PHẦN MỘT : TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. Vai trò của thị trường vốn.
1. Vai trò tập trung và tích tụ vốn cho đầu tư.
2. Thị trường vốn góp phần tạo lập cơ chế đầu tư hợp lý, thúc đẩy quá trình sử dụng vốn một cách hợp lý.
3.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
4. Thị trường vốn tác động đến tăng trưởng tới nền kinh tế của đất nước.
Tăng trưởng kinh tế
5. Thị trường vốn làm đa dạng hoá các cơ hội đầu tư cho các chủ đầu tư.
6. Thị trường vốn tạo điều kiện để thực hiện các chính sách kinh tế vi mô.
7. Thị trường vốn là công cụ đánh giá, dự báo chu kì kinh doanh của các doanh nghiệp của nền kinh tế.
II.Tình hình thu hút vốn trên thị trường vốn
1. Toàn cảnh thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn.
2. Thị trường vốn đầu tư gián tiếp
3. Thị trường vốn quốc tế.
4. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn
4.1 Thị trường sơ cấp.
4.2 Thị trường thứ cấp
5. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường.
5.1 Thị trường cổ phiếu.
5.2. Thị trường trái phiếu
5.3. Chứng khoán phái sinh
6. Căn cứ vào phương thức hoạt động
6.1 Thị trường niêm yết tập trung
6.2 thị trường phi tập trung (OTC)
7. Quỹ đầu tư.
8. Hệ số tín nhiệm
PHẦN HAI : GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. Xét trên tầm vĩ mô.
1-Tạo lập và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
2. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
3. Xây dựng các chính sách, hành lang pháp lý mang tính đồng bộ cao hơn.
4. Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”.
5 Thiết lập một môi trường hấp dẫn
6. Phát triển thị trường OTC (Over-the-counter).
II. Xét tầm vi mô
1. Đối với các doanh nghiệp
1.1 Các doanh nghiệp phải công khai hơn, minh bạch về tài khoá tài chính hơn khi tham gia thị trường chứng khoán.
1.2 Xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị và điều hành doanh nghiệp.
2. Đối với uỷ ban chứng khoán :
2.1 Phải tạo ra nhiều loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán nhiều hơn nữa.
2.2 Nâng cao công tác quản lý và giám sát doanh nghiệp đã được niêm yết và nâng cao trình độ cán bộ quản lý.
2.3 Đào tạo và nâng cao kiến thức về thị trường chứng khoán cho công chúng.
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c phát hành thêm cổ phiếu mới, gồm hai phần dành cho cổ đông cũ và cổ đông chiến lược là HSBC.Đối với Techcombank, việc tăng vốn của cổ đông chiến lược tương đối dễ dàng, bởi room dành cho các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn và HSBC mới là nhà đầu tư nước ngoài duy nhất của ngân hàng này. Nhưng đối với trường hợp của Sacombank sẽ khác, bởi hiện tại ngân hàng này đã sử dụng hết room 30% dành cho cổ đông nước ngoài. Hiện IFC, Dragon Capital và ANZ là 3 nhà đầu tư nước ngoài, mỗi nhà đầu tư nắm giữ 10% cổ phần của ngân hàng này.Mặc dù vậy, không có nghĩa ANZ không thể tăng thêm phần vốn góp bởi khi Sacombank phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, ANZ có thể mua thêm và thay đổi tỷ lệ nắm giữ nếu các nhà đầu tư nước ngoài khác là IFC và Dragon Capital không mua thêm. Điều này không làm ảnh hưởng tới trần tối đa 30% như đã nói trên.Hiện trong 4 ngân hàng cổ phần có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là Techcombank, Sacombank, Ngân hàng Á Châu (ACB) và Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank) thì ACB và Sacombank đã sử dụng hết room cho nhà đầu tư nước ngoài, Techcombank là 10% và VPBank là 20%.
Qua đó chúng ta có thể thấy được khả năng huy động vốn từ đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán mà cụ thể ở đây là thông qua việc mua cổ phiếu để trở thành cổ đông. Tuy nhiên ở đây chúng ta phải lưu ý là việc huy động từ đầu tư nước ngoài phải hết sức phòng tránh việc thôn tính của các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng trong nước. Từ đó có thể làm đảo lộn thị trường tài chính của Việt Nam, tránh một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng của Việt Nam hầu hết còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả từ các nguồn vốn có thể huy động được. Từ đó mới thấy hết tầm quan trọng của nguồn vốn.
5.2. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chỉ là mới giai đoạn đầu với sự tồn tại sơ khai của trái phiếu chính phủ. Dư nợ của trái phiếu còn rất thấp, chỉ mới chiếm khoảng 7% GDP so với các thị trường khác trong khu vực như : Trung Quốc 21%, Thái Lan 33% và Malaxia 62%. Thị trường trái phiếu của Việt Nam chưa có sự đa dạng trong chủ thể phát hành, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống giao dịch, khả năng thanh toán còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, một thị trường để giúp hai đối tượng rất quan trọng là doanh nghiệp và chính quyền địa phương huy động vốn lại hầu như chưa tồn tại. Do đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010, nhu cầu vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế là rất lớn, khoảng 30 - 35% GDP/năm. Do đó, hiện nay Việt Nam đang triển khai hàng loạt các biện pháp nhằm phát triển thị trường trái phiếu nội địa, đặc biệt là tạo kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp và các chính quyền địa phương trong bối cảnh Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế theo hướng xoá bỏ bao cấp của nhà nước cho khu vực doanh nghiệp và phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương.
Một cách cụ thể, theo quan điểm của chính phủ trong việc phát triển thị trường trái phiếu của Việt Nam hiện nay là phải nâng cao tỉ trọng trái phiếu trên GDP, gắn việc phát hành trái phiếu với phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán; tăng cường khả năng quản lý, giám sát để thị trường hoạt động an toàn, có hiệu quả; đáp ứng yêu cầu hội nhập của khu vực và quốc tế: thị trường trái phiếu châu Á, liên kết thị trường vốn với Singapore..
Tuy còn non trẻ về tuổi đời, ít đa dạng trong chủ thể phát hành nhưng trong năm 2005 được coi là năm thành công của thị trường trái phiếu của Việt Nam và cũng là năm đánh dấu sự nở rộ của các loại trái phiếu trong nước được đăng kí giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Trong năm qua, tuy còn ít loại trái phiếu nhưng cũng đã có nhiều loại trái phiếu được phát hành ra công chúng như trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp, công trái giáo dục.
Thông qua hoạt động đấu thầu qua Ngân hàng nhà nước, qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành, Chính phủ đã huy động khoảng hơn 30.000 tỉ đồng trái phiếu. Riêng trái phiếu Chính phủ, tổng số vốn huy động trong giai đoạn 2001-2005 đã đạt gần 60.000 tỉ đồng.
