Lời nói đầu
1. Sự cần thiết của đề tài :Vai trũ của hệ thống NHTM Việt Nam trong nền kinh tế thị trường đó được khẳng định từ khi hệ thống NHVN chuyển sang hệ thống Ngân hàng hai cấp. Hệ thống NHTM là lực lượng nũng cốt trong hệ thống cỏc tổ chức tớn dụng VN. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTMVN không ngừng đổi mới, đa dạng hoá các loại hỡnh dịch vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi nền kinh tế ngày càng có xu hướng mở cửa, nền tài chính quốc gia từng bước hoà nhập vào hệ thống tài chính quốc tế thỡ hệ thống NHTMVN lại bộc lộ rất nhiều yếu kộm. Sự yếu kộm ở đây không chỉ là sự yếu kém về công tác quản lý, cơ cấu tổ chức mà cũn nguy hại hơn là sự yếu kém về tỡnh hỡnh tài chớnh, một trong những điều kiện quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của Ngân hàng. Nếu những yếu kém trên không được khắc phục ngay thỡ hệ thống NHTMVN khụng những khụng đảm nhận tốt vai trũ trung gian tài chớnh mà cũn cú nguy cơ phá sản, đe doạ đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu hoạt động của hệ thống NHTMQD là bộ phận đóng vai trũ chủ đạo trong hệ thống các NHTMVN, để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn mới là việc làm cần thiết.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đó chọn đề tài "Hệ thống NHTMQD ở VN- Thực trạng và giải pháp" để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn :
Cho đến nay đó cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu về hoạt động của các ngân hàng thương mại của các tác giả trong nước và quốc tế. Điển hỡnh là một số đề tài nghiên cứu như :
- Đề tài :"Những vấn đề cơ bản về hoàn thiện các tổ chức tín dụng ở Việt nam ."
Mó số KNH/95-08-02 - Ngõn hàng nhà nước Việt nam 12/2001.
Do tiến sĩ Lê Đỡnh Thu và Nguyễn Đại Lai là chủ nhiệm Đề tài
- Đề tài : "Thiết lập các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh và bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại Việt nam"
Mó số KNH 2000-4 - Ngõn hàng nhà nước Việt nam 2001
Do tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa là chủ nhiệm đề tài
- Đề tài : "Nghiên cứu giải pháp thực hiện chiến lược tổng thể phát triển ngành ngân hàng Việt nam giai đoạn 2001-2010"
Mó số KNH 99-06 - Ngõn hàng nhà nước Việt nam 12/2001
Do Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, Tiến sĩ Phạm Thuý Ngọc và MA Nguyễn Sơn Tường làm chủ nhiệm đề tài
Ngoài ra, cũn cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu khỏc được công bố trên các tạp chí khoa học. Tuy nhiên, các công trỡnh này mới chỉ dừng lại ở khớa cạnh phõn tớch cỏc nghiệp vụ kinh doanh của NHTM hay về một khớa cạnh trong hoạt động của NHTM. Việc tập trung nghiên cứu một cách hoàn chỉnh cả lý luận và thực tiễn về hệ thống NHTMQD ở VN cũn chưa được chú ý đúng mức.
3. Mục đích nghiên cứu :
- Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD trong thời gian gần đây, qua đó làm rừ những thành tựu đó đạt được, những hạn chế và những vấn đề đang đặt ra đối với hệ thống này. Luận văn cố gắng đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTMQDVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu : Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của hệ thống NHTMQD với tư cách là bộ phận chủ chốt của hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của hệ thống NHTMQD thời kỳ đổi mới kinh tế, đặc biệt là từ sau khi có pháp lệnh Ngân hàng.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu các hoạt động tác nghiệp của NHTMQD, cũng như không đi sâu phân tích từng NHTMQD mà chỉ quan tâm đến từng NHTMQD trong chừng mực góp phần làm rừ thực trạng hoạt động của toàn bộ hệ thống NHTMQD.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Gắn với đối tượng nghiên cứu của đề tài, luận văn chú trọng một số phương pháp cụ thể như phương pháp kết hợp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê so sánh, dự báo .
6. Những đóng góp khoa học của luận án:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về NHTM trong nền kinh tế thị trường
- Đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD hiện nay, chỉ ra những hạn chế của hệ thống này trong quá trỡnh phát triển.
- Đề xuất các quan điểm và các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTMQD trong giai đoạn mới.
7. Bố cục của luận văn :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động của các NHTMQD ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTMQD trong giai đoạn mới.
104 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả, phù hợp với các điều kiện của Việt nam là điều rất cần thiết. Việc xử lý nợ không có hiệu quả một cách nhanh chóng và toàn diện phải trở thành một chương trình hành động của Chính phủ và của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam.
Kể từ năm 1999 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã phối hợp với nhiều Bộ, Ngành, các tổ chức Quốc tế để tổ chức nhiều cuộc hội thảo về việc đưa ra các biện pháp làm “sạch “ bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân hàng thương mại mà trong đó việc giải quyết các khoản nợ không có hiệu quả là vấn đề trung tâm .
Để có thể giải quyết tốt vấn đề này, điều trước mắt cần phải làm đối với bất kỳ ngân hàng thương mại nào là phải tiến hành phân loại chính xác các khoản nợ không có hiệu quả, trên cơ sở đó có thể xác định mức dự phòng hợp lý, tránh cho các ngân hàng rơi vào tình thế bị động trong việc giải quyết nợ.
A/ Phân loại chính xác các khoản nợ không có hiệu quả
Việc phân loại các khoản nợ không có hiệu quả trong các NHTM Việt nam hiện nay là không rõ ràng, không tuân theo tiêu thức chuẩn của quốc tế, vì vậy rất khó cho các nhà hoạch định chính sách khi xác định mức chi phí, quy mô hành động để có thể xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng.
Các NHTM Việt nam đã thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng trên cơ sở phân loại nợ theo quyết định 48 của Chính phủ. Theo quyết định 48 thì các khoản nợ phân làm hai loại: Nợ trong hạn (nhóm 1), nợ quá hạn (nhóm 2,3,4). Trong các NHTMQD, các khoản vay được phân loại thành nợ “trong hạn” và “quá hạn” phụ thuộc vào việc nợ gốc đã được thanh toán hay chưa. Việc thanh toán nợ lãi và chất lượng tài sản thế chấp (nếu có) không được tính đến khi phân loại theo cách này.
Khi nói đến các khoản nợ quá hạn, người ta thường phân ra khoản nợ nào là nợ khó đòi, khoản nợ nào là khoản nợ có nguy cơ bị mất mát. Song theo quyết định 48 thì khó có thể bóc tách được các loại nợ này.
Nhìn chung việc phân loại các khoản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại chưa được thực hiện chặt chẽ và chưa tuân thủ các tiêu chí phân loại nợ của quốc tế, thông thường dựa trên hai tiêu chí sau:
- Chưa trả gốc và lãi
- Giá trị thực của các tài sản thế chấp so với giá trị ghi sổ của khoản vay
Chính vì thế việc trích lập dự phòng nợ không có hiệu quả tại các NHTM còn thiếu chính xác, khiến các ngân hàng thương mại rơi vào thế bị động trong việc xử lý các khoản nợ.
Theo quy định của uỷ ban Basle khi tiến hành kiểm tra giám sát hoạt động của ngân hàng, các giám sát viên cần phải yêu cầu các ngân hàng phân biệt rõ ràng 3 loại cơ bản của nợ không có hiệu quả, đó là các khoản nợ thấp hơn tiêu chuẩn, đáng ngờ, mất mát.
