tranh hiện tại của sản phẩm thép Việt Nam Thép không phải là ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển của nước ta trong 10 năm tới. Song, Thép là một ngành công nghiệp nặng quan trọng của nên kinh tế quốc dân, đóng vai trò lớn trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Do đó, chính sách đầu tư phát triểnm ngành Thép rất đáng quan tâm và phải được tính toán lỹ, có luận cứ khoa học và thực tiễn để vừa đảm bảo cho ngành Thép phát triển vừa tránh được những rủi ro lớn đối với nền kinh tế đất nước sau này. Xuất phát từ vấn đề đó, chúng ta cần xem xét khả năng cạnh tranh hiện nay của sản phẩm Thép Việt Nam so với các nước khác trên thế giới, tìm ra những điểm manhk điểm yếu để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm này. Điều này lại trở nên quan trọng khi mà thời điểm Việt Nam phải thực hiện những cam kết của khub vực mậu dịch tự do ASEAN. Các hàng hoá của Việt Nam nói chung và sản phẩm Thép nói riêng phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng hoá các nước trong khu vực vào thị trường nước ta khi thuế suất hàng hoá nhập khẩu chỉ còn từ 0 – 5%. 2.1. Khả năng cạnh tranh hiện tại của sản phẩm Thép Việt Nam Năm 2002 sản lượng Thép cán toàn ngành đạt 2.38 triệu tấn tăng 25.4% so với năm 2001. Trong đó Tổng công ty Thép Viêt Nam đạt 782 nghìn tấn, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1101.5 nghìn tấn, các thành phần khác 501 tấn. Riêng phôi Thép sản xuất trong nước đạt 450 nghìn tấn, tăng 18% so với năm 2001, trong đó Tổng công ty Thép Việt Nam 390 nghìn tấn. Sản xuất phôi thép trong nước chỉ mới đáp ứng được trên 10%. Tổng công suất thiết kế của toan ngành ( 3 triệu tấn/năm ). Hiện trong nước chỉ có Tổng công ty Thép Việt Nam đầu tư các cơ sở luyện thép quy mô công nghiệp với công suất 450000 – 500000 tán phôi thép/năm , đáp ứng 50 – 55% nhu cầu cho các cơ sở cán thép của Tổng công ty. Trong quý IV năm 2002, nhiều công ty sản xuất thép trong nước và công ty bthép liên doanh đều kêu là thua lỗ. Nguyên nhân là do giá phôi thép nhập khẩu liên tục tăng, làm cho giá thành tăng trong khi đó Nhà nước vẫn cố định giá trần. Chẳng hạn vào đầu năm giá phôi thép chỉ khoảng 180 USD/tấn, thì cuối năm 2002 đã tăng lên vào khoảng 225 – 240 USD/tấn. Đặc biệt sang những tháng đầu năm 2003 giá phôi thép đã tăng lên 300 USD/tấn. Điều này làm cho giá thành sản xuấy thép trong nước bị đẩy lên rất cao, trong khi Nhà nước lại quy định giá trần thấp ( giá xuất xưởng thép thanh hiện đanh ở mức 4600 – 4700 đồng/kg, trong khi giá trần quy định là 4900 đông/kg ). Một nguyên nhân khá quan trọng khác là do lượng nhập khẩu và sản xuất trong nước đều tăng mạnh, làm cho lượng tồn kho thép cuộn tăng mạnh. Trong 11 tháng đầu năm 2002, cả nước đã nhập khẩu khoảng 1.969 triệu tấn phôi thép, trị giá 409 triệu USD, tăng 30% về số lượng và 445% về giá trị ( chủ yếu là do giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng). Trong khi đó, lượng thép thành phẩm nhập khẩu tăng ít hơn phôi thép nhập khẩu nhưng cũng tăng rất mạnh. Trong 11 tháng đó cả nước nhập khẩu 2.558 triệu tấn thép thành phẩm, trị giá 792 triệu USD,tăng 28% về số lượng và 37% về giá trị. Mặt khác giá thuế nhập khẩu phôi thép cũng tăng ( từ 3% lên 7%) vf từ 1/1/2003 tăng lên 10%, tỷ giá giữa đồng Vịêt Nam và đồng USD cũng tăng gần 9%, giá điện, xăng dầu, cước phí vận chuyển cũng tăng lên. Qua thực tế trên, chúng ta nhận thấy hiện nay sản phẩm