trong giai đoạn xây dựng đất nước, giai cấp nông dân là giai cấp dễ bị tổn thương trong các mặt yếu của chính sách, chính vì vậy mà lợi ích của họ luôn phải cần phải đặt lên hàng đầu. Quan điểm mà Nhà nước cần phải quán triệt dựa vào sức dân để lo cho dân.
Nhà nước dần hướng người dân theo chế độ hợp tác xã mới (trên cơ sở tự nguyện). Trong điều kiện Luật hợp tác xã đã ra đời, hợp tác Nhà nước và hộ nông dân hay giữa các hộ nông dân với các nhà tư nhân cần phải được mở rộng để sản phẩm nông nghiệp làm ra được tiêu thụ kịp thời có lợi cho nông dân.
31 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội ngũ cán bộ quá yếu kém, dẫn tới khả năng quản lý tốt hợp tác xã không thể thực hiện được, và cũng đem lại thất bại trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước.
Thứ tư: ngoài những thiếu sót, lầm lẫn trong cơ chế chính sách, thì vào thời điểm này, hệ thống tổ chức sản xuất (hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, được xây dựng từ nhiều năm trước tiếp tục bộc lộ rõ những hạn chế, khong còn phù hợp với lực lượng sản xuất và tập quán xã hội của nông thôn Việt Nam.
Chúng ta đề ra những chính sách chủ quan duy ý chí, không phù hợp với lợi ích của cá nhân nông dân dẫn tới triệt tiêu lòng hăng say sản xuất, giảm lòng tin đối với kinh tế tập thể và chế độ. Ví dụ như chúng ta quá chú trọng và xây dựng quan hệ sản xuất cao trong khi trình độ lực lượng sản xuất ở Việt Nam còn qúa thấp kém, hay chúng ta ngăn cấm kinh tế hộ gia đình phát triển và coi đó là mầm mống của chủ nghĩa tư bản.
Ngoài ra, Nhà nước còn chậm ban hành những chính sách cụ thể, kịp thời ứng với đối với thực tế. Hơn nữa lại bao cấp nhiều và lớn đối với các ngành dịch vụ quốc doanh địa phương, nên việc phục vụ cho kinh tế tập thể nông thôn đạt kết quả thấp.
Thứ năm: Bộ máy Nhà nước qúa lớn, cồng kềnh, ngày càng tỏ ra kém hiệu quả. Nhiều lúc, chính sách đưa ra nhưng người soạn chính sách lại không biết được kết quả áp dụng của chính sách đó.
Đội ngũ cán bộ trình độ yếu, trong khi cán bộ giỏi lại hiếm được sử dụng tạo ra những thiệt thòi trong việc sử dụng nhân lực. Tóm lại có thể nói kinh tế nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng giai đoạn 86-88 phản ánh một bức tranh suy thoái, nhiều khó khăn và động lực sản xuất bị suy giảm nghiêm trọng. Thời kỳ này, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội tưởng chừng như khó có thể vượt qua.
II-/ CÁC BIỆN PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP (TỪ NGÀY ĐỔI MỚI- 1986)
Công cuộc đổi mới trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1986-1988 tới nay được chia ra làm hai thời kỳ:
1986-1993: Thời kỳ đổi mới và thoát khỏi khủng hoảng.
1993-1998: Nâng tầm chính sách lên một bước cao hơn trong quá trình phát triển nông nghiệp.
1-/ Thời kỳ 1986-1993
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đổi mới toàn diện, Đảng cộng sản Việt Nam đã tổng kết một cách nghiêm túc thực tế và đề ra chủ trương đổi mới toàn diện hệ thống quản lý nông nghiệp và nông thôn, đồng thời có những chính sách phát triển kinh tế nông nghiêp- nông thôn.
Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
Ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị, Ban chấp hành TW Đảng đã ra Nghị quyết số 10 về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Tiếp sau đó Nghị quyết TW 6 khoá VI cùng nhiều văn bản pháp quy của Chính phủ đã tiếp tục làm rõ thêm chủ trương đổi mới kinh tế. Những nội dung cơ bản về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp - nông thôn là:
Tiếp tục giải phóng sức sản xuất, chuyển nền nông nghiệp còn tự cấp tự túc ở nhiều vùng sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, từng bước thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn phù hợp với tiềm năng theo hướng đa dạng hoá sản xuất, phát triển nông thôn toàn diện và công nghiệp hoá nông thôn.
Thực hiện điều chỉnh một bước quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, giao khoán ruộng đất đến hộ nông dân xã viên, hoá giá các tư liệu sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã trước đây mà tập thể quản lý kém hiệu quả để giao bán cho hộ xã viên.
Khẳng định vai trò tự chủ của hộ xã viên thực hiện khoán hộ, chủ trương “Ai giỏi nghề gì làm nghề đó” và khuyến khích làm giàu bằng lao động chính đáng.
Xác định vai trò hợp tác xã trong cơ chế mới là chuyển sang làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho hộ xã viên.
Thực hiện phân phối theo lao động và cổ phần hoá của xã viên. Xã viên có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng, sản phẩm còn lại được tự do lưu thông và được bán ở nơi có lợi nhất.
Tiến hành sắp xếp lại và đổi mới cơ chế quản lý các đơn vị kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Cụ thể là:
Xác định là phương hướng sản xuất cho phù hợp với tiềm năng và thị trường tiêu thụ.
Thực hiện giao khoán các vườn cây, gia súc tới hộ nông dân.
Hướng dẫn kỹ thuật, kinh tế thực hiện chuyên môn hoá theo vùng.
Tổ chức tiêu thụ sản phẩm theo hộ.
Thực hiện chức năng trung tâm, phát triển kinh tế vùng.
Khẳng định sự tồn tại hợp pháp và khuyến khích kinh tế các thể, tư nhân trong nông nghiệp. Nhà nước bảo hộ quyền kinh doanh và hưởng lợi trước kết qủa kinh doanh của họ, bình đẳng trước pháp luật.
Khuyến khích phát triển rộng rãi các hình thức liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế nằm phát triển sản xuất, giao lưu hàng hoá và phát huy các khả năng, nguồn lực sẵn có ở nông thôn.
Trong cơ chế quản lý nông nghiệp mới, nổi bật lên là việc tháo gỡ những ràng buộc về quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất của cơ chế cũ:
Phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông thôn.
Tại đại hội Đảng VI, Đảng ta chủ trương: “đi đôi với phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể.... cần phải có chính sách kinh tế và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác,... nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế với nhau”. Điểm mấu chốt của chính sách này là sự khẳng định rõ hộ nông dân là những đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt động độc lập, cùng lúc cùng công nhận sự tồn tại hợp pháp của các thành phần kinh tế tư bản, tư bản Nhà nước....
Trên thực tế, sau đổi mới, ở trong ngành nông nghiệp nước ta là có các loại hình kinh tế: kinh tế hộ tự chủ trong nông nghiệp, kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp, hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp (ví dụ: hợp tác xã dịch vụ, liên minh các hộ nông dân,...), kinh tế cá thể và tư nhân trong nông nghiệp (đặc trưng là kiểu kinh tế trang trại).
Đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô, tạo môi trường khuyến khích kinh tế nông thôn phát triển.
Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Chính sách tạo vốn (tín dụng) cho sản xuất: chúng ta chủ trương huy động nguồn lực trong nước vào gọi vốn nước ngoài vào để phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Đa dạng hoá các kênh tín dụng để đưa về nông thôn, khuyến khích nông dân vay vốn để phát triển sản xuất (như cho vay qua nhóm phụ nữ, qua tổ chức nông hội, qua tổ chức Đoàn thanh niên...hoặc cho vay qua Ngân hàng thương mại).
