Đề tài Giải pháp phát triển xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản

Với mục tiêu lâu dài là công nghiệp hóa-hiện đại hóa ngành thủy sản xuất khẩu cần mở rộng và nâng cao giá trị sản phẩm, không ngừng cải biến và nâng cao giá trị sản phẩm, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm mới có giá trị và chất lượng cao, chuyển dần từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu các sản phẩm tươi sống, ăn liền và sản phẩm bán lẻ tại các siêu thị, đổi mới công nghệ chế biến, đảm bảo an toàn chất lượng thủy sản từ khâu bảo quản sau thu hoạch, tiếp nhận, vận chuyển nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm để có thể khai thác tốt tiềm năng kinh tế biển, giải quyết công ăn việc làm và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam vào thị trường thế giới cũng như tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế. Như vậy, cơ hội vẫn mở ra trước mắt cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Với những nỗ lực, cố gắng của ngành thủy sản đã đạt được trong những năm qua, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng ngành thủy sản sẽ gặt hái nhiều thành công trên thị trường Nhật. Hy vọng đề tài này sẽ đóng góp một phần vào sự nghiệp thành công đó.

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấp, chỉ có một số doanh nghiệp bán được sang Mỹ, tiếp đến là thị trường Trung Quốc và Hông Kông với 117 triệu USD chiếm 12,5%. Có thể nói thị trường Trung Quốc đang phát triển mạnh và nhu cầu rất đa dạng. Do quan hệ thương mại và thanh toán giữa hai nước còn gặp nhiều khó khăn nên hàng thủy sản vào Trung Quốc mới chủ yếu đi bằng đường tiểu ngạch và chỉ được bán sang một số tỉnh phía Đông Nam với các loại nguyên liệu tươi sống là chủ yếu. Song thị phần xuất khẩu ở thị trường này đang tiếp tục tăng lên. Ngược lại, thị trường Đông Âu đang có xu hướng giảm xuống từ 12,05% năm 1997 xuống còn 9,6% năm 1999. Ngoài các thị trường nói trên còn có một thị trường mà chỉ trước đây vài năm đã là một thị trường có nhiều sức thuyết phục đó là thị trường Đông Nam á. Trong năm 1997, thị trường này đã tiêu thụ 22 ngàn tấn thủy sản chiếm 16,5%. Cơ cấu mặt hàng này cũng rất phù hợp với nguồn lợi biển của nước ta, đó là mặt hàng tươi sống sơ chế và nguyên liệu. Đáng tiếc là gần đây do khủng hoảng tiền tệ trong khu vực nên thủy sản vào thị trường này đã giảm. Thực tế cho thấy thị trường xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam rõ ràng là chưa ổn định. Chúng ta chưa đẩy mạnh được xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường chính mà vẫn xuất qua trung gian môi giới và các trung tâm tái xuất như Singapo, Hồng Kông. Chưa sử dụng hình thức đại lý như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Nếu không tận dụng được cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng thị phần ở thị trường EU, Bắc Mỹ, tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường EU, Bắc Mỹ, tận dụng mở toàn cầu. Thực tế thị trường Nhật Bản nhìn chung đã ở mức bão hòa và đang trong thời kỳ suy thoái về kinh tế. Trung Quốc là thị trường hứa hẹn nhiều tiềm năng, có khả năng tiêu thụ nhiều hàng khô giá thấp phù hợp với khả năng chế biến của doanh nghiệp Việt Nam. 3. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường xuất khẩu thủy sản Nhân tố thuận lợi - Đường lối của Đảng và nhà nước thông thoáng tạo điều kiện cơ hội tốt nhất cho các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhà nước đã cung cấp nguồn vốn tín dụng ưu đãi và chính sách ưu đãi cho các chủ đầu tư tham gia vào chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản cụ thể: trong 5 năm đầu nuôi trổng thủy sản được miễn các loại thuế (đất, doanh thu, lợi tức), giảm 50% cho 5 năm tiếp theo kể từ khi dự án đi vào sản xuất kinh doanh. Đối với chương trình đánh bắt hải sản xa bờ, ngư dân được vay vốn với lãi ưu đãi 0.81%/tháng, thời hạn hoàn vốn 7 năm, vốn đối ứng của dân là 15%. Bên cạnh đó, nhà nước còn có sự hỗ trợ, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa học kỹ thuật. Bộ thủy sản đã tập trung ban hành các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm tương đương với các nước nhập khẩu, nâng cao năng lực cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh và tập trung trung tâm cơ sở sửa chữa, nâng cấp nhà xưởng. - Đến nay đã có 61 doanh nghiệp nằm trong danh sách xuất khẩu đi EU, gần 100 đơn vị áp dụng HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ, Nhật Bản. Những cơ sở nâng cấp, mở rộng sản xuất, trên 40 cơ sở sản xuất mới có công nghệ hiện đại sẽ được xây dựng ở địa phương gần nguyên liệu. Hơn nữa, hiện nay hải sản tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khẩu phần ăn của người Nhật. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam chế các loại sản phẩm đa dạng sang Nhật. - Với sự hỗ trợ tích cực của dự án cải thiện chất lượng và xuất khẩu thủy sản (SEAQIP) do Đan Mạch tài trợ. Bộ thủy sản đã tiến hành nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức các kênh thông tin về thị trường. 3.2. Những khó khăn và thách thức - Tính cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản rất cao, thị trường Nhật Bản nhập khẩu hàng thủy sản từ rất nhiều nước khác nhau. Trong đó có những nước có lợi thế tương tự như Việt Nam đều coi thị trường Nhật Bản là thị trường chiến lược của các nước này đều quan tâm đến đề xuất các giải pháp hỗ trợ và thâm nhập dành thị phần trên thị trường Nhật. Đây cũng là khó khăn tác động đến khả năng thúc đẩy xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường này. - Hệ thống pháp luật Nhật Bản có tính nguyên tắc cao đòi hỏi cách làm ăn bài bản của doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu thông tin về thị trường. Vì vậy, không nắm rõ được yêu cầu của Nhật. Vấn đề kiểm tra vệ sinh thực phẩm, nếu phát hiện có vi sinh gây ra bệnh dịch tả thì phải hủy những sản phẩm không đạt yêu cầu này. Vì vậy các doanh nghiệp phải nắm vững các quy định nhập khẩu thủy sản của Nhật, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ xây dựng được phương án xuất khẩu của mình sao cho hiệu quả nhất. - Công tác quy hoạch nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu còn bị động và hiệu quả chưa cao. Dự báo của doanh nghiệp và các cơ quan quản lý còn nhiều hạn chế, thông tin thị trường thủy sản thế giới còn thiếu và chậm dẫn tới sản lượng thủy sản có xu hướng chững lại trong những năm gần đây. - Cơ cấu thủy sản xuất khẩu chưa hợp lý biểu hiện: tôm vẫn chiếm tỷ trọng cao trong sản lượng thủy sản xuất khẩu năm 2003 chiếm tỷ lệ 43,6%) trong khi một số loại thủy sản khác cũng được giá chưa được phát triển. Người sản xuất, kinh doanh mới quan tâm tới số lượng chưa quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Chưa có nhiều loại thủy sản tiêu biểu, đặc sản mang tính đặc sắc của Việt Nam. Công nghệ đánh bắt và nuôi trồng, bảo quản và chế biến, mẫu mã bao bì, giống thủy sản vẫn chưa tốt. - Bốn tháng đầu năm 2004, giá nguyên liệu thủy sản phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu tăng 10-20% gây nhiều khó khăn cho các nhà máy chế biến thủy sản nên một số nhà máy chế biến thủy sản đã giảm công suất, giảm nhập khẩu nguyên liệu thô. - Chi phí cho sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản có xu hướng tăng nhanh, làm tăng giá sản phẩm nên giảm khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam. - Tỷ lệ thủy sản xuất khẩu ở dạng chế biến sâu và xuất khẩu tới thị trường tiêu thụ trực tiếp chưa cao. - Tình trạng thiếu vốn ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tự lo vay vốn ngân hàng làm ảnh hưởng giá thành xuất khẩu. Trình độ học vấn và tay nghề của công nhân ngành thủy sản chưa cao làm ảnh hưởng xây dựng uy tín cho doanh nghiệp, đến chất lượng tiêu chuẩn. Mặt khác, trình độ quản lý ở một số cán bộ còn chưa khoa học. Điều này thể hiện rõ ở nhiều mặt từ quy hoạch xây dựng dự án, kế hoạch đến các phương thức, biện pháp quản lý, cần điều chỉnh cho phù hợp: Đó là những khó khăn chúng ta cần khắc phục để làm cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản ngày một cao hơn. 4. Kinh nghiệm phát triển thị trường xuất khẩu - Kinh nghiệm về thị trường và hội nhập Thị trường tiêu thụ quan trọng của chúng ta là thị trường nước ngoài, bất cứ sự biến động nào của thế giới có thể ảnh hưởng đến sản xuất trong nước nếu ta không chủ động hội nhập. Thực tế chứng minh rằng, trước hết cơ quan nhà nước, bao gồm cả hệ thống tổ chức, năng lực cán bộ cũng như luật pháp, chính sách, phải đi trước trong quá trình hội nhập. Việc đổi mới hệ thống văn bản pháp chế kỹ thuật trong quản lý thực phẩm và xây dựng cơ quan nhà nước trong ngành thủy sản có thẩm quyền tương đương với các nước là một ví dụ cụ thể. Suy ra, các vấn đề công nghệ, môi trường, chính sách cũng phải vươn lên theo yêu cầu hội nhập. - Bài học về huy động sức dân Từ những năm 50 ngành thủy sản đã đề ra phương châm phát triển nghề cá nhân dân với ý nghĩa người lao động nghề cá. Các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành là chủ thể của nền sản xuất thủy sản. Trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu, sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang tăng lên rất nhanh hiện chiếm 30% doanh số xuất khẩu thủy sản, so với tỷ trọng gần như băng không khoảng 10 năm trước đây. Các doanh nghiệp tư nhân đã nhanh chóng vươn lên thành các doanh nghiệp hàng đầu của xuất khẩu thủy sản Việt Nam, đã xuất hiện các công ty TNHH có giá trị xuất khẩu từ 50 đến 70 triệu USD. Chủ thể của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là hệ thống thống nhất các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế dân doanh đều là lực lượng không thể thiếu được, hỗ trợ và tác động lẫn nhau. - Bài học về tổ chức hệ thống quản lý Tổ chức hệ thống là thể hiện quan hệ sản xuất. Đối với các tổng công ty nhà nước phải cần tìm ra mô hình tổ chức thích hợp. Trong điều kiện mới của toàn cầu hóa, cạnh tranh và hội nhập. Nói riêng lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm, khi đã mở rộng diện quản lý ra các vùng sản xuất nguyên liệu thì nhất thiết phải có cơ quan quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm ở địa phương. Vì vậy chủ trương cải cách hành chính, tinh giảm biên chế là cần thiết, nhưng phải xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ quản lý. Trong thời kỳ mới, không thể đồng loạt, dập khuôn. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức, việc nắm thông tin, xử lý thông tin để đưa quyết định quản lý kịp thời là cần thiết, cả ở phạm vi doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập và xu thế toàn cầu hóa mỗi bộ ngành cần thiết phải tổ chức để nghiên cứu dự báo các vấn đề chiến lược phát triển. Bước vào thế kỷ XXI, thế và lực của ngành thủy sản đã thay đổi, điều đó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những bài học kinh nghiệm của thời kỳ vừa qua và tiếp tục không ngừng đổi mới để tìm ra những con đường phát triển mới. Đổi mới không ngừng là bài học lớn dẫn đến thành công. II. Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản 1. Đặc điểm thị trường Nhật Bản Thị trường Nhật Bản tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản tinh chế và hàng đóng gói nhỏ cho siêu thị, tôm sống, cá ngừ. Thị trường Nhật Bản có nhiều dấu hiệu khả quan hơn. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản sáu tháng đầu năm 2004 đạt 108 triệu USD đưa tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường lên trên 26%, tiếp tục đứng vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước, nhưng đã có sự thu hẹp khoảng cách so với thị trường Mỹ. Điều này cho thấy sự nỗ lực chuyển hướng thị trường này tăng 78% khối lượng và trên 80% giá trị. Tuy nhiên việc đưa hàng vào thị trường này cũng đang tiềm ẩn một số khó khăn đòi hỏi nguồn gốc, tình trạng nhiễm khuẩn. Tôm của Việt Nam được khách hàng Nhật Bản quan tâm còn vì chất lượng. Nếu mức thuế DOC kết luận sơ bộ cho tôm của ấn Độ và Thái Lan cũng thấp thì tôm của Việt Nam sẽ được các nhà nhập khẩu Nhật quan tâm. Nhìn chung xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản so với thị trường khác có sự khác biệt. Thị trường Sản lượng (tấn) Giá trị (đô la Mỹ) 2002 2003 2002 2003 Châu á (không kể Nhật) 134744.06 90503,71 497803341 290925817 Châu Âu 28612,78 38186,88 73719852 116739138 Mỹ 98664,54 122162,89 654977324 777656159 Nhật Bản 96251,41 97953,91 537459466 582837870 Thị trường khác 100385,20 132259,39 288860933 431417822 Tổng 458657,99 481066,78 2022820916 2199576806 Nguồn: Trung tâm khoa học KHKT và kinh tế thuỷ sản- Bộ thuỷ sản Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của Nhật chủ yếu là các mặt hàng cao cấp như tôm đông lạnh, tôm hùm, bạch tuộc đông, mực đông, cua biển, cá chình. Gần đây, do người tiêu dùng Nhật Bản hạn chế việc mua các sản phẩm này nên các mặt hàng cao cấp trên có giảm xuống về số lượng và giá trị, đồng thời lại tăng các mặt hàng thủy sản thông thường. Nhập khẩu tôm của Nhật Bản đạt mức cao nhất là năm 1995 với giá trị 3,92 tỷ USD. Hiện nay, nhập khẩu tôm của Nhật giữ ở mức trung bình dưới 20 nghìn tấn/tháng. Một thực tế khó khăn là mặc dù chính phủ Nhật Bản đã dùng các biện pháp vốn trước đây rất hữu hiệu như giảm giá bán nhưng nay người tiêu dùng đòi hỏi tăng cường tính an toàn, bổ dưỡng và ngon lành đối với mặt hàng tôm. Các nhà xuất khẩu tôm còn có thể thấy thị trường Nhật Bản đang đơn giản hóa các kênh phân phối, loại bỏ trung gian, cả một số nhà buôn lớn để đến với các đầu ra hiệu quả nhất. 2. Tình hình xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản 2.1. Số lượng và kim ngạch Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 1998-2003 sang Nhật hầu như tăng, trung bình là 11%/năm. Trong đó, năm 2000 đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất 22,5%, mặc dù 2001 chỉ tăng nhẹ so với năm 2000 nhưng đến năm 2002 lại vọt lên 9,52% và đến năm 2003 tăng 7,6% so với năm 2002. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đạt 363,2 triệu USD chiếm 43,2% giá trị xuất khẩu chung, đến năm 2002 đạt 96,25 nghìn tấn giá trị 537,46 triệu USD, chiếm 26,6% giá trị xuất khẩu chung. Năm 2003 đạt giá trị 578,42 triệu USD, chiếm 25,8% giá trị xuất khẩu chung. Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng năm 2004 sang thị trường này là 2,8 tỷ USD, tăng19% so với cùng kỳ năm 2003, tháng 10 đã đạt được mức 80 triệu USD gấp 2,5 lần những tháng đầu năm. Tuy tỷ trọng xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản có giảm nhưng về giá trị tăng đáng kể. Các loại thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật đều có chất lượng cao đang được bạn hàng ưa thích nhất là tôm, mực tươi. Do đó giá cũng cao, đã mang lại nguồn ngoại tệ quan trọng và ổn định những năm qua. Hiện nay, Việt Nam là một trong 4 nước xuất khẩu thủy sản lớn vào Nhật Bản, sau Thái Lan, ấn Độ, Inđônêxia. Mục tiêu tăng trưởng tiêu tăng trưởng bình quân hàng năm là 10%. Năm 2005 dự kiến Việt Nam sẽ xuất khẩu được 600-700 triệu USD. Đây là mục tiêu có khả năng đạt được. Kim ngạch thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản không những tăng liên tục mà ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Nhật Bản. Điều này thể hiện qua số liệu sau: Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam-Nhật Bản Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Giá trị (triệu USD) 363,19 395,2 482,16 490,76 537,46 578,42 % tăng +10,9 +12,2 +10,1 +10,95 +10,76 Nguồn: Tổng cục Hải quan Tỷ trọng mặt hàng thủy sản xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng KNXK 1.740 1.962 2.621 2.509 2.438 2.910 Giá trị XKTS 363,19 395,2 482,16 490,76 537,46 578,42 Tỷ trọng (%) 20,87 20,14 18,39 19,56 22,05 19,86 Nguồn: JETRO; Hải quan Việt Nam Hiện nay, có hơn 600 doanh nghiệp của Việt Nam đang trực tiếp hoặc gián tiếp xuất khẩu thủy sản ra thị trường thế giới thì có hơn 200 doanh nghiệp xuất khẩu hàng đi Nhật. Trong số này đã có gần 100 đơn vị áp dụng HACCP. Những doanh nghiệp này có giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Trình độ chế biến của nhiều đơn vị được đánh giá là đạt mức tiêu biểu của khu vực và trên thế giới, góp phần làm tăng giá trị hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Nhật Bản là thị trường quan trọng và đang đứng thứ hai trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù khối lượng và giá trị xuất khẩu liên tục tăng nhưng con số vẫn thấp so với tổng giá trị nhập khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản. Thị phần của thủy sản Việt Nam còn rất khiêm tốn, giá trị xuất khẩu thủy sản của chúng ta mới chỉ chiếm 4,15% năm 2002 (555,49 triệu USD), trong khi đó các nước lân bang như Inđônêxia-7,36%; Thái Lan-7,62%; Đài Loan-4,8%. Hiện nay, Việt Nam xếp thứ 13 trong tổng số các nước xuất khẩu thủy sản sang thị trường này. 2.2. Chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản Các mặt hàng chủ yếu là tôm, cá, mực, bạch tuộc đông lạnh và mực khô. Các mặt hàng chủ yếu xuất sang Nhật trong năm 2003 là (khối lượng-nghìn tấn/giá trị-triệu USD/tỷ trọng % về giá trị): Tôm 52,01/380,23/65,7; mực và bạch tuộc đông 142,26/57,78/10,0; cá 14,81/54,15/9,4; hàng khô 1,97/14,55/2,5; hải sản khác 15,35/77,7/13,4. Như vậy, xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là tôm đông, nhuyễn thể và cá chiếm tới 86,6% giá trị xuất khẩu sang thị trường Nhật. Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản Đơn vị tính: khối lượng: nghìn tấn giá trị: triệu USD Mặt hàng Năm 2002 So với năm 2001(%) Năm 2003 So với năm 2002(%) KL Giá trị KL Giá trị KL Giá trị KL Giá trị Tôm 49,25 347,4 +39,4 +20,2 52,01 380,23 +5,6 +9,5 Cá 15,28 56,46 +13,4 +13,9 14,81 54,15 -3,1 -4,1 Mực, bạch tuộc 16,23 66,05 +21,5 +7,2 14,26 57,78 -12,2 -12,9 Hàng khô 3,66 23,49 +21,5 +24,7 1,97 1,55 -46,2 -38,9 Hải sản khác 12,17 44,57 +20,2 +25,1 15,35 71,71 +26,1 +50,8 Tổng cộng 96,25 527,46 +9,51 98,40 588,42 +2,2 +7,62 Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản 2/2004 *Nhóm mặt hàng tôm: Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu tôm vào thị trường Nhật Bản khối lượng 246,98 nghìn tấn, trị giá 289,56 triệu USD, tương đương mức của năm 2000 và đứng hàng thứ 3 trong số các nước cung cấp tôm cho Nhật. Năm 2002 và 2003, đối với mặt hàng tôm đông lạnh, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam tương ứng với khối lượng 4,25 nghìn tấn và 52,01 nghìn tấn, giá trị 347,40 triệu USD và 380,23 triệu USD. Như vậy, về khối lượng năm 2002 đã tăng 39,4% so với 2001 và giá trị tăng 20% do giá tôm từ cuối năm 2001 ở Nhật tăng lên và chất lượng tôm của Việt Nam cũng được cải thiện hơn. Thị trường tôm Nhật Bản chiếm 36,7% trong tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam năm 2002. Điều đáng mừng là: nước ta xuất khẩu tôm vào Nhật cuối năm 2002 chiếm 16,68% thị phần, vượt qua ấn Độ để trở thành nước cung cấp tôm thứ 2 cho thị trường Nhật Bản, sau Inđônêxia, tuy nhiên, cũng đáng quan tâm là về khối lượng tôm đông xuất sang Nhật, Việt Nam đứng thứ 2 nhưng về giá trị chỉ đứng thứ 3 vì giá tôm rất thấp, trung bình chỉ 7,1USD/kg (giá trung bình năm 2003). Giá tôm trung bình của Việt Nam tại thị trường Nhật cũng còn rất thấp so với giá tôm của Thái Lan, Inđônêxia, thậm chí còn thấp hơn cả giá trung bình của thị trường Nhật Bản:10,7USD/kg(1998). Nếu so với Thái Lan (12,5USD/kg), Inđônêxia và Phillipin (10,2USD/kg) thì giá tôm đông lạnh của chúng ta xuất sang Nhật có ý nghĩa quan trọng hiện nay. Hiện nay, tôm Việt Nam chỉ chiếm11,4% thị phần tại đây và khoảng cách với các nước dẫn đầu như Inđônêxia còn khá xa. Mặt khác, tôm xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật chưa đa dạng về chủng loại và mới chủ yếu là tôm đông lanh sơ chế trong khi đó thị trường Nhật Bản nhập khẩu tới gần 20 mặt hàng chủng loại tôm như: sống, tươi, đông lạnh, khô, muối, chín, xông khói, chế biến... Mặt hàng tôm xuất khẩu mang lại ngoại tệ nhiều nhất trong các loại thủy sản. Khoảng 85% tôm xuất khẩu của Việt Nam còn dưới dạng đông lạnh chưa qua chế biến nên trị giá ngoại tệ thu được còn thấp so với khả năng. *Nhóm mặt hàng cá Từ năm 1998 trở về trước, xuất khẩu cá của Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo, Ôxtrâylia và một khối lượng nhỏ vào EU. Sản phẩm cá của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật chủ yếu là cá đông lạnh: cá ngừ, cá thu, cá bò, cá basa, cá cơm,... Các nhà cung cấp chính là Công ty du lịch tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Công ty thủy sản Hạ Long, Công ty TNHH thủy sản Trúc An,... So với giá tôm, giá cá xuất khẩu sang thị trường Nhật có biên độ biến động tương đối hẹp, giá các loại sản phẩm như cá nục heo, cá thu phi lê hầu như không thay đổi giá trong suốt hai năm qua. Xuất khẩu cá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản hàng năm vẫn tăng với mức trung bình 10-15% về giá trị. Năm 2002 đạt 15,28 nghìn tấn, giá trị 56,46 triệu USD tăng so với năm 2001 là 13,4% về khối lượng và 13,9% về giá trị. Nhưng triên 11 tháng đầu năm 2003, khối lượng xuất sang Nhật Bản đật 13,51 nghìn tấn, giá trị 50,15 triệu USD giảm so với cùng kỳ năm 2002 tương ứng 3,3% về khối lượng và 2,3% về giá trị. *Nhóm mực và bạch tuộc đông lạnh Năm 2002, Nhật Bản đã nhập khẩu từ Việt Nam 16,23 nghìn tấn, giá trị 66,05 triệu USD tăng 21,1% về khối lượng và 7,2% về giá trị so với năm 2001. Mực nang của Việt Nam đã dành được vị trí thứ 2 tại thị trường Nhật Bản, sau Thái Lan với tỷ trọng chiếm 15,37% trong tổng số nhập khẩu của Nhật Bản. Hộp tôm, hộp cá ngừ của ta cũng đang dần có chỗ đứng trên thị trường Nhật. Điều chúng ta quan tâm nhiều hơn nữa tới hai mặt hàng đặc sắc là hộp thủy sản (chủ yếu là tôm và hộp cá ngừ) thì sẽ mở ra triển vọng lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Xét về cơ cấu thị trường, năm 2002, thị trường Mỹ vươn lên đứng đầu trong việc nhập khẩu tôm đông lạnh, chiếm 34% ( Nhật chiếm 36,7%). Tại thị trường xuất khẩu cá đông lạnh, Mỹ cũng dẫn đầu với 144,98 triệu USD trong khi Nhật chỉ chiếm 16%. Riêng thị trường mực và bạch tuộc xuất khẩu của Việt Nam, Nhật chiếm tỷ trọng áp đảo (52%) với 66,05 triệu USD và Mỹ chiếm 2,8% (3,34 triệu USD). Nhưng xuất khẩu hai mặt hàng này sang Mỹ tăng đột biến (90% năm 2000) trong khi sang Nhật chỉ tăng 11,8%. Như vậy, hàng thủy sản của Việt Nam, nhất là tôm, mực, được thị trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Việt Nam là một trong bốn nước hàng đầu xuất khẩu tôm và mực vào thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, thời gian gần đây quota nhập khẩu mực ống phân bổ cho Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì quan hệ bạn hàng truyền thống với các nhà nhập khẩu Nhật. Đối với thị trường có hạn ngạch này, trong thời gian tới cần xem xét hỗ trợ về giá nhằm duy trì kim ngạch hàng năm để hạn ngạch phân bổ cho mặt hàng không bị giảm. 2.3. Giá cả và phương thức xuất khẩu *Giá các mặt hàng thủy sản của nước ta những năm trước đây thường thấp hơn giá cùng chủng loại của một số nước trong khu vực như Thái Lan, Inđônêxia, Trung Quốc, ấn Độ,... Tuy nhiên 3 năm gần đây, do dịch bệnh và môi trường xuống cấp ở Thái Lan và Inđônêxia nên năng suất nuôi trồng của họ đã bị giảm sút nghiêm trọng, kèm theo đó giá cũng bị hạ theo. Đối với thủy sản của nước ta, nhờ uy tín về chất lượng tăng nên hai năm gần đây giá các mặt hàng thủy sản của ta vẫn giữ được mức giá như trước. Biểu: giá bình quân của một số mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản STT Mặt hàng Năm 2002 (USD/kg) Năm 2003 (USD/kg) 1 Tôm 7,053 7,089 2 Cá các loại 3,695 4,012 3 Hải sản khô 4,069 4,072 4 Mực và bạch tuộc 6,418 6,304 5 Hải sản khác 3,662 4,548 Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản 2/2003 và 2/2004 *Phương thức xuất khẩu Đa số các nhà xuất khẩu thủy sản nước ta ký kết hợp đồng bán hàng cho các nhà thương mại bán buôn của Nhật Bản theo giá FOB, rồi từ đây thủy sản mới được cung cấp cho các nhà chế biến và hệ thống kinh doanh bán lẻ của Nhật Bản. Việc tìm kiếm khách hàng, xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thủy sản... phía Việt Nam luôn ở thế bị động phụ thuộc vào đối tác Nhật Bản. Việc xuất khẩu qua trung gian như vậy, bên cạnh những ưu điểm là chi phí lưu thông thấp, thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có quy mô hoạt động nhỏ và năng lực tiếp cận thị trường còn hạn chế, thì việc xuất khẩu qua trung gian này có rất nhiều nhược điểm, giá xuất khẩu thủy sản thấp, chủ yếu phải tham khảo giá xuất khẩu của nước khác, không tạo nên thương hiệu cho sản phẩm thủy sản ở Việt Nam, không trực tiếp tiếp cận với người tiêu dùng Nhật Bản nên khi thị hiếu thay đổi sẽ khó nắm bắt kịp. Hiện nay, rất ít doanh nghiệp thủy sản Việt Nam áp dụng các hình thức Marketing để tìm kiếm khách hàng. Trong khi đó, các nhà kinh doanh thủy sản của Thái Lan, Trung Quốc có sự hỗ trợ của chính phủ thực hiện quảng cáo, tiếp thị, liên kết với các nhà bán buôn, siêu thị tổ chức các đợt khuyến mại rất có hiệu quả. Ngoài ra các nhà xuất khẩu còn thành lập văn phòng giao dịch thủy sản ở Nhật Bản. 2.4. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp 2.4.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thủy sản Đây là công việc đầu tiên và cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thủy sản xuất khẩu, giúp doanh nghiệp biết được xu hướng và sự biến đổi nhu cầu thị hiếu của khách hàng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm của mình nên chúng ta phải trả lời các câu hỏi sau: Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, khả năng tiêu thụ sản phẩm đó trên thị trường đó ra sao. Thị trường đang cần những mặt hàng xuất khẩu thủy sản nào? Tình hình cung cấp thủy sản cho thị trường đó của các nước khác đó như thế nào? Luật pháp và các quy định bắt buộc khi đưa thủy sản vào thị trường đó. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thông qua các phương pháp nghiên cứu tại phòng làm việc, tại hiện trường... Kết quả nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp hoạch định chiến lược xuất khẩu xây dựng phương án xuất khẩu và lựa chọn phương thức giao dịch hiệu quả. 2.4.2. Tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu thủy sản Các doanh nghiệp cần tổ chức giao dịch đàm phán, soạn thảo hợp đồng kinh tế, chuẩn bị hợp đồng. Các bên có thể tiến hành đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc thông qua thư từ giao dịch hoặc qua điện thoại, Internet. Điều này là do điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp quyết định. Khi đàm phán đòi hỏi phải chuẩn bị tốt mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán, người thực hiện đàm phán đòi hỏi hiểu biết rõ ràng và có kinh nghiệm. Những điều khoản trong hợp đồng phải rõ ràng, chặt chẽ, quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên phải tương ứng. Ký kết hợp đồng có thể trực tiếp giữa các bên hoặc ký gián tiếp thông qua thư từ chào hàng hay đơn đặt hàng. 2.4.