Đề tài Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại trong điều kiện khủng hoảng hiện nay

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 4 A. NHỮNG VẦN ĐỀ VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: 5 I. Các sản phẩm huy động vốn của ngân hàng thương mại: 5 1. Nguồn vốn huy động tiền gửi: 5 - Tiền gửi không kì hạn: 5 - Tiền gửi có kì hạn: 5 - Tiền gửi tiết kiệm: 5 2. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá: 6 3. Huy động vốn thông qua hình thức đi vay: 6 - Vay qua thị trường liên ngân hàng: 6 - Vay tổ chức tín dụng khác: 6 II. Vai trò và lợi ích của hoạt động huy động vốn: 7 - Đối với NHTM: 7 - Đối với khách hàng: 7 III. Nội dung quy trình: 7 1. Quy trình tiền gửi không kỳ hạn: 7 1.1 Nghiệp vụ mở tài khoản: 7 1.2 Nghiệp vụ gửi tiền vào tài khoản bằng tiền mặt: 9 1.3 Nghiệp vụ gửi tiền vào tài khoản bằng Séc: 11 1.4 Nghiệp vụ gửi tiền vào tài khoản bằng các hình thức chuyển khoản: 15 1.5 Quy trình nghiệp vụ phát hành, cập nhật sổ tiết kiệm (Update): 17 2. Quy trình tiền gửi có kỳ hạn: 17 2.1 Quy trình mở tài khoản tiền gửi có kỳ hạn mới: 17 2.2 Quy trình giao dịch gửi tiền mặt vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: 18 2.3 Quy trình giao dịch gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng chuyển khoản: 20 IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại: 23 1. Nhân tố khách quan: 23 a. Hành lang pháp lý. 23 b. Yếu tố kinh tế: 23 c. Yếu tố chính trị: 24 d. Yếu tố văn hóa-xã hội-dân cư: 24 Môi trường văn hóa xã hội: 24 e. Yếu tố tâm lý và thói quen tiêu dùng: 25 Yếu tố tâm lý: 25 Thói quen tiêu dùng: 25 2. Nhân tố chủ quan: 25 a. Các sản phẩm và mạng lưới: 25 b. Lãi suất và các dịch vụ gia tăng: 26 c. Cơ sở vật chất, kỹ thuật . 27 d. Danh tiếng, uy tín ngân hàng: 27 B. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY: 27 I. Thực trạng huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại: 27 II. Liên hệ thực tế tại ngân hàng Vietcombank: 30 III. Đánh giá về thực trạng huy động vốn: 33 C. GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG ĐIỀU KIỆN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY: 34 I. Xét về mặt vĩ mô: vai trò của chính phủ nhà nước. 34 Trong ngắn hạn: 35 Trong dài hạn: 35 II. Xét về mặt vi mô: 36 1. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn: 36 a. Đối với khách hàng cá nhân: 36 b. Đối với khách hàng là doanh nghiệp: 36 2. Cải tiến quy trình thanh toán, tăng cường mở tài khoản cá nhân, séc cá nhân, thẻ thanh toán: 36 3. Chuyên môn hóa, thực hiện giao dịch 1 cửa: 37 4. Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên: 37 KẾT LUẬN 38 TÀI LIỆU THAM KHẢO 39 LỜI MỞ ĐẦU Với bất kỳ một doanh nghiệp nào, vốn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh. Đối với Ngân hàng thương mại– tổ chức kinh doanh ngoại tệ – mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay từ số tiền huy động được và làm các dịch vụ ngân hàng thì vai trò của nguồn vốn càng trở nên quan trọng. Quy mô, cơ cấu, và các đặc tính của nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động của một NHTM, bao gồm quy mô, cơ cấu, thời hạn tài sản và khẳ năng cung ứng dịch vụ, từ đó quyết định khả năng sinh lời. Trong khi chưa khai thác được số lượng tiền nhàn rỗi trong các ngân hàng, tổ chức kinh tế và dân cư, nhiều ngân hàng vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn vay, kể cả vốn vay của các ngân hàng nước ngoài, để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng tài sản, vì vậy chi phí nguồn vốn cao, sự ổn định và hiệu quả kinh doanh thấp và chưa phát huy nội lực để phát triển một cách vững chắc. Các NHTM Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn trung và dài hạn cho nhu cầu đầu tư. Việc thu hút nguồn vốn với chi phí cao, sự ổn định thấp và không phù hợp với sử dụng vốn về quy mô, kết cấu làm hạn chế khẳ năng sinh lời, đồng thời đặt ngân hàng trước rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, và hơn thế có thể mất ổn định trong toàn bộ hệ thống tài chính như nhiều quốc gia từng lâm vào. Do vậy, yêu cầu tăng cường huy động vốn có mức chi phí hợp lý và ổn định cao được đặt ra hết sức cấp thiết đối với NHTM Việt Nam.

docx39 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1797 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại trong điều kiện khủng hoảng hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quy trình tiền gửi có kỳ hạn: 2.1 Quy trình mở tài khoản tiền gửi có kỳ hạn mới: Thực hiện tương tự Quy trình mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, sử dụng ID menu 3000 – FD Open New Account. Đối với từng loại tiền tệ, trường hợp khách hàng đã có FD Group, GDV không tạo thêm FD Group khác. 2.2 Quy trình giao dịch gửi tiền mặt vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: Nội dung công việc Tài liệu/ Menu ID Mẫu biểu Bước 1: Tiếp nhận yêu cầu gửi tiền của khách hàng. Thực hiện: GDV Giao dịch viên tiếp nhận: - Giấy yêu cầu gửi tiền của khách hàng (1liên)/Hợp đồng tiền gửi. - Và chứng minh nhân dân/hộ chiếu nếu khách hàng là cá nhân. Công văn số 1388/CV-KT3 ngày 24/3/2005 BM03 (Công văn 1388/CV-KT3) 07/QT-NV-03 Bước 2: Kiểm tra chứng từ gửi tiền của khách hàng. Thực hiện: GDV - Kiểm tra tính đúng đắn của các yếu tố trên Giấy yêu cầu gửi tiền vào tài khoản. - Đối chiếu Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của khách hàng. - Tính phí nộp tiền (nếu có). - Nếu chứng từ có sai sót, chuyển lại cho khách hàng đề nghị bổ sung hoặc làm mới. - Nếu chứng từ hợp lệ, chuyển sang thực hiện Bước 3. Bước 3: Thu tiền. Thực hiện: GDV. - Trong phạm vi hạn mức được giao, nhận và kiểm đếm tiền mặt theo số tiền ghi trên giấy nộp tiền theo đúng quy định về giao nhận tiền mặt. Chuyển sang thực hiện bước 4. - Trường hợp các giao dịch thu tiền mặt vượt hạn mức, thực hiện một trong hai cách sau: + Cách 1: Chuyển giao dịch sang GDV có hạn mức giao dịch cao hơn để thực hiện. (thực hiện theo lưu đồ 12a, phụ lục I). + Cách 2: Chuyển giao dịch sang bộ phận Quỹ để thực hiện bước 3b (thực hiện theo lưu đồ 12b, phụ lục I). QĐ-KQ-04 Bước 3b: Thu tiền tại Quỹ. Thực hiện: Bộ phận quỹ. - Kiểm đếm tiền mặt theo số tiền ghi trên giấy nộp tiền theo đúng quy định. - Ký và đóng dấu đã thu tiền. - Chuyển chứng từ đóng dấu đã thu tiền sang GDV để thực hiện bước 4. Bước 4: Tạo FDR. Thực hiện: GDV - GDV lựa chọn màn hình tạo FDR mới - “Create new FD receipt” để thực hiện tạo FDR có nội dung phù hợp với Yêu cầu gửi tiền. 3010(FD) 3210(CD) Bước 5: Kiểm soát và duyệt giao dịch tạo FDR. Thực hiện: KSV - Kiểm tra nội dung giao dịch với hồ sơ GDV gửi đến. - Nếu chấp thuận thực hiện duyệt giao dịch và chuyển sang Bước 6. - Nếu không chấp thuận thì gửi trả lại giao dịch và hồ sơ kèm theo lý do yêu cầu thực hiện lại. Bước 6: Nhập giao dịch gửi tiền vào FDR. Thực hiện: GDV - GDV lựa chọn màn hình giao dịch Gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng tiền mặt – “FD placement by cash” và thực hiện việc gửi tiền vào FDR đã mở. - Nhập dữ liệu đúng, đầy đủ và chính xác các trường theo quy định. - Nhập mục thu phí (nếu có). - Nếu trong hạn mức, GDV thực hiện hoàn tất và ký giao dịch và chuyển sang Bước 8. - Nếu vượt hạn mức, GDV ký trên chứng từ, chuyển giao dịch và chứng từ cho KSV để thực hiện phê duyệt theo Bước 7. 