Chính sách thị trường, giá cả, tỷ giá, xuất nhập khẩu và bảo trợ sản xuất, khuyến khích kinh tế nông thôn phát triển: phát triển, sản xuất hàng hoá theo quy luật của thị trường, tự do lưu thông hàng hoá sản xuất, hoặc mua các tư liệu sản xuất cần thiết. Hình thành thị trường thông suốt cả nước. Tận dụng các lợi thế so sánh trong lĩnh vực nông nghiệp để xuất khẩu sản phẩm. Ngược lại, phía Nhà nước cũng có chính sách giúp đỡ nông dân thuận lợi hơn và đỡ bị thiệt hơn khi có thị trường biến động.
Có chính sách thuế để điều tiết kinh tế nông thôn, như thuế nông nghiệp, thuế lợi tức Doanh nghiệp, thuế hàng hoá, thuế môn bài, thuế sát sinh (say này bỏ), thuế rượu, thuế trước bạ.
Có chính sách nghiên cứu nông nghiệp và chuyển giao công nghệ cho kinh tế nông thôn. Ngày 2-3-1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13CP, về “Quy định công tác khuyến nông”. Đây trở thành chính sách lớn của Nhà nước, phổ biến kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi công nghệ chế biến, bồi dưỡng và phát triển kỹ năng, kiến thức quản lý kinh tế cho nông dân để sản xuất và kinh doanh hiệu quả; chia thông tin thị trường, thời tiết, tình hình công nghệ.
2-/ Thời kỳ 1993 đến 1998.
Trên đà những thành công cả về kinh tế - chính trị - xã hội của chính sách nông nghiệp giai đoạn 1986 - 1993, Đảng và Nhà nước đã tiến hành tổng kết một bước (1992), đánh giá khách quan các vấn đề nhằm khắc phục những mặt hạn chế, những vấn đề mới nẩy sinh để có những giải pháp nhằm đưa nông nghiệp lên tầm cao mới.
Do việc ban hành chính sách từ 1993 trở lại đây có thời gian được thực hiện còn quá ngắn, nên chưa thật sự có những chuyển biến lớn rõ ràng. Mặt khác, do chính sách mới ban hành từ 1993 trở lại đây đều mang tính kế thừa, bổ sung và hoàn thiện các chính sách trước nên khó tách bạch cái cũ và cái mới. Do vậy, em chia các chính sách sau 1993 thành các nhóm vấn đề sau:
a) Các chính sách tác động trực tiếp, thúc đẩy động lực sản xuất tiếp tục phát triển.
7/1993, Nhà nước ban hành Luật đất đai: khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Hộ gia đình, các tổ chức kinh tế được giao đất và mặt nước theo mục đích sử dụng mà tính thời hạn (20 năm cho cây ngắn ngày, 50 năm cho cây dài ngày). Người được giao sử dụng đất phải chấp hành đúng mục đích sử dụng đã cam kết, nếu không sẽ bị thu hồi. Tuy nhiên có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng.
Nhà nước cũng có chính sách “hạn điền”, ngăn cấm mua bán đất đai trái pháp luật, sử dụng sai mục đích nhằm hạn chế tính tiêu cực của chính sách đất mới.
Thuế sử dụng đất được áp dụng cho các cá nhân, tổ chức, đơn vị sở hữu các khoảng đất được Nhà nước giao. Hạng đất và mức tính thuế được căn cứ vào 5 yếu tố cơ bản: chất đất, vị trí đất, địa hình, khí hậu, điều kiện tưới tiêu. Hạng đất và mức thuế ổn định trong vòng 10 năm.
Cùng lúc có chính sách miễn, giảm thuế đối với những nơi, trường hợp khó khăn.
Lựa chọn và điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất phù hợp với tập thể đất đai, nguồn nước và lao động của Doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu thị trường.
Có chủ trương hoá giá đàn gia súc, bán lại một số diện tích cây gì cỗi cho các hộ để chủ động sản xuất.
Giảm nhẹ bộ máy quản lý Doanh nghiệp từ 10-15% nhân viên giảm tiếp xuống còn 3-5%.
Thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, văn hoá, xã hội.
Đổi mới mối quan hệ phân phối và quản lý trong sản xuất ở nông thôn.
Thay đổi quan hệ phân phối Nhà nước - nông dân, giảm điều tiết từ kinh tế nông thôn.
Phân hoá hệ thống hợp tác xã cũ và khuyến khích lập các hợp tác xã kiểu mới (theo luật hợp tác xã - 1997).
Thay đổi cơ bản quan hệ hợp tác xã - nông dân. Người nông dân được tự lựa chọn, quyết định và hành động vì mục đích trước tiên của mình khi gia nhập hợp tác xã.
Hợp tác xã và kinh tế hộ chuyển sang hình thức hợp đồng hợp tác xã đóng vai trò đầu ra, đầu vào. Ban lãnh đạo hợp tác xã do xã viên lựa chọn dân chủ, công khai.
b) Các chính sách tác động gián tiếp, tạo môi trường cho kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển.
Chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn.
Ngoài nguồn vốn Ngân sách Nhà nước chi cho xây dựng cơ bản, đã có thêm nhiều nguồn vốn khác đầu tư vào khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Vốn Ngân sách Nhà nước chi cho xây dựng cơ bản, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, trồng rừng.
Vốn địa phương tự có.
Vốn do các thành phần kinh tế nông thôn tự đầu tư.
Vốn gọi được của các tổ chức quốc tế như SIDA, Hà Lan....
Chính sách tín dụng, tạo vốn cho kinh tế nông thôn.
Đa dạng hoá các kênh chuyển vốn vào các khu vực nông nghiệp: Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, các quỹ xoá đói giảm nghèo, Ngân hàng cổ phần, hợp tác xã tín dụng, các tổ chức tín dụng (Hội nông dân, hội phụ nữ....). Ngoài ra có sự tín dụng phi chính thức ngay trong đời sống nông dân để sản xuất nông nghiệp.
Chính sách thị trường, giá cả và bảo trợ sản xuất đối với sản phẩm của kinh tế nông thôn. Đẩy mạnh thị trường hoá kinh tế nông thôn, tự do hoá, chuyên môn hoá các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, Chính phủ cũng tác động thông qua ổn định giá, tỷ giá hối đoái, giúp đỡ nông dân lúc thiên tai, mất mùa sâu bệnh....
Chính sách khuyến khích, chuyển giao công nghệ sản xuất mới cho nông thôn. Ngày 2/3/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13CP quy định công tác khuyến nông tới từng hộ dân. Trong thời gian ngắn đã được triển khai tương đối khẩn trương. Mạng lưới khuyến nông được hình thành từ Trung ương tới cơ sở: Cấp TW, cấp tỉnh, cấp huyện, liên xã, cụm xã. Với mạng lưới trên mà các tiến bộ khoa học kỹ thuật ý hay trong sản xuất nông nghiệp được phổ biến trong bà con nông dân.
Nói tóm lại, trong thời kỳ đổi mới tới nay đối với lĩnh vực nông nghiệp, chính sách được chia ra hai giai đoạn 1986 - 1993, 1993 - 1998, trong đó, 1986 - 1993 là thời kỳ chống khủng hoảng, ổn đình dần dần hoạt động sản xuất nông nghiệp, còn chính sách của giai đoạn 1993 - 1998 là tầm cao mới của giai đoạn trước đó, và cũng là tiền đề cho sau này để hiện đại hoá, công nghiệp hoá nền sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
III-/ THÀNH TỰU VÀ NHỮNG THÁCH THỨC VỚI NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ NGÀY ĐỔI MỚI.
1-/ Những thành quả đạt được.
a) Giải quyết được vấn đề lương thực, đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu.