Phát hành trái phiếu chính quyền địa phương cũng có nhiều khởi sắc. Đến nay, đã có 3 tỉnh, thành phố phát hành trái phiếu chính quyền địa phương với tổng số tiền huy động trên 7.000 tỷ đồng, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động 2.000 tỷ đồng trái phiếu, nâng tổng số huy động trong 3 năm (2003-2005) lên gần 6.000 tỷ đồng, Hà Nội huy động trên 1.100 tỷ đồng trái phiếu Thủ đô và Đồng Nai huy động khoảng 243 tỷ đồng
Năm 2005 cũng là năm các doanh nghiệp bắt đầu phát hành trái phiếu doanh nghiệp, góp phần giảm bớt áp lực vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Tính đến hết tháng 11/2005, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành đạt trên 2.000 tỷ đồng
Một điểm nổi bật khác của thị trường vốn năm 2005 là nhiều doanh nghiệp hoạt động tại thị trường tài chính đã được đưa vào diện cổ phần hóa. Tiến độ chuẩn bị cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được đẩy nhanh với việc phát hành 1.365 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn vào cuối tháng 12 vừa qua. Chính phủ cũng đã cho phép Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam cổ phần hóa theo hướng chuyển thành một tập đoàn tài chính mạnh
Trong năm 2006 thì chính phủ đang có dự án thành lập một thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt tại thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội. Có thể nói, việc tập trung đấu thầu TPCP tại Hà Nội, đã đem lại hiệu quả bước đầu rất đáng khích lệ. Không những tỷ lệ thành công của các đợt đấu thầu cao, huy động được khối lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển mà lãi suất trúng thầu thì ngày càng được điều chỉnh thấp xuống... Đây chính là tiền đề cho việc tổ chức một thị trường giao dịch trái phiếu thứ cấp chuyên biệt và hiệu quả.
Có thể nói, trong hai năm vừa qua chúng ta đã đạt được rất nhiều thành quả trong việc huy động vốn trên thị trường trái phiếu, nhất là việc đáp ứng nhu cầu khát vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính. Tuy có nhiều thành công trong việc huy động vốn nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Đó là làm sao có thể phát triển thị trường trái phiếu một cách tốt hơn, làm sao có thể đa dạng hoá được các loại trái phiếu và khả năng toán cũng như việc có thể đưa ra nhiều dịch vụ, nhiều tiện ích hơn nữa. Vấn đề này đòi hỏi nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải có những chính sách phù hợp với thực tế hơn nữa.
5.3. Chứng khoán phái sinh
Khi nhắc đến thị trường vốn người ta thường chỉ chú ý đến cổ phiếu và trái phiếu. Nhưng trong thị trường vốn ngoài cổ phiếu và trái phiếu còn có thêm một công cụ nữa là chứng khoán phái sinh.
Vậy, chứng khoán phái sinh là gì? Và chứng khoán phái sinh bao gồm những loại nào?
Trong đề tài này, tôi chỉ xin giới thiệu một vài loại của chứng khoán phái sinh thông thường.
Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tạo lọi nhuận.Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps).
thứ nhất : Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai (Futures) là việc thoả thuận giữa các bên về những nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đã xác định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá thị trường tại thời điểm đó. Lúc đầu, đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng future với mục đích nhằm giảm bớt sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong những tháng sau đó. Ví dụ, công ty sản xuất sô- cô- la Hershay đã bao tiêu nguồn cung cấp ca- cao trên thị trường với các hợp đồng futures để giới hạn rủi ro nếu giá ca- cao tăng lên. Future thường được các nhà đầu tư xem là một phương thức tốt để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Đến thập niên 80, các hợp đồng futures bắt đầu nở rộ và phố biến trong các giao dịch thương mại và bao gồm nhiều loại khác nhau, như Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán (index futures), Hợp đồng tương lai lãi suất (interest futures), Hợp đồng tương lai ngoại hối (currency futures), Hợp đồng tương lai nông sản (agricultural futures), Hợp đồng tương lai kim loại và khoáng sản (metal and mineral futures)...
thứ hai : Hợp đồng kỳ hạn.
Hợp đồng kỳ hạn (Forward) là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào: từ nông sản, tiền tệ cho tới các chứng khoán. Điểm khác biệt của forward với future là giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau dựa theo những ước lượng mang tính cá nhân và giá này vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng
thứ ba : Option ( quyền của nhà đầu tư)
trong Option có hai loại là Option mua và Option bán.
OPTION mua: là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua option sẽ trả cho người bán option một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn (option premium) và người mua option sẽ có quyền được mua (nhưng không bắt buộc phải mua) một lượng tài sản nhất định (chứng khoán, ngoại tệ, hàng hoá…) theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại thời điểm đã xác định trong tương lai. Người bán option nhận được tiền từ người mua option nên họ có trách nhiệm phải bán một lượng chứng khoán nhất định theo một giá cả đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai (hoặc được thực hiện trước ngày đó) khi người mua option muốn thực hiện cái quyền được mua.
OPTION bán : là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua OPTION bán sẽ phải trả cho người bán option bán một khoản tiền, gọi là phí quyền chọn và người mua option bán nay sẽ có qưyền được bán một lượng tài sản nhất định theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại thời điểm đã được xác định trong tương lai.
Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay thì chưa xuất hiện hai quyền này, do nó còn quá mới mẻ và thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện. Nhưng trên tất cả các thị trường chứng khoán khác trên thế giới thì hai quyền này rất phổ biến vì khả năng phân tán rủi ro của nó rất cao.
Thứ tư : SWAPS ( hợp đồng hoán đổi )
SWAPS dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực lãi suất và tiền tệ. Nhiều công ty, ngân hàng muốn có swap để ấn định tỷ lệ lãi suất nhằm giảm thiểu sự bất ổn trong kinh doanh. Ngoài ra, swap cũng rất hiệu quả trong việc huy động vốn. Đầu thập niên 90, Citi Bank, ngân hàng lớn nhất tại Mỹ đã mở rộng một số hoạt động đầu tư sang Nhật bản nên cần một lượng tiền yên Nhật rất lớn trong một thời gian ngắn, trong khi vốn của Citibank lại không có đủ đồng yên. Các chuyên gia nghiệp vụ ngân hàng của Citibank lập tức nghĩ ngay đến Chifon Bank của Nhật bản. Citibank đã thoả thuận một swap với Chifon Bank, theo đó Citi Bank chuyển cho Chifon Bank một lượng USD nhất định, đổi lại Chifon Bank sẽ cung cấp đồng yên cho hoạt động đầu tư của Citibank tại Nhật bản. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng 24 tiếng, Citibank đã có đủ vốn cần thiết cho dự án đầu tư tại đây. Như vậy, swap là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
Trên thực tế, việc đầu tư vào các các công cụ phái sinh vẫn chưa được nhiều nhà đầu tư chú ý, bởi nếu các nhà đầu tư mạo hiểm mua thật nhiều cổ phiếu mà không băn khoăn về khả năng thua lỗ thì họ sẽ thu về hàng triệu USD lợi nhuận; trong khi đầu tư vào các công cụ phái sinh, tuy đảm bảo được sẽ không bị thua lỗ nhưng do các bên cung cấp công cụ phái sinh trên thị trường thường giới hạn một lượng cung cấp nhất định đồng thời yêu cầu mức phí khá cao, nên các nhà đầu tư chỉ thu về một phần lợi nhuận nhỏ hơn rất nhiều. Thông thường, thị trường sẽ không biến động nhiều như những suy đoán của các nhà đầu tư khi áp dụng công cụ phái sinh, nên đa phần các nhà đầu tư thường tiếc nuối vì đã bỏ qua lợi nhuận, hơn là mừng thầm vì đã đầu tư vào công cụ phái sinh.