Kinh nghiệm phân loại nợ của một số nước theo yêu cầu của uỷ ban Basle cho thấy các điều kiện phân loại nợ thấp hơn tiêu chuẩn được quy định nghiêm ngặt hơn ở các quốc gia có thị trường mới nổi.Việc xác định khoản vay nếu chỉ dựa vào việc thanh toán bị quá hạn sẽ không phản ánh đúng bản chất .Việc thanh toán quá hạn chỉ được xem là điều kiện đủ chứ không phải là điều kiện cần khi phân loại các khoản nợ vào nhóm đáng ngờ. Để xác định đúng bản chất của các khoản vay, theo quy định quốc tế thì cần phải dựa vào tình hình tài chính, việc phân loại tín dụng, tương lai của các con nợ , giá trị của các tài sản thế chấp... Đây cũng là những điều không được đề cập đến trong việc phân loại nợ trong hệ thống ngân hàng Việt nam. Chính vì thế trong thời gian tới để có thể thực hiện lành mạnh hoá tình hình tài chính của các NHTM, điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm là điều chỉnh dần dần cách thức phân loại tài sản sao cho phù hợp với điều kiện của Việt nam , và tiêu chuẩn quốc tế, cụ thể là:
-Việc phân loại nợ cần phải dựa vào việc thanh toán trả lãi và vốn vay.
-Việc phân loại cần phải căn cứ vào giá trị của các tàI sản thế chấp.
-Việc phân loại cần được kết hợp với các thông tin khác, như tình hình tài chính của khách hàng, triển vọng của khách hàng trong tương lai..
-Việc phân loại cần đưa ra các tiêu thức nhằm xác định rõ ràng như thế nào là nợ khó đòi, như thế nào là những khoản nợ có khả năng mất mát lớn..
Việc phân loại chính xác các khoản nợ không có hiệu quả sẽ làm giảm chi phí, thúc đẩy nhanh quá trình lành mạnh hoá tài chính, đặc biệt sẽ giúp cho các ngân hàng có thể trích lập dự phòng thích hợp đối với các khoản vay, giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
B/ Nhanh chóng hoàn thiện mô hình xử lý nợ không có hiệu quả
* Tạo điều kiện thuận lợi cho mô hình công ty quản lý tài sản-AMC (asset managemant company) hoạt động.
Hai thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng của nhiều nước trên thế giới cũng như trong khu vực đã lâm vào hiểm hoạ lớn: nợ không có hiệu quả ở mức cao, làm suy yếu hệ thống ngân hàng, là nguy cơ đối với nền kinh tế và có nhiều nước rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong tình thế đó, nhiều nước đã phải lựa chọn phương án thích hợp để ngăn ngừa, xử lý và khắc phục.
Một trong các phương án này đã làm xuất hiện mô hình mới, khái niệm mới:
Công ty quản lý nợ và tài sản-AMC. AMC ở nhiều nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung đều có mục tiêu duy nhất là giải quyết nợ khó đòi tồn đọng, tối đa hoá việc xử lý các khoản nợ khó đòi tồn đọng, nhằm giảm thiểu chi phí của việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, đồng thời góp phần ổn định hệ thống ngân hàng và ổn định nền kinh tế. Với mục tiêu đó, chức năng của AMC là quản lý và thanh lý các khoản nợ không sinh lời của các ngân hàng, phục hồi càng nhiều càng tốt để thu hồi được giá trị tối đa từ các nguồn lực đã trao cho AMC. Vì thế AMC được giao những thẩm quyền và kỹ năng đặc biệt để hoàn thành sứ mệnh trong một thời gian ngắn bằng cách mua, quản lý, tài trợ... nhằm tối đa hoá giá trị của các khoản nợ, tài sản. AMC không tồn tại mãi mãi, khi đã đạt được mục tiêu thì sẽ chấm dứt hoạt động (thông thường từ 7 đến 10 năm) và ở hầu hết các nước, AMC là một định chế không tạo ra lợi nhuận.
Trên thực tế người ta đã đưa ra 5 phương án xây dựng AMC:
1-Thành lập một AMC duy nhất ở Trung ương
2-Thành lập AMC như một công ty con của ngân hàng
3-Hợp đồng uỷ thác cho bên thứ ba
4-Thành lập một công ty mua bán nợ nhanh
5-Từng ngân hàng lập một bộ phận tự xử lý các khoản nợ không có hiệu quả
ARTHUR ANDERSEN, một công ty tư vấn hàng đầu thế giới về AMC đã đưa ra kết luận về sự thành công của các phương án như sau: phương án 3,4,5 đạt kết quả thấp, phương án 2 đạt trung bình, phương án 1 đạt kết quả tốt nhất do có thẩm quyền đặc biệt và chức năng đặc biệt để xử lý.
Khi hệ thống ngân hàng của bất kỳ một quốc gia nào có nguy cơ bị đe doạ bởi tỷ lệ nợ không có hiệu quả cao, thông thường từ 10-15% thì việc thành lập AMC sẽ là biện pháp hữu hiệu để xử lý và ngăn chặn tình trạng này.
Thực tế cho thấy tại Mỹ những năm 1989-1995 do nguyên nhân từ phía khách hàng vay và do quản lý tín dụng yếu kém, 2 hệ thống ngân hàng thương mại và ngân hàng tiết kiệm đã lâm vào tình trạng khủng hoảng. Mỹ đã phải ban hành một luật riêng cho ra đời công ty tín thác (RTC) để giải quyết khó khăn của các ngân hàng. RTC tiếp quản các khoản nợ khó đòi, quản lý các tài sản thế chấp, làm tăng tối đa giá trị để bán, nhằm mục đích thu hồi vốn. Thành lập năm 1989, RTC có lúc đã tiếp quản tài sản lên tới 100 tỷ USD. Kết quả đã xử lý thành công và kết thúc sau 7 năm hoạt động. Tại Thuỵ Điển, Na Uy, Phần lan, các nước vùng Ban tích, vào những năm 1992-1995, hệ thống ngân hàng cũng đã lâm vào tình trạng nợ quá hạn khó đòi tăng cao và cũng đã phải lựa chọn phương án xây dựng AMC để xử lý. Kết quả là hệ thống ngân hàng đã phục hồi lại bình thường.
Tại Đông á, từ năm 1997 đến nay, nhiều nước (Indonexia, Malaysia, Tháilan, Hàn Quốc,Trung Quốc..) đã lâm vào khủng hoảng tài chính –tiền tệ, hệ thống ngân hàng chồng chất nợ quá hạn khó đòi. Nhận thức đây là vấn đề quan trọng của Quốc gia chứ không còn chỉ là của hệ thống Ngân hàng, các nước đã nhanh chóng thành lập AMC dưới nhiều hình thức khác nhau và đã đem lại những kết quả nhất định.Ví dụ như ở Tháilan, mỗi ngân hàng thương mại lập ra một bộ phận quản lý nợ (asset management division-AMD) hoặc bộ phận quản lý nợ đặc biệt (Special asset management-SAM) để chuyên trách xử lý các khoản nợ xấu. Chính phủ thành lập công ty quản lý tài sản-AMC để chuyên trách xử lý cho ngân hàng thuộc sở hữu chính phủ hoặc thành lập AMC cấp quốc gia (ở TW) để xử lý nợ khó đòi của hệ thống NHTM. Tương tự như Thái lan, tại Malaysia mpỗi ngân hàng phải tự xử lý nợ xấu, ngoài ra Chính phủ cũng đã thành lập một AMC cấp quốc gia tại trung ương có tên là Pegurusan Danaharta National Berhad (DANAHARTA).