thép Việt Nam dang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức trong việc sản xuất, tiêu thụ, cũng như cạn tranh với sản phẩm thép bên ngoài, và cần phải có biện pháp giải quyết đúng đắn. Về mặt lý thuyết, khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào ba yếu tố cơ bản là chất lượng, chi phí và sự khác biệt. Trong trường hợp ngành thép Việt Nam thì sự khác biệt chủ yếu là xây dựng hình ảnh sản phẩm Thép Việt Nam. Khi so sánh những yếu tố này giữa sản phẩm thép Việt Nam với sản phẩm thép của các nước trong khu vực thì chúng ta sẽ thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm thép Việt Nam trong cạnh tranh. 2.1.1. Điểm mạnh Theo các nhà quản lý tại các công ty liên doanh đánh giá, thì lực lượng lao động Việt Nam được đoà tạo cơ bản khá tốt so với các nước trong khu vực, có khả năng sáng tạo và thích nghi cao với công việc mới. Khả năng đó nếu bồi dưỡng thêm một số kỹ năng thực hành thì họ sẽ trở nên rất giỏi. Chi phí lao động được coi là một trong những lợi thế cơ bản và lâu dài ở Việt Nam. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ hiện đại trong ngành thép, trong tương lai, nhu cầu sử dụng lao động sẽ ít và yêu cầu lao động có trình độ chuyên môn cao, vai trò caủa lao động trong lĩnh vực sản xuất thép sẽ giảm xuống. Chính vì vậy, lao động sẽ không hẳn là một tiềm năng của ngành thép, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất thép chất lượng cao. Nước ta có tiềm năng rất lơn về tài nguyên khoáng sản. Trữ lượng quặng sắt ở nước ta đã được thăm dò chắc chắn và khai thác có hiệu quả khoảng 500 triệu tấn. Nếu mỗi năm sản xuất 10 triệu tấn gang, sử dụng 8 triệu tấn gang kết hợp vói thép phế để luyện thì mỗi năm có thể sản xuất khoảng 10 triệu tấn thép. Thời giam sử dụng mỏ sẽ là 30 năm. chẳng hạn một số mỏ sẽ được tập trung khai thác như mỏ Thạch Khê (Hà Tĩnh) Trong thời gian đó liên tục thăm dò địa chất, chắc chắn sẽ phát hiện thêm nhiều mỏ, quặng mới tạo cơ hội để phát triển thượng nguồn. Chúng ta có thị trường trong nước rất lớn , rất đa dạng về gang thép . Thị trường này bao gồm cả vùng Đông Nam á rộng lớn nhất là những nươc xung quanh không có điều kiện phát triển gang thép như ta. Đây vừa là thị trường tiêu thụ vừa là thị trường cung cấp nguyên liệu cho ngành thép nước ta Hiện nay, Nhà nước đang thực hiện sự bảo hộ khá cao đối với ngành sản xuất thép. Thuế suất thuế nhập khẩu đối với thép xây dựng là 40%, của các loại sắt thép khác là 0 – 20%. Bên cạnh đó, còn có sự bảo hộ bằng hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, cấm nhập trong khi thuế suất thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm đầu vào của ngành sản xuất thép ( như phôi thép) tương đối thấp ( 0 – 5% ). Sự bảo hộ này là nhằm giảm sự cạnh tranh đối với thép Việt Nam. Các doanh nghiệp thép Việt Nam đang tồn tại nhờ rất nhiều vào sự bảo hộ của Nhà nước. Tuy nhiên, những sự bảo hộ này không còn là sự thuận lợi của ngành thép trong tương lai, bởi nó không tồn tại được bao lâu, tối đa là đến năm 2006, khi mà Việt Nam gia nhập AFTA. Do đó, Nhà nước phải có hướng đầu tư vào bảo hộ mới đối với ngành thép để ngành này phát triển hiệu quả hơn tron tương lai. Trên đây là một số điểm mạnh của mình mà ngành thép Việt Nam vẫn chưa khai thác được một cách có hiệu quả, trong khi đó khó khăn tồn tại còn nhiều. 2.1.2. Điểm yếu Qua số liệu quan sát cho thấy, chi phí sản xuất một tấn thép cán ở Việt Nam rất cao so với thế giới. Nếu loại trừ chi phí vận chuyển thì sản phẩm thép Việt Nam đang ở vị trí bất lợi về mặt chi phí. Các chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất thép ở Việt Nam đều cao hơn so với mức bình quân của thế giới. Chẳng hạn, mức tiêu hao phôi thép bình quân để sản xuất một tấn thép cán của Tổng công ty thép Việt Nam là 1.091 – 1.101 kg, trong khi của các công yt liên doanh VSC là 1.035 – 1.060 kg, và của công ty trung bình trên thế giới là 1.030 kg. Đối với mức tiêu hao dầu FO bình quân: Của các nhà máy thuộc Tổng công ty thép Việt Nam là 50 – 60 lít, của các công ty liên doanh VSC là 27 – 45 lít, của công ty trung bình trên thế giới là 20 – 27 lít. Đối với mức tiêu hao trục cán bình quân: của các nhà máy thuộc Tổng công ty thép Việt Nam là 2.0 – 3.0 kg, trong khi của các công ty liên doanh VSC là 0.26 – 0.5 kg, và của công ty trung bình trên thế giới là 0.2 kg Và mức tiêu hao vật chất quy ra tiền ( theo giá hiện hành) trung bình của các nhà máy thuộc Tổng công ty thép Việt Nam khoảng 26.6 USD/tấn thép cán, của các công ty liên doanh VSC khoảng 18 USD/tấn thép cán, của công ty trung bình thé giới khoảng 14.3 USD/tấn thép cán. Qua đó chúng ta thấy mức chênh lệch chi phí sản xuất là rất cao giữa các chủ thể này. Bên cạnh đó, theo đánh giá của các nhà quản lý thì lực lượng lao động trong ngành thép có kiến thức chuyên môn còn thấp, trong khi nguồn nhân lực được đánh giá là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cạnh tranh. Đây là một trong những cản trở lớn đối với quá trình đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Một điểm yếu nữa là các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp liên quan đến ngành thép chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành thép. Các ngành sabr xuất nguyên liệu cho ngành thép chưa phát triển. Ngành thép chủ yếu vẫn là gia công cán thép, nguyên liệu chủ yếu là nhập ngoại, do đó chất lượng và giá phụ thuộc bvào thị trường thế giới, không chủ động được (đặc biệt là phôi thép ). Một số ngành khác có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất và khả năng phát triển của ngành thép như ngành năng lượng lại gây ra những ảnh hưởng tiêu cực. Giá điện ở Việt Nam đang rất cao so với các nước trong khu vực ( cao gấp hai lần so với giá điện ở Inonêxia, 1.5 lần so với Thái Lan ). Ngành công nghiệp khí trong khai thác dầu mỏ chưa phát triển, khó có thể có được giá khí rẻ cho san xuất thép. Ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam cũng đang ở tình trạng công nghệ lạc hậu, hiệu suất thấp. Hệ thống cơ sở hạn tầng kém phát triển. Hệ thống giao thông vận tải ở nước ta bắt đầu được chú ý xây dựng, nhưng nhìn chung còn chậm phát triển. Nhiều khu mỏ quặng sắt nằm trong những khu vực đường giao thông khó khăn, xa khi công nghiệp chế biến, hệ thống cảng biển nước sâu còn thiếu Vấn đề này làm tăng chi phí vận chuyển, chậm khả năng phát triển và giảm khả năng cạnh tranh của ngành thép Các ngành sử dụng thép làm nguyên liệu đầu vào như công nghiệp ô tô, xe máy, cơ khí chế tạo, đóng tàu chưa phát triển ở Việt Nam và cũng đang trong thời kỳ khó khăn. Do đó, thị trường chưa hấp dẫn các nhà đầu tư sản xuất thép cao cấp. Cơ cấu sản xuát thép ở nước ta hiện nay đơn điệu và bất hợp lý. Các nhà máy luyện thép thì ít ỏi trong khi các nhà máy cán thép đang mọc lên rầm rộ. ở nước ta chủ yếu luyện và cán các loại thép cacbon xây dựng thông thường dạng sợi