Trên đây là những công cụ phái sinh phổ biến trên các thị trường giao dịch chứng khoán trên thế giới. Đây là những công cụ giúp các nhà đầu tư tránh được những nguy cơ do rủi ro khi đầu tư vào thị trường đầy mạo hiểm này.
6. Căn cứ vào phương thức hoạt động
6.1 Thị trường niêm yết tập trung
thị trường niêm yết tập trung hay còn gọi là sở giao dịch được tổ chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Chứng khoán được mua bán là loại đã được niêm yết tại Sở giao dịch, việc mua bán được thực hiện theo phương thức đấu giá hai chiều giữa đại diện người mua và đại diện người bán.Các môi giới sàn giao dịch cùng nhau trả giá cạnh tranh và sẽ thực hiện giao dịch khi đạt được giá thoả đáng nhất cho khách hàng đầu tư.
Thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay do mới xuất hiện nên chúng ta chỉ có hai thị trường niêm yết tập trung tại thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán thì uỷ ban chứng khoán nhà nước cho biết trong năm 2006 tăng quy mô và chất lượng thị trường giao dịch chứng khoán. Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng đề án chuyển trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán; từng bước hoàn thiện hệ thống giao dịch của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội theo hướng mô hình thị trường giao dịch phi tập trung với quy mô phù hợp. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết, hoàn chỉnh các quy trình nghiệp vụ để đưa Trung tâm lưu ký đi vào hoạt động trên cơ sở nhiệm vụ lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán từ các thị trường giao dịch chứng khoán.
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì thị trường niêm yết tập trung cũng đã có sự phát triển để đáp ứng với nhu cầu vốn đầu tư của các doanh nghiệp trên thị trường niêm yết cũng như trên thị trường giao dịch phi tập trung
6.2 thị trường phi tập trung (OTC)
thị trường phi tập trung(OTC) được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định nào mà chỉ dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế cạnh tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau thông qua một sự trợ giúp quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động.
Ngày nay, với sự trợ giúp của kĩ thuật truyền thông và vi xử lý, thị trường OTC đã có khả năng kết nối trên quy mô rộng lớn giữa các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán với nhau.
Thị trường OTC vận động theo một cơ chế tạo giá và duy trì hoạt động gọi là mạng lưới liên công ty. Các nhà tạo giá trong tổ chức sẽ cạnh tranh giữa họ với nhau, liên tục đưa ra giá chào mua và giá chào bán.
Ở các nước phát triển thì thị trường giao dịch phi tập trung phát triển một cách mạnh mẽ hơn thị trường giao dịch niêm yết tập trung nhờ hệ thống làm giá linh động hơn.
Tại Việt Nam hiện nay thì thị trường OTC đang phát triển tại trung tâm giao dịch tại Hà Nội theo chiến lược phát triển thị trường chứng khoán của chính phủ trong những năm sắp tới. Và sẽ xây dựng một thị trường OTC hiện đại tại Hà Nội.
Đây cũng là một đòi hỏi từ yêu cầu của thực tiễn khi muốn phát triển thị trường chứng khoán của Việt Nam.Nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế thị trường để giúp cho Chính phủ và các doanh nghiệp huy động được các nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư và phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh và luân chuyển vốn trong xã hội được tốt hơn, từng bước giảm bớt sự lệ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn tín dụng ngân hàng, bên cạnh việc tổ chức chức giao dịch chứng khoán (GDCK) cho các công ty niêm yết trên Trung tâm GDCK Tp. Hồ Chí Minh, trên cơ sở Quyết định 127/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập các TTGDCK và chấp thuận của Bộ Tài chính, tháng 7/2005 Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã chính thức đưa sàn GDCK thứ cấp của TTGDCK Hà Nội vào hoạt động.
Việc đưa vào vận hành hệ thống GDCK với cơ chế giao dịch linh hoạt, thông qua hệ thống báo giá (thực chất là khớp lệnh liên tục) và hệ thống giao dịch thoả thuận cho các chứng khoán đăng ký giao dịch tại Hà Nội đã góp phần tạo điều kiện để mở rộng phạm vi của thị trường chứng khoán (TTCK) có tổ chức, từng bước thu hẹp thị trường tự do để đưa vào quỹ đạo quản lý, nhằm giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư thông qua việc tổ chức đăng ký, lưu ký chứng khoán giao dịch tập trung và công bố thông tin công khai về hoạt động của doanh nghiệp, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư và tăng khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với công chúng thông qua phát hành và huy động vốn trên thị trường.
Thực tiễn hoạt động thị trường trong thời gian qua cho thấy, trong số gần 3.000 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và hàng vạn doanh nghiệp cổ phần được thành lập mới theo Luật Doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp tham gia niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. HCM chưa nhiều (38 doanh nghiệp). Do phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao về niêm yết và e ngại về kiểm toán, công khai thông tin đầy đủ, nên số doanh nghiệp tham gia thị trường rất hạn chế. Ngoài ra, công tác phát triển thị trường cũng đang gặp những khó khăn nhất định, quy mô thị trường nhỏ, chưa gắn kết được phát triển thị trường sơ cấp với thị trường thứ cấp, nhất là công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chưa thoát khỏi tình trạng cổ phần hoá khép kín, nội bộ, chưa gắn kết được việc bán cổ phần lần đầu ra bên ngoài khi thực hiện cổ phần hoá với doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán
Thực tế đó đã đặt ra nhiệm vụ phải nghiên cứu tổ chức mô hình thị trường giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chưa niêm yết tiếp cận với thị trường vốn, trên tinh thần đẩy mạnh sắp xếp, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 187/2003/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước sang công ty cổ phần và Quyết định 163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2006-2010 của Bộ Tài chính.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã triển khai các bước cần thiết để sớm đưa trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động với sàn giao dịch sơ cấp (đấu giá bán cổ phần doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá) vào tháng 3/2005 và sàn giao dịch thứ cấp (cơ chế đăng ký giao dịch) vào tháng 7/2005. Điều kiện và thủ tục đăng ký giao dịch chứng khoán tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội tương đối thuận lợi đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp đưa cổ phiếu vào giao dịch trên Trung tâm này, nhờ thế số lượng doanh nghiệp mới cổ phần hoá có thể dễ dàng tham gia thị trường, vì quy định không bắt buộc về tỷ lệ cổ phần chào bán ra công chúng, hoặc những cam kết của cổ đông sáng lập trong việc hạn chế giao dịch khi công ty tham gia thị trường chứng khoán. Ngoài ra, các quy định về nghĩa vụ công bố thông tin cũng nằm ở những nội dung cơ bản về công bố thông tin định kỳ hoặc công bố thông tin bất thường, giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện.