Từ một nông thôn nghèo, một quốc gia triền miên đói, phải nhập khẩu lương thực (1979: nhập 1.994.000 tấn, 18980 nhập 2.224.000 tấn) tới 1989 đã trở thành một quốc gia đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu gạo. Từ đó cho tới nay, số lượng lương thực liên tục tăng, sản lượng xuất khẩu ra thị trường quốc tế đứng hàng thứ 3, thứ 4 và 1997, 1998 chúng ta đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Tiến bộ trong sản xuất lúa gạo có ý nghĩa quan trọng.
Đủ ăn cho một quốc gia trên70 triệu dân sau nhiều thập niên thiếu đói, đem lại niềm tin, tạo ra tiền đề ổn định cho chính trị, xã hội, để tiếp tục đổi mới và phát triển.
Xuất khẩu gạo có hiệu quả đã góp thêm vào lượng ngoại tệ đang thiếu của Việt Nam, đồng thời giảm sự thâm hụt cán cân thanh toán thương mại quốc tế, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việc tự do lưu thông gạo đảm bảo thoả mãn nhu cầu các vùng về lương thực, bình ổn giá cả và thị trường trong nước, tạo tiền đề để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phân công lại lao động, phát huy lợi thế so sánh từng vùng.
b) Các vùng cây công nghiệp tập trung được xây dựng.
Khi chuyển sang cơ chế mới, các vùng cây công nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Các chính sách như khoán cây vườn, làm vườn liên kết, giao đất làm trang trại gia đình, Doanh nghiệp Nhà nước làm dịch vụ đầu vào, đầu ra để thúc đẩy mở rộng các vùng cây công nghiệp : 150000 ha cà phê, 70.000 ha chè, 251000 ha cao su.... Việc mở rộng diện tích cây công nghiệp dài ngày đã tăng thêm diện tích đất canh tác, tạo thêm việc làm, xây dựng cơ sở công nghiệp chế biến, hình thành cơ cấu kinh tế mới, nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Điều này có ý nghĩa rất lớn, nhất là ở các vùng trung du miền núi, vốn là kinh tế tự nhiên nay nhờ có chính sách phù hợp để phát triển, trở thành vùng kinh tế hàng hoá.
c) Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Theo định hướng Nghị quyết Trung ương lần thứ V (khoá VII), nhìn tổng thể kinh tế nông thôn có sự chuyển dịch cơ cấu. Năm 1990, nông nghiệp chiếm 73,8% GDP nông thôn, sang năm 1995 giảm xuống 64,5%. Hai ngành xây dựng và dịch vụ ở nông thôn tăng rõ nét.
Năm 1990, ngành xây dựng chỉ chiếm 2,6% cơ cấu GDP nông thôn, năm 1995 tăng lên 6,7% (tăng bình quân mỗi năm 16,7%). Ngoài dịch vụ năm 1990 chiếm 10,4 đã tăng lên 16,6% năm 1995 trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề nay đang bắt đầu tìm lại được thị trường, đổi mới công nghệ, khôi phục nghề cũ, tìm kiếm nghề mới. Đến nay đã xuất hiện nhiều làng nghề ở Hà Bắc, Hà Tây và nhiều vùng nông nghiệp khác đạt được tốc độ tăng trưởng 7,8%/năm. Nhưng so với tốc độ tăng công nghiệp chung của toàn bộ nền kinh tế thì vẫn thấp.
Do GDP khu vực nông thôn tăng nên đời sống của người dân dần được cải thiện, các công trình công cộng được chú ý phát triển như đường xá, trạm thuỷ lợi, nhà văn hoá...
Nhiều hình thức tổ chức nông nghiệp kiểu mới xuất hiện rất đa dạng: hình thức kinh doanh trang trại trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, trang trại trồng rừng nông lâm kết hợp, trang trại nuôi trồng thuỷ sản, đặc sản, nuôi gà, nuôi lợn.... với quy mô sản xuất hàng hoá. Hình thức trang trại không chỉ có phổ biến ở vùng bình quân ruộng đất cao mà ở cả các vùng đất chật người đông. Về mặt quan hệ sản xuất, thay cho mô hình hợp tác xã kiểu cũ, nhiều nhân tố mới về đổi mới hợp tác cũng xuất hiện hợp tác xã dịch vụ, hợp tác xã cổ phần, liên kết giữa kinh tế hộ với các Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước hình thành kiểu hợp tác xã kinh tế đa thành phần, hình thành mô hình hợp tác liên kết ngay giữa các hộ nông dân và liên kết dọc thành hiệp hội theo ngành.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm nông - lâm - thuỷ sản) thì thuỷ sản là một ngành có bước phát triển đáng kể. Một hiện tượng đáng chú ý là trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cùng với các vùng cây công nghiệp tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá, các vùng cây ăn quả đã tăng lên đáng kể như : vải thiểu Lục Ngạn, Yên Thế.... các vùng cây ăn quả được hình thành phát triển cùng kinh tế vườn và hoạt động kinh tế VAC trong các hộ nông dân dưới nhiều hình thức vườn nhà, vườn đồi, vườn rừng đã tạo nghề mới, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông thôn và phát huy lợi thế các vùng nông nghiệp sinh thái một cách có hiệu quả.
Tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ tăng dần trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Quan hệ giữa thành thị - nông thôn ngày càng được củng cố tăng cường, tạo ra thị trường trong cả nước và nền sản xuất chuyển sang sản xuất hàng hoá với tốc độ chuyển dịch nhanh hơn (ví dụ: ở đồng bằng sông Hồng tốc độ bình quân 1991 - 1994 đạt 3,7%/năm song xu thế tăng dần lên). Xét về phương diện thể chế và phương hướng, các làng nghề truyền thống đang phát triển thành các cụm công nghiệp nông thôn. Các cụm công nghiệp này đang hình thành có nhiều nét khác với kiểu tổ chức làng nghề truyền thống trước đây. Về công nghệ sản xuất của nó thì đã chuyển từ truyền thống sang công nghệ mới, đầu tư thiết bị tiên tiến, vốn lớn hơn, thu hút nhiều lao động hơn.
d) GDP khu vực nông thôn tăng.
Tốc độ tăng GDP của nền kinh tế (theo giá cố định năm 1989) đã tăng từ 6,7% năm 1990 lên 9,5% năm 1995 (bình quân giai đoạn 1990 - 1995 tăng xấp xỉ gần 8%). Tốc độ tăng bình quân GDP/đầu người khu vực kinh tế nông thôn từ 2,1% năm 1991 lên 4,1% năm 1995.
Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy: để đạt tới trình độ phát triển cao, họ đã phải coi trọng tích luỹ từ nông nghiệp, nông thôn để cho quá trình công nghiệp hoá.
Vấn đề tích luỹ từ nông nghiệp để công nghiệp hoá đã được Đảng ta đề cập ở Đại hội III (1960) nhưng chúng ta đã không thực hiện nổi. Cho tới trước thời kỳ đổi mới (1986) ở nông thôn không có để dành mà ngược lại Nhà nước phải thường cứu tế cho nông dân. Nay với đường lối đổi mới, cơ chế mới đi vào hoạt động, nông dân hiện có thu nhập, hơn nữa lại có để dành, đó thật sự là một bước tiến lớn.
e) Kinh tế xã hội nông thôn khởi sắc trên nhiều mặt.