tròn và sợi vằn. Số lượng cacbon thép này có thể tới 4 triệu tấn/năm, trong khi lượng sử dụng chỉ bằng 1/2 số đó. Các loại thép hình, thép tấm, thép ống đều phải nhập khẩu khoảng vài triệu tấn/năm. Vấn đề là ở chỗ nước ta đang nhập siêu các loại sản phảm này Qua tình hình trên chúng ta nhận thấy ngành thép Việt Nam đang là ngành công nghiệp no trẻ, sản phẩm của ngành này đang đứng trước rất nhiều khó khăn thách thức trong cạnh tranh. Tuy nhiên, hầu hết những khó khăn này xuất phát từ việc chúng ta đã không đánh giá đúng sức mạnh của bản thân mình: sức mạnh của nguồn lực tài nguyên, con người, do đó bức tranh về cạnh tranh của sản phẩm thép Việt Nam vẫn chưa có nhiều gam màu tươi sáng. 2.2.Nguyên nhân Nguyên nhân chủ yếu dẫn đén chí phí sản xuất sản phẩm thép cao là phần lớn các nhà máy sản xuất thép của ta có quy mô nhỏ, phân tán. Thực tế cho thấy rằng, quy mô nhà máy ảnh hưởng rất lớn đến chi phí sản xuất. Công suất trung bình một nhà máy cán thép ở Việt Nam là khoảng 100 nghìn tấn thép/năm, rất thấp so với quy mô của các nhà máy sản xuất thép ở khu vực Đông Nam á (công suất trung bình khoảng 500 nghìn tấn/năm ). Trong khi thực trạng ngành công nghiệp thép trên thế giới cho thấy rằng trong điều kiện công nghệ sản xuất chưa được hiện đại thì quy mô lớn có thể giảm đáng kể chi phí sản xuất, chẳng hạn như ở Nga, Ucraina, Trung quốc ( chủ yếu là do chi phí cố định giảm do được dàn trải ). Một nguyên nhân cơ bản nữa đẩy chi phí sản xuất thép lên cao là công nghệ sảnt xuất thép ở nước ta được các chuyên gia đánh giá là lạc hậu bình quân khoảng 10 năm so với thế giới. Qua khảo sát cho thấy rằng trong ngành thép Việt Nam hiện nay, công nghệ tiên tiến chỉ chiếm khoảng 15% ( tập trung chủ yếu ở khu vực liên doanh nước ngoài ), công nghệ trung bình khoảng 10%, công nghệ lạc hậu chiếm tới 75%. Đặc biệt một số doanh nghiệp thép Nhà nước vẫn còn sử dụng công nghệ lạc hậu từ 30 – 40 năm. Yếu tố này dẫn đến giá thành sản xuất thép cao. Công nghệ hiện có chỉ sản xuất được các loại thép có chất lượng thấp, nhưng gia thành lại tương đối cao. Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, công nghệ của các ngành này cũng lạc hậu, năng lực sản xuất yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu của ngành thép cả về số lượng và chất lượng. Thực tế hiện nay sản xuất phôi thép của ta quá nhỏ bé, không thể đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất (sản lượng phôi thép chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu cho sản xuất thép cán ),do vậy vẫn phải nhập khẩu phôi thép. Trong khi đó giá thép thành phẩm chủ yếu dựa vào giá phôi thép ( phôi thép chiếm 90% giá thành). Điều này đã kéo theo sự lệ thuộc vào thị trường quốc tế, không chủ động được trong sản xuất. Đây chính là một trong những hạn chê lớn nhất của ngành thép. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp chỉ muốn đầu tư vào lĩnh vực cán thép vì dễ làm, và họ đi nhập khẩu phôi thép, việc đầu tư này thu hồi vốn nhanh. Trong khi đầu sản xuất phôi thép thì chi phí đầu tư quá lớn, thời gian thu hồi vốn chậm Hơn nữa, trong thời gian qua, các nhà máy sản xuất thép của ta lại họat động trong tình trạng dư thừa công suất. Phần lớn các nhà máy sản xuất thép chỉ họat động ở mức khoảng 60% công suất thiết kế. Sự dư thừa công suất dẫn đến chi phí cố định cao, cản trở việc đầu tư công nghệ mới Mặc dù vậy, lượng thép tồn kho vẫn rất lớn, có năm tới hàng trăm nghìn