Tính đến nay, sau một năm triển khai hoạt động, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức giao dịch cho 12 công ty đăng ký giao dịch với tổng số 494 triệu cổ phiếu (tương đương với 4.940 tỷ đồng theo mệnh giá); tổng giá trị vốn hoá thị trường của 12 công ty là 14.876 tỷ đồng, tương đương với 1,95% GDP năm 2005; doanh số giao dịch đạt trên 1.900 tỷ đồng (trong đó có khoảng 1.200 tỷ đồng cổ phiếu); đã tổ chức đấu giá thành công cho 71 phiên đấu giá cổ phần (trong đó có 31 phiên đấu giá do Hà Nội chủ trì) với tổng giá trị cổ phiếu đấu giá đạt 3.230 tỷ đồng (tổng giá trị cổ phiếu do Hà Nội chủ trì đạt 2.040 tỷ đồng). Nhìn chung, tham gia đăng ký giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội phần lớn là các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá thực hiện bán đấu giá cổ phần lần đầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và sau đó gắn kết với đăng ký giao dịch, đặc biệt là một số doanh nghiệp có quy mô vốn rất lớn, như Nhiệt điện Phả Lại (3.070 tỷ đồng); Thuỷ điện sông Hinh-Vĩnh Sơn (1.250 tỷ đồng); Tái bảo hiểm quốc gia (340 tỷ đồng); Điện lực Khánh Hoà (150 tỷ đồng)....
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Hà Nội đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống tổ chức của thị trường chứng khoán, góp phần vào quá trình hoàn thiện hệ thống thể chế thị trường tài chính Việt Nam. Đây là bước thử nghiệm cần thiết trước khi chúng ta hội đủ các điều kiện để thiết lập thị trường chứng khoán phi tập trung với sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường, hoạt động theo mô hình như thông lệ quốc tế.
7. Quỹ đầu tư. Thường gọi là “ Quỹ của các Quỹ” hay Hedge Fund.
Trong lĩnh vực chứng khoán, “Hedge” là thuật ngữ dùng để chỉ một chiến lược nhằm bù đắp những rủi ro đầu tư. Vì thế “Hedge Fund” (HF) còn được dịch là “Quỹ phòng hộ” hay “Quỹ của các Quỹ”, như giới đầu tư chứng khoán thường gọi.
HF là một phát minh lớn trên thị trường chứng khoán dùng để bù đắp lại rủi ro đầu tư. Tại Quỹ này, các nhà đầu tư ưa thích sự an toàn sẽ tham gia và sử dụng các công cụ chứng khoán phái sinh (như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn, hợp đồng hoán đổi...) để bảo vệ khoản tiền đầu tư của mình, chống lại những tăng trưởng không dự tính trước cũng như sự tụt giá hay lên giá đột ngột của hàng hoá. Ngày nay, các HF liên tục xuất hiện, được điều hành bởi một công ty đầu tư, huy động vốn của cổ đông rồi đầu tư vào các chứng khoán phái sinh nhằm thu lợi nhuận ổn định và đều đặn.
HF không bị quản lý chặt chẽ bởi pháp luật, nó ít minh bạch hơn các Quỹ đầu tư truyền thống và chính điều này giúp giao dịch tại HF dễ dàng hơn.
HF sử dụng hệ thống máy tính để lượng hoá các đánh giá và xếp hạng các khoản đầu tư khả thi, phân tích các yếu tố như: P/E, lợi suất, sự dao động bất ổn định, mức tăng trưởng lợi nhuận...Quỹ này cũng mua các cổ phiếu được xếp hạng cao nhất và bán trước thời hạn các cổ phiếu bị xếp hạng thấp nhất.
Ở Việt Nam hiện nay đã xuất hiện nhiều loại quỹ đầu tư khác nhau do các ngân hàng và các công ty tài chính quốc tế đưa vào. Tuy số lượng các quỹ đầu tư này còn ít song nó cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm qua.
Cụ thể :
Một số dạng Quỹ đầu tư hiện nay
Loại Quỹ
Hình thức hoạt động
Các Quỹ tiêu biểu tại VN
Venture Fund
Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp đang trong giai đoạn khởi nghiệp nhưng có triển vọng phát triển
IDG Việt Nam
Private Equity Fund
Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp đã có những bước phát triển ổn định và đang có dự định niêm yết trên TTCK
Mekong Capital, Dragon Capital, VOF, Indochina Capital
Listed Securties Fund
Chuyên đầu tư vào doanh nghiệp phát triển mạnh và đã được niêm yết trên TTCK
PXP, Dragon Capital, VOF, Indochina Capital
Asset Management Company
Chuyên đầu tư trong lĩnh vực cổ phiếu, trái phiếu
Prudential, Manulife và khu vực ngân hàng
Có thể nói với sự tham gia đầu tư của các quỹ này thì thị trường chứng khoán của Việt Nam sẽ được phát triển một cách mạnh mẽ hơn, những yêu cầu và đòi hỏi về tính minh bạch và công khai tài chính đối với các doanh nghiệp sẽ khắt khe hơn. Từ đó sẽ làm lành mạnh hoá nền tài chính của Việt Nam
8. Hệ số tín nhiệm
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hầu hết các nước phát triển và trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tại VN, khái niệm trên vẫn còn rất mới mẻ và loại hình kinh doanh này mới chỉ ở bước khởi đầu.
Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thông tin tín nhiệm (Credit Information) được đánh giá rất cao. Khách hàng của các công ty thông tin tín nhiệm thường là các nhà cung cấp, đầu tư, các nhà kinh doanh tiền tệ, chứng khoán và ngân hàng. Nhiều nước còn quy định bắt buộc ngân hàng hoặc các nhà xuất nhập khẩu phải có những bản báo cáo độc lập do một công ty kinh doanh thông tin tín nhiệm cung cấp trước khi cho vay hoặc bảo lãnh.
Ngày nay, vấn đề tìm hiểu và thẩm định khách hàng trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, khi mà ngày càng có nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh được mở ra và đi liền đó là nhu cầu cần phải thẩm định các cơ hội làm ăn này. Mặt khác, hội nhập kinh tế đòi hỏi phải có sự minh bạch hóa cao về thông tin doanh nghiệp, chẳng hạn như về tài chính, năng lực điều hành, công nghệ áp dụng... nhưng trong thực tế các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều có xu hướng che giấu sự thật về bản thân mình, khuếch trương những điểm tốt, mặt mạnh, che giấu thông tin tài chính thực và những hạn chế của mình.