Tuy đầu tư của Nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn chưa nhiều nhưng với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nông dân đã góp tiền của, sức lao động để xây dựng hệ thống điện, giao thông nông thôn, cơ sở y tế, trường học, nhà ở làm cho bộ mặt nông thôn đã có tiến bộ mới. Nhờ có điều kiện về nhà ở, giao thông trường học, điện được xây dựng, bộ mặt nông thôn nước ta đã có bước tiến bộ đáng kể so với trước. Đời sống vật chất của nông dân bước đầu được cải thiện, tỷ lệ hộ giàu tăng, hộ nghèo đói giảm. Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của nông dân (1994: 21,6% hộ nông dân có máy thu hình, 37,5% hộ dân có máy thu thanh)
Tổng quan lại, năm thành tựu trên là các thành tựu cơ bản mà chúng ta đạt được trong nông nghiệp từ khi có những chính sách đổi mới của Nhà nước và Đảng. Tuy nhiên, những thành tựu trên có lẽ bắt nguồn từ thành quả vô hình hết sức quan trọng mà chính sách đổi mới đem lại cho nông nghiệp và nông thôn: người nông dân được tự chủ là kinh tế, tự quyết định các khâu trong quá trình sản xuất của mình và nhận trách nhiệm đóng thuế với Nhà nước, từ đó nâng cao động lực sản xuất, phát triển kinh tế, vững tin vào chính sách của Đảng và Nhà nước.
2-/ Những vấn đề tồn tại và mâu thuẫn mới:
Cùng với những thành tựu đạt được trên mặt trận nông nghiệp từ khi đổi mới, chúng ta vẫn phải đối mặt với những khó khăn còn tồn tại và cả những mâu thuẫn mới.
a) Một số chính sách của Nhà nước chưa có tác dụng kích thích mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản phát triển (như thu lợi phí, bảo hiểm sản xuất, trợ giá nông sản, thuế sử dụng đất nông nghiệp...)
Một số chính sách ra đời từ lâu nhưng còn ách tắc trong triển khai hoặc gây nhiều khó khăn phức tạp làm cho hiệuquả tác động của chính sách giảm đáng kể như cấp giấy sử dụng đất nông nghiệp, thu thuế đất nông nghiệp, thu thuế sản xuất nông nghiệp,...
b) Đầu tư xây dựng cơ bản trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản trong 5 năm qua tuy có tăng về giá trị tuyệt đối lại giảm mạnh về tỷ trọng (1990:15%, 1996: 10%) trong tổng số vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, dẫn tới sự xuống cấp trong cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và hậ tầng nông thôn vốn đã yếu kém.
Do thiếu vốn đầu tư, nên khả năng tái tạo vốn cũng rất hạn chế, cả trồng và nuôi cùng phát triển chậm. Năm năm qua có sự giảm sức sản xuất ngành lâm nghiệp có nguyên nhân thiếu vốn đầu tư Ngân sách.
c) Tổ chức sản xuất chưa ổn định, vai trò của các Doanh nghiệp Nhà nước mờ nhạt, kinh tế hợp tác xã giảm sút, kinh tế hộ gia đình tuy phát triển nhưng không đều giữa các vùng, các địa phương, kinh tế tư nhân so với các ngành công nghiệp và dịch vụ. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tháng 7 - 1995 các hợp tác xã nông nghiệp được thành lập trước đây một số đã tan rã nhanh sau khi thực hiện đổi mới, số còn lại trong mấy năm gần đây đã tự giải thể 2958 hợp tác xã. Tính tới 1997, trong số 16.243 hợp tác xã, chỉ có 15,56% đã đổi mới có hiệu quả, 20,6% đổi mới đạt hiệu quả thấp, 43,7% chỉ còn là hình thức và trở thành lực cản cho phát triển kinh tế hộ.
Các Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả nhưng sử dụng quá nhiều quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp trong khi nhiều vùng nông dân còn thiếu đất mở rộng sản xuất hàng hoá.
Chủ trương kiên trì nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và nông thôn tuy đã được khẳng định, nhưng trong đối sách cụ thể còn nhiều tồn tại ý kiến và quan điểm khác nhau nên mỗi thành phần đều chưa được phát huy tốt (nhất là các hợp tác xã nông nghiệp).
c) Tác động của công nghiệp và nông nghiệp chưa rõ nét, công nghiệp chế biến nông sản yếu kém, các khâu làm đất, vận chuyển, thu hoạch, ra hạt, vẫn sử dụng nhiều công cụ thủ công và lao động sống, nhất là ở vùng duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Hồng. Do vậy, chất lượng sản phẩm, năng suất ruộng đất, năng suất lao động nông nghiệp, lâm nghiệp thuỷ sản còn thấp, quan điểm, nội dung công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn cũng chưa được cụ thể hoá bằng các chính sách và giải pháp. Các ngành nghề truyền thống trong nông thôn phát triển chậm do thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, chất lượng, mẫu mã, bao bì chưa phù hợp với yêu cầu thị trường.
d) Đất đai nông nghiệp bị chia nhỏ, manh mún với mức bình quân đầu người rất thấp, nhất là đồng bằng sông Hồng (600 m2/người) trong khi đó dân số nông thôn vẫn tăng trên 2% /năm làm cho xu hướng tự túc, tự cấp ở một số vùng miền Bắc vẫn nặng nề, sản xuất hàng hoá phát triển chậm. Tình trạng đó thể hiện rõ ở ba vùng: miền núi và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng. Việc chia đất gây ra tính bình quân quá cao, ràng buộc chặt hơn nông dân với ruộng đất, với trồng trọt, dẫn đến lao động nông thôn dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập thấp, khoảng cách nông thôn - thành thị ngày càng xa và xuất hiện các dòng di dân không tổ chức gây ra hậu quả tiêu cực đối với kinh tế - xã hội. Hiện tại trong nông thôn còn dư thừa 6-7 triệu lao động trong độ tuổi nên đã hình thành dòng di dân tự do vào các vùng Tây nguyên, Đông Nam Bộ hoặc ra thành phố. Luồng di cư tự do diễn biến rất phức tạp, gây hậu quả nặng nề: phá huỷ hàng trăm ngàn hécta rừng (cả rừng già), phá vỡ quy hoạch tổng thể chung của địa phương đến.
e) Thị trường nông thôn yếu kém đã tác động tiêu cực đến “đầu vào” và “đầu ra” của sản phẩm nông nghiệp. Vai trò của Nhà nước trong vấn đề này còn mờ nhạt nên trong 5 năm 1991 - 1995, hoạt động của tư thương đã chi phối như toàn bộ thị trường nông thôn, kể cả miền Nam và miền Bắc. Thị trường và giá cả vật tư, điện nước, phân bón và cả nông sản hầu như do tư thương chi phối. Ngay cả việc tổ chức cung ứng vật tư và thu mua nông sản cũng vậy, tư thương về nông thôn thu gom các mặt hàng nông sản xuất khẩu (lúa gạo, cà fê, chè....). Tình trạng này làm cho người nông dân thiệt hại về lợi ích kinh tế, không yên tâm đầu tư để mở rộng sản xuất.
f) Tài nguyên rừng, biển ngày càng suy kiệt, môi trường sinh thái mất cân đối. Phương thức khai thác tài nguyên rừng và biển mang tính chất bóc lột, khai thác trắng làm cạn kiệt nguồn tài nguyên hiện có. Tình trạng khai thác, đánh bắt thuỷ sản ở gần bờ, bằng thuốc nổ vẫn diễn ra thường xuyên, tuy có giảm đôi chút. Đốt phá rừng làm nương rẫy vẫn phổ biến ở Tây Nguyên, miền núi Việt Bắc và Tây Bắc làm cho rừng suy kiệt nghiêm trọng. Năm 1993 so với năm 1943 (sau 50 năm) đã làm giảm diện tích rừng từ 14,3 triệu hécta xuống còn 9,3 triệu hécta, độ che phủ rừng từ 43% xuống còn 28%, tình trạng trên đã gây ra lũ lụt, hạn hán, đất đai bị xói mòn, sụt lở hoặc bị thoái hoá ở nhiều nơi.
Du canh, du cư vẫn tồn tại ở các vùng núi cao là một nguy cơ của tệ nạn phá đốt rừng ở miền núi. Ngay cả việc mở rộng diện tích cầ phê ở Tây nguyên (1995) lên núi cao đã và đang gây ra nhưnã hậu quả xấu đối với rừng tự nhiên và môi trường.