3020(FD) 3220(CD) Bước 7: Kiểm soát và duyệt giao dịch. Thực hiện: KSV - Kiểm tra bộ chứng từ thu tiền mặt và đối chiếu với dữ liệu GDV nhập trên máy. - Nếu chấp thuận thì ký trên chứng từ giấy, duyệt giao dịch và chuyển sang Bước 8. - Nếu không chấp thuận thì từ chối duyệt giao dịch và trả lại chứng từ cho GDV kèm theo lý do không chấp thuận. Bước 8: In, trả hồ sơ cho khách hàng và lưu chứng từ. Thực hiện: GDV - GDV in chứng từ giao dịch, FDR, ký tên và chuyển sang kiểm soát viên ký, đóng dấu. - GDV trả FDR, chứng minh nhân dân/hộ chiếu cho khách hàng (khách hàng cá nhân), Hợp đồng tiền gửi (khách hàng tổ chức). - Đối chiếu, tổng hợp, lưu trữ hồ sơ theo chế độ quy định. Ghi chú: - Tuỳ theo điều kiện cán bộ của Chi nhánh, Giám đốc quyết định thực hiện bước 3 theo cách 1 hoặc cách 2 trong trường hợp vượt hạn mức thu tiền mặt nhưng phải đảm bảo an toàn tài sản của Ngân hàng và khách hàng. - Đối với các giao dịch thu tiền mặt do bộ phận Quỹ thực hiện, khi kết thúc giao dịch với khách hàng, GDV thực hiện trên máy bút toán giao tiền nội bộ (menu 8001) về cho bộ phận Quỹ đảm bảo số tiền trên máy và số tiền thực tế của GDV cân về số lượng Công văn số 1388/CV-KT3 ngày 24/3/2005 BM02 (Công văn 1388/CV-KT3) 2.3 Quy trình giao dịch gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng chuyển khoản: Giao dịch gửi tiền vào tài khoản có kỳ hạn có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như: Gửi tiền vào tài khoản có kỳ hạn bằng hình thức chuyển khoản từ tài khoản tiền gửi thanh toán, tiết kiệm - FD placement by transfer from CA, SA. Gửi tiền vào tài khoản có kỳ hạn bằng séc nội bộ ngân hàng - FD placement by House Cheque. - Gửi tiền vào tài khoản có kỳ hạn từ tài khoản nội bộ ngân hàng (GL) - FD placement by Misc. Nội dung công việc Tài liệu/ Menu ID Mẫu biểu Bước 1: Tiếp nhận yêu cầu gửi tiền của khách hàng. Thực hiện: GDV Giao dịch viên tiếp nhận: - Uỷ nhiệm chi (2liên). - Hoặc Hợp đồng tiền gửi/hồ sơ yêu cầu từ bộ phận khác. - Hoặc tờ séc, 3 liên Bảng kê nộp séc và chứng minh nhân dân/hộ chiếu/chứng minh quân nhân nếu khách hàng là cá nhân. Công văn số 1388/CV-KT3 ngày 24/3/2005 BM07 BM20 (Công văn 1388/CV-KT3 ) 07/QT-NV-03 Bước 2: Kiểm tra chứng từ gửi tiền của khách hàng. Thực hiện: GDV - Kiểm tra tính đúng đắn của các yếu tố trên Giấy yêu cầu gửi tiền vào tài khoản - Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các yếu tố trên Uỷ nhiệm chi, hoặc hồ sơ yêu cầu từ bộ phận khác, hoặc từ séc. - Đối chiếu Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của khách hàng. - Tính phí (nếu có). - Nếu chứng từ có sai sót, chuyển lại cho khách hàng đề nghị bổ sung hoặc làm mới. - Nếu chứng từ hợp lệ, chuyển sang thực hiện Bước 3. Bước 3: Tạo FDR. Thực hiện: GDV - GDV lựa chọn màn hình giao dịch, tạo FDR mới - “Create new FD receipt” để thực hiện tạo FDR có nội dung phù hợp với Yêu cầu gửi tiền. 3010(FD) 3210(CD) Bước 4: Kiểm soát và duyệt giao dịch tạo FDR. Thực hiện: KSV - Kiểm tra nội dung giao dịch với hồ sơ GDV gửi đến. - Nếu chấp thuận thực hiện duyệt giao dịch và chuyển sang Bước 5. - Nếu không chấp thuận thì gửi trả lại giao dịch và hồ sơ kèm lý do yêu cầu thực hiện lại. Bước 5: Nhập giao dịch gửi tiền vào FDR. Thực hiện: GDV - GDV lựa chọn màn hình giao dịch cho phù hợp và thực hiện việc gửi tiền vào FDR đã mở: + Nếu gửi vào bằng chuyển khoản từ tài khoản tiền gửi thanh toán, tiết kiệm chọn màn hình Gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng hình thức chuyển khoản từ TKTG thanh toán, TK tiết kiệm KKH - “FD placement by transfer from CA, SA”. + Nếu gửi vào bằng séc nội bộ do Ngân hàng phát hành chọn màn hình Gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng séc nội bộ do Ngân hàng phát hành - “FD placement by House Cheque”. + Nếu gửi vào từ tài khoản nội bộ của ngân hàng chọn màn hình Gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn từ tài khoản nội bộ của ngân hàng (GL) - “FD placement by Misc”. - Nhập dữ liệu đúng, đầy đủ và chính xác các trường theo quy định. - Nhập mục thu phí (nếu có). - Nếu trong hạn mức, GDV thực hiện hoàn tất, ký giao dịch và chuyển sang Bước 7. - Nếu vượt hạn mức, GDV ký trên chứng từ, chuyển giao dịch và chứng từ cho KSV để thực hiện phê duyệt theo Bước 6. 3022(FD) 3222(CD) 3021(FD) 3221(CD) 3023(FD) 3223(CD) Bước 6: Kiểm soát và duyệt giao dịch gửi tiền. Thực hiện: KSV - Kiểm tra bộ chứng từ và đối chiếu với dữ liệu GDV nhập trên máy. - Nếu chấp thuận thì ký trên chứng từ giấy, duyệt giao dịch và chuyển sang Bước 7. - Nếu không chấp thuận thì từ chối duyệt giao dịch và trả lại chứng từ cho GDV kèm theo lý do không chấp thuận. Bước 7: In, trả hồ sơ cho khách hàng và lưu chứng từ. Thực hiện: GDV - GDV in 2 liên chứng từ giao dịch ( Uỷ nhiệm chi, phiếu giao dịch trên bảng kê nộp séc, Phiếu ghi Có); in FDR, ký tên và chuyển sang kiểm soát viên ký, đóng dấu. - GDV trả cho khách hàng 1 liên chứng từ; FDR, chứng minh nhân dân/hộ chiếu (khách hàng cá nhân); hợp đồng tiền gửi (khách hàng tổ chức). - Đối chiếu, tổng hợp, lưu trữ hồ sơ theo chế độ quy định. Công văn số 1388/CV-KT3 ngày 24/3/2005 BM02 (Công văn 1388/CV-KT3 ) Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại: Nhân tố khách quan: Hành lang pháp lý Kinh doanh ngân hàng là một ngành chịu sự quản lý chặt chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động của ngân hàng được quản lý chặt chẽ bởi các quy định pháp luật và chịu sự điều chỉnh của nhiều bộ luật, như luật dân sự, luật NHTM, các quy định của chính phủ…Do đó, hoạt động huy động vốn cũng chịu sự ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của nhà nước: chính sách tiền tệ, lãi suất, tài chính, tín dụng… Ví dụ: quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ban hành về việc cho vay của các TCTD đối với khách hang, thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD,… Thông tư này sẽ có hiệu lực từ ngày 01/10/2010, tăng vốn tự có của các NHTM lên 3000 tỷ, tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động… Khó khăn trong việc tạo tiền: Quy định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động làm giảm khả năng tạo tiền và số nhân tiền tệ của hệ thống ngân hàng, vì một khoản tiền khá lớn sẽ không dành để cho vay mà được để lại tại các ngân hàng Đồng thời làm giảm hiệu quả can thiệp lãi suất của NHNN qua thị trường mở, cho vay liên ngân hàng theo định hướng của NHNN. Yếu tố kinh tế: Sự thay đổi của các yếu tố kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, đầu tư chính phủ,…ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hút vốn của NHTM. Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động của ngân hàng Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (vào năm 2010-2011 lãi suất 17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi. Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng. Yếu tố chính trị: Nếu một quốc gia có tình hình chính trị ổn định, an toàn, an sinh xã hội tốt thì hệ thống NHTM tại quốc gia đó sẽ huy động được nhiêu vốn hơn. Trái lại, với một quốc gia có tình hình chính trị bất ổn sẽ gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân, họ sẽ thích giữ tiền hơn nên sẽ hạn chế việc gửi tiền vào ngân hang và làm cho khả năng huy động vốn của NHTM giảm. Yếu tố văn hóa-xã hội-dân cư: Môi trường văn hóa xã hội: Mỗi quốc gia có nền văn hóa riêng, tập quán riêng,…điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn của NHTM. Cụ thể là: ở các nước đang phát triển người dân có thói quen gửi tiên vào ngân hang để hưởng các tiện ích trong thanh toán, ngân hàng là một yếu tố không thể thiếu. Do vậy ngân hàng không gặp mấy khó khăn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức kinh tế. Ngược lại ở những nước đang phát triển như Việt Nam việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mặt khác ngân hàng vẫn chưa tạo niềm tin đối với người dân. Đến nay thì người dân còn thiếu hiểu biết về chủ trương chính sách của nhà nước, hoạt động của ngân hàng vì vậy cho đến nay vẫn còn tình trạng có tiền nhưng không muốn gửi vào ngân hàng vì thủ tục rờm rà, khó hiểu. Quy mô dân cư: Quy mô dân cư, chất lượng đời sống của người dân không chỉ là yếu tố ảnh hưởng đến kết cấu các sản phẩm dịch vụ của NHTM mà nó còn là yếu tố quan trọng để xây dựng và điều chỉnh hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Ví dụ như: Khu vực thành thị như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng,…có quy mô dân cư đông đúc, với mức sống cao, thu nhập cao thì sẽ là khu vực đối tượng khách hàng tiềm năng, vì vậy NHTM phải tập trung vào các khu vực đối tượng khách hàng tiềm năng để thu hút vốn. Khu vực xa xôi, hẻo lánh hoặc mức đời sống thấp thì khả năng họ tiếp cận các dịch vụ ngân hàng ít hơn. Yếu tố tâm lý và thói quen tiêu dùng: Yếu tố tâm lý: Với những nền kinh tế chịu tình trạng Đôla hóa cao như Việt Nam thì việc huy động vốn từ người dân gặp nhiều khó khăn. Do người dân lo sợ mất giá của nội tệ, họ không có lòng tin vào nội tệ nên ưa chuộng cất giữ ngoại tệ nên các NHTM sẽ khó huy động vốn bằng nội tệ. Hiện nay, với diễn biến giá vàng ngày càng tăng cao có lúc lên đến hơn 48 triệu đồng/lượng, người dân thi nhau rút tiền ngân hàng đi mua vàng đã trực tiếp tác động lên khả năng huy động vốn của hệ thống NHTM. Bên cạnh đó, khi mức thu nhập của người dân tăng lên, họ cũng có tâm lý tăng tích lũy, nên việc họ gửi tiết kiệm vào ngân hàng sẽ tăng lên tạo điều kiện cho NHTM huy động vốn. Thói quen tiêu dùng: Ở các nước phát triển thì tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán chiếm khoảng 2%-3%, thói quen tiêu dùng và thanh toán của họ chủ yếu thông qua ngân hàng và hầu hết khoản tiền của họ điều được ngân hàng quản lý thông qua tài khoản cá nhân, do đó NHTM có thể tăng khả năng huy động vốn đê đầu tư, sử dụng,… Nhưng ở những nước đang phát triển ở Việt Nam, vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán thì hạn chế khả năng huy động vốn từ người dân. Nhân tố chủ quan: Các sản phẩm và mạng lưới: Sản phẩm dịch vụ phải phong phú, đa dạng, ngày cang nâng cao, cải thiện các chất lượng dịch vụ để cung cấp cho khách hang những sản phẩm tốt nhất. Một ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường các ngân hàng phải phấn đấu nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khách hàng và tăng thu nhập của ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn do vậy đây chính là điểm mạnh để các ngân hàng cạnh tranh nhau. Ví dụ: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với hệ thống cung cấp các dịch vụ cho khách hàng hiện nay khá rộng lớn nhưng vẫn không ngừng cải thiện và nghiên cứu những sản phẩm dịch vụ mới cho khách hàng. Bao gồm nhiều lĩnh vực như: Ngân hàng: cung cấp đầy đủ các dịch vụ về tiền gửi, cho vay và thanh toán truyền thống và hiện đại, đáp ứng được nhu cầu của đông đảo khách hàng. Bảo hiểm: bảo hiểm và nhận tái bảo hiểm dưới hình thức nhân thọ và phi nhân thọ, tiêu biểu là các sản phẩm của ABIC. Chứng khoán: Agribank cung cấp cho Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước, các công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán dịch vụ Kinh doanh chứng khoán (CK) Nợ, CK Vốn và CK khác, môi giới lưu ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành,... Đầu tư tài chính: mua các chứng khoán(trái phiếu, cổ phiếu…), góp vốn thành lập doanh nghiệp để đầu tư dự án. Lãi suất và các dịch vụ gia tăng: Chính sách lãi suất bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và lãi suất cho vay là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động là một điều cực kỳ quan trong khi lãi suất thị trường đang ở mức tương đối cao. Các NHTM không chỉ cạnh tranh giành vốn với nhau mà còn cạnh tranh với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác trên thị trường vốn. Theo báo cáo của NHNN chi nhánh TP.Hồ Chí Minh, tình hình huy động VND của hệ thống ngân hàng trên địa bàn đến 31/3/2011 giảm 4% so với 31/12/2010. Trong khi đó, dư nợ VND đến cuối tháng 3/2011 tăng 1,9% so với cuối năm 2010. Cầu vốn tăng nhanh hơn cung vốn đã gây áp lực lên lãi suất của các NHTM. Các nhà băng này buộc phải tăng vốn để cho vay, vì nguồn thu từ tín dụng vẫn chiếm tỷ lệ cao, đến 70-8-%/ tổng doanh thu tại các NHTM cùng với sức ép tăng vốn điều lệ. Do vậy, cuộc chạy đua lãi suất tại các NHTM vẫn chưa có điểm dừng. Đối với các kỳ hạn khác, nhiều ngân hàng vẫn áp dụng chiêu khuyến mại cộng lãi suất và