Theo báo cáo mới nhất gần đây của tổ chức xếp hạng tài chính Standard & Poor’s (S&P) thông báo quyết định nâng hệ số tín nhiệm của Việt Nam thêm một mức lên BB tức là từ B1 lên Ba3, cao hơn 1 bậc so với Phillipines và Indonesia, nhờ vào những biến chuyển tích cực của tiến trình đổi mới nền kinh tế.
Chuyên gia của S&P cho biết việc nâng mức tín nhiệm phản ánh tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa của nền kinh tế VN dựa trên những nỗ lực của Chính phủ nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Các biện pháp cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hệ thống ngân hàng trong nước cũng đã tạo cơ sở ổn định tài chính lớn hơn trong tương lai.
Theo Bộ Tài chính, việc S&P nâng hệ số tín nhiệm đối với Việt Nam là điều rất quan trọng khẳng định với các tổ chức tài chính quốc tế về năng lực của VN đang có chiều hướng phát triển và sẽ nâng lên một tầm rất cao trong tương lai. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam thu hút các nguồn lực về vốn trong và ngoài nước. Thực tế này đã phản ánh sự nâng cao lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam nói chung và sự quan tâm của các nhà đầu tư tài chính trên thế giới đối với trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam sắp phát hành nói riêng. Theo Moody’s, vị trí đối ngoại của VN hiện đã mạnh hơn với việc xuất khẩu gia tăng và đang đứng trước triển vọng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai gần. Moody’s đánh giá VN là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á với tỉ lệ tăng trưởng trung bình hơn 7% mỗi năm và có các triển vọng kinh tế sáng sủa nếu có thể duy trì sự thận trọng về tài chính và tính cạnh tranh ở bên ngoài, đồng thời tạo được đà cải cách các khu vực ngân hàng và công nghiệp lạc hậu của đất nước.
Theo Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh, việc S&P nâng hệ số tín nhiệm đối với Việt Nam là điều rất quan trọng, khẳng định với các tổ chức tài chính quốc tế về năng lực của Việt Nam đang có chiều hướng phát triển và sẽ nâng lên một tầm rất cao trong tương lai. Ông Ninh nhấn mạnh, đây là cơ hội để Việt Nam có thể thu hút được các nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt là từ thị trường vốn quốc tế để phát triển nền kinh tế. Theo quan điểm của ông Ninh, Việt Nam nên tận dụng cơ hội này để tiếp tục phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, ông Ninh cũng cho rằng, phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng các dự án trong nước trước khi mang trái phiếu phát hành tại thị trường quốc tế. Điều quan trọng là việc sử dụng vốn như thế nào chứ không đơn giản là việc mang vốn về.
Cũng trong một buổi họp bàn về việc phát triển ngành định mức của nước ta hiện nay thì ông Trần Minh Tuấn- phó thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam cho rằng : Việt Nam đang đi đúng hướng trên con đường phát triển thị trường vốn như chú trọng việc giữ vững ổn định về chính trị, kinh tế và ổn định tình hình tài chính quốc gia; phát triển cơ sở hạ tầng cho thị trường vốn; xây dựng một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị trường; và tạo dựng những cơ chế khuyến khích cho sự phát triển của thị trường vốn và các thành viên tham gia thị trường.
Tuy nhiên, ông cũng cho rằng, trong khi hệ thống các công ty định mức tín nhiệm có thể được coi là một bộ phận cấu thành của hạ tầng cho thị trường vốn và ở bất cứ quốc gia nào sự tồn tại và phát triển các công ty định mức tín nhiệm đều là điều kiện cần cho sự phát triển của thị trường trái phiếu thì tại Việt Nam lại đang thiếu các công ty định mức tín nhiệm. Thực tế cho thây rằng Việt Nam là một quốc gia có thị trường vốn non trẻ, không những cả bề rộng mà theo cả bề sâu. Với một thị trường chỉ mới có 41 công ty niêm yết với tổng quy mô chiếm 4% GDP và một thị trường trái phiếu chủ yếu là trái phiếu chính phủ và gần 25000 doanh nghiệp trông cậy vào hệ thống các ngân hàng thương mại để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của mình. Do đó để phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ hơn nữa và để hội nhập kinh tế thế giới thì trước hết phải khơi thông thị trường vốn, thị trường tài chính của Việt Nam trong những năm tới. Nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì đòi hỏi này cần phải đáp ứng một cách kịp thời.
PHẦN HAI : GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. Xét trên tầm vĩ mô.
1-Tạo lập và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
trong dài hạn thì khả năng tăng trưởng kinh tế là một yếu tố vô cùng quan trọng để xác định triển vọng huy động vốn đầu tư một cách có hiệu quả nhất. Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra một sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư, không những ở trong nước mà còn đối với cả nước ngoài. Nhất là đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Tăng trưởng kinh tế, nhất là với tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao thì chứng tỏ khả năng sử dụng vốn càng tốt, điều này dẫn đến khả năng huy động vốn càng cao và ngược lại. Do đó việc xét đến yếu tố tăng trưởng kinh tế là yếu tố hàng đầu trong khả năng thu hút vốn đầu tư.
Với năng lực tăng trưởng kinh tế được đảm bảo thì khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế sẽ cao hơn. Khi đó thì khả năng gia tăng quy mô vốn của sẽ được cải thiện.
Thực tế của Việt Nam trong những năm qua, nhất là từ khi đổi mới kinh tế cho tới nay đã chứng minh điều đó.
Với thành tích tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm liền với bình quân từ 7% đến 8% đã làm cho khả năng huy động vốn và sử dụng vốn ngày càng được mở rộng hơn. Theo thống kê được thì tốc độ gia tăng vốn đầu tư phát triển rất mạnh. Trong giai đoạn 1991-1995 chúng ta đã huy động đạt mức 29.1%. tỉ trọng vốn đầu tư phát triển so với GDP có xu hướng ngày càng gia tăng. Năm 1991 chiếm 17.6% thì đến năm 1997 là 30.9% GDP với sự chuyển biến của cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
Do đó để thu hút vốn đầu tư trong những năm tiếp theo thì chúng ta cần phải :
Thứ nhất : Phát triển sản xuất kinh doanh và tiết kiệm. Đây là mục tiêu và là điều kiện để có thể huy động và sử dụng vốn một cách tốt hơn.
Chúng ta có tập trung cho phát triển sản xuất thì mới có thể khai thác tối đa những nguồn vốn mà chúng ta huy động được. Khi đó sẽ tạo ra tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư, từ đó họ sẽ tiếp tục bỏ vốn vào đầu tư tại thị trường nước ta.