Thuỷ sản cũng trong tình trạng tương tự. Cách khai thác trong những năm qua đang làm cho nguồn thuỷ sản suy kiệt nhanh chóng. Tầu thuyền đánh cá đủ loại công suất lớn thả lưới quét từ biển Đông sang bờ biển Tây để đánh bắt mọi loại thủy sản có trong lòng biển. Hàng ngàn miệng đáy, hàng trăm km, đăng, te, cao,... dù bị cấm vẫn ngang nhiên hoạt động. Gần đây Bộ Thuỷ sản đánh giá, nguồn thuỷ sản nước ta đã giảm đi 50% so với trước năm 1980,m chủ yếu ven bờ. Trong khi đó đội ngũ tầu thuyền có khả năng đánh bắt xa bờ còn rất hạn chế.
Mặc dù xét về ngắn hạn, việc khai thác cạn kiệt trên có góp phần tăng trưởng kinh tế nhưng tính bền vững không lâu dài, môi trường sinh thái mất cân đôi gây hậu quả không lường được.
g) Tốc độ tăng nông nghiệp chậm so với công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Hệ số chênh lệch giữa tốc độ phát triển của công nghiệp so với nông nghiệp của các nước đang phát triển có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới là 2 lần trong khi đó ở Việt Nam là 4 lần (1991), 3,45 lần (1993), 3,58 lần (1994), 3 lần (1995). Khoảng cách quá xa về tốc độ tăng trưởng của công nghiệp và nông nghiệp ở Việt Nam những năm qua làm cho nông nghiệp vốn đã lạc hậu lại tụt hậu xa hơn so với công nghiệp và dịch vụ, dẫn tới phân hoá nhanh hơn về thu nhập và đời sống giữa nông thôn và thành thị trong cơ cấu thị trường.
Tụt hậu của nông nghiệp trong tăng trưởng kinh tế chung đang làm phát sinh thêm những mâu thuẫn khác về mặt xã hội giữa nông dân và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội. Điều dễ nhận thấy là trong những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường, bộ mặt thành thị và đời sống nhân dân phi nông nghiệp được cải thiện nhiều hơn và nhanh hơn so với bộ mặt nông thôn và đời sống nhân dân vùng sâu, miền núi vùng đồng bào các dân tộc ít người. Nông nghiệp và nông thôn vẫn chịu thiệt thòi trong hưởng thụ hệ thống cơ sở hạ tầng của Nhà nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao hơn thành thị trong khi hộ khá (chưa kể tới hộ giàu) lại thấp hơn rất nhiêù.
Nguyên nhân của những tồn tại mâu thuẫn trên đây một mặt là do nông, lâm nghiệp, thuỷ sản Việt Nam có điểm xuất phát thấp, kỹ thuật lạc hậu, lại bị cơ chế cũ trói buộc quá lâu trong lúc thời gian đổi mới chưa đáng là bao (12 năm). Tuy nhiên, những yếu kém trên còn do những chính sách và giải pháp của Nhà nước với ngành sản xuất còn chưa tương xứng với vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
CHƯƠNG III
Đánh giá về chính sách nông nghiệp từ khi đổi mới và kiến nghị cá nhân.
1-/ Đánh giá về chính sách nông nghiệp từ khi đổi mới.
Như chúng ta đã biết, chính sách nông nghiệp là lĩnh vực hết sức rộng và vô cùng phức tạp, nó bao gồm các chính sách cơ bản sau: chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách khoa học kỹ thuật, công nghệ và khuyến nông, chính sách đào tạo.... Bởi vậy, để đánh giá chính sách nông nghiệp, người ta thường dựa trên kết quả chính trị - kinh tế - xã hội mà chính sách tác động vào nông nghiệp.
Sau khi tìm hiểu những thành tựu cũng như những khó khăn còn tồn tại trên (Chương II, mục III), em nhận thấy rằng các chính sách nông nghiệp của chúng ta từ khi đổi mới đều mang tính chất thử nghiệm và được áp dụng ngay vào nền nông nghiệp Việt Nam. Do tính thử nghiệm mà cho tới nay, các chính sách còn bộc lộ những mặt yếu kém, chưa đầy đủ bên cạnh những mặt tích cực. Chúng ta phải chấp nhận điều này, từ đó đánh giá khách quan tác động của chính sách đối với nền nông nghiệp Việt Nam để loại bỏ dần mặt tiêu cực, bổ sung thêm các yếu tố còn thiếu và đẩy mạnh mặt tích cực.
Từ các phân tích có tính hệ thống về thành công cũng như bất cập trong triển khai, nghiên cứu ban hành, thực hiện các chính sách thời kỳ 1986 - 1998 đối với sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cho phép rút ra những đánh giá tổng quát sau:
a) Những mặt tích cực đạt được của chính sách nông nghiệp.
Như chúng ta đã biết, thời kỳ 1986 - 1998 đất nước ta găp những điều kiện hết sức khó khăn: sản xuất đình trệ, năng suất thấp, lạm phát tăng cao, lòng tin của dân bị lung lay... Với dân số 80% là nông dân thì lĩnh vực nông nghiệp là một trong những lĩnh vực bị thiệt hại nặng nền nhất, ruộng đất bị bỏ hoang, gia súc không có người chăm sóc, nông dân ít thấy xuất hiện trên cánh đồng, đói nghèo diễn ra khắp nơi ở nông thôn. Hơn thế nữa, những khó khăn đó phần lớn bắt nguồn từ cách thức quản lý, chỉ đạo thực hiện quan liêu, xa dân, không nắm bắt tình hình thực tế (hoặc nắm bắt theo kiểu sách vở). Bởi vậy mà công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới trên mặt trận sản xuất nông nghiệp thực sự phản ánh một tư duy mới, cách nhìn mới của Đảng và Nhà nước đối với tình hình Việt Nam.
Các chính sách được xây dựng, ban hành, thực hiện, tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng. Nó khác xa với cách thức áp đặt từ trên xuống dưới như trước kia. Các nhà hoạch định chính sách tôn trọng thực tiễn khách quan, nhìn thẳng vào sự thực Việt Nam (1986 - 1988), là một nước nghèo, nông nghiệp lạc hâu, trình độ dân trí thấp, sống chủ yếu ở nông thôn. Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp yếu kém, tư tưởng sản xuất nhỏ, manh mún còn phổ biến trong nông dân. Từ thực tế đó, quá trình đổi mới những chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp được bắt đầu từ cấp độ vĩ mô trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.
Đối với mỗi chính sách, Đảng ta luôn bám sát kết quả thực hiện, tổng kết từng bước và đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời. Từ đó nâng cấp chính sách lên tầng cao hơn. Cụ thể là năm 1986 tới 1998, Đảng ta nâng mức chính sách nông nghiệp qua 3 mức 1986 - 1993, 1993 - 1996, 1996 - 2000.
Mặt đã được trước hết của chính sách nông nghiệp là huy động được sức sản xuất của nông dân. Từ việc coi người nông dân cá thể là con người của tập thể dẫn tới lợi ích của các nhân bị bỏ qua cho tới việc coi lợi ích cá nhân là cái đầu tiên và đặt lợi ích đó hoà nhập với tập thể. Cùng lúc đó, cho phép tất cả các thành phần kinh tế hoạt động trong kinh tế nông nghiệp tạo ra một nguồn lực tổng hợp.
Qua hai bộ luật hợp tác xã và luật đất đai (1997), Đảng và Nhà nước chủ trương vừa khuyến khích nông dân hợp tác, nhưng cũng cho phép tự do sự hoạt động sản xuất của cá nhân, các hộ gia đình riêng lẻ dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chính do được tự do quyết định sản xuất các cá nhân, hộ gia đình rất có trách nhiệm với quá trình lao động sản xuất và đã hình thành nhiều hình thức làm ăn mới như hợp tác xã kiểu mới, kinh tế trang trại...