khách hàng vẫn có thể mặc cả tới 16-17%/năm, thậm chí 18%/năm với các món tiền gửi vài tỷ đồng cho kỳ hạn 1 hoặc 2 tháng. Lãi suất thật được thỏa thuận bằng miệng và phần chênh được trả ngay bằng tiền mặt. Các ngân hàng không ngừng ngiên cứu và cho ra đời các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ thẻ gia tăng thêm cho khách hàng. Ví dụ như: Các điểm ưu đãi Vàng của BIDV, tiếp tục mang đến cho chủ thẻ các ưu đãi hấp dẫn, khuyến khích sử dụng thẻ trong thanh toán hàng hóa dịch vụ, hạn chế chi tiêu bằng tiền mặt, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tiếp tục đẩy mạnh chương trình “Điểm ưu đãi vàng”. Các chủ thẻ BIDV khi dùng thẻ thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại một số đơn vị chấp nhận thẻ là “Điểm ưu đãi vàng” của BIDV sẽ có cơ hội hưởng các ưu đãi hấp dẫn. Các Điểm ưu đãi vàng bao gồm Vinpearl land, Diamond Bay Resort & Golf Nha Trang. Chất lượng phục vụ, dịch vụ: Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, khó có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả nên chiến lược quảng cáo trở thành yếu tố vô cùng quan trọng để thu hút khách hàng, đặc biệt là các chương trình khuyến mãi đi kèm với các dịch vụ thanh toán và dịch vụ thẻ. Thái độ phục vụ thân thiện và chu đáo sẽ giúp cho ngân hàng có thêm nhiều khách hàng mới, do đó có thể giữ vững uy tín trên thị trường, giữ vững mối quan hệ với khách hàng truyền thống. Ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng phải quyết định mở rộng hoặc thu hẹp quy mô huy động vốn thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn, lãi suất huy động. Nếu chiến lược kinh doanh phù hợp ngân hàng sẽ khai thác được nguồn vốn đáp ứng được nhu cầu và đạt được hiệu quả cao. Ví dụ như chiến lược phát triển của ACB năm 2011 là tiếp tục phát triển sâu rộng không chỉ ở Việt Nam mà còn vươn ra thị trường các nước khác, hoàn thành chiến lược 5 năm 2011-2015, phấn đấu đến năm 2020 trở thành tập đoàn tài chính đa năng hàng đầu Việt Nam. Trong công tác khách hàng, ngân hàng thường chia khách hàng ra nhiều nhóm để có cách phục vụ phù hợp và chuyên nghiệp hơn. Cơ sở vật chất, công nghệ hạ tầng: Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của ngân hàng, nó mang lại cho ngân hàng nhiều cơ hội cũng như thách thức. Có công nghệ mới cho phép ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp vụ, cách thức phân phối sản phẩm, phát triển hệ thống sản phẩm mới…nhờ có công nghệ mới mà hoạt động huy động vốn được cải thiện, phát triển, rút ngắn thời gian giao dịch. Cơ sở hạ tầng cũng quyết định khả năng huy động vốn của NHTM, những NHTM lớn có tầm cỡ với hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ tiện nghi và hệ thống mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc sẽ tạo lòng tin cho khách hàng cũng như cung cấp cho khách hàng các dịch vụ một cách tốt nhất. Danh tiếng, uy tín ngân hàng: Khi các ngân hàng xây dựng được thương hiệu mạnh, có uy tín sẽ có lợi thế hơn trong việc huy động vốn, điển hình như thương hiệu BIDV: Là sự lựa chọn, tín nhiệm của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp hàng đầu của cả nước, cá nhân trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính, ngân hàng. Được cộng đồng trong nước và quốc tế biết đến như là một trong những thương hiệu ngân hàng lớn nhất Việt Nam. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY: Thực trạng huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại: Xuất phát từ diễn biến lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008 và việc cạnh tranh huy động vốn không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng, Ngân hàng nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động VND ở mức 12%/năm kể từ ngày 26/2/2008 đến 18/5/2008. Năm 2008 có thể nói lả năm khó huy động vốn đối với các NHTM. Việt Nam chuyển hướng thành công từ các giải pháp chống lạm phát cuối năm 2008 sang chống suy giảm kinh tế năm 2009, vẫn giữ được an toàn hệ thống ngân hàng và kiểm soát được lạm phát ở mức 6,88%. NHNN thực hiện điều hành linh hoạt, thận trọng chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá. Diễn biến một số chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2008 31/10/2009 Số tuyệt đối Tăng so cuối năm trước(%) Số tuyệt đối Tăng so cuối năm trước(%) Tổng PTTT 1.601.028 20,34 1.967.176 22,87 Huy động vốn 1.344.580 23,33 1.667.038 23,98 Tín dụng đối với nền kinh tế 1.275.048 23,38 1.706.692 33,85 Nhìn chung diễn biến hoạt động tiền tệ, tín dụng trong năm 2010 tương đối phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Tổng phương tiện thanh toán đến 31/12/2010 ước tăng 25,37% so với cuối năm 2009; huy động vốn tăng 27,25%. Nếu trừ hư số do hạch toán theo điều chỉnh tỷ giá và tăng giá vàng, tổng phương tiện thanh toán tăng 23,04%, huy động vốn tăng 24,5%. Đạt tổng thu lợi nhuận cao và thậm chí có ngân hàng còn hoàn tất kế hoạch lợi nhuận năm, báo cáo kinh doanh của các NHTM trong bảy tháng qua cũng cho thấy, phần nhiều các NHTM đều bội thu vốn huy động VND. Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và cùng với các biện pháp điều hành tiền tệ linh hoạt của NHNN, lãi suất huy động và cho vay VND của các ngân hàng thương mại giảm dần(mức giảm khoảng 1%). Đến đầu tháng 12/2010, do việc triển khai chương trình huy động lãi suất cao của Techcombank, lãi suất huy động VND tăng đột biến lên mức 17%/năm nhưng đã được điều chỉnh giảm ngay sau khi NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động VND không vượt quá 14%; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm. Trước tình hình lãi suất huy động tăng cao, NHNN Việt Nam đã ban hành cơ chế lãi suất trần huy động VND. Cơ chế lãi suất trần huy động VND ra đời nhẳm ngăn chặn nguy cơ bùng phát một cuộc đua tăng lãi suất huy động ở tầm cao. Theo công bố hiện nay của NHNN, lãi suất trần huy động VND của các NHTM ở mức 14%/năm. Tuy nhiên, thực tế việc qui định lãi suất trần bằng công cụ hành chính không đem lại kết quả như mong muốn. Hiện nay, hầu hết các NHTM vẫn giữ nguyên lãi suất huy động bằng VND ở mức 14%/năm. Tuy nhiên, sau một thời gian tuân thủ quy định, nhiều ngân hàng thương mại đang tạo nên một cuộc đua tăng lãi suất huy động VND, với lãi suất quanh mức 18%/năm, thậm chí lên tới 19,5% tùy theo lượng tiền và kỳ hạn gửi. Do quy định của NHNN về lãi suất trần huy động 14%/năm nên các NHTM không dám công khai mức lãi suất thực. Vì vậy, các NHTM triển khai nhiều chương trình khuyến mãi để thu hút VND. Việc quy định trần lãi suất gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng. Đối