Việc huy động vốn đã khó nhưng vấn đề nữa đó là sử dụng vốn như thế nào. Nếu chúng ta sử dụng vốn một cách lãng phí thì không thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả được, từ đó sẽ không thể huy động vốn cho đầu tư được. Do đó chúng ta phải thực hành tiết kiệm, có tiết kiệm thì mới tạo ra của cải vật chất, có tiết kiệm thì mới tạo ra nguồn vốn đầu tư được, nhất là đối với Việt Nam hiện nay. Xuất phát điểm của chúng ta thấp rất nhiều so với các nước khác, vốn ít, công nghệ lại lạc hậu nên rất khó phát triển kinh tế. Do đó phải tận dụng mọi nguồn lực tối đa cho phát triển kinh tế có như vậy mới đảm bảo được tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
2. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định của môi trường vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định đầu tư. Để thu hút được mọi nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư thì trước hết phải đảm bảo nguồn vốn của các nhà đầu tư phải được an toàn. Một nhà đầu tư thông thường sẽ không bao giờ đầu tư vào những nơi mà ở đó nguồn vốn của họ luôn trong tình trạng có nguy cơ bị mất, đồng tiền luôn đi liền khúc ruột.
Ngoài ra thì sự ổn định kinh tế vĩ mô còn thể hiện ở khả năng trả nợ đối với những nguồn vốn đi vay nợ nước ngoài. Sẽ không một tổ chức hay quốc gia nào sẵn sàng cho vay mà không có một cam kết trả nợ. Do đó phải đảm bảo được khả năng sản xuất, mức độ tăng trưởng xuất khẩu tối thiểu để chủ nợ có thể thu hồi lại vốn.
Nền kinh tế còn phải đảm bảo được vấn đề kiểm soát được quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Muốn kiểm soát được tình hình kinh tế thì nhà nước thông qua những công cụ trên thị trường tài chính mà từ đó kiểm soát được tình hình kinh tế như : ổn định giá trị đồng nội tệ, lãi suất và tỉ giá hối đoái.
Tuỳ vào tình hình cụ thể của từng nước cũng như trong từng giai đoạn mà từ đó đưa ra những điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tế đang diễn ra.
Chẳng hạn muốn đảm bảo được việc xuất khẩu một cách ổn định thì nhà nước phải đảm bảo được tính ổn định của giá trị đồng nội tệ, ít nhất là phải trong một thời gian dài. Hơn nữa để có thể kiềm chế lạm phát hoặc giảm phát thì cần phải tạo ra tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế như khả năng sản xuất, hệ thống tài chính và cơ chế lưu thông tiền tệ.
Lãi suất và tỉ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư thông qua việc tạo lập môi trường ổn định nền kinh tế vĩ mô mà còn tác động đến dòng chảy của các nguồn vốn đầu tư và mức tạo ra lợi nhuận của nguồn vốn đầu tư.
Tuy nhiên cái gì cũng có tính hai mặt của nó, không có cái gì là hoàn thiện cả. Nếu ta tăng lãi suất để huy động vốn thì đồng nghĩa với chi phí sử dụng vốn trong đầu tư cũng sẽ cao. Điều này lại giảm lợi nhuận của nhà đầu tư, sẽ làm giảm đầu tư hơn và ngược lại. Điều này cũng tương tự với tỉ giá hối đoái. Giá trị đồng nội tệ càng giảm thì khả năng thu lợi từ đồng nội tệ càng cao. Việc này cũng đồng nghĩa với việc nếu sẽ phải trả một khối lượng nợ thực tế lớn hơn giá trị danh nghĩa trên hợp đồng. Điều này lại làm giảm khả năng vay vốn của nước ngoài để đi đầu tư.
Do vậy, chính phủ cần phải tiến hành một cách đồng bộ các chính sách kinh tế của mình, chính điều này sẽ thu hút được vốn đầu tư nhiều hơn nữa. Nhất là đối với nước ta đang rất cần nguồn vốn cho đầu tư để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
3. Xây dựng các chính sách, hành lang pháp lý mang tính đồng bộ cao hơn.
Chính phủ sử dụng các công cụ của mình mà điều chỉnh nền kinh tế theo định hướng.
Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay thì cần phải:
thứ nhất : Nâng cao năng lực Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong hoạch định chính sách và quản lý thị trường chứng khoán, và liên kết cổ phần hóa với phát triển thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán xuất hiện ở nước ta chỉ mới vài năm gần đây nên việc hiểu biết về thị trường chứng khoán còn rất nhiều hạn chế, do đó khả năng quản lý và điều hành thị trường chứng khoán còn rất nhiều bất cập trong việc xử lý trên thị trường chứng khoán, nhất là việc xem xét và đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường.
thứ hai : Tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian thị trường và thúc đẩy hoạt động đào tạo, nghiên cứu và nâng cao nhận thức về thị trường chứng khoán cho công chúng đầu tư.
Hiện nay chúng ta chỉ có hai thị trường giao dịch chính là trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với một vài công ty, tổ chức tài chính trung gian như Tập đoàn tài chính Bảo Việt, và một số tổ chức tài chính quốc tế có mặt tại Việt Nam như Tập đoàn tài chính City Group, hay VinaCapital... So với thị trường tài chính các nước trên thế giới thì chúng ta có quá ít do đó đã làm hạn chế khả năng phát triển và huy động vốn đầu tư cho các doanh nghiệp. Điều này sẽ làm cho công chúng đầu tư sẽ rất thiếu thông tin từ thị trường và sẽ hạn chế đầu tư vào thị trường chứng khoán.
thứ ba: cần sớm ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư và Luật chứng khoán trên tinh thần tiến đến mục tiêu tự do hoá nguồn vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Tính đồng bộ trong các chính sách kinh tế của Việt Nam được đánh giá không cao, thậm chí có thể nói là yếu. Văn bản trước chồng chéo lên văn bản sau, luật này đề ra thì luật kia hạn chế cho nên các nhà đầu tư rất khó có thể nhận biết được văn bản nào còn có tác dụng, văn bản nào bị hạn chế, bị hạn chế ở điều nào khoản nào. Theo ông Đào Lê Minh_Giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học và đầu tư chứng khoán thuộc Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước thì đối với thị trường chứng khoán nước ta thiếu bền vững, thiếu minh bạch, hệ thống pháp lý và các quy chuẩn, quy phạm còn chưa hoàn thiện, việc quản trị công ty còn yếu kém.