Thứ hai, qua các chính sách quản lý vĩ mô khác như đầu tư, tín dụng, khuyến nông... Nhà nước cũng rất ý thức được vai trò của mình trong quá trình tác động như chất xúc tác, hoặc khơi ngòi và làm mạnh thêm nguồn lực vốn có, sẵn có nông thôn. Ví dụ, Nhà nước chủ trương thành lập các trung tâm khoa học công nghệ sinh học các cấp nhằm đưa khoa học công nghệ về cho nông dân để đa dạng hoá và tăng năng suất các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba, các chính sách nông nghiệp vừa kết hợp được sức dân, vừa có sự trợ giúp của Nhà nước. Chúng ta thấy rõ điều này trong việc phát triển cơ sở vật chất hạ tầng ở nông thôn từ khi đổi mới cho tới nay.
Nói tóm lại, sự thành công của các chính sách kinh tế nông nghiệp từ khi đổi mới tới nay đã chứng minh được vai trò và hiệu quả đồng bộ của phần nhiều các chính sách cùng tác động theo mục tiêu khuyến khích phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế nông thôn, kích thích được sự nỗ lực đầu tư và sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nông nghiệp và phục vụ nông nghiệp ứng dụng nhanh và tốt hơn các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Mặc dù có những thành công bước đầu, nhưng do thời kỳ đổi mới còn quá ngắn so với cả quá trình bao cấp của kinh tế nông nghiệp Việt Nam, nên thời gian qua cũng bộc lộ rõ những thách thức và các vấn đề nảy sinh của chính sách nông nghiệp.
b) Những bất cập nảy sinh của chính sách nông nghiệp.
Ngoài những mặt tích cực, chính sách nông nghiệp của Đảng và Nhà nước sau một thời gian áp dụng đã bộc lộ rõ những bất cập.
Chưa đồng bộ áp dụng các chính sách trên toàn quốc, các địa phương nhận thức chính sách khác nhau, các chính sách cũng chưa thật sự vươn tới các vùng sâu, vùng xa của đất nước. Sự áp dụng cùng một chính sách khác nhau theo từng vùng cả về bề rộng lẫn chiều sâu, thậm chí khác nhau ngay trên cùng một địa phương: Ví dụ chính sách đất (luật đất đai và các văn bản pháp quy về đất nông nghiệp) của thời kỳ từ 1986 tới 1998 thể hiện sự chuyển đổi tư tưởng của Đảng và Nhà nước, và nếu như nó được áp dụng toàn quốc sâu rộng thì tính hiệu quả sẽ rất cao, nhưng trên thực tế việc giải quyết giao đất cho từng cá nhân, hộ, các tổ chức ở các địa phương còn rất khác nhau. Nổi cộm hiện nay là tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp còn rất chậm đặc biệt là đất lâm nghiệp (cho tới 3/1999, cả nước mới chỉ có 9,7% đất lâm nghiệp mới được cấp giấy phép sử dụng). Chính vì tiến độ cấp đất chậm này mà trách nhiệm đối với đất chưa được xác định cụ thể tới từng cá nhân, và ruộng đất manh mún, phân tán còn nhiều.
Hầu như thủ tục cấp đất rất rườm rà, không thật minh bạch gây ra hiện tượng tiêu cực như các cán bộ thuộc Uỷ ban nhân dân xã lợi dụng cấp đất nhiều về cho gia đình.
Ngay trong các chính sách nông nghiệp đã bộc lộ những thiếu xót, khuyết tật “trong giai đoạn mới”. Nội dung các chính sách còn có những điểm, những khoản chưa thật sự huy động được sức dân, làm cho dân chúng còn e ngại chưa quyết tâm thực hiện hoặc một số chính sách chưa thực sự quan tâm, đôi khi “bỏ quên” một bộ phận nông dân nghèo.
Ở Luật đất đai, dù Nhà nước quy định cấp chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân từ 20 (cho cây ngắn ngày) và 50 năm (cây dài ngày), nhưng nông dân một số còn sợ rằng điều gì sẽ xẩy ra nếu sau 20 năm hoặc 50 năm nữa mảnh đất họ lao động lại bị chuyển qua tay người khác, hoặc xung đất công. Hay luật đất chưa quy định rõ có giao đất cho người mất đất lao động do hợp tác xã tan rã, hoặc do thời gian trước đó đã chuyển quyền sử dụng đất cho người khác.
Trong quy định Luật đất đai còn quy định “hạn điền” đối với các nhân, hay nhóm các cá nhân muốn làm kinh tế trang trại. Chính vì vậy mà hạn chế sự phát triển kinh tế trang trại, mà điều này đi ngược với chủ trương của Đảng ta là phát triển loại hình kinh tế này.
Ngoài ra, chính sách thuế, thu phí của Chính phủ, địa phương đối với nông sản, nông nghiệp còn gây nhiều tranh cãi. Ở một số địa phương, ngoài các loại thuế nông nghiệp (thuế đất, thuế nông sản...) còn nhiều loại phí khác phải đóng để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Hơn nữa, việc thu thuế đôi khi không tính trên hiệu quả thực tế mà nông dân nhận được (ví dụ như được mùa nhưng thóc gạo, nông sản lại rẻ, nếu giữ đúng mức thuế cũ thì người nông dân chịu thiệt thòi).
Một số chính sách vĩ mô của chúng ta chưa có hiệu quả.
Chính sách trợ giá: mấy năm trở lại đây, Nhà nước có quan tâm tới nông nghiệp nhiều hơn, nhưng để có chính sách bảo vệ hiệu quả người nông dân trước sức ép của tự nhiên (thiên tai, hoả hoạn...) hoặc sức ép của thị trường (giá cả quốc tế, giá nội địa) thì Nhà nước ta vẫn chưa đạt tới. Một số năm gần đây, nông dân dù được mùa nhưng vẫn thu được ít bởi tư thương lũng đoạn thị trường, đặc biệt là những nơi nông thôn xa; hoặc do giá cả quốc tế xuống rất thấp.
Chính sách đầu tư: dù đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tăng trong hơn 10 năm, nhưng chưa thật thấm thoắt vào đâu đối với nền nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam. Hơn nữa, trong hàng ngũ lãnh đạo, vẫn có nhiều người (dù thấy được vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế) ngại đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn bởi thời hạn có hiệu quả lâu mà lợi nhuận lại thấp. Bởi vậy, mà lượng đầu tư nước ngoài được thu hút vào ngành nông nghiệp rất chênh lệch so với các ngành công nghiệp và dịch vụ do “ngại” từ cả 2 phía: bên đầu tư và bên Việt Nam.
Việc phát triển khoa học kỹ thuật và áp dụng nó vào công nghiệp có kết quả chưa đáng kể. Một phần do kinh phí thiếu, nhưng phần khác là chính sách đối đãi với các nhà khoa học nghiên cứu trong lĩnh vực này ở mức rất thấp. Điều đó dẫn tới các nhà khoa học hoặc bán sản phẩm trí tuệ cho tư nhân hoặc bản thân họ bị triệt tiêu mất động lực sáng tạo.
Tóm tại, các bất cập mới nẩy sinh (trong chính sách từ khi đổi mới) ở tất cả các lĩnh vực: đầu tư, tín dụng, chính sách giá thị trường, khoa học công nghệ, quản lý đất, quản lý và điều phối các quan hệ sản xuất, điều chỉnh các phương pháp sản xuất... Những khó khăn trong chính sách này cần có sự nỗ lực sửa đổi từ phía Chính phủ và đóng góp ý kiến từ phía các đại biểu nhân dân (thay mặt nhân dân). Từ khi đổi mới tới nay, một bài học rút ra là chính sách đúng đắn (hợp quy luật, hợp lòng dân) được vận dụng đồng bộ sẽ phát huy kết quả.