với ngân hàng nhỏ: Nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại nhỏ là nguồn tiết kiệm huy động từ dân cư, còn tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp tại ngân hàng thì không đáng kể. Họ không có nguồn tiền gửi từ kho bạc, nhà nước, tập đoàn kinh tế và cũng không có trái phiếu chính phủ để vay NHNN. Do đó, họ phải huy động ở mức cao. Đồng thời, phía người gửi tiền muốn gửi với lãi suất cao bởi lạm phát kì vọng rất cao. Lạm phát hiện nay khá cao, chưa có biểu hiện dừng, như vậy lạm phát kì vọng khoảng 18-19%/năm. Do đó, nếu áp dụng lãi suất huy động 14%/năm thì sẽ không công bằng và cũng không còn tính thị trường. Vì vậy, để có thể huy động được vốn thì các NHTM nhỏ phải tăng lãi suất, kéo theo lãi suất ngày càng “phình” rất xa trần 14%/năm. Thực tế, có doanh nghiệp đang phải vay ngân hàng với lãi suất lên đến 21-23%/năm. Đối với các ngân hàng lớn: Thường các ngân hàng lớn, ngân hàng quốc doanh có nhiều nguồn đầu vào và huy động dễ dàng hơn như thực hiện các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở với NHNN và 100% tài khoản tiền gửi của kho bạc, của các tập đoàn lớn đều ở ngân hàng này. Vì vậy, nguồn vốn của các ngân hàng này lớn và chi phí huy động thấp hơn các ngân hàng nhỏ. Nhưng do tính thanh khoản của các ngân hàng không đồng đều, nhất là tình trạng thiếu trước hụt sau, lấy ngắn nuôi dài của các ngân hàng nhỏ khiến họ phải tăng lãi suất để hút vốn. Trước bối cảnh đó, các ngân hàng lớn dù không thiếu vốn cũng phải tăng lãi suất để giữ khách. Từ thực tế đó, nếu NHNN quy định lãi suất trần 14% gây khó khăn cho NHTM lớn, đặc biệt là các ngân hàng sở hữu nhà nước, nếu như họ không tăng lãi suất thì họ bị mất dần khách hàng gửi và khách hàng đang gửi thì rút ra để gửi các ngân hàng khác có lĩa suất cao hơn, mà họ tăng thì vi phạm về quy định lãi suất trần. Nhưng kể từ sau khi có chỉ thị 02 của NHNN về việc kiểm soát chặt việc thực hiện lãi suất huy động của các ngân hàng không quá mức 14%/năm, lãnh đạo của các NHTM đã yêu cầu các phòng giao dịch và chi nhánh tuân thủ đúng chỉ thị của này. Sau đó, đã có hiện tượng tiền "tháo chạy" khỏi ngân hàng. Do người dân cảm thấy mức lãi suất mới không đủ hấp dẫn nên rút tiền bỏ vào các kênh đầu tư khác như vàng hay chứng khoán. Cụ thể, ở NH TMCP Quốc tế (VIB), khách hàng đã rút tới 1.000 tỷ đồng sau khi Chỉ thị 02 ban hành. Còn ở NH Phương Nam, 200 tỷ đồng cũng đã chảy ra khỏi hệ thống. Nếu tổng tài sản của ngân hàng bị sụt mạnh sẽ ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn cũng như khả năng tăng tín dụng của các ngân hàng Từ đầu tháng 9 đến nay, thị trường chứng khoán đã bắt đầu giao dịch sôi động trở lại, giá trị giao dịch của hai sàn có phiên tăng lên hơn 2.000 tỉ đồng. Bên cạnh đó, kênh vàng cũng đang thu hút nhiều người mua là cá nhân khi rất nhiều người xếp hàng đi mua vàng mỗi khi giá vàng giảm. Như vậy, một phần tiền tiết kiệm do lãi suất giảm đi so với kỳ vọng đã bị rút ra khỏi ngân hàng để bỏ vào các kênh khác như vàng hay chứng khoán. Những ngày gần đây, nhiều ngân hàng chỉ huy động tiền gửi không kỳ hạn, sau đó là các kỳ hạn một tuần trở lên. Trong ngày 13-9, có ngân hàng còn tung ra chương trình huy động “tiết kiệm linh hoạt ngày”, trong đó khách hàng gửi tiền kỳ hạn một ngày cũng được hưởng lãi suất 14%/năm, chưa kể các kỳ hạn khác như 2 ngày, 3 ngày, 4 ngày... Ngoài ra, để chi trả cho phần chênh lệch lãi suất giữa 14%/năm theo quy định và 18% đến 19%/năm theo thực tế, mỗi ngân hàng có một cách riêng để hợp thức hóa. Có ngân hàng trả tiền lãi 14%/năm vào cuối kì, 4% còn lại sẽ chi trả trực tiếp ngay khi khách hàng đến gửi tiền dưới hình thức làm phiếu quà tặng. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến 21/4/2011 giảm 1,09% so với tháng trước; trong đó tiền gửi bằng VND giảm 1,84%, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng 1,46%; so với cuối năm trước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng đến thời điểm trên ước tăng 0,46%. Kết quả trên cho thấy các ngân hàng đang gặp khó khăn trong huy động vốn. Tăng trưởng huy động tính từ đầu năm ở mức thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Liên hệ thực tế tại ngân hàng Vietcombank: Huy động vốn là một nghiệp vụ chính không thể thiếu trong hoạt động của NHTM nói chung và của VCB nói riêng vì vốn hoạt động của ngân hàng chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động. Như vậy công tác huy động vốn tác động đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Do vậy mỗi năm ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược riêng về huy động vốn thích hợp với tình hình kinh tế xã hội và phù hợp với tình hình sử dụng vốn trong năm đó. Sau đây là tình hình huy động vốn trong 3 năm từ 2008 – 2010 của VCB. Năm 2008: Trong năm 2008 tình hình kinh tế thế giới cũng như Việt Nam có nhiều yếu tố không thuận lợi. Khủng hoảng tài chính tại nhiều nước trên thế giới với việc sáp nhập hoặc phá sản của hàng loạt các tổ chức tín dụng tài chính tên tuổi trên thị trường đã mở đầu cho thời kì suy thoái kinh tế thế giới. Tại Việt Nam, thiên tai dịch bệnh đẩy giá cả tăng cao, xuất khẩu gặp khó khăn, thị trường bất động sản đình trệ, tình hình thị trường tài chính tiền tệ có nhiều diễn biến phức tạp đã làm suy giảm đáng kể đà tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, giữ ổn định thị trường tiền tệ, năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua các giải pháp như nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu để hạn chế tăng trưởng tín dụng. Trong bối cảnh như vậy hoạt động của ngành ngân hàng đã gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam vẫn đạt được mục tiêu và hoàn thành tốt kế hoạch kinh doanh năm 2008 với chất lượng hoạt động tốt, quy mô tăng trưởng ổn định, hiệu quả kinh doanh cao. Đi sâu vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Để đối phó với tình hình lạm phát tăng cao, việc thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán của NHNN đã tạo ra một cuộc đua khốc liệt về lãi suất huy động của các ngân hàng, đẩy mặt bằng lãi suất chung lên cao làm cho hoạt động huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Mặc dù vậy tồng huy động vốn của Vietcombank 2008 vẫn đạt mức tăng trưởng 10,24%. Với chính sách lãi suất linh hoạt sự đa dạng về các sản phẩm huy động vốn, công tác huy động vốn của Vietcombank đã thực hiện tốt nghiệm vụ đảm bảo đủ nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán của khách hàng và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dự trữ bắt buộc tại