đóng góp vào dự thảo Nghị định Chính phủ về việc mua cổ phiếu ngân hàng, VAFI đã có nhận xét Nghị định trên mang tính “khó hiểu, rắc rối, không cần thiết”, “cản trở sự phát triển của ngân hàng” và “không khuyến khích các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần ngân hàng”
Điều này làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán của nước ta hiện nay. Do đó chúng ta cần ban hành một cách đầy đủ và có tính đồng bộ các văn bản hướng dẫn hai Luật quan trọng trên thị trường chứng khoán là Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư và tiếp theo là Luật chứng khoán sắp có tác dụng.
thứ tư : Thực hiện minh bạch hoá, khai thông kênh thông tin đối với giới đầu tư. Khuyến khích các công ty định mức tín nhiệm có uy tín như Standard & Poor’s, Moody thành lập chi nhánh tại Việt Nam
Để đánh giá được năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thì cần phải có những tổ chức chuyên nghiệp, những tổ chức tài chính có uy tín thì mới có thể đánh giá được khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cần phải công khai hơn, minh bạch về tài chính hơn thì mới có thể đạt được tín nhiệm trên thị trường. Thực tế của Việt Nam hiện nay lại làm ngược lại, hầu hết các doanh nghiệp lại cung cấp rất ít thông tin cho nhà đầu tư hoặc nếu có cung cấp thì cũng không rõ ràng, thường là khoe cái tốt, cái mạnh và giấu đi điểm yếu. Đây cũng là một cái khó khi phát triển hệ thống định mức tín nhiệm cũng như việc mở rộng quy mô thì trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
thứ năm : khuyến khích các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần ngân hàng, công ty chứng khoán trong nước. Đây chính là một trong các biện pháp giúp tăng năng lực của các công ty chứng khoán Việt Nam, tiến tới phục vụ tốt cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn của Việt Nam trong những năm qua tăng rất mạnh do đó chúng ta nên khuyến khích các tổ chức tài chính mua cổ phần của các ngân hàng thương mại, của công ty chứng khoán trong nước. Có như vậy thì tiềm lực tài chính của các công ty, các ngân hàng mới có thể cạnh tranh được với các công ty tài chính hàng đầu trên thế giới khi Việt Nam gia nhập WTO. Nếu không thì chúng ta rất có thể sẽ bị thua ngay trên sân nhà.
thứ sáu : Tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp Việt Nam, bãi bỏ giới hạn này đối với các ngành nghề không trọng yếu và nâng giới hạn nắm giữ cổ phiếu đối với cổ phiếu ngân hàng lên 49%, cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam."
Các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, với tiềm lực tài chính hạn chế không thể cạnh tranh được các doanh nghiệp, các công ty quốc tế. Nếu không muốn phá sản hoặc bị thôn tính thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải huy động một khối lượng vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất cũng như quy mô về tài chính để có thể cạnh tranh với các công ty lớn khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO. Do đó với những ngành nghề không quan trọng, không phải nắm giữ những khâu then chốt trong nền kinh tế thì cho các doanh nghiệp đó được bán tỉ lệ cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều hơn, không quy định tỉ lệ sở hữu doanh nghiệp như hiện nay. Tuy nhiên, ngành ngân hàng là một ngành then chốt của nền tài chính nước ta nên phải quy định tỉ lệ sở hữu của đầu tư nước ngoài. có như vậy thì nhà nước mới kiểm soát được tình hình tài chính của đất nước. Hiện tại chính phủ quy định tỉ lệ sở hữu đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng, các tổ chức tài chính là 30% vốn điều lệ. Đây là biện pháp có thể kiềm chế sự bành trướng của các tổ chức tài chính nhằm đầu cơ trục lợi.
Chẳng hạn với ngân hàng Sacombank ngân hàng này đã sử dụng hết room 30% dành cho cổ đông nước ngoài. Hiện IFC, Dragon Capital và ANZ là 3 nhà đầu tư nước ngoài, mỗi nhà đầu tư nắm giữ 10% cổ phần của ngân hàng này. Trong khi đó thì Techcombank là 10% và VPBank là 20%.
4. Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”.
Trước hết cần nhanh chóng đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động, dành cho các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo ra hàng hoá đa dạng cho thị trường. Tăng số lượng Công ty niêm yết, da dạng hoá và nâng cao tỷ trọng các Công ty lớn niêm yết, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, cần xây dựng và mỏ rộng hoạt động cua các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợt triển thị trường. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư. Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường trường chiếm khoảng 2 – 3% GDP vào năm 2005 và 10 – 15% vào năm 2010.
5.. Thiết lập một môi trường hấp dẫn
Chính phủ cấn tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn, cởi mở hơn để có thể thu hút các nhà đầu tư, các Công ty niêm yết Công ty quản lý quỹ, Công ty chứng khoán đầu tư vào thị trường chứng khoán như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm đầu hoạt động, không đánh thuế chênh lệch mua bán giá chứng khoán (capital gain). Ngoài ra, UBCKNN không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị trường, nên thực hiện phương châm “các thành viên của thị trường được thực hiện tất cả các hoạt động mà pháp luật không cấm".
6. Phát triển thị trường OTC (Over-the-counter).
Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, trước khi có rnột thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, Trung Quốc đã phát triển thị trường OTC khá tốt. Việc phát triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh nghiệm cua các thành viên tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức cua công chúng. Mặt khác, thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ diều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị trường chứng khoán.
II. Xét tầm vi mô
1. Đối với các doanh nghiệp
1.1 Các doanh nghiệp phải công khai hơn, minh bạch về tài khoá tài chính hơn khi tham gia thị trường chứng khoán.
Đây là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nhất là với những công ty đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Còn đối với các doanh nghiệp muốn được tham gia tại thị trường niêm yết thì cần phải công khai về tài chính hơn nữa, minh bạch trong báo cáo tài chính hàng năm. Việc minh bạch và công khai về tài chính sẽ tạo niềm tin và củng cố niềm tin của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, khi đó họ sẽ tiếp tục đầu tư vào công ty.
Việc minh bạch và công khai về tài chính hàng năm, hàng quý của công ty sẽ là điều kiện tiên quyết cho các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán.
Hàng năm, công ty sẽ phải có một bản báo cáo bạch về tài chính của công ty vào cuối năm tài khóa. Việc công khai này sẽ đưọc công báo tại đại hội đồng cổ đông hàng năm và được gủi cho Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước. Uỷ Ban Chứng Khoán sẽ kỉểm định, xác nhận những thông tin trên và sẽ có xác nhận từ các tổ chức kinh doanh tài chính, các tổ chức đánh giá tín nhiệm.
Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự giác công khai tài chính của mình.
Tuy nhiên, ở Việt Nam thì tính công khai, minh bạch về tài chính của doanh nghiệp vẫn còn yếu. Hầu hết các doanh nghiệp đều không muốn “phơi áo” cho người thấy, nhất là đối với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Đây là một khó khăn đối với các công ty tín nhiệm cũng như khó khăn của các nhà đầu tư khi đầu tư trên thị trường chứng khoán.Nhiều công ty hàng đầu của Việt Nam chưa thấy sự bị hấp dẫn từ thị trường chứng khoán. Có thể có nhiều lý do cho vấn đề này, như việc không đáp ứng được các tiêu chí niêm yết. Tuy nhiên, cũng có thể là do họ thấy nhiều “bất lợi” hơn từ việc công bố và minh bạch báo cáo tài chính, và phải chịu trách nhiệm trước các cổ đông bên ngoài, so với việc không niêm yết. Một vài đại hội cổ đông của các công ty niêm yết đã cho thấy rằng, ban điều hành phải chịu trách nhiệm về tình hình tài chính yếu kém, và vì vậy cần phải thuyết phục để cho các giám đốc công ty nhận thức được rằng việc gắn kết trách nhiệm này là rất tốt cho họ. Chính phủ hiện đang cố gắng vượt qua các trở ngại này bằng các ưu đãi về thuế và các biện pháp khác tương tự, nhưng trên hết cả vẫn là sự tác động của thị trường, và một số các “điển hình thành công” cụ thể có thể thuyết phục được các giám đốc của các công ty còn đang lưỡng lự khi tham gia thị trường. Thị trường vốn hoạt động hiệu quả là rất tốt cho sự phát triển của một quốc gia, và các nhà lập chính sách cần làm mọi việc có thể để đảm bảo sự thành công của mình, nhưng trên hết cả vẫn là chủ nhân của các công ty chưa niêm yết, những người được lợi nhiều nhất từ việc niêm yết, và cần phải khuyến khích họ thực hiện bước chuyển đổi này.
Ngoài ra, để thu hút vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán thì các doanh nghiệp còn cần có những chính sách, những định hướng phát triển phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại và trong tương lai.
Với những chính sách đầu tư đúng đắn thì sẽ tạo một niềm tin rất lớn cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào doanh nghiệp. Bởi nhà đầu tư nào cũng muốn đầu tư vào một nơi an toàn và có khả năng thu lại lợi nhuận cao.
1.2 Xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị và điều hành doanh nghiệp.
Khi chúng ta gia nhập các tổ chức quốc tế thì phải có những cam kết nhất định và phải tiến hành theo một lộ trình trong một khoảng thời gian.
Do đó, đối với doanh nghiệp trong nước hiện nay cũng cần học tập những quy tắc, những chuẩn mực trong công tác đìều hành và quản lý doanh nghiệp một cách quy củ hơn, chuyên nghiệp hơn và phù hợp với những thông lệ quốc tế. Có như vậy khi gia nhập các tổ chức quốc tế chúng ta sẽ tránh được trường hợp bỡ ngỡ khi gia nhập vào hệ thống các doanh nghiệp quốc tế. Và cũng tránh trường hợp bị khiếu kiện do làm ăn không theo đúng luật quốc tế.
Việc xây dựng và triển khai và áp dụng những quy chế, quy định của quốc tế như chứng chỉ ISO 9001, ISO 2000... sẽ tạo điều kiện rất nhiều cho doanh nghiệp một niềm tin khi bước vào hội nhập kinh tế thế giới, là điều kiện để doanh nghiệp có thể đảm bảo chất lượng sản phẩm khi xuất khẩu sản phẩm ra quốc tế.
2. Đối với uỷ ban chứng khoán :
Do tình hình kinh tế phát triển mà có những định hướng phát triển thị trường chứng khoán một cách phù hợp với thực tế nhiều hơn nữa, đó là vấn đề sống còn đối với thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.1 Phải tạo ra nhiều loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán nhiều hơn nữa.
Quy mô thị trường chứng khoán còn quá nhỏ bé cả về cung và cầu, hàng hoá trên thị trường chứng khoán ít về số lượng và nghèo nàn về chủng loại. Hiện nay hàng hoá chủ yếu là cổ phiếu, trái phiếu và 1 Chứng chỉ quỹ đầu tư(VF1). Thị trường trái phiếu Chính phủ đơn điệu với cách thức phát hành đơn giản, chưa thường xuyên, giao dịch thứ cấp chưa phát triển, thị trường trái phiếu công ty rất sơ khai. Trong khi đó thì công tác tạo hàng cho thị trường còn gặp nhiều khó khăn mặc dù Chính phủ, Bộ Tài chính đã có chỉ đạo cụ thể và quyết liệt. Một số Bộ, ngành, tổng công ty, doanh nghiệp còn e ngại tham gia thị trường, chưa có kế hoạch cụ thể cho việc niêm yết, đăng ký giao dịch.
Do đó, Uỷ Ban Chứng Khoán cần phải đa dạng hoá các sản phẩm để nhà đầu tư có thể có nhiều quyền lựa chọn khi đầu tư vào thị trường này. Và có cơ chế thông thoáng hơn trong điều kiện niêm yết thị trường chứng khoán để doanh nghiệp có điều kiện được niêm yết nhiều hơn.
2.2 Nâng cao công tác quản lý và giám sát doanh nghiệp đã được niêm yết và nâng cao trình độ cán bộ quản lý.
Hiện nay tại các trung tâm giao dịch chứng khoán công tác quản lý, giám sát thị trường còn có sự bất cập do văn bản pháp lý, cơ chế chưa đầy đủ, đồng bộ. Hệ thống công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về giám sát tự động và thêm nữa là trình độ và kinh nghiệm của cán bộ quản lý, giám sát hoạt động thị trường còn có những hạn chế. Đây thực sự là những hạn chế của các trung tâm giao dịch chứng khoán của Việt Nam hiện nay, điều này sẽ làm giảm chất lượng và khả năng thu hút vốn đầu tư qua thị trường vốn.
Để nâng cao công tác quản lý và giám sát thị trường thì cần phải tạo ra hành lang pháp lý cũng như những cơ chế hoàn thiện hơn, đồng bộ hơn. Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán, một thị trường mang lại lợi nhuận rất lớn nhưng rủi ro cũng rất cao.
2.3 Đào tạo và nâng cao kiến thức về thị trường chứng khoán cho công chúng.
Muốn thu hút được nhiều người đầu tư vào thị trường chứng khoán thì phải phổ biến, nâng cao trình độ cho người dân về thị trường chứng khoán.thông qua quảng cáo, những trò chơi về thị trường chứng khoán thì người dân có thể thu nhận lượng thông tin càng nhiều và từ đó khả năng hiểu biết của công chúng về thị trường chứng khoán càng cao thì khả năng thu hút vốn đầu tư từ trong dân chúng sẽ càng lớn.
Theo ước tính của các chuyên gia về kinh tế thì lượng vốn trong dân chúng là rất lớn, khoảng trên dưới 50 tỉ $. Đây sẽ là một nguồn vốn quan trọng trong sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển thị trường chứng khoán nói riêng.
Thông qua đề tài này, tôi muốn giới thiệu đến với mọi người biết đến thị trường chứng khoán nhiều hơn, và xin chân thành cảm ơn cô Trần Mai Hương đã giúp em thực hiện đề tài này./.
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Tiến Chương
Khoa : Kinh Tế Đầu Tư
Lớp : Đầu tư 45C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA317(chungkhoan).doc