Việc thành lập AMC đã giúp cho một số nước trong khu vực Đông á xử lý xong về cơ bản như Thái lan, Hàn quốc, một số nước vẫn tiếp tục duy trì đã đem đến những kết quả rất khả quan trong quá trình làm sạch bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Vì vậy, AMC cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu được đề xuất để giải quyết vấn đề nợ không có hiệu quả trong hệ thống ngân hàng Việt nam. Nét đặc thù của việc thành lập AMC ở Việt nam là các khoản nợ không có hiệu quả gồm các khoản nợ có tài sản bảo đảm lẫn các khoản nợ không có tài sản bảo đảm, chủ yếu là nợ của các DNNN vẫn chưa được xử lý dứt điểm, nên đến nay cần thống nhất đưa vào một đầu mối AMC để giải quyết dứt điểm.
* Cơ chế xử lý nợ tồn đọng
AMC của các NHTMQD hoạt động theo nguyên tắc nhận các khoản nợ tồn đọng có bảo đảm và không có bảo đảm của các NHTMQD tính đến thời điểm 31/12/2000 theo giá trên sổ sách. Các công ty cơ cấu lại nợ theo nguyên tắc thị trường. Thời gian dự kiến xử lý nợ tồn đọng làm sạch bảng cân đối trong thời gian từ 2-3 năm. Nợ tồn động được chia thành 3 loại sau:
- Nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm
- Nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu (doanh nghiệp đã giải thể , thanh lý, phá sản , cá nhân đã chết , mất tích..)
- Nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và con nợ còn tồn tại đang hoạt động
Công ty quản lý nợ có nhiệm vụ bán tài sản đảm bảo theo giá thị trường để thu hồi nợ đối với những trường hợp nợ có tài sản bảo đảm, những trường hợp nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ còn tồn tại đang hoạt động thì công ty quản lý nợ phải tận thu để thu hồi nợ, nếu khách hàng không trả được nợ thì phải thanh lý doanh nghiệp để thu hồi nợ.
Trong trường hợp công ty bán tài sản bảo đảm (đối với nợ có tài sản bảo đảm) và thanh lý doanh nghiệp để thu hồi nợ (đối với nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ còn tồn tại đang hoạt động) mà giá trị khoản vay cao hơn giá trị bán cũng như giá trị thanh lý thấp hơn giá trị các khoản vay thì xử lý theo hướng sau:
+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay chính sách thì khoản chênh lệch được bù đắp bằng nguồn tài chính của Chính phủ.
+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay thông thường thì bù đắp khoản chênh lệch được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro được trích của các NHTM
Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu thì khoản nợ này sẽ được xoá theo hướng nếu cho vay theo chính sách thì được bù đắp bằng nguồn tài chính của Chính phủ, còn cho vay theo thông thường thì bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro của các NHTM.
* Nguồn vốn xử lý nợ tồn đọng
- Nguồn dự phòng rủi ro được trích lập được trích lập hàng năm của các ngân hàng.
- Nguồn từ NHNN đã tái cấp vốn trước đây cho các NHTM theo các mục tiêu như cho vay để cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, khắc phục thiên tai, cho vay theo chỉ định của Chính phủ.
- Nguồn từ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế cho vay cơ cấu lại nợ NHTMQD.
- Chính phủ cho phép NHNN phát hành trái phiếu có lãi suất cố định để xử lý nợ tồn đọng cho các ngân hàng.
AMC là một định chế có thẩm quyền đặc biệt, nên sự ra đời của AMC đòi hỏi Chính phủ cũng như các Bộ, các Ngành liên quan phải hết sức chú tâm, tạo lập một cơ sở pháp lý vững chắc cho AMC hoạt động. Ở Việt nam hiện nay, các điều kiện ban đầu như cơ sở pháp lý, cơ chế hoạt động, xác định chức năng quản lý còn rất yếu kém và các quan điểm về thành lập AMC chưa rõ ràng, thống nhất. Đây là những rào cản lớn nhất đối với việc thành lập AMC. Chính vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các Bộ, Ngành liên quan cần tập trung nỗ lực để giải quyết các tồn tại này, nhanh chóng tạo điều kiện cho AMC hoạt động có hiệu quả, tránh tình trạng đề xuất nhưng không thực hiện triệt để, không tạo được vị thế pháp lý cho AMC. Thực tế đã chỉ ra rằng, do vị thế pháp lý của tổ chức AMC ở một số nước rất yếu nên đã không thành công. Ví dụ như Philipin, AMC ra đời được 17 năm nhưng đến nay coi như không “tồn tại”, ở Mexico, AMC đã hoạt động được gần 7 năm nhưng số tài sản khổng lồ trị giá gần 60 tỷ USD vẫn chưa giải quyết xong... Do đó vấn đề đặt ra ở đây là cần phải nghiên cứu kỹ, xem xét khả năng của mình xem có đủ điều kiện để đảm bảo cho tổ chức AMC hoạt động có hiệu quả hay không.[19];[27];[33];[34]
3.2.1.2 Tăng vốn tự có cho các NHTMQD
Song song với việc giải quyết nợ xấu, lành mạnh hoá tài chính của các NHTMQD là việc tăng cường khả năng về vốn tự có. Tăng vốn tự có cho các NHTM là vấn đề bức bách đối với các NHTMQD vì:
- Vốn là nhân tố quyết định sức mạnh tài chính của các NHTM. Tuy nhiên trên thực tế nguồn vốn tự có của hệ thống NHTM hiện nay là rất thấp (chiếm từ 3%-5% so với tổng tài sản). Có thể thấy một nghịch lý trong nền kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay, đó là tiềm lực tài chính của khu vực tài chính lại thua xa khu vực công nghiệp. Thông thường theo kinh nghiệm các nước ( đặc biệt là các nước công nghiệp ), trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, tư bản tài chính phải có mức tích luỹ lớn hơn nhiều tư bản công nghiệp mới có thể tạo điều kiện để thực hiện cách mạng công nghiệp và tiến trình công nghiệp hoá. Trong khi đó tại Việt nam vốn tự có của các NHTM lại quá nhỏ, tổng vốn tự có của 4 NHTMQD lớn nhất Việt nam chỉ vào khoảng 5.600 tỷ VNĐ. Nguồn vốn tự có quá nhỏ bé đã cản trở các ngân hàng trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh, cho vay, đầu tư các dự án ....làm gia tăng “sức ỳ” của các NHTM trong việc dựa dẫm vào sự bao cấp của nhà nước, dễ gây ra sự mất an toàn trong thanh toán, cản trở quá trình hội nhập quốc tế và khu vực của các ngân hàng.
- Theo quy định cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có. Với mức vốn tự có hiện nay, các NHTMQD không đủ sức tài trợ cho những dự án lớn như dầu khí, điện lực, hàng không, bưu chính viền thông.. làm giảm khả năng cạnh tranh của các NHTMQD.