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu thủy sản Sau khi hợp đồng xuất khẩu thủy sản được ký kết, phải tiến hành thực hiện hợp đồng bao gồm: - Người bán chuẩn bị hàng thủy sản xuất khẩu theo đúng yêu cầu hợp đồng về số lượng, chất lượng, bao bì, nhãn mác. Công việc này bao gồm: Thu mua nguyên liệu thủy sản xuất khẩu, tổ chức chế biến thủy sản, đóng bao bì lên nhãn mác, kẻ các ký mã hiệu cho hàng thủy sản xuất khẩu. - Yêu cầu người mua bước đầu làm các thủ tục thanh toán. Nếu thanh toán bằng tín dụng chứng từ thì bên mua phải làm thủ tục mở thư tín dụng cho người bán hưởng. Nếu thanh toán bằng phương thức thanh toán đổi chứng từ trả tiền ngay thì người mua phải làm thủ tục chuyển tiền đến ngân hàng bên nước người bán để mở tài khoản ký thác phục vụ cho thanh toán hợp đồng đã ký. Nếu hợp đồng xuất khẩu có điều kiện người mua phải ứng trước tiền cho người bán thì người mua phải làm thủ tục chuyển số tiền ứng trước sang ngân hàng bên người bán thì người bán mới giao hàng. - Kiểm tra chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu - Làm thủ tục hải quan cho hàng thủy sản xuất khẩu - Giao hàng thủy sản xuất khẩu - Làm thủ tục thanh toán 2.1.4. Đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng xuất khẩu Cần xem xét những nhược điểm gặp phải để giúp cho việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu thủy sản sau tốt hơn. Cần dựa vào các chỉ tiêu như: doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận, mức doanh lợi xuất khẩu, các chi phí xuất khẩu. 3. Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản Kim ngạch xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn đạt mức cao và tương đối ổn định. Từ năm 1995-2003 kim ngạch xuất khẩu thủy sản liên tục gia tăng đã đưa thủy sản trở thành mặt hàng có giá trị lớn trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào Nhật Bản vẫn chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản với 429,3 triệu USD. Năm 2002 giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam-Nhật Bản đạt mức 537,46 triệu USD chiếm 26,68% giá trị xuất khẩu chung. Năm 2003 vừa qua đạt 578,4 triệu USD chiếm 25,8%. Theo hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, từ đầu năm đến nay, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tăng 35% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân là do sản phẩm tôm hùm Việt Nam đang dần thế chân cá sản phẩm của Inđônêsia tại xứ sở hoa anh đào. Các chuyên gia ngành thuỷ sản cho rằng, đây là dấu hiệu tích cực khi Việt Nam đang bắt đầu bước vào mùa thu hoạch tôm sú. Hiện các sản phẩm cá da trơn của Việt Nam cũng đã có vị thế mới trên thị trường Nhật Bản và EU. Chỉ riêng sáu tháng đầu năm, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cá của Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng gần bằng cả năm 2003 nhờ mở rộng thêm nhiều thị trường mới và đa dạng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu như nghêu, sò,... Bảy tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch của cả nước là 1,214 tỷ USD tăng 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái, trong số 7 thị trường Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, ASEAN, Đài Loan có tới 5 thị trường có giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng đáng kể. Mặc dù ngay sau khi Mỹ áp thuế chống phá giá, mức giá của sản phẩm tôm Việt Nam tại thị trường Mỹ cùng Nhật Bản nhìn chung không giảm. Song vào thời điểm hiện nay, giá mỗi cân tôm đã giảm 500-7000 đồng. Mặt khác, vào trung tuần tháng 8, Nhật Bản- thị trường tiêu thụ tôm lớn nhất của Việt Nam lại nghỉ tết và giảm mua. Đứng đầu về giá trị kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm nay là thị trường Nhật Bản, đạt 377,986 triệu USD. Hiện nay Nhật Bản chiếm 31,1% thị trường trong khi Mỹ chỉ chiếm 24,9%. Sự nỗ lực trong việc tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản là một trong những nguyên nhân chính thức làm gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này. Theo báo cáo của Bộ thủy sản, Việt Nam từ chỗ xuất khẩu hai thị trường trung gian là Hồng Kông và Xingapo thì hiện nay đã có 5 thị trường chính là Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc và khu vực Đông Nam á. Thị trường Nhật Bản trong những năm đầu của thập kỷ 90 chiếm từ 65-75% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Song do biến động trong khu vực và đông yên mất giá nên thị trường này đã giảm xuống. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, đây vẫn là thị trường lớn nhất ,chiếm 40,7% với kim ngạch đạt được 381,3 triệu USD. Đứng sau Nhật Bản là Mỹ, thị trường này đang được cải thiện từ 7- 8% thị phần nay đã tăng lên 13,8 %. Trong các mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản tốc độ tăng mạnh nhất là tôm đông lạnh và mực. Tôm đông lạnh Việt Nam chiếm tỷ trọng xấp xỉ 11% thị phần của Nhật Bản. Thực tế cho thấy, thị trường xuất khẩu thủy sản chưa ổn định, chủng loại sản phẩm xuất khẩu còn nghèo nàn chủ yếu bao gồm tôm, mực đông lạnh sơ chế (chiếm 50%khối lượng) tỷ lệ sản phẩm có giá trị cao còn ít ,chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chẩn quốc tế còn hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu các nước nhập khẩu lớn. Do đó, giá sản phẩm thấp, chỉ bằng 70% giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Inđônêxia nhưng vẫn không đủ sức cạnh tranh. Rõ ràng chỉ có lợi thế về tài nguyên thủy sản phong phú, điều kiện khí hậu thuận lợi, giá lao động rẻ hơn so với các nước khác nhưng do trình độ công nghệ và khoa học còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém lại thiếu kinh nghiệm trong quản lý, khiến cho lợi thế so sánh trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam chưa được phát huy và xuất khẩu chưa được hiểu quả cao.Thêm vào đó, chúng ta chưa đẩy mạnh được xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường chính mà chủ yếu vẫn phải xuất khẩu qua trung gian môi giới và các trung tâm tái xuất như: Singapo, Hông Kông chưa đủ khả năng bán hàng theo điều kiện CIF và các điều kiện khác có hàm lượng dịch vụ bán hàng cao hơn chưa sử dụng được hình thức đại lý bán hàng thủy sản ở các nước tiêu thụ lớn như EU, Nhật,... nên không tận dụng được các cơ hội thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu. Cho đến nay chúng ta vẫn thiếu một kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến hàng thủy sản Việt Nam vào nước ngoài, mặc dù có tiến hành một số hoạt động như: tham gia các hội chợ thương mại, cử các đoàn cán bộ đi khảo sát ở nước ngoài nhưng nhìn chung những hoạt