NHNN. Trong giai đoạn căng thẳng thanh khoản 6 tháng đầu năm 2008, Vietcombank không chỉ duy trì được trạng thái thanh khoản ổn định nhất trên thị trường mà còn giữ vai trò chủ lực hỗ trợ vốn kịp thời cho các ngân hàng khác đảm bảo ổn định hệ thống ngân hàng Việt Nam, đồng thời gia tăng lợi nhuận kinh doanh vốn cho chính Vietcombank. Tình hình huy động vốn năm 2008: Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 31.12.2008 31.12.2007 Tốc độ tăng trưởng Tổng vốn huy động Huy động từ khu vực kinh tế Huy động khác 193.406 159.989 33.417 175.435 144.810 30.625 10.24% 10.48% 9.12% Năm 2009: Tiếp đà suy thoái năm 2008, nhiều nền kinh tế trên thế giới tiếp tục suy giảm sâu trong nữa đầu năm 2009 nhưng rồi đã gượng dậy và dần hồi phục vào giai đoạn cuối năm. Nền kinh tế Việt Nam đã khá thành công khi đạt mức tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực và kiềm chế được lạm phát ở mức thấp. Gói kích thích kinh tế của Chính Phủ mà trọng tâm là chương trình hỗ trợ lãi suất đã mang lại những hiệu ứng tích cực cho hoạt động ngân hàng; nhưng những diễn biến phức tạp của lãi suất, tỷ giá, thanh khoản,… cũng khiến hoạt động của các ngân hàng gặp không ít khó khăn. Mặc dù việc huy động vốn trong năm 2009 rất khó khăn, nhưng với Vietcombank, huy động vốn từ khách hàng bằng VND tăng trưởng tương đối tốt, tăng 18,8% so với năm trước. Cộng với việc lãi suất cho vay trên thị trường biến động liên tục tạo điều kiện công tác huy động vốn năm 2009 như sau: Tổng huy động vốn từ khu vực kinh tế và các khu vực khác tăng 17,5%. Trong đó huy động từ khu vực kinh tế tăng 5,9% so với năm 2008 đạt 169.457 tỷ đồng. Huy động từ khách hàng bằng VND tăng 18,8% so với năm trước. Trong bối cảnh bị cạnh tranh gay gắt, huy động vốn tiền gửi của dân cư vẫn có mức tăng trưởng khá tốt 34.5% là nhờ vào các chương trình huy động vốn trải đều trong năm, và sự cố gắng nổ lực của hầu hết các chi nhánh trong hệ thống. Biểu đồ thể hiện công tác huy động vốn từ 2005 – 2009: Nguồn: NHTM cổ phần Ngoại Thương Việt Nam Vietcombank Năm 2010: Năm 2010, nền kinh tế toàn cầu dù đã thoát được khỏi khủng hoảng nhưng vẫn chưa hoàn toàn khôi phục. Thêm vào đó nhiều nguy cơ mới xuất hiện: khủng hoảng nợ công châu Âu, lạm phát ở Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi…. Bên cạnh đó, kinh tế Việt Nam cũng đạt được những bước tăng trưởng khá cao (6.78%), nhưng đổi lại, chỉ số giá tiêu dùng đã vượt quá 2 con số (11.75%). Lạm phát, tỷ giá, lãi suất có nhiều biến đổi phức tạp. Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng cao (29.81%) trong khi tăng trưởng vốn huy động từ nền kinh tế chỉ đạt ~27%. Đối với ngành ngân hàng, năm 2010 là năm các ngân hàng trong hệ thống phải đối diện với nhiều khó khăn, như: sự biến động mạnh của tỷ giá, lãi suất; chịu áp lực đáp ứng yêu cầu về các tỉ lệ an toàn theo thông tư 13/2010/TT-NHNN, 19/2010/TT-NHNN; v.v.. Kết quả kinh doanh năm 2010 đã phản ánh mức độ phân hoá trong ngành ngân hàng, một số ngân hàng vừa và lớn đạt hiệu quả kinh doanh tốt, song các ngân hàng nhỏ chịu chi phí đầu vào và rủi ro cao, nên kết quả kinh doanh thấp. Trong môi trường kinh doanh đầy biến động như thế, Vietcombank đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được kết quả kinh doanh tốt. Về hoạt động huy động vốn: Dự báo trước tình hình sẽ xảy ra cạnh tranh gay gắt giữa các TCTD trong hoạt động huy động vốn, ngay từ đầu năm Vietcombank đã xác định mục tiêu tăng cường huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của năm. Triển khai nhiệm vụ này, trong năm 2010, Vietcombank đã giao chỉ tiêu huy động vốn đến từng chi nhánh, đồng thời tích cực đa dạng hóa các sản phẩm huy động vốn có lãi suất hợp lý, đi kèm các chương trình khuyến mại, đầu tư cho hệ thống công nghệ thích đáng, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh huy động vốn. Các chi nhánh Vietcombank đã chủ động trong việc xâm nhập thị trường, tiếp cận và chăm sóc khách hàng chu đáo. Kết quả là, nguồn vốn của Vietcombank tăng trưởng rất tốt. Huy động từ nền kinh tế đạt hơn 208.320 tỷ đồng, tăng 23% so với cuối năm 2009 - đây là mức cao nhất trong vòng 5 năm, đạt kế hoạch do HĐQT đề ra. Huy động vốn VND liên tục tăng trưởng cao và đều đặn. Đặc biệt trong năm 2010, huy động vốn từ dân cư đạt kết quả khá khả quan với số dư đạt 98.880 tỷ quy đồng, tăng 28,5% so với năm trước. Số dư huy động từ TCKT đạt 108.172 tỷ, tăng 16,3%. Huy động vốn từ liên ngân hàng đạt 69.600 tỷ quy đồng, tăng 13,3% so với năm 2009. Nguồn: NHTM cổ phần Vietcombank Đánh giá về thực trạng huy động vốn: Tình hình huy động vốn của các ngân hàng giai đoạn 2008-2010 Đơn vị: triệu đồng Ngân hàng NĂM 2008 NĂM 2009 NĂM 2010 BIDV 206.797.064 240.772.084 296.871.296 Agribank 339.717.358 434.905.857 472.612.098 Vietcombank 195.982.232 230.871.536 277.932.504 Vietinbank 134.687.974 185.690.702 294.964.392 Những hạn chế còn tồn tại: Việc khống chế trần lãi suất huy động của ngân hàng hiện nay khiến các doanh nghiệp đang phải vay vốn với lãi suất hơn 20%/năm, chi phí vay vốn quá lớn khiến các doanh nghiệp làm ăn không có lãi. Chi phí vay vốn cảu doanh nghiệp bị đẩy lên làm chi phí của doanh nghiệp tăng, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả buộc doanh nghiệp phải tăng giá bán hàng hóa và dịch vụ, từ đó làm lạm phát tăng lên. Khi NHNN khống chế mặt bằng 14%/năm, nếu lãi suất mặt bằng chung dưới 14% thì các ngân hàng nhỏ có thể đưa lên tối đa 14%thì vẫn huy động được. còn khi mặt bằng chung đều là 14% thì các cá nhân, tổ chức kinh tế sẽ gửi vào các ngân hàng lớn, do các ngân hàng lớn sẽ có độ tin cậy hơn. Vì vậy sẽ gián tiếp đẩy các ngân hàng nhỏ bằng cách này hoặc cách khác sẽ phá rào ảnh hưởng đến thị trường vốn. Để có thể huy động được vốn thì các NHTM tăng lãi suất nhưng tăng thế nào để không vi phạm lãi suất huy động trần, vì vậy các ngân hàng có sự gian dối trong giao dịch cũng như trong hạch toán lám sai lệch báo cáo tài chính, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ khó kiểm soát, từ đó ẩn chứa rủi ro không lường trước được đói với nên kinh tế. Nguyên nhân: Lạm phát: Đây chính là một trong những nguyên nhân tác động rất lớn vào việc huy động vốn của các ngân hàng. Hiện tại thì lạm phát chính là vấn đề nhức nhối của Việt Nam, kiềm chế lạm phát đang là ưu tiên hàng đầu của các chính sách tiền tệ, tài khóa. Tính đến tháng 8/2011 đã lên đến 23%, với mức lam phát hiện nay thì lãi suất huy động vốn cả năm của ngân hàng thậm chí còn thấp hơn. Như thế khì khách hàng gửi tiền vào ngân hàng lãi suất họ thực nhận là