2-/ Những kiến nghị của cá nhân:
Như đã trình bầy ở trên, chính sách nông nghiệp là lĩnh vực hết sức rộng, nó bao gồm hàng loạt các chính sách khác nhau tác động vào các mặt của lĩnh vực nông nghiệp. Trong kiến nghị của mình, em chỉ xin nêu một số chính sách mà theo em cần có sự điều chỉnh.
Về chính sách đất nông nghiệp:
Giải pháp cơ bản nhất cho mọi sự thành công của chính sách nông nghiệp là giải quyết tốt vấn đề ruộng đất. Điều quan trọng là chính sách phải là sự điều chỉnh hợp lý, đúng đắn các quan hệ sở hữu ruộng đất nông nghiệp đối với nông dân hiện nay. Mặc dù đã có luật đất đai quy định thời hạn giao đất nhưng vấn đề này cho tới nay vẫn còn gây nhiêù tranh luận. Thật ra, người nông dân quan tâm là sự ổn định đất đai lâu dài cho việc sản xuất của họ. Bởi vậy, chúng ta nên có quan điểm là: thời hạn giao đất là lâu dài, không quy định thời gian, không lấy lại, bao trùm toàn bộ các loại đất khác nhau (cả đất nông nghiệp), giao một lần và giao chọn. Và để có sự quản lý, đảm bảo là đất thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước giữ giấy cam kết mục đích sử dụng đất của người sở hữu. Nếu muốn đổi quyền sử dụng phải được sự cho phép của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước tiến hành kiểm tra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đối chiếu đất đang được sử dụng theo mục đích gì. Theo cách này, đất cá nhân sẽ được Nhà nước bảo vệ ngược lại sẽ bị thu hồi nếu sử dụng sai mục đích khi chưa được phép của Nhà nước.
Còn về khoản thuế đánh vào việc sử dụng đất nông nghiệp thì Nhà nước nên bãi bỏ. Cũng như thuế phát sinh, thuế đất nông nghiệp không đóng góp bao nhiêu trong tổng thuế nông nghiệp, chưa nói gì tới Ngân sách Nhà nước. Thêm vào đó Nhà nước lại phải mất các khoản phí chi cho nhân viên thu thuế biên lai, đặc biệt là tính phức tạp trong việc đánh giá chất lượng đất để phân loại và đánh thuế. Trong khi đó vài đồng thuế lại rất có giá trị đối với người nông dân sản xuất nhỏ như ở nông nghiệp Việt Nam. Việc loại bỏ thuế này sẽ góp cho việc tái đầu tư của người nông dân vào chính sản xuất của họ.
Bằng mọi cách, chúng ta phải hoàn thành việc cấp giấy sử dụng đất cho nông dân trong năm 1999 để có môi trường pháp lý thuận lợi cho nông dân thực hiện các quyền trong luật đất đai.
Mặc dù chính sách “hạn điền” có mặt không tích cực do nó hạn chế năng lực sản xuất được mở rộng của các cá nhân tổ chức. Nhưng do trình độ sản xuất ở nước ta, để đảm bảo nông dân có đất sản xuất, chúng ta vẫn phải dùng chính sách này, hoặc thay nó bằng chính sách thuế. Chúng ta phải chú ý điều chỉnh mức hạn điền cho linh hoạt.
Tuy vậy, chúng ta nên khuyến khích mở rộng ruộng đất ở các vùng núi, vùng cao, để phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp, cùng lúc bảo vệ an ninh đất rừng.
Về mô hình sản xuất trong nông nghiệp.
Trong nền nông nghiệp hiện nay, chúng ta luôn phải coi kinh tế hộ nông dân là yếu tố trọng yếu, tồn tại và phát triển lâu dài và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn hiện nay. Các chính sách cho nông nghiệp đề ra phải phục vụ lợi ích kinh tế hộ là trước nhất (hiểu theo nghĩa tương đối).
Nhà nước khuyến khích các hộ nông dân hợp tác lại để vừa tạo thế mạnh cạnh tranh, lại giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề như giống, thức ăn, kiến thức.... liên kết với nhau, các hộ sẽ tránh được tình trạng sản xuất độc lập, đơn lẻ, năng suất thấp mà kiến thức sẽ rất ít.
Nông dân cần được hướng dẫn để tự nguyện tham gia vào hợp tác xã mới theo những nguyên tắc: tự nguyện vì hộ nông dân, tự do về quyền lợi, trách nhiệm. Trước mắt Nhà nước chủ động lập các hợp tác xã kiểu mới thí điểm ở từng tỉnh, từng huyện. Từ đó sẽ nhân rộng mô hình ra cả tỉnh, cả nước.
Còn đối với kinh tế trang trại thì sao? Hiện tượng này đã lâu trong lịch sử nông nghiệp nước ta nhưng sau cải cách ruộng đất cho tới trước 1992, mô hình này không thấy xuất hiện nhiều. Nhưng vài năm trở lại đây, nó đã trở thành một thực tế hiển nhiên trong sản xuất nông nghiệp nước ta. Đảng ta đánh giá đây là quy luật khách quan trong sự tiến bộ lực lượng sản xuất mà chúng ta phải chấp nhận. Tuy nhiên chúng ta phải có những đối sách thích hợp để ngăn chặn những tác động tiêu cực của hiện tượng này đó là sự bần cùng, nghèo đói, của một số nhỏ nông dân bán đất và cuối cùng bán sức lao động. Ngược lại có người sẽ giàu lên nhờ tích tụ ruộng đất và thuê lao động làm thuê. Để đối phó trước mắt chúng ta nên duy trì chính sách “hạn điền”linh hoạt (mức hạn điền tuỳ từng nơi), và sau đó áp dụng mức thuế đánh trên lợi nhuận thu được của chủ trang trại. Làm được điều này, trang trại cần phải được nâng thành Doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, có chứng từ, hoá đơn ghi lại hoạt động kinh doanh, và phải có sự thanh tra thường xuyên của Nhà nước. Các chủ trang trại phải đảm bảo thuê lao động theo Luật lao động của Việt Nam.
Về đầu tư và tín dụng cho nông nghiệp.
Đây là vấn đề mấu chốt cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chúng ta nhìn nhận rằng tuy đầu tư nông nghiệp Việt Nam còn ở mức thấp nhưng mức đầu tư tăng cả tương đối, tuyệt đối trong những năm trở lại đây (1998: 15% đầu tư toàn xã hội, 1999: 23% trên tổng đầu tư xã hội). Chúng ta đánh giá cao việc Chính phủ ta đánh giá cao việc Chính phủ quyết định vốn đầu tư toàn bộ thuế nông vào phát triển nông nghiệp. Nhà nước nên huy động, khuyến khích các nguồn lực có khả năng cả trong và ngoài nước để phát triển kinh tế nông thôn. Theo em, vốn Ngân sách thực chất chỉ nên tập trung vào các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống (thuỷ lợi, giao thông, điện...); phẩn bổ lại dân cư, khai khoang, xây dựng các vùng kinh tế mới, định canh, định cư; xây dựng các đô thị nhờ ở các cụm dân cư ở trong các vùng, vùng xa; đào tạo cán bộ, nghiên cứu và ứng dung khoa học công nghệ; công tác khuyến nông; sản xuất và giữ giống gốc; các chương trình phát triển nông thôn về giáo dục, văn hoá y tế, bảo trợ giá một số mặt hàng quan trọng của nông nghiệp có tỷ trọng hàng lớn khi có biến động của thị trường quốc tế. Nhà nước cũng nên lập ra các quỹ xoá đói giảm nghèo, bảo hiểm cho vay phát triển sản xuất... để nông dân có điều kiện phát triển kinh tế bản thân.