động này mang tính tự phát và chưa có thể coi đó là hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực sự nếu xét về việc đặt mục tiêu lên kế hoạch, áp dụng các hình thức hoạt động xúc tiến và đánh giá kết quả của hoạt động này. Bên cạnh đó, vấn đề giao hàng cũng gây tín nhiệm lớn cho hàng hóa của ta như: giao hàng thiếu, hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách so với yêu cầu của Nhật Bản hay thậm chí có dị vật như các trường hợp của xí nghiệp 86 thuộc Seaprodex Đà Nẵng bị khiếu nại vì giao hàng hải sản không đúng chủng loại. Quy mô các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ bé chưa đáp ứng được các hợp đồng lớn của Nhật. Điều này dẫn đến một số công ty của ta không đủ khả năng cung ứng nhưng vẫn ký hợp đồng với Nhật và kết quả là các hợp đồng này thường không thực hiện được gây mất uy tín cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, nếu Việt Nam từ chối không chỉ sẽ mất đơn hàng mà có khi mất cả mối quan hệ làm ăn lâu dài. Doanh nghiệp Việt Nam thường vi phạm điều khoản về thời gian giao hàng. Trong nghệ thuật kinh doanh, ta còn hay bị khó khăn, lúng túng về cách thức bán và giới thiệu hàng làm cho Nhật Bản không hiểu rõ cụ thể về hàng hóa xuất cho họ. III. Giải pháp phát triển xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản 1. Mục tiêu và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu Mục tiêu * Mục tiêu năm 2004: Phấn đấu hoàn thành kế hoạch nhà nước năm 2004 với tốc độ tăng trưởng cao, cụ thể: - Tổng sản lượng thủy sản: 2.700.000 tấn, đạt 101,88% so với kế hoạch, tăng 6,45% so với cùng kỳ. Trong đó: + Tổng sản lượng hải sản khai thác: 1.450.000 tấn, bằng 100% so với kế hoạch, tăng 1,66% so với cùng kỳ. + Tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác nội địa: 1.250.000 tấn, vượt 4,16% so với kế hoạch, tăng 12,59% so với cùng kỳ. - Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2.600 triệu USD, đạt 100% kế hoạch, tăng 16,07% so với cùng kỳ. * Mục tiêu lâu dài: - Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, tạo chuyển biến rõ nét về chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thực hiện chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng đến năm 2010. - Tốc độ tăng trung bình về tổng sản lượng thuỷ sản: 6,5-7,5%/năm. + Duy trì, ổn định sản lượng hải sản khai thác, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. + Tốc độ tăng về sản lượng thuỷ sản nuôi. + Tốc độ tăng về sản lượng thuỷ sản nuôi trồng 13-15%/năm. - Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình 15-18%/năm. Phương hướng trong những năm tới - Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thủy sản Kim ngạch xuất khẩu sẽ dự kiến tăng 2,4 triệu tấn lên 2,55 triệu tấn (trong đó khai thác đánh bắt khoảng 1,4 triệu tấn, nuôi trồng 1,15 triệu tấn) - Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, hướng xuất khẩu mạnh vào các thị trường truyền thống như Nhật Bản, EU và các thị trường mới như Bắc Mỹ, Trung Quốc nhưng thời gian tới ta tập trung vào Nhật Bản, Bắc Mỹ và EU. Bởi vì Việt Nam đã được EU đưa vào danh sách các nước được xuất khẩu thủy sản và nhuyễn thể vào EU. - Phát triển thêm nhiều mặt hàng thủy sản mới cho xuất khẩu, chú trọng đến hàng thủy sản chế biến chất lượng cao. Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu trong thời gian tới của Việt Nam sẽ có xu hướng phù hợp tương đối với cơ cấu thủy sản của thế giới. Tăng hơn nữa thủy sản xuất khẩu đồ hộp và tăng cường xuất khẩu các mặt hàng thủy sản cao cấp ở dạng sống cũng hứa hẹn nhiều tiềm năng. - Phấn đấu tăng giá xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh. Việt Nam có thể cải thiện giá xuất khẩu thủy sản từ mức thấp hiện nay và nâng mức giá trung bình xuất khẩu hàng thủy sản lên ít ra cũng bưàng 75-85% mức giá xuất khẩu cùng loại sản phẩm của các nước trong khu vực nhưng bảo đảm sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh chiến lược giá cần đi liền với giải pháp khác nhau về sản xuất, chế biến và có quan hệ mật thiết với dạng sản phẩm xuất khẩu, nhu cầu thị trường nhập khẩu. 2. Các giải pháp: 2.1. Các giải pháp ở tầm vi mô - Trong chiến lược hướng về xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà Nhật Bản là một thị trường truyền thống. Các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển các nhóm sản phẩm chủ lực, trong đó chú trọng công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng tiềm năng để có thể cung cấp cho thị trường những sản phẩm đạt các tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản, hợp khẩu vị của người Nhật. Khi lựa chọn công nghệ chế biến, các doanh nghiệp cần chú ý thị trường Nhật Bản đang có nhu cầu các sản phẩm chế biến đạt tiêu chuẩn về sinh thực phẩm cao. Trong thời gian tới cần gắn khâu chế biến với việc nâng cao chất lượng nguyên liệu hình thành các vùng chuyên canh có khả năng cung cấp một lượng thủy sản nguyên liệu lớn với chất lượng ổn định. Trong khâu bảo quản sau thu hoạch, cần chú ý đến kỹ thuật bảo quản để hạn chế tỷ lệ phế phẩm, kiểm soát các yếu tố độc hại, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm trong khâu chế biến. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản không cần phải có hạn ngạch nhập khẩu nhưng phải tuân thủ các quy định, yêu cầu của luật kiểm dịch (quaran-tine law) và luật vệ sinh thực phẩm (food santitation law) của Nhật. - - Ngoài ra, Nhật Bản là nước nắm vững quy luật chặt chẽ quyền lợi của người tiêu dùng. Do sơ suất nhiều nhà sản xuất đã phải trả giá đắt cho các vụ kiện cáo của người tiêu dùng. Vì vậy các nhà xuất khẩu thành công trên thị trường Nhật Bản khẳng định rằng mua bảo hiểm về thương mại đối với hàng hóa tại các công ty bảo hiểm về thương mại đối với hàng hóa tại các công ty bảo hiểm có tiếng là biện pháp tốt nhất. Để tiếp cận tốt hơn với thị trường Nhật bản về lâu dài, các doanh nghiệp có thể thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại Nhật để thâm nhập tốt hơn thị trường này. Bên cạnh đó nên cộng tác với văn phòng tư vấn hoặc luật sư tại Nhật Bản để có những thông tin về những thay đổi thủ tục hải quan một trong những thủ tục phức tạp nhất, thậm chí cả về xu hướng tiêu dùng của khách hàng. Nghiên cứu thuế nhập khẩu đối với hàng thủy sản phải được quan tâm thường xuyên phải xem xét chi tiết cụ thể từng mặt hàng. Thuế suất có thể thay đổi từng năm, thuế suất được giảm nhiều khi hàng thủy sản xuất khẩu có giá trị gia tăng lớn. - Một số lưu ý nữa là hàng thủy sản nhập khẩu vào Nhật phải dán nhãn, cung cấp các thông tin tối thiểu là: tên sản phẩm, hạn dùng, tên và địa chỉ của công ty nhập khẩu, các phụ gia đã sử dụng, phương pháp bảo quản, phải ghi rõ sản phẩm đã nấu chín hay còn sống. - Một