Những yêu cầu đặt ra từ quá trình phát triển của nền kinh tế cho thấy cần phải có nhiều biện pháp để củng cố nâng cao vai trò của hệ thống ngân hàng trong quá trình phát triển, tăng tiềm lực tài chính cho các NHTMQD xứng đáng với tầm vóc của mình cũng như đáp ứng được nhu cầu xã hội. Vì vậy, Chính phủ, Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung thêm vốn điều lệ cho các NHTMQD nhằm tạo động lực cho hoạt động của các ngân hàng, giảm bớt rủi ro và đáp ứng được với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo tính toán để đảm bảo tỷ lệ an toàn tối thiểu hiện nay theo chuẩn mực quốc tế là 8% (tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản có ) thì số lượng vốn cấp bổ sung cần được xử lý là 10.000 tỷ đồng và ước tính để đảm bảo mức tăng dư nợ bình quân ở mức 18%/năm thì mức vốn tối thiểu của các NHTMQD phải đạt 23.000 tỷ vào cuối năm 2003.
Chính vì thế việc đưa ra những giải pháp hiệu quả để tăng vốn tự có của các NHTM trong thời gian tới là điều cần thiết .
Tuy nhiên để đảm bảo cho việc tăng vốn tự có cho các NHTM đạt hiệu quả, Chính phủ cần phải xác định rõ ngân hàng nào là ngân hàng đã đủ mạnh không cần phải cấp thêm vốn , ngân hàng nào có thể tồn tại nếu được cấp thêm vốn, và ngân hàng nào không có khả năng tồn tại ngay cả khi có sự trợ giúp mạnh mẽ từ phía Chính phủ. Việc xác định này không đơn giản chút nào và việc sử dụng các chỉ tiêu được dùng trong hoạt động kiểm toán để phân biệt các ngân hàng nào cần phải có sự trợ giúp được xem là phương pháp lành mạnh nhất. Các giám sát viên của Indonexia dựa vào các tỷ lệ an toàn vốn, ở Thuỵ sĩ người ta sử dụng chương trình máy tính để dự đoán về sự phát triển tài chính của các ngân hàng trong vòng 3 hoặc 5 năm tới, đây sẽ là cơ sở cho việc phân loại các ngân hàng cần hỗ trợ tại Thuỵ sĩ. Bên cạnh các tiêu thức được xem là có tính quyết định, khi phân loại người ta cũng sử dụng một tiêu thức quan trọng, đó là chất lượng của quá trình quản lý hoạt động ngân hàng.
Theo kinh nghiệm của các nước, việc tăng vốn cho các ngân hàng thường được thực hiện thông qua :
+ Khu vực nhà nước tham gia góp vốn cổ phần
+ Chuyển nhượng cổ phần hoặc các khoản nợ
+Tư nhân hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước
Trong 3 hình thức trên thì việc đưa vốn vào các ngân hàng từ các khu vực của Nhà nước là phổ biến nhất. Chính phủ có thể tăng vốn dưới hình thức góp vốn cổ phần. Đây được xem như là vốn cấp 1, nguồn vốn này đảm bảo cho Chính phủ có thể tạo đủ điều kiện cho các ngân hàng thực hiện việc tái cơ cấu thực sự, không làm gia tăng gánh nặng nợ nần đối với các ngân hàng yếu kém, và cuối cùng thì chính phủ có quyền được hưởng việc phân chia phần giá trị gia tăng khi ngân hàng được hồi phục. Tuy nhiên, trên thực tế Chính phủ thường cấp vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu phụ thuộc. Theo cách thức này thì Chính phủ sẽ không phải thực hiện vai trò điều hành, kiểm soát ngân hàng và chi phí sẽ ít hơn. Cổ phiếu ưu đãi cũng cho phép Chính phủ có thể tham gia chia lợi nhuận sau khi ngân hàng đó được phục hồi bởi vì các chứng khoán này được phân loại sau các khoản tiền gửi và các khoản tín dụng khác. Cách thứ hai là Chính phủ có thể mua lại các cổ phiếu hoặc các khoản nợ được phát hành bởi ngân hàng. Việc bơm vốn dưới hình thức này thường được thực hiện thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ.
Quá trình tăng vốn cho các ngân hàng được thực hiện bới các tổ chức riêng biệt của Chính phủ. Ví dụ như ở Mexico, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ mua lại các khoản nợ phụ thuộc có thể chuyển đổi ra vốn nếu như vốn của ngân hàng bị suy yếu sau 5 năm, hoặc qua yếu kém. Đặc điểm này đã khuyến khích các ngân hàng phải tích cực ngăn chặn sự yếu kém của nguồn vốn và phải cố gắng trả lại các khoản nợ này trước 5 năm. Đại lý bảo hiểm tiền gửi sẽ tài trợ việc tăng vốn cho các ngân hàng bằng các khoản vay từ Ngân hàng trung ương. Tại Mexico, năm 1995, 5 ngân hàng đã nhận thêm vốn thông qua hình thức này và đã có thể mua lại các khoản nợ phụ thuộc trong 2 năm. Ở Malaysia, một tổ chức đặc biệt -Danamodal đã được thiết lập, được tài trợ vốn từ NHTW trong đó chủ yếu là từ việc phát hành các trái phiếu coupon bằng 0 được đảm bảo bởi Chính phủ. Một phần trái phiếu này được bán cho các ngân hàng thương mại trong nước, Danamodal giữ vai trò quản lý trong các ngân hàng này để tìm kiếm các phương thức cải tiến hiệu quả hoạt động và tìm kiếm các thành viên có khả năng sát nhập.
Các hình thức được áp dụng để tăng vốn tự có cho các NHTM
Ở Việt nam hiện nay, việc cấp thêm vốn cho các NHTMQD được quyết định bởi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sẽ là người thực hiện quyết định đó. Các hình thức để bơm vốn vào hệ thống ngân hàng chưa được phong phú, vẫn được thực hiện bởi một tổ chức duy nhất của chính phủ là Ngân hàng nhà nước. Nguồn để tăng vốn tự có là:
- Chính phủ và Bộ tài chính cho phép NHTMQD giữ lại phần thu thuế sử dụng vốn để tăng vốn tự có
- Chính phủ cho phép chuyển phần vốn vay từ ngân hàng thế giới và quỹ tiền tệ quốc tế theo chương trình tái cơ cấu cho các NHTMQD và cho phép các ngân hàng này không phải nộp thuế sử dụng vốn hàng năm để các ngân hàng nhận vốn vay để tăng vốn tự có được sử dụng khoản thuế vốn này hoàn trả khoản vay theo các điều kiện của quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng thế giới.
- Ổn định mức nộp ngân sách (lấy năm 2000 làm mốc) trong 3 năm để khuyến khích các NHTMQD phấn đâú vượt chỉ tiêu lợi nhuận, cho phép lấy phần vượt để bổ sung vốn tự có.