tấn. Trong khi đó, hàng năm chúng ta vẫn phải bỏ ra một lượng ngoại tệ không nhỏ để nhập khẩu phôi thép và các loại thép mà trong nước không sản xuất được. Đây là biểu hiện của sự bất hợp lý và đơn điệu tròn cơ cấu sản xuất thép ở nước ta. Thực chất chúng ta vẫn chỉ đang gia công cán thép cho nhu cầu vừa cà thấp, còn các sản phẩm thép hình, thép chất lượng cao phải nhập khẩu 100%. Ngoài ra, do Nhà nước chưa đầu tư đúng mức cho hệ thống cơ sở hạ tầng (như giao thông vận tải), nên hệ thống này còn chậm phát triển làm cản trở khả năng phát triên và cạnh tranh của sản phẩm thép Việt Nam. quy họach phát triển các ngành công nghiệp sử dụng thép là nguyên liệu đầu vào ( như ô tô đóng tàu, cơ khí chế tạo) chưa hợp lý, và thực tế những ngành này cũng đang trong thời kỳ khó khăn. Như vây, xét một cách tổng thể. Ngành thép Việt Nam cũng như sản phẩm của nó đang ở thế bất lợi khi thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế. Khả năng cạnh tranh hiện nay của sản phẩm thép Việt Nam là rất thấp. Việc tìm ra những giải pháp hữu hiệu để tăng khả năng cạnh tranh của ngành này là rất cấp bách hiện nay. Chương 3 những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm thép Việt Nam 3.1. Bài học kinh nghiệm về cạnh tranh từ một số nước ASEAN Thời gian thực hiện cam kết AFTA sắp tới. Vấn đề đặt ra đối với nước ta giờ đây là phải tìm ra câu trả lời cho câu hỏi làm thế nào để có thể hội nhập một cách thành công cũng như làm thế nào để tối thiểu hoá các rủi ro trong quá trình hội nhập. Thông qua việc phân tích thực tế phát triển của một số nước ASEAN, là các nước đã đi trước Việt Nam một thời gian, sẽ cho thấy các điểm yếu của họ cũng như các vấn đề mà nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành thép Việt Nam nói riêng đang gặp phải, và qua đó rút ra bài học cho Việt Nam trong thời kỳ tới. Tiếp bước bốn con rồng nhỏ của Châu á, các nước ASEAN ( Thái Lan, Malaixia, Indônêxia ) đã đạt được các thành tựu đáng ghi nhận khi họ tham gia vào chiến lược công nghiệp hoá xuất khẩu vào thập kỷ 60, 70. Các nước này đã thể hiện xuất khẩu một cách ngoạn mục trong thập kỷ 80. cơ cấu hàng xuất khẩu của họ rất phong phú, đa dạng và gia tăng với tốc độ nhanh chóng từ những sản phẩm công nghệ cao ( hàng điện tử ) cho đến các sản phẩm nông nghiệp, các sản phẩm đòi hỏi nhiều lao động ( dệt may ). Các nước này đã được coi là “các con hổ nhỏ” của Châu á và được xếp vào các nước có tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính Châu á vừa qua lại bắt đầu từ một trong những nước này ( từ Thái Lan ) và hậu quả của nó tác động mạnh tới tất cả các nước còn lại. Nguyên nhân, thực chất của sự khủng hoảng là sự yếu kém của các nền kinh tế đó khi gặp phải các cú sốc bên ngoài. Trên quan điểm chính sách công nghiệp người ta nhận thấy những điểm yếu sau đây của các nước đó. Thứ nhất: Các ngành thay thế nhập khẩu được Nhà nước bảo hộ không có khả năng cạnh tranh quốc tế. Hầu hết các nước ASEAN đều bảo hộ các ngành như ô tô, đồ điện dân dụng, thép, Xi măng, Giấy, mặc dù mức độ bảo hộ khác nhau nhưng đều thuộc diện cao. Mặ dù các nước ASEAN nổi tiéng với các sản phẩm điện tử xuất khẩu, nhưng thực chất thì xuất xứ của chúng là từ các nhà máy liên doanh với Nhật Bản mới xuất khẩu sang các nước đang phát triển. Còn các nhà máy thành lập trước các nhà máy liên doanh ( vào thập kỷ 60, 70) vẫn chủ yếu sản xuất sản phẩm cho thị trường nội địa. Các ngành này khó có thể