trong những kênh phân phối hiệu quả là thông qua thị trường bán lẻ và những thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp hướng đến để họ phân phối đến các cửa hàng lớn. Cửa hàng bán lẻ và các cơ sở phục vụ ăn uống hoặc phân phối trực tiếp đến các công ty chế biến thực phẩm. Các doanh nghiệp có thể liên kết với một công ty nào đó của Nhật, có thể là một công ty liên doanh, công ty chế biến hay nhà phân phối thuộc hiệp hội nhập khẩu của Nhật Bản hoặc các nhà phân phối ngoài Nhật Bản. Để thực hiện công đoạn này, các doanh nghiệp cũng cần tận dụng các triển lãm, các hội nghị để xây dựng các mối làm ăn, trao đổi kinh nghiệm thâm nhập thị trường thủy sản Nhật Bản. Trong đó cần phải biết cụ thể những bộ phận trong hệ thống phân phối thủy sản. Đặc biệt là vai trò của từng bộ phận, mạng lưới nhà hàng. - Mặt khác, cần nắm thông tin về đối thủ cạnh tranh, hàng thủy sản của Việt Nam xuất sang Nhật đang chịu sự cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ, các đối thủ có nhiều điều kiện tương đồng về điện kiện sản xuất. Nắm vững thông tin về đối thủ không chỉ dừng ở việc xem xét các mặt hàng xuất khẩu mà xem xét cách thức họ đưa hàng vòa Nhật. Đồng thời đã đến lúc các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần tính đến khả năng giới thiệu sản phẩm trên mạng và tiếp cận với thương mại điện tử, ngoài ra nắm thông tin về hàng thủy sản từ nước Nhật thông qua Internet. - Cần đặc biệt quan tâm đến đăng ký sở hữu công nghiệp tại Nhật Bản cho sản phẩm của mình. Thị trường Nhật Bản là thị trường gần như đã đạt tiêu chuẩn quốc tế về mọi vấn đề, trong đó vấn đề sở hữu công nghiệp, về đăng ký bản quyền cũng như về bảo hộ thương hiệu. Vì vậy muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp cần tiến hàng các thủ tục đăng ký sở hữu công nghiệp cho hàng hóa của mình. 2.2. Giải pháp ở tầm vĩ mô - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam nhằm tạo tính tương thích với những quy định của luật pháp Nhật Bản Tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu thủy sản nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản đã lỗi thời, đã bất cập. Khẩn trương soạn thảo và ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến về thị trường Nhật Bản, về chính sách xuất nhập khẩu Nhật Bản. Phải nắm được những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa mình và các thương nhân Nhật Bản. Mặt khác, luật và các quy định về thuế và hải quan của Nhật Bản như: danh bạ thuế thống nhất, chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, cơ sở tính thuế hải quan hay những quy định về xuất xứ hàng hóa… có tác động trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ không thành công trên thị trường Nhật Bản nếu không nghiên cứu hệ thống rào cản phi thuế quan với những quy định về danh mục hàng hóa hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, những quy định về về sinh dịch tễ hay luật chống bán phá giá, luật thuế bù trừ của Nhật Bản. - Tiếp tục có chính sách hỗ trợ thương mại mạnh mẽ hơn nữa đối với việc xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng hiệu quả hơn. - Hỗ trợ các doanh nghiệp hơn nữa về thông tin thị trường và xúc tiến thị trường. - Quy hoạch và phát triển nuôi trồng và khai thác hợp lý nguồn lợi hải sản. Quy hoạch nuôi trồng: Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế thủy sản đến năm 2010 trên cơ sở tiềm năng lợi thế so sánh, tình hình cung-cầu thị trường thủy sản trên thị trường thế giới. Các địa phương khẩn trương điều chỉnh lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của địa phương minh theo tinh thần Nghị quyết 09/2000/NQ_CP ngày 15/6/2000 của chính phủ về chủ trương chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp khuyến khích các địa phương, doanh nghiệp và cá nhân thả cá giống xuống biển như các tỉnh Quảng Ninh, Khánh Hòa. - Khai thác hợp lý: Xây dựng cơ cấu mặt hàng thủy sản thủy lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao, xây dựng cơ cấu đầu tư nhằm phát huy các lợi thế so sánh của từng địa phương và vùng lãnh thổ, dựa vào tình hình cung-cầu thủy sản xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án sản xuất và tiêu thụ đối với một số sản phẩm quý, chủ lực như: tôm, cua, cá, basa... Sản xuất và xuất khẩu thủy sản xuất thủy sản phải chuyển từ kinh tế khai thác tài nguyên, thương mại là chủ yếu sang kinh tế khai thác lao động kỹ thuật, công nghệ sinh học và công nghệ chế biến sâu là chủ yếu. Chú trọng đánh bắt hải sản xa bờ kết hợp phát triển kinh tế biển với việc bảo vệ chủ quyền lãnh hải của đất nước. Huy động các nguồn vốn để phát triển các đội tàu lớn có khả năng ra khơi dài ngày, đánh bắt xa bờ và có phương tiện chế biến tại chỗ. Xây dựng và phát triển hệ thống cảng cá, chợ cá phù hợp với sản lượng thủy sản của từng địa phương. Tổ chức tốt công tác thu mua số lượng và chất lượng thủy sản, bảo đảm các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, phát triển hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Khảo sát, đánh giá và phân tích khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp chế biến và quy hoạch lại hệ thống cơ sở chế biến, kho lạnh. Tổ chức lại hệ thống sản xuất, kinh doanh thủy sản, gắn sản xuất-chế biến với thị trường, bên cạnh các cơ sở chế biến cần có các xí nghiệp cung ứng, dịch vụ. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh thủy sản nên áp dụng mô hình kinh doanh “sản xuất-mua gom-chế biến-tiêu thụ”. Hình thành trên thị trường tiêu thụ các loại thủy sản tười và chế biến được chọn lựa và bao gói cẩn thận theo thông lệ quốc tế. Các doanh nghiệp, thương nhân tích cực tìm kiến nguồn thủy sản từ nhiều địa phương trong cả nước để bổ sung cho cơ cấu, chủng loại thủy sản thêm phong phú, đa dạng. - Xây dựng và phát triển một số trung tâm thương mại, trung tâm thông tin, trung tâm kiểm tra chất lượng, chợ bán buôn thủy sản ở các vùng có sản lượng thủy sản lớn. Các trung tâm này cung cấp các thủy sản về kỹ thuật sản xuất, chế biến, bảo quản con giống, đối tác thương mại và đầu tư,... của các nhà tiêu thụ trong nước và ngoài nước nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. - Miễn giảm các loại thuế sản xuất và xuất khẩu: Do bất lợi một số mặt hàng đối với hàng thủy sản như chi phí cao, máy móc thiết bị lạc hậu... nên nhà nước cần có chính sách thuế thỏa đáng. Việc nhà nước không đánh thuế vào hàng thủy snả từ 15/2/1998 đề các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có thể tăng cường năng lực cạnh tranh về giá cả là hợp lý và đúng thời điểm. Đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu, nhà nước nên hoàn trả 100% thuế nhập khẩu và có chính sách khuyến khích việc đầu tư đổi mới trang thiết bị