- Khuyến khích các NHTM tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh để bổ sung vốn tự có
- Cho phép tăng vốn tự có bằng phương thức bán cổ phần ưu đãi ( không tham gia quản lý) cho cán bộ công nhân viên với cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Lộ trình tăng vốn tự có như sau: Việc cấp vốn bổ sung cho các NHTMQD dự kiến sẽ được chia thành các giai đoạn trong thời gian 3 năm với các điều kiện ràng buộc theo kết quả thực hiện các hành động chủ chốt và các chỉ tiêu hoạt động chủ chốt đối với từng năm của các NHTMQD như nêu trong mỗi kế hoạch cơ cấu lại các NHTMQD. Nguồn vốn của Chính phủ để thực hiện cấp vốn bổ sung sẽ được cấp cho từng NHTMQD theo từng năm với điều kiện các NHTMQD đáp ứng yêu cầu về kết quả hoạt động đã được nêu trong từng kế hoạch cơ cấu lại.[17];[46]
3.2.2 Quản lý rủi ro
Ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý nó còn khá mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng, đồng thời hoạt động trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề quản lý rủi ro ngân hàng đang là vấn đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả nước. Bộ máy ngân hàng kém năng động, rủi ro càng dễ phát sinh khiến nó không thể hiện được chức năng vốn có của mình, thiệt hại cho nền kinh tế sẽ xảy ra.
Rủi ro ngân hàng không chỉ là nỗi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một nước mà còn là nỗi ám ảnh chung của các hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra, ngay cả đối với các ngân hàng giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán. Vì thế, rủi ro ngân hàng và quản lý nó luôn luôn là những vấn đề thời sự cho mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ.
Hệ thống quản lý rủi ro tại các NHTMQD ở Việt nam trong vài năm gần đây đã được quan tâm ở một mức độ nhất định, nhưng do những hạn chế có tính cơ chế và kỹ thuật hệ thống này chưa thể đáp ứng được đòi hỏi phức tạp của một ngân hàng thương mại hiện đại hoạt động trong môi trường nhiều rủi ro và thiếu hoàn chỉnh như ở Việt nam.
Trên thực tế hoạt động của các NHTM Việt nam được che chắn bởi hàng loạt các chính sách, cơ chế của NHNN như cơ chế trần lãi suất, cơ chế quản lý ngoại tệ, cơ chế tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng cho một khách hàng, các quy định về bảo lãnh thế chấp v.v.. nên rủi ro trong hoạt động ngân hàng chưa lớn, tập trung chủ yếu vào rủi ro thị trường- từ phía khách hàng. Tuy nhiên, trong những năm tới cùng với quá trình tự do hoá tài chính, mức độ rủi ro ngày càng tăng, đặc biệt là rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thị trường và rủi ro thanh khoản. Vì vậy, cùng với việc nâng cấp hệ thống thông tin quản lý các NHTMQD cần xây dựng chiến lược và quy trình xử lý rủi ro cho toàn bộ hoạt động. Những rủi ro nói chung trong hoạt động ngân hàng cần được trích lập quỹ bù đắp rủi ro ngay khi bắt đầu thực hiện sản phẩm.
3.2.2.1 Quản lý rủi ro thanh khoản
Sự an toàn của các ngân hàng vẫn luôn luôn là mối quan tâm của nhiều người, từ các giới chức điều hành đến các nhà kinh doanh, các cổ đông ngân hàng và các công dân của mỗi nước. Vì những vụ phá sản ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế hơn bất cứ vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào khác.
Mặc dầu khó nhận ra một cách chính xác các nguyên nhân của những vụ phá sản ngân hàng, lịch sử của những vụ phá sản cho thấy, các điều kiện mất khả năng thanh toán của ngân hàng cũng là một nguyên nhân góp phần rất quan trọng. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng vì ngân hàng phải bán tức thời ngay cả số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ vì ngân hàng không đủ thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện để thương lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp một số tài sản với giá thấp khiến cho khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong trường hợp rủi ro thanh khoản càng ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những người gửi tiền đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản.
Rủi ro thanh khoản là rủi ro riêng có của ngân hàng và liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp ngân hàng. Nó là loại rủi ro xảy ra mà ngân hàng không lường trước được. Vì vậy để tránh rủi ro thanh khoản có thể xảy ra các NHTM cần phải:
- Tăng cường khả năng nghiên cứu và phân tích kinh tế để phòng ngừa từ xa khả năng thanh khoản.
- Xây dựng quy trình phân tích mức độ thanh khoản của các chi nhánh, đồng thời phải thay đổi hệ thống tính toán thanh khoản theo hạn mức cố định hiện nay bằng việc tính thanh khoản theo luồng chu chuyển trong hoạt động tín dụng.
- Đa dạng hoá các loại khách hàng tiền gửi để ổn định thanh khoản. Đối với các khách hàng lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến thanh khoản cần có cam kết chặt chẽ về tiến độ thực hiện nghiệp vụ tránh biến động lớn đến quản lý thanh khoản.
- Có kế hoạch dự phòng thanh khoản hợp lý.
3.2.2.2 Quản lý rủi ro lãi suất
Lãi suất cho vay của ngân hàng khác với lãi suất của các công cụ trên thị trường tiền tệ, chẳng hạn như ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là chúng được đàm phán giữa người vay và ngân hàng hơn là được quyết định trong một thị trường được tổ chức sẵn. Vì là kết quả của phương pháp xác định giá cả tín dụng được đàm phán, các mức lãi suất cho vay của ngân hàng không đồng nhất. Chúng phản ánh cả đặc tính cá biệt của khoản tín dụng lẫn cung cầu về tín dụng trên thị trường vốn và tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố : tiền cho vay, thời hạn, quy mô cho vay, chi phí thực hiện và giám sát khoản cho vay, số dư tiền gửi của người vay và các chứng khoán. Hơn nữa, lãi suất còn bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và các nguồn vốn khác, lãi suất khống chế tối đa, và thái độ của các giám đốc ngân hàng và người vay, liên quan đến các điều kiện kinh tế trong tương lai.
Rủi ro lãi suất là những rủi ro mà các chủ thể kinh tế gặp phải khi có biến động về lãi suất. Tất cả các khoản cho vay và nợ dù với lãi suất cố định hay biến động đều có thể gặp rủi ro. Nếu như toàn bộ các chủ thể kinh tế đều có nguy cơ gặp rủi ro, thì tất nhiên các tổ chức tín dụng là những đơn vị dễ gặp rủi ro nhất do cơ cấu bảng cân đối tài sản của các tổ chức này. Rủi ro lãi suất là rủi ro mà ngân hàng phải chịu khi có các khoản cho vay hoặc nợ theo lãi suất cố định, do diễn biến lãi suất về sau gây ra. Rủi ro này ảnh hưởng đến kết quả lỗ lãi của ngân hàng. Một ngân hàng có thể đề phòng bằng cách đánh giá rủi ro lãi suất qua từng nghiệp vụ một và thực hiện các nghiệp vụ bảo chứng.
Để giảm thiểu những rủi ro lãi suất các ngân hàng thương mại cần phải thực hiện các bước sau:
- Thống nhất các mẫu báo cáo chi tiết về rủi ro lãi suất và quy trình phân tích biến động lãi suất theo hướng định lượng hoá được mức rủi ro này, trên cơ sở đó có giải pháp tăng hoặc giảm lãi suất khi thấy cần thiết.
- Có quy chế bắt buộc về đánh giá cụ thể rủi ro lãi suất đối với một sản phẩm tín dụng hoặc dịch vụ trước khi đưa ra thị trường. Xây dựng quy trình dự báo biến động lãi suất trong nước và quốc tế, trên cơ sở đó áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.
3.2.2.3 Quản lý rủi ro hối đoái
Trong môi trường toàn cầu hoá tài chính- ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng càng ngày càng phải đối mặt với vấn đề rủi ro ngoại hối nhiều hơn. Những rủi ro này có thể phát sinh thông qua các hoạt động như giao dịch ngoại hối, cho vay bằng ngoại tệ, mua các chứng khoán được phát hành bằng ngoại tệ hoặc là phát hành các chứng khoán nợ bằng ngoại tệ để huy động vốn.