trở thành ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế vì thời hạn bảo hộ quá dài. Thứ hai: các ngành công nghiệp như chế tạo máy và thiết bị phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu nguyên liệu và bộ phận. Đây là một điểm yếu của cơ cấu công nghiệp, không chỉ của các nước ASEAN mà của toàn thể các nước thuộc thế giới thứ ba. Các nước ASEAN này không phát triển được hệ thống các ngành hỗ trợ, do đó cơ cấu công nghiệp trong nước thiếu mối liên hệ giữa các ngành. Kết quả tất yếu là sự phụ thuộc nặng nề vào nhập khảu nguyên liệu và bộ phận. Điều này làm giảm khả năng kiếm ngoại tệ của các ngành xuất khẩu và giảm khả năng tiết kiệm ngoại tệ của các ngành thay thế nhập khẩu. Thứ ba: Mặc dù các nước ASEAN này đã đạt được các thành tích kỳ diệu về xuất khẩu nhưng có thể thấy rằng, các công ty đa quốc gia và các chi nhánh của nó chi phối rất nhiều họat động xuất khẩu của các nền kinh tế này. Điều đó cho thấy khả năng cạnh tranh của sản phẩm của các nươc ASEAN vẫn còn thấp và các cú sốc bên ngoài sẽ rất ảnh hưởng đến các nước này. 3.2. Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm thép Việt Nam Từ việc phân tích thực trạng về cạnh tranh của sản phẩm thép Việt Nam và những nguyên nhân yếu kém của nó, đồng thời qua những bài học rút ra từ thực tế cạnh tranh của công nghiệp một số nước ASEAN. Chúng ta cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm thép thông qua các hướng sau: Trong thời gian vài năm tới, các doanh nghiệp thép nên tập trung vào các sản phẩm thép cơ bản phục vụ cho các nganh xây dựng, cơ khí, đóng tàu và các sản phẩm thép có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau bằng việc sử dụng các công nghệ mới tương đối hiện đại với quy mô lớn nhằm khai thác lợi thế về quy mô. Để nâng cao khả năng cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp thép phải thường xuyên phát triển năng lực marketing, chú trọng tích luỹ khả năng nghiên cứu kết hợp với triển khai và phát triển; xây dựng hình ảnh nhãn hiệu cho sản phẩm thép Việt Nam bằng cách đáp ứng tốt nhu cầu về chất lượng sản phẩm và dich vụ kem theo của khách hàng, chú trọng vào việc xây dựng các môi quan hệ chặt chẽ với khách hàng cuối cùng và các nhà phân phối. Để cắt giảm chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm, đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý chi phí một cách chặt chẽ, tìm cách cắt giảm các khoản chi phí có thể. Muốn vậy cần phải áp dụng mô hình quản lý tiên tiến. Sử dụng công nghệ hoiện đại và cải tiến công nghệ cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. việc sản xuất thép đi từ công nghệ lò cao là có hiệu quả, song phải lựa chọn phương thức và bước đi thích hợp. Đầu tư mới và mở rộng công suất các nhà máy ở mức khoảng 700 – 800 nghìn tấn/năm. Đây cũng là biện pháp hữu hiệu nhằm giảm chi phí cố định, để giảm giá thành sản xuất. Những cơ sở sản xuất thép có công nghệ quá lạc hậu, kém hiệu quả nên chấp nhận loại bỏ. Tuy nhiên, nên lưu ý không nên phát triển hạ nguồn những nhà máy cán thép xây dựng nữa, vì công suất đã quá dư thừa mà cần phải đầu tư vào các nhà máy cán thép hình, ống, tấm xây dựng và thực thi các dự án đầu tư từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Đẩy mạnh năng lực sản xuất phôi thép trong nước đáp ứng được nhu cầu sản xuất thép trong nước nhằm giảm lượng thép nhập khẩu tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. Đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng lao động trong ngành thép để thích nghi với điều kiện cạnh tranh trong nước và khu vực. Nành thép cần phối hợp chặt chẽ với các cơ sở đào tạo ( các trường đại học, viên nghiên cứu,trường dạy nghề ) để đào tạo đội ngũ chuyên gia, kỹ sư, công nhân bậc cao thích ứng với công nghệ hiện đại. Nhà nước cũng cần đầu tư cho đào tạo đội ngũ chuyên gia ( kể cả đào tạo ở nước ngoài ), tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và công nghệ phát triển ngành thép, xúc tiến vĩ mô hỗ trợ ngành thép. Tuy nhiên, Nhà nước không nên chi từ ngân sách cho họat động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành thép, mà doanh nghiệp phải tự tìm cách đảm bảo nguồn vốn cho mình. Đầu tư của Nhà nước chỉ thực hiện ở những khâu then chốt của ngành thép và có điều kiện. Nhà nước cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cảng biển cho các khu khai thác nguyên liệu, khu công nghiệp luyện kim lớn. Đầu tư cho các dự án trọng điểm điều tra tiềm năng khoáng sản cho ngành thép, phát triển vùng nguyên liệu lớn của ngành.Đồng thời Nhà nước cần có chương trình thúc đẩy phát triển các ngành sử đụng thép làm nguyên liệu đầu vào như công nghiệp ô tô, cơ khí chế tạo, đóng tàu tạo môi trường thu hút các nhà đầu tư vào ngành thép. Song song với đó là hỗ trợ các doanh nghiệp không có đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, tránh sự chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài đối với ngành thép Việt Nam. Bên cạnh đó do ngành thép đã và đang được bảo hộ ở mức độ cao, nên Nhà nước cần đặt ra lịch trình cắt giảm dần mức độ bảo hộ tạo ra động lực để ngành thép tự lực trong việc nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Những biện pháp nêu trên xuất phát từ những căn cứ có khoa học, và có tính khả thi cao. Hy vọng rằng khi những biện pháp này được thực hiện sẽ tạo ra động lực “đẩy” ngành thép Việt Nam “ đi lên” và giúp cho sản phẩm thép Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa trong thời gian tới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Kết luận Việt Nam là nứơc có tiềm năng rất lớn về tai nguyên khoáng sản, bao gồm cả những tài nguyên khoáng sản dùng cho sản xuất thép. Có thị trường trong nước rộng lớn, đa dạng về sản phẩm ngành thép. Thị trường này bao gồm cả vùng Đông Nam á rộng lớn, nhất là những nước xung quanh không có điều kiện phát riển ngành thép như nước ta. Có khả năng xây dựng ngành thép từ thượng nguồn với những dây chuyền sản xuất khép kín hiệu quả kinh tế cao, sức cạnh tranh mạnh, vốn đầu tư chấp nhận được. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là chúng ta đã không đãnh giá đúng sức mạnh của chính mình: Sức mạnh của tài nguyên thiên nhiên, sức mạnh của tìa năng trí tuệ, chưa đủ lòng tự trọng và lòng dũng cảm. với lý do đó cho nên tình hình ngành thép cả nước ta và sản phẩm của nó chưa mấy sáng sủa. Mục lục Trang Tài liệu tham khảo - Các tạp chí + Tạp chí công nghiệp + Tạp chí con số và sự kiện + Tạp chí nghiên cứu kinh tế + Tạp chí kinh tế và phát triển + Tạp chí tri thức và công nghệ + Thời báo kinh tế Việt nam - Các sách + Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp + Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh ( Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương CIEM) + Tổng quan về cạnh tranh của công nghiệp Việt nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4868.doc
Tài liệu liên quan