cho chế biến hàng thủy sản xuất khẩu. - Cần tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu, bao gồm các hoạt động tài chính như lập quỹ hỗ trợ sản xuất xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng thủy sản. Tài trợ trước khi giao hàng, vấn đề bảo đảm đẩu tư cho sản xuất chế biến như: mua nguyên liệu và máy móc, thiết bị phụ tùng cần thiết. Tài trợ trong khi giao hàng: thông thường, hàng thủy sản đã được chế biến phải chờ ký hợp đồng, để giành hợp đồng với giá cả và thanh toán, do đó phát sinh nhu cầu tín dụng trong giao hàng, cần ngân hàng tài chính. Và tín dụng sau khi giao hàng cũng cần thiết. Trên đây là các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản không dễ gì thực hiện được một sớm một chiều. Tuy nhiên, để đạt được kết quả cao cần có sự cố gắng tích cực của chính các doanh nghiệp thủy sản, bên cạnh đó, cần có sự quan tâm của nhà nước. 3. Các điều kiện để thực hiện: *Về đầu tư và tín dụng a/ Vốn ngân sách - Vốn ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư thực hiện các nội dung: + Xây dựng cơ sở hạ tầng các trung tâm quốc gia giống thuỷ sản, hỗ trợ xây dựng công trình hạ tầng thiết yếu của khu vực sản xuất giống thuỷ sản tập trung. + Nghiên cứu KHCN để triển khai thực hiện các đề án, dự án phát triển giống thuỷ sản. + Hiện đại hoá một số phòng thí nghiệm ở các viện, trung tâm nghiên cứu thuỷ sản. + Hoạt động khuyến ngư về giống thuỷ sản của trung tâm khuyến ngư quốc gia. + Đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về giống thuỷ sản, phát triển thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ nghiên cứu. - Vốn ngân sách địa phương: xây dựng trung tâm giống thuỷ sản của tỉnh, hỗ trợ tài chính, đào tạo nguồn nhân lực ở địa phương. b/ Các nguồn khác như: tín dụng thương mại, vốn huy động của các thành phần kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài. * Về hợp tác quốc tế Tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tranh thủ sự tài trợ của các nước và tổ chức quốc tế để đào tạo nâng cao năng lực cán bộ. *Khoa học kỹ thuật Hoàn thiện các quy trình sản xuất, nắm vững công nghệ, tập trung nghiên cứu bệnh thường gặp của thuỷ sản. * Về công tác khuyến ngư Tăng cường tập huấn kỹ thuật, tuyên truyền, phổ biến trao đổi kinh nghiệm. *Về chính sách Tiếp tục cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích sản xuất giống thuỷ sản, cung cấp tại chỗ. Hệ thống pháp luật phải được rõ ràng để ngăn chặn tình trạng hối lộ, tham nhũng gây cho hàng thuỷ sản kém về chất lượng. Kết luận Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có quy mô và tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 25 năm qua. Theo tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO, Việt Nam là hoàn toàn có thể gia tăng lượng xuất khẩu vào thủy sản vào Nhật Bản. Tận dụng cuộc cách mạng công nghệ thông tin ngày nay một số nhà bán lẻ đang cung cấp thông tin về các loại hải sản qua hệ thống máy tính. Doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thủy sản sang Nhật đang cố gắng thiết lập mạng lưới kinh doanh, phân phối có hiệu quả cao tại Nhật. Đang từng bước nghiên cứu kỹ về thị trường Nhật và xu hướng tiêu dùng. Với mục tiêu lâu dài là công nghiệp hóa-hiện đại hóa ngành thủy sản xuất khẩu cần mở rộng và nâng cao giá trị sản phẩm, không ngừng cải biến và nâng cao giá trị sản phẩm, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm mới có giá trị và chất lượng cao, chuyển dần từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu các sản phẩm tươi sống, ăn liền và sản phẩm bán lẻ tại các siêu thị, đổi mới công nghệ chế biến, đảm bảo an toàn chất lượng thủy sản từ khâu bảo quản sau thu hoạch, tiếp nhận, vận chuyển nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm để có thể khai thác tốt tiềm năng kinh tế biển, giải quyết công ăn việc làm và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam vào thị trường thế giới cũng như tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế. Như vậy, cơ hội vẫn mở ra trước mắt cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Với những nỗ lực, cố gắng của ngành thủy sản đã đạt được trong những năm qua, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng ngành thủy sản sẽ gặt hái nhiều thành công trên thị trường Nhật. Hy vọng đề tài này sẽ đóng góp một phần vào sự nghiệp thành công đó. Tài liệu tham khảo 1. PGS.TS. Nguyễn Duy Bột- Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu. 2. TS. Hoàng Thịnh Lâm- Vì sao xuất khẩu thuỷ sản có xu hướng chững lại- Thương mại 20/04. 3. Dương Trí Thảo- Về đổi mới và nâng cao năng lực sản xuất và trình độ công nghệ máy móc thiết bị của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu thuỷ sản tỉnh Khánh Hoà- Tạp chí thuỷ sản 1/2004. 4. Nguyễn Thị Tú- Con đường nào để tăng cường xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường EU- Tạp chí thương mại 13/2004. 5. TS. Hoàng Thị Lâm- Để phát triển thuỷ sản bền vững- Kinh tế và dự báo 6/2004. 6. Nguyễn Thảo Nguyên- Xuất khẩu thuỷ sản năm 2001- Tạp chí kinh tế và dự báo 8/2001. 7. Nguyễn Xuân Minh- Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản- Thương nghiệp thị trường Việt Nam 3+4/2001. 8. Huỳnh Thế Năng- Làm gì để xây dựng chiến lược thương hiệu cho cá tra, ba sa- Tạp chí thuỷ sản 7/2003. 9. TS. Nguyễn Thị Hồng Minh- Tình hình xuất khẩu thuỷ sản và những bài học kinh nghiệm- Số Tết- Tạp chí thuỷ sản. 10. Thăng Long- Một số giải pháp tài chính tín dụng khuyến khích xuất khẩu thuỷ sản- Thương nghiệp thị trường Việt Nam 9/2000. 11. Bình Dương- Việt Nam có thể gia tăng XK thuỷ sản vào thị trường Nhật- Thương nghiệp thị trường Việt Nam tháng 9/2001. 12. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong quá trình hội nhập- Tạp chí Kinh tế phát triển 45/2001. 13. Nguyễn Xuân Minh- Một số quy định về nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản- Tạp chí phát triển kinh tế. 14. Đức Long- Chất lượng là sống còn để xuất khẩu thuỷ sản trụ vững trên thương trường- Thời báo kinh tế Việt Nam 12/2003. 15. Mười ba bí quyết thâm nhập thị trường Nhật Bản- Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam 6/2000. 16. Tạp chí thuỷ sản 2/2003, 2/2004. 17. Sở thuỷ sản Khánh Hoà, báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch của ngành thuỷ sản Khánh Hoà các năm 1991-2002. 18. Trần Thị Miêng- Thị trường xuất khẩu thuỷ sản và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu trong những tháng cuối năm- Tạp chí thuỷ sản 7/2004. 19. Thái Thanh Dương- Sáu tháng đầu năm sự tăng trưởng chưa như mong muốn- Tạp chí thuỷ sản 6/2004. 20. www.customes.gov.vn 21. www.fistenet.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35663.doc
Tài liệu liên quan