Chính vì vậy một ngân hàng giao dịch ngoại hối phải giới hạn việc tham gia vào các loại tiền tệ khác nhau và thực hiện một khối lượng kinh doanh vừa đủ để các thiệt hại có thể bù đắp bằng các lợi tức. Hơn nữa, ngân hàng phải cảnh giác không chỉ với những thay đổi tỷ giá hối đoái, mà cả với các nguyên nhân của những thay đổi ấy để có thể áp dụng các biện pháp giảm bớt rủi ro.
Các biện pháp quản lý rủi ro ngoại hối là:
- Thiết lập hệ thống các hạn mức về hoạt động kinh doanh hối đoái của phòng vốn cũng như cơ cấu trạng thái ngoại tệ trên bảng cân đối tài sản.
- Thiết lập hạn mức về khoản chênh lệch cho phép giữa tài sản và công nợ bằng ngoại tệ cho từng bộ phận kinh doanh.
- Thiết lập hạn mức mà các bộ phận kinh doanh có thể mua bán mà không cần báo trước phòng vốn trung ương.
- Thiết lập các hạn mức về hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong nội bộ phòng vốn trung ương bao gồm hạn mức qua ngày, qua đêm và có kỳ hạn, hạn mức cho từng đối tác kinh doanh và từng nhân viên giao dịch.
3.2.2.4 Quản lý rủi ro tín dụng
Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động chính của ngân hàng. Cho vay bao giờ cũng bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn. Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nghề ngân hàng. Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món cho vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho vay như : sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dẫu sao không một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những quy định hạn chế vào một hợp đồng cho vay. Sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định hạn chế nào loại bỏ được chúng cả. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng giống như “ngòi nổ”, mà tự mình nó, sự phá hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp, nhưng khi có những chất kích nổ sự phá hoại lan truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẽ diễn ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vì thế mỗi ngân hàng cần phải có các chính sách cho vay rõ ràng để xác định phương hướng sử dụng vốn, giảm bớt các rủi ro và duy trì các hoạt động như dự định. Chính sách cho vay của một ngân hàng nên kết hợp sự bảo đảm có thể chấp nhận được và khả năng thanh toán nợ
Để tránh được những rủi ro tín dụng có thể xảy ra các NHTM cần có những biện pháp như:
- Tổ chức nghiên cứu đánh giá tình hình hoạt động của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn, trên cơ sở đó xây dựng hạn mức tín dụng tổng hợp cho một ngành hoặc cụ thể cho từng khách hàng, đánh giá sự phù hợp của khoản tín dụng và hạn mức tín dụng, đồng thời tiến hành đánh giá lại tín dụng trước khi gia hạn vay hoặc lập lại lịch trình trả nợ.
- Phân loại các khoản vay và phương pháp lập dự phòng cho phù hợp với quy định của NHNN đồng thời nghiên cứu kiến nghị với NHNN về lĩnh vực này theo thông lệ quốc tế để kịp thời bổ sung sửa đổi.
- Xây dựng hệ thống đo lường rủi ro tín dụng, hệ thống thang điểm tín dụng phù hợp với mục tiêu lợi nhuận và khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng.
- Tổ chức đánh giá thường xuyên chất lượng tín dụng để đưa ra các biện pháp kịp thời điều chỉnh hạn mức tín dụng cho khách hàng.
- Thiết lập hạn mức bảo lãnh tín dụng cho từng khách hàng, ban hành quy trình đánh giá bảo lãnh tương tự như các khoản cho vay, thiết lập các quy trình quản lý các tài khoản ngoại bảng một cách chính xác và đầy đủ đặc biệt ở cấp chi nhánh.
3.2.2.5 Quản lý vốn
Quản lý vốn có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách tiền tệ nói chung (vĩ mô) và mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của các NHTM nói riêng (vi mô). Trong những năm qua các NHTMQD đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng cường quản lý vốn đặc biệt là các biện pháp phát triển nguồn vốn. Tuy nhiên, công tác quản lý vốn cần được nâng cấp hơn nữa trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt nhằm ổn định và phát triển thị phần, nâng cao khả năng sinh lời trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu nói trên cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau:
A/ Quản lý tài sản nợ:
Để quản lý tài sản nợ các NHTM cần tiến hành nghiên cứu phân tích toàn diện về môi trường kinh doanh, trên cơ sở đó có được những dự báo về xu hướng vận động của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tổng hợp như (GDP, tỷ lệ tiết kiệm, cán cân vãng lai, tỷ lệ cung ứng tiền..) cũng như xu hướng vận động của lãi suất, tỷ giá hối đoái để có kế hoạch phát triển nguồn vốn phù hợp.
Mặt khác các ngân hàng thương mại cần phân loại và đánh giá cơ cấu nguồn vốn, hướng biến thiên của cơ cấu vốn trên cơ sở đó xây dựng cơ chế chính sách huy động và điều hành vốn có hiệu quả nhất. Xây dựng các chỉ tiêu an toàn về huy động vốn phù hợp với cơ cấu nguồn vốn tối ưu và tốc độ tăng trưởng hiệu quả của tài sản có.
B/ Quản lý tài sản có
Hoạt động kinh doanh của khách hàng vay tiền thường rất đa dạng, trên nhiều lĩnh vực, nhiều địa bàn với những cơ hội đầu tư rất phong phú. Vì vậy việc nghiên cứu, sàng lọc, lựa chọn các dự án đầu tư có triển vọng tốt, hiệu quả cao để cho vay là yếu tố quyết định của hoạt động tín dụng. Để đạt được mục tiêu trên các NHTMQD cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau:
- Chuyên môn hoá việc cho vay hoặc đầu tư theo nhóm khách hàng, loại dịch vụ và chi tiết đến từng ngành nghề.
- Phân loại tài sản có theo rủi ro và quy định các hạn mức đầu tư phù hợp với mức độ rủi ro nhằm hạn chế nợ xấu.
- Có các quy định cụ thể về hạn chế tín dụng đối với các lĩnh vực kinh doanh rủi ro lớn và phải được thể hiện chặt chẽ trong từng hợp đồng vay vốn
- Xây dựng chiến lược hợp tác dài hạn với những khách hàng vay lớn trên cơ sở đó ngân hàng có thể đánh giá đúng đắn khả năng tài chính, tiềm năng thị trường, trình độ quản lý của khách hàng nhằm phòng ngừa những rủi ro đến với khách hàng.
- Với một số khách hàng chiến lược, ngân hàng có thể có cổ phần thích hợp, nhằm tham gia trực tiếp vào công tác quản lý hoặc giám sát được hoạt động của khách hàng.
- Sử dụng có hiệu quả hệ thống các chỉ tiêu phòng ngừa rủi ro, điều chỉnh linh hoạt các chỉ tiêu này phù hợp với nhu cầu, khả năng tài chính của khách hàng cũng như mục tiêu sinh lời của ngân hàng.