âm cho nên có một sự tháo lui vốn lớn khỏi ngân hàng để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Trần lãi suất: như chúng ta đã biết , chính sách của chính phủ hiện gìờ có một mục tiêu trọng điểm là giảm lạm phát đang phi mã của nước ta. Một trong những chính sách đó là trần lãi suất, các ngân hàng bị giới hạn lãi suất huy động vốn ở mức 14%/năm, nhưng với tình trạng lạm phát cao như thế này đã gây khó khăn rất nhiều cho ngân hàng trong việc huy động vốn. Vì thế đã có tình trạng hầu như tất cả các NH đều tìm cách vượt rào lãi suất dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm tăng cường huy động vốn. Sự biến động khó lường của giá vàng: tâm lý người Việt Nam khi nền kinh tế bị khủng hoảng, niềm tin bị lung lay thì họ sẽ thường quay lại đầu tư vào một loại hàng hóa dự trữ đặc biệt lâu đời đó là vàng. Dưới sự tác động cùng chiều của nhiều yếu tố: khủng hoảng kinh tế trên thế giới, bất ổn chính trị, chiến tranh giá vàng leo thang làm cho giá vàng thế giới gia tăng cộng hưởng với lạm phát phi mã hiện nay của Việt Nam làm cho giá vàng tăng đột biến, trong thời gian ngắn tăng từ hơn 37 triệu đ/lượng lên tới gần 50 triệu đ/1 lượng, giá vàng hiện nay dao động ở mức hơn 46 triệu đ/lượng. Với sự thay đổi nhanh chóng mạnh mẽ đã tạo nên một kênh đầu tư thu lợi lớn, khá an toàn, kết quả đã tạo nên một cơn sốt thực sự người người đổ xô đi mua vàng, mọi nguồn vốn nhàn rỗi, thâm chí nhiều người còn rút tiền trước kỳ hạn để cùng nhau đầu tư vàng, làm cho vấn đề huy động vốn trước đã khó khăn lại càng gian nan hơn nữa. Ngoài ra còn có một nguyên nhân chủ quan nằm ở trong chính các ngân hàng đó là hiện nay các ngân hàng chủ yếu hầu như cạnh tranh với nhau bằng lãi suất, thiếu sự đầu tư mạnh mẽ để phát triển các dịch vụ thanh toán. C. GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG ĐIỀU KIỆN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY: I. Xét về mặt vĩ mô: vai trò của chính phủ nhà nước Môi trường kinh tế vĩ mô có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nói một cách khác thì các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ sẽ định hướng, tiết chế hoạt động và phát triển của các NHTM sao cho phù hợp với sự phát triển kinh tế cả nước. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên chúng ta cần phải có những chính sách hợp lý, phù hợp với thực tiễn, thỏa mãn tiêu chí xây dựng hê thống tài chính ngân hàng vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên có một thực tế là chính sách tiền tệ Việt Nam thiếu tính thực tiễn không giải quyết được vấn đề vốn có mà còn ảnh hưởng lớn đến hoạt đông kinh doanh của các ngân hàng. Trần lãi suất đưa ra là thế nhưng phải nói là tất cả các ngân hàng đều không bằng cách này thì cũng bằng cách khác để nâng cao lãi suất huy động vốn. Điều đó nói lên sự yếu kém từ việc đưa ra các chính sách đến việc thanh tra quản lý. Để các chính sách tiền tệ tích cực hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung, ngân hàng nói riêng giải quyết vấn đề này nhóm em xin nêu ra một số giải pháp: Trong ngắn hạn: Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: môi trường kinh tế vĩ mô ổn định là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Do vậy nhà nước phải đưa ra các định hướng, chiến lược phát triển kinh tế trong một thời gian dài, tạo môi trường kinh tế ổn định, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, từ đó khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, tranh thủ nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ trên thế giới. Từ đó mở rộng quan hệ tín dụng trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM. Cần có giải pháp thích hợp đối với lãi suất hiện nay -NHNN không nên khống chế lãi suất trần huy động, mà để lãi suất tự cung-cầu tín dụng thị trường xác định. NHNN chỉ cần khống chế tăng trưởng tín dụng dưới 20% và hệ số an toàn vốn tối thiểu là đủ. -NHNN nên có sự thay đổi từ quy định trần lãi suất huy động sang quy định trần lãi suất cho vay thì sẽ hiệu quả hơn. -NHNN chỉ cần quy định lãi suất cho vay tối đa. Khi đưa ra trần lãi suât cho vay, các NHTM sẽ tự điều chỉnh lãi suất huy động để cân đối hợp lý chi phí đầu vào với lãi suất đầu ra. Kèm theo đó, NHNN cần ban hành các chế tài nghiêm minh để đảm bảo quy định náy có hiệu lực. Từng bước hoàn thiện củng cố môi trường pháp lý lành mạnh, xây dựng đồng bộ các luật, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người đầu tư, cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Hướng dẫn các tầng lớp dân cư tiêu dùng tiết kiệm, khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước, thực hiện xử phạt nghiêm minh các trường hợp tham ô, làm thất thoát đến tài sản của nhà nước, của nhân dân.   Nhà nước quan tâm đến lợi ích của các ngân hàng, khuyến khích các NHTM huy động các nguồn vốn trung và dài hạn vì đây là nguồn vốn rất quan trọng, tạo cơ sở vật chất cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, thực hiện giảm thuế lợi tức cho các NHTM. Nâng cao khả năng thanh tra cũng như đề ra các biện pháp chế tài đủ mạnh để tránh các tình trạng NH phá rào hàng loạt như hiện nay. Trong dài hạn: Chúng ta cần có sự cải tổ mạnh mẽ ngay từ cơ cấu, tổ chức NHTW. Bên cạnh đó, để các chính sách tiền tệ được hiểu quả hơn thì chúng ta cần phải tách bạch, nâng cao tính độc lập hơn nữa cho NHTW. Theo quan điểm của nhóm em thì mô hình NHTW trực thuộc chính phủ hiện nay thì cũng khá phù hợp, hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển kinh tế ngày càng nhanh cũng như sự biến động phức tạp của nền kinh tế thế giới mô hình này ngày càng bộc lộ những nhược điểm, tính thiếu linh hoạt, phụ thuộc của nó. Tương lai, chúng ta cần đổi mới có thế chuyển sang một mô hinh mới NHTW độc lập với Chính phủ. II. Xét về mặt vi mô: Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn: Đối với khách hàng cá nhân: Đây chính là nguồn vốn không kém phần quan trọng bền vững của ngân hàng. Nên chúng ta cần phải chú trọng, có nhiều biện pháp, chương trình khuyến mãi. Đồng thời phát triển thêm nhiều sản phẩm, dịch vụ khác thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Phát triển thêm nhiều loại hình kỳ hạn tiết kiệm nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng. Đối với khách hàng thường xuyên quen thuộc thì phải có những ưu đãi, phần thưởng để khuyến khích giữ chân khách hàng như tặng phiếu mua hàng giảm giá, quà tặng cuối năm… Vì theo quy luật kinh doanh 80 % doanh thu đến từ 20% khách hàng quen thuộc. Tuy nhiên ngân hàng cũng cần có những biện pháp tích cực để thu hút thêm nhiều