Tuyên truyền cổ vũ lập các quỹ tình làng xóm tương trợ cho nhau, nhà khá giả giúp nhà nghèo, nhà giàu giúp nhà khá, tạo thành một mạng lưới tín dụng ngay cấp thôn, xã. Nhà nước nên cho phép đa thành phần hoá trong hoạt động tín dụng miễn là có sự kiểm soát vĩ mô của Nhà nước.
Nhà nước gọi vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến hoặc sản xuất nông nghiệp ở địa thế thuận lợi. Có như thế mới gọi vốn vào được trong nước. Khi vốn ngoài nước phát triển công nghiệp chế biến sẽ tạo ra một động lực kích thích từ phía nông dân để phát triển sản xuất lương thực.
Về thị trường hàng hoá nông sản:
Nhà nước cần mở rộng hơn nữa lưu thông nôn sản hàng hoá tạo thế ổn định quan hệ cung cầu lương thực là vấn đề cốt lõi nhất vừa để bảo hộ sản xuất, vừa để bảo vệ nguồn tiêu dùng nông phẩm. Khuyến khích và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản dưới nhiều hinh thức, bằng nhiều thành phần kinh tế tham gia nhằm tạo đầu ra cho nông nghiệp và duy trì một thị trường truyền thống. Cần làm tốt công tác thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước, mở rộng thông tin kinh tế, tăng hiểu biết về thị trường cho nông dân.
Nhà nước chủ động tạo lập các tụ điểm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở nông thôn, xây dựng các đô thị ở các cụm dân cư để làm vệ tinh cho các đô thị lớn, qua đó là giảm bớt sự chênh lệch giữa đô thị và nông thôn, trí thức - công nhân- nông dân. Hơn nữa các trung tâm phát triển sẽ thuận lợi cho “đầu ra”, “đầu vào” của nông sản, cùng lúc giảm bớt nông dân hoạt động trong ngành nông nghiệp.
Về Chính sách thuế nông nghiệp và lệ phí ở nông thôn:
Chính sách đối với nông nghiệp nhất thiết phải được cụ thể hoá và vận dụng phù hợp nhằm mục tiêu chủ yếu là khuyến khích mọi thành phần kinh tế khai thác tối đa mọi năng lực sản xuất trong nông thôn, phát triển ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm, chuyển nông dân, nông nghiệp và nông thôn đi sâu vào sản xuất hàng hoá. Hiện nay, phí và lệ phí ở Việt Nam có rất nhiều loại, do nhiều cơ quan ban hành dẫn đến nhiều phiền toái cho nông dân. Theo số liệu Bộ tài chính, mấy năm gần đây tổng số thu từ phí, lệ phí chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng thu Ngân sách Nhà nước hàng năm (1995, thu từ các loại phí nông thôn là 2.689 tỷ, 1997 là 3.100 tỷ). Hơn thế nữa việc thu lệ phí bị các địa phương đặt ra vô tổ chức đôi khi trái pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, em cho rằng, dù là phí, lệ phí chay, các khoản thu nào khác tiền là phải được chi ra, mà thu nhập hiện nay còn rất thấp, thiếu vững chắc và còn nhiều rủi ro trong sản xuất và đời sống của họ. Để dứt tình trạng lộn xộn đó, cơ chế chính sách phải được sửa lại, đồng thời quy định rõ mức thu phí, lệ phí.... quy hoạch rõ ràng các loại phí và thu sao cho thống nhất đang là vấn đề được xã hội quan tâm.
Về chính sách khoa học - công nghệ và khuyến nông:
Nhà nước cần thiết phải đầu tư cho nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kĩ thuật đến người sản xuất, đến hộ nông dân và coi đâu lsf tiền đề cho phát triển sản xuất:
Hiện tại Nhà nước có thể lập ra các phòng nghiên cứu tại một số viện và đại học để chuyên sâu hơn nữa cho nông nghiệp. Mặt khác, các cấp chính quyền địa phương phải huy động tối đa đội ngũ tri thức nông thôn, các cán bộ kĩ sư, kĩ thuật viên vào hoật động đóng góp cho sự phát triển nông nghiệp và giải pháp thành lập tổ chức nghiên cứu cấp huyện nên được coi là bước đi sát với thực tế hiện nay.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền mở rộng kiến thức cho nông cân về nông nghiệp. Thiếu sót lớn của chúng ra là việc nông dân không được đào tạo cho sản xuất dẫm tới năng suất thấp. Tại sao trong khi chúng ta đào tạo công nhân, cán bộ đại học thạc sĩ... thì nông dân (giai cấp đông đảo nhất xã hội ta) lại nhận được ít sự quan tâm trong đào tạo. Phải chăng lãmh đạo chưa thật sự nhận thức được vai trò đào tạo cho phát triển nông nghiệp, và coi nghề nông là nghề không cần đào tạo mà chỉ học theo thói quen? Nông dân một khi được đào tạo thực tế họ sẽ biết phải làm gì và làm như thế nào ngay trên mảnh của chính họ.
Để thuận lợi trong kinh tế nông thôn hiện nay chúng ta phải quan tâm khuyến khích các ngành dịch vụ nông nghiệp phát triển ở nông thôn. Nông dân sẽ không còn phải lo đầu vào mà cũng không sợ đầu ra nữa. Thực tế, hợp tác xã mới nên đảm nhận vai trò này bằng cách đa dạng hoá các loại hình hợp tác xã nông nghiệp như hợp tác xã dịch vụ, hợp tác xã thuỷ lợi...
Nhà nước phải có chính sách đãi ngộ cán bộ trong ngành phát triển kinh tế nông thôn, đặc biệt là đội ngũ các nhà khoa học. Họ phải được nhận tương xứng với những gì họ đã bỏ công sức. Ví dụ: Một sáng kiến trong nông nghiệp hiện nay có thể giảm nghèo đi hàng trăm tới hàng nghìn hộ nông dân, rõ ràng là những đóng góp khoa học trong nông nghiệp rất có tác dụng trong chiến lược xoá đói giảm nghèo ở nông thôn ta hiện nay. Bù lại, các nhà khoa học phải được thưởng xứng đáng. Từ đó tạo động lực thu hút các nhà khoa học, các cán bộ, kỹ thuật viên nông nghiệp hoạt động đóng góp cho nông nghiệp.
Về người nông dân:
Khi chúng ta coi trọng phát triển nông nghiệp, thì người nông dân phải được chú ý đầu tiên, nông thôn nước ta đang biến đổi nhiều về mặt hình thức kinh tế, về cơ cấu thành phần, về sự phân tầng thu nhập, về sự phát triển của lực lương sản xuất và tác đồng của cơ chế thị trường. Tất cả các yếu tố đó sẽ có thể làm thay đổi cơ cấu nông thôn. Để có chính sách xã hội phù hợp với nông thôn, phải quán triệt quan điểm “dân giàu, nước mạnh” đi đôi với xoá đói giảm nghèo theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì giàu, người khá thì giàu thêm”.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước, giai cấp nông dân là giai cấp dễ bị tổn thương trong các mặt yếu của chính sách, chính vì vậy mà lợi ích của họ luôn phải cần phải đặt lên hàng đầu. Quan điểm mà Nhà nước cần phải quán triệt dựa vào sức dân để lo cho dân.
Nhà nước dần hướng người dân theo chế độ hợp tác xã mới (trên cơ sở tự nguyện). Trong điều kiện Luật hợp tác xã đã ra đời, hợp tác Nhà nước và hộ nông dân hay giữa các hộ nông dân với các nhà tư nhân cần phải được mở rộng để sản phẩm nông nghiệp làm ra được tiêu thụ kịp thời có lợi cho nông dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0083.doc