Bổ sung, sửa đổi các quy định về quản lý thanh khoản, quản lý chênh lệch lãi suất của tài sản nợ-có, quản lý vật thế chấp, quản lý bảng tổng kết tài sản phù hợp với nhu cầu phát triển mới.[2];[16];[24];[30]
3.2.3 Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng và giảm thiểu chi phí hoạt động của các NHTMQD
3.2.3.1. Tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng cường đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh
Như đã đề cập ở phần trên, hoạt động tín dụng là hoạt động giữ vị trí độc tôn trong các NHTM Việt nam. Vì thế thu nhập cuối cùng của các NHTM đã chịu sự chi phối mạnh của hoạt động tín dụng. Phương thức kinh doanh đơn lẻ này đã làm cho các ngân hàng rơi vào tình trạng “ bỏ trứng trong một giỏ”-trái ngược hẳn với chiến lược phân tán rủi ro trong kinh doanh, không phù hợp với ngân hàng hiện đại, cản trở quá trình hội nhập tài chính của hệ thống ngân hàng Việt nam. Để khắc phục được điều đó, buộc các ngân hàng phải tự nghiên cứu, đưa ra nhiều sản phẩm có hiệu quả, mạnh dạn tham gia vào các dự án lớn dưới nhiều hình thức .
Nhận thức việc phát triển sản phẩm mới là công cụ chiến lược để chiếm lĩnh thị trường trong tương lai, các NHTMQD nên tập trung phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử như Home-banking, E-banking, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, séc tín dụng... Đây được đánh giá là các hoạt động dịch vụ ngân hàng đem lại lợi nhuận cao và có mức rủi ro thấp hơn các sản phẩm ngân hàng truyền thống. Trong điều kiện vốn tự có còn quá ít thì việc phát triển các sản phẩm mới là giải pháp tối ưu, an toàn và phù hợp với xu hướng hoạt động của các ngân hàng hiện đại trên thế giới.
Xét về tổng thể, việc phát triển các sản phẩm mới còn là điều kiện bắt buộc để tiến tới khép kín các nhu cầu về lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Điều này không chỉ giúp các ngân hàng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho chính ngân hàng quản lý chắc chắn đồng vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo tính an toàn cao trong hoạt động ngân hàng.
Từ nhận thức đó các NHTMQD nên xây dựng phương hướng và mục tiêu phát triển trong thời gian tới là tiếp tục củng cố và từng bước nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thống hiện có ; chủ động lựa chọn, mở rộng, đa dạng hoá các hình thức dịch vụ mới nhằm đáp ứng được yêu cầu dịch vụ đa dạng và khép kín của khách hàng; tập trung phát triển và hoàn thiện dịch vụ ngân hàng bán lẻ và các dịch vụ ngân hàng phục vụ các khách hàng lớn, trọng điểm. Các Ngân hàng cần chú trọng tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát thực tế để có thể đưa ra được những sản phẩm mới trên thị trường
Bên cạnh đó Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện các điều kiện, tạo thuận lợi cho các ngân hàng được tham gia vào thị trường chứng khoán -thị trường luân chuyển vốn có hiệu quả nhất. Hơn nữa, quá trình hội nhập khu vực và tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá với các hiệp định song phương và đa phương làm cho các hoạt động cạnh tranh ngày càng toàn diện hơn và quyết liệt hơn. Phát triển dịch vụ ngân hàng có tính cạnh tranh cao sẽ góp phần quan trọng đến sự tăng trưởng lâu bền của ngân hàng.
3.2.3.2 Giảm thiểu chi phí hoạt động của các NHTMQD
Chi phí hoạt động của các NHTM Việt nam nhìn chung là cao hơn so với các NHTM trong khu vực, đặc biệt là các NHTMQD. Chi phí hoạt động cao sẽ dẫn đến việc hạn chế khả năng sinh lời của các ngân hàng, vì vậy việc giảm thiểu chi phí hoạt động là một vấn đề quan trọng trong chiến lược cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Để thực hiện được điều này trước hết phải áp dụng một số biện pháp sau:
- Tiến hành kiểm soát chặt chẽ hệ thống các chi nhánh, xoá bỏ hoặc sát nhập các chi nhánh không có hiệu quả
- Xác định các định mức trang bị mua sắm tài sản theo nhu cầu và phù hợp với hiệu quả kinh doanh, quản lý chi tiêu theo định mức, khuyến khích cắt giảm các chi phí không hợp lý.
- Hạn chế tối đa các khoản đầu tư, các hoạt động dịch vụ tạm thời chưa có hiệu quả.
- Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tín dụng đối với các khách hàng, doanh nghiệp có nợ quá hạn lớn và kinh doanh kém hiệu quả.[22];[34]
3.2.4 Cải tiến cơ bản mô hình tổ chức và hoạt động của các NHTMQD
3.2.4.1 Cơ cấu lại mô hình tổ chức của các NHTMQD
Cần tách riêng biệt hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương mại bằng việc thành lập độc lập một ngân hàng chính sách quốc gia thống nhất để phục vụ các đối tượng chính sách
Để cho các NHTMQD hoạt động có hiệu quả, cần chuyển mô hình tổ chức của các NHTMQD hiện nay sang mô hình tổ chức theo nhóm khách hàng và theo loại dịch vụ kinh doanh kèm theo những định chế quản lý rủi ro và quản lý tài sản có hiệu lực để khắc phục được cơ bản những mặt hạn chế nói trên của các NHTMQD. Theo hướng này, hoạt động của các NHTMQD về cơ bản tổ chức lại thành các khối, các nhốm dịch vụ sau đây:
- Khối dịch vụ ngân hàng phục vụ doanh nghiệp gồm các dịch vụ tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, thư tín dụng , bảo lãnh..
- Khối dịch vụ ngân hàng bán lẻ ( cho tư nhân) gồm các dịch vụ tiết kiệm, tài khoản cá nhân, thanh toán thẻ, cho vay tiêu dùng cá nhân..
- Khối kinh doanh trên thị trường tài chính gồm các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm thuê mua..
- Khối quản lý tài sản sử dụng có hiệu quả quỹ khấu hao, phát triển phương tiện, công nghệ hiện đại, dịch vụ văn phòng..
- Khối hỗ trợ gồm các hoạt động tổng hợp về tổ chức, hành chính, quản trị, kế toán, quan hệ quốc tế..
3.2.4.2 Xác định rõ hơn chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của HĐQT và Ban điều hành
Theo luật doanh nghiệp Nhà nước, bộ máy lãnh đạo của các NHTMQD phân thành hai bộ phận là Hội đồng quản trị và Ban điều hành. Trong thời gian qua, việc phân định chức năng, nhiệm vụ của HĐQT và Ban Tổng giám đốc điều hành còn chưa rõ ràng. Theo cơ chế hiện hành Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc cùng nhận vốn. Song áp dụng cơ chế này, việc phân định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT và BĐH không rõ ràng. Thực tế HĐQT chỉ quản trị ngân hàng trên cơ sở đề nghị của Ban điều hành, điều này đặt HĐQT vào thế bị động (chỉ giải quyết những gì Ban điều hành đề nghị). Mặt khác tình trạng các cơ quản lý Nhà nước nhiều lúc can thiệp quá sâu vào các lĩnh vực hoạt động ngân hàng, nhất là lĩnh vực tài chính và điều hành đã làm giảm tính tự chủ trong việc điều hành trực tiếp của HĐQT trong ngân hàng.