khách hàng mới như việc bốc thăm trúng thưởng… Đối với khách hàng là doanh nghiệp: Thường đây là những khách hàng lớn. Trong một vài chu kỳ kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ có những nguồn vốn nhàn rỗi không sử dụng đến hoặc cũng có thể đê dưới dạng tài khoản thanh toán. Đối với những khách hàng loại này ngân hàng cần linh hoạt trong việc tính lãi suất cũng như kỳ hạn để đưa ra các loại hình kỳ hạn hợp lý. Cũng như tăng khả năng thanh toán tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp. Ngoài ra với những đối tác chiến lược như các công ty bảo hiểm, thì ngân hàng cần đẩy mạnh việc hợp tác để một mặt thu lợi từ việc bán các sản phẩm bảo hiểm bancassurance, mặt khác sẽ có được những nguồn tiền gửi từ những doanh nghiệp bảo hiểm này. Cải tiến quy trình thanh toán, tăng cường mở tài khoản cá nhân, séc cá nhân, thẻ thanh toán: Ở Việt Nam hiện nay, các tài khoản thanh toán cá nhân chưa được phát triển mạnh nguyên nhân một phần là do thói quen một phần khác là do các ngân hàng chưa có những đầu tư đúng mức để phục vụ phát triển dịch vụ thanh toán. Các giải pháp nhóm em đưa ra là Điều đầu tiên cần phải cải tiến là máy ATM. Ở Việt Nam, máy ATM chưa thực hiện được hết được chức năng của mình, nó chỉ được sử dụng như một máy rút tiền. Ở nước ngoài các máy ATM có thể gửi tiền, thực hiện chuyển khoản, thanh toán, mua hàng…. Các ngân hàng Việt Nam ta cần phải có những đầu tư mạnh để nâng cấp, phát triển hệ thống này, để tránh tình trạng lạc hậu. Tuy nhiên việc đầu tư như thế rất tốn kém kéo theo nhiều chi phí. Theo ý kiến có nhóm em thì hiện nay các máy ATM của một ngân hàng chỉ cho phép rút tiền của các ngân hàng có thỏa thuận có tính phí mà không cho phép chuyển khoản và thực hiện các giao dịch khác, nếu cải thiện được yếu điểm này sẽ giúp cho hệ thống máy ATM bước đầu hoàn thiện hơn, mặt khác sẽ giảm nhiều chi phí hơn. Hay cũng có thể NHTW sẽ đứng ra thưc hiện thu phí các ngân hàng thành viên rồi dùng chi phí đó phát triển hệ thống ATM. Cùng với việc phát triển các hệ thống cơ sở vật chất, thì các ngân hàng cần có những liên kết thiết thực với các ngành kinh tế thiết yếu. Cụ thể như ngân hàng triển khai thưc hiện việc thanh toán phí Điện, Nước, cước Bưu điện qua hệ thống ngân hàng. Như vậy, ngân hàng có thể tận dụng được nguồn vốn tạm thời này. Đẩy mạnh khuyến khích việc sử dụng séc, thẻ thanh toán, tạo các tài khoản cá nhân. Chuyên môn hóa, thực hiện giao dịch 1 cửa: Ngân hàng được áp dụng cơ chế một cửa với các giao dịch nhận, trả tiền từ tài khoản... Khi thực hiện các giao dịch này, khách hàng chỉ cần làm việc với một giao dịch viên của tổ chức tín dụng và nhận kết quả từ chíngân hàng giao dịch viên đó. Đối với các giao dịch trong hạn mức cho phép, giao dịch viên vừa là người lập, vừa là người kiểm soát chứng từ và chỉ có 1 chữ ký của giao dịch viên trên chứng từ. Đối với giao dịch vượt hạn mức và các giao dịch phải có sự phê duyệt của người có thẩm quyền, các chứng từ sẽ được kiểm soát viên kiểm tra và kiểm soát. Các chứng từ thuộc giao dịch này phải có đủ chữ ký của người lập chứng từ (giao dịch viên) và người kiểm soát chứng từ (kiểm soát viên) hoặc của các cấp có thẩm quyền theo phân cấp của ngân hàng. Như vậy, khi áp dụng cơ chế giao dịch một cửa sẽ rất thuận tiện cho khách hàng, không làm mất nhiều thời gian của khách hàng. Khi đó, sẽ thu hút khách hàng nhiều hơn. Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên: Nên xây dựng một quy trình tuyển dụng nhân viên khoa học, chính xác và hợp lý nhằm tuyển dụng được những nhân viên có trình độ và phù hợp với yêu cầu công việc. Định kỳ tổ chức các khoá đào tạo kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ nhân viên về khả năng thực hiện công việc với kỹ thuật công nghệ hiện đại, khả năng ứng xử khi tiếp xúc với khách hàng. Đồng thời, lập kế hoạch cử các cán bộ trẻ có năng lực đi đào tạo chuyên sâu ở các lĩnh vực kinh doanh chủ chốt, các dịch vụ mới nhằm xây dựng được đội ngũ chuyên gia giỏi, làm nồng cốt cho nguồn nhân lực trong tương lai. Tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ chuyên môn, thể thao và các vấn đề xã hội khác. Qua việc kiểm tra khả năng ứng xử của nhân viên, ngân hàng có thể một mặt khen thưởng để khích lệ, mặt khác có thể rút ra những yếu kém hiện tại để có thể có biện pháp cải thiện kịp thời. Từ đó, ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ. Đổi mới phong cách giao dịch, thể hiện sự văn minh lịch sự của cán bộ nhân viên đối với khách hàng. Có cơ chế khuyến khích vật chất đối với cán bộ trong ngân hàng như: cần thiết có chế độ lương, thưởng khác nhau đối với những nhiệm vụ quan trọng khác nhau để khuyến khích sự làm việc của đội đội ngũ cán bộ ngân hàng. Nâng cao khả năng giao tiếp của cán bộ giao dịch ngân hàng khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng: Trên thực tế, nếu muốn gây dựng niềm tin bền vững, muốn duy trì mối quan hệvới khách hàng lâu dài thì cán bộ giao dịch nên hiểu rằng: việc khách hàng chấp nhận sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mới chỉ là bắt đầu cho một chiến lược tiếp cận làm hài lòng khách hàng, mà còn phải thông qua các dịch vụ chăm sóc khách hàng sau khi giao dịch được thực hiện. KẾT LUẬN Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Đây là nhiệm vụ hết sức to lớn của hệ thống ngân hàng nước ta. Trong những năm vừa qua hệ thống ngân hàng nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, các hoạt động nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng đều tăng trưởng cao, huy động được một số lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên hệ thống NHTM nước ta vẫn còn những tồn tại cần được chấn chỉnh đặc biệt là công tác huy động vốn. Để khắc phục những tồn tại trên các ngân hàng cần tăng cường khai thác triệt để nguồn vốn trong nước và tìm ra giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, phát huy thế mạnh thanh toán không dùng tiền mặt của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra cũng cần có sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng trong việc tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, để các ngân hàng có thể thực hiện tốt nhiệm vụ, góp phần thúc đẩy kinh tế ngày càng đi lên. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tạp chí Ngân hàng tháng 01/2007 WEB Ngân hàng Vietcombank Báo cáo thường niên của BIDV, Agribank, Vietcombank, Vietinbank qua các năm 2008, 2009,2010 Tạp chí Ngân hàng số 15/8/2011trang 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxnv nhtm.docx
Tài liệu liên quan