Chính phủ nên xem xét phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của HĐQT, Tổng giám đốc cho phù hợp tinh thần : HĐQT là cơ quan đại diện sở hữu Nhà nước tại DNNN, Nhà nước giao vốn ( hoặc đầu tư vốn vào ngân hàng) qua HĐQT, Chủ tịch HĐQT là người nhận vốn.Tổng giám đốc do Chủ tịch HĐQT lựu chọn, ký hợp đồng và trình cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê chuẩn. Phân biệt rõ trách nhiệm, quyền hạn của HĐQT, BĐH trên tinh thần HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất trong doanh nghiệp, thực hiện việc quản lý trong doanh nghiệp, BĐH thực thi các nghị quyết của HĐQT.
Đây là vấn đề có tính chất đột phá vì nó là nhân tố con người gắn liền với việc chỉnh sửa và bổ sung luật các tổ chức tín dụng hiện hành-Theo đó, đối với toàn bộ hoạt động của các NHTMQD cần xây dựng và đổi mới Điều lệ và quy chế hoạt động phù hợp với luật các TCTD theo hướng thiết chế một HĐQT thực quyền trên các lĩnh vực : Tuyển chọn và bổ nhiệm Tổng giám đốc, Ban điều hành, quyết định chính sách kinh doanh, được tuyển chọn xử lý lao động dôi dư theo Pháp luật và quyết định phương án trả lương theo hiệu quả lao động, chịu trách nhiệm trước Nhà nước ( trực tiếp là Thống đốc ngân hàng nhà nước) về việc bảo toàn và phát triển vốn, được quyền thành lập các công ty con hạch toán độc lập và chịu trách nhiệm trước luật pháp về tính minh bạch trong hoạt động của công ty. Ngoài ra, các thành viên hội đồng quản trị cần phải có đủ những tiêu chuẩn cần thiết theo sự điều chỉnh của quy chế tổ chức và hoạt động áp dụng chung cho các DNNN, tăng cường quy chế chuyên trách hoá và xoá bỏ cơ chế kiêm nhiệm hoặc “ đại diện “ cơ quan khác cử vào HĐQT
3.2.4.3 Mở rộng quyền tự chủ về tài chính, công tác nhân sự và quản lý nhân sự cho các NHTMQD
Việc mở rộng quyền tự chủ tài chính cho các NHTMQD có ý nghĩa quyết định tạo ra động lực và hệ thống khuyến khích vật chất nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu lực quản lý. Nghị định 166/1999/ NĐ-CP ban hành ngày 19/11/1999 về chế độ tài chính đối với các TCTD vẫn chưa có văn bản hướng dẫn. Theo nghị định nói trên, quyền tự chủ tài chính của các NHTMQD còn rất hạn chế thể hiện trên một số mặt : tiền thu sử dụng vốn, việc lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, cơ chế tiền luơng, việc giao quỹ lương và đơn giá tiền lương. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu sửa đổi theo hướng mở rộng quyền phán quyết, phân cấp phán quyết và NHNN chỉ quản lý vĩ mô bằng luật pháp nhằm kích thích tính năng động, sáng tạo và nâng cao trách nhiệm của các NHTMQD.
Do chi nhánh của các NHTMQD hiện đang phân bố trên các địa bàn ( bị coi là ngân hàng của từng Tỉnh) nên việc xắp sếp, điều chuyển cán bộ bị chi phối bởi các cơ quan địa phương (UBND tỉnh, Tỉnh uỷ, NHNN tại tỉnh). Việc bố trí cán bộ vốn là việc nội bộ của các NHTMQD nhưng lại chịu sự quản lý, chỉ đạo của quá nhiều đầu mối nên cũng gặp không ít khó khăn. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch và kết quả kinh doanh của từng NHTMQD.
Việc tiếp nhận và xử lý lao động cũng như các chế tài giữa các bên trong hợp đồng thoả ước lao động thiếu rõ ràng thiếu dứt khoát. Do đó các NHTMQD không đủ các điều kiện pháp lý cụ thể để điều hành công tác nhân sự nghiêm túc theo yêu cầu của các nghiệp vụ kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh và mục tiêu hiệu quả.
Vì vậy việc cải cách các NHTMQD cần phải gắn với việc cơ cấu lại mạng lưới chi nhánh, thống nhất quyền lực quản lý nhân sự và định rõ các chế tài giữa các bên tham gia thoả thuận lao động. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực và kỷ cương quản lý, nâng cao sức ép cạnh tranh, thi đua tăng năng suất lao động trong các NHTMQD.[15];[16];[28];[34];[46]
3.2.5 Có chiến lược đầu tư hợp lý cho phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực
Công nghệ ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sức mạnh của hệ thống ngân hàng và là điểm yếu nhất của các NHTM Việt nam hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cần gấp rút xây dựng chiến lược chung về phát triển công nghệ trong toàn hệ thống và có chính sách khuyến khích thoả đáng các ngân hàng thương mại đầu tư vào lĩnh vực này, trước mắt cần tập trung đầu tư cải thiện chất lượng dịch vụ hiện có, tạo tiền đề phát triển các dịch vụ mới.
Mặt khác Ngân hàng nhà nước và các ngành hữu quan cần cải tiến và gỡ bỏ những chính sách, quy định đang cản trở việc đưa công nghệ mới vào cuộc sống như chế độ kế toán, thống kê, chế độ quản lý chứng từ, kho quỹ, chế độ thanh toán chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình đầu tư đổi mới công nghệ trong toàn hệ thống.
Trước mắt thúc đẩy hơn nữa việc triển khai dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do WB tài trợ nhằm tạo ra nền tảng công nghệ tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt là các tiểu dự án về hệ thống thanh toán nội bộ và kế toán khách hàng có tầm quan trọng đối với quá trình tái cơ cấu các NHTMQD.
Các ngân hàng thương mại cần tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống thông tin quản lý (MIS) phục vụ cho công tác điều hành kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý khách hàng, quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ-có và công tác kế toán.
Để triển khai chương trình phát triển công nghệ, các NHTMQD cần rà soát lại các quy định, quy chế, tiêu chí thống kê-kế toán bất hợp lý đang cản trở việc ứng dụng công nghệ hiện đại trình Thống đốc xem xét, sửa đổi trong thời gian tới. NHNN và Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho các NHTMQD để đầu tư đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin và đào tạo cán bộ khai thác và xử lý theo yêu cầu quản lý. Khoản chi phí này rất lớn và vượt quá khả năng tài chính của các NHTMQD hiện nay.
Các NHTMQD ngoài việc đầu tư cho phát triển công nghệ một cách hợp lý, còn phải quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực. Hiện nay có trên 60% cán bộ của các NHTMQD chưa có trình độ đại học. Một bộ phận lớn các cán bộ quản lý cao cấp của các NHTMQD mặc dù có nhiều kinh nghiệm nhưng chưa được cập nhật kiến thức quản lý ngân hàng hiện đại. Đó là những trở ngại rất lớn cho quá trình cải cách và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Việc khẩn trương đào tạo một lớp cán bộ chủ chốt kế cận là cực kỳ cần thiết và mang tính chiến lược để mở đường cho công nghệ mới được tiếp nhận và trở thành phổ biến, phát huy được công dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Vì vậy NHNN và các NHTMQD cần ưu tiên đầu tư thoả đáng cho lĩnh vực đào tạo theo những tiêu chuẩn quốc tế về quản trị ngân hàng, đồng thời gắn việc đào tạo với việc chuyển giao và hiện đại hoá công nghệ, có chính sách nâng đỡ, thu hút và sử dụng nhân tài nhằm rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí đào tạo. Cán bộ được đào tạo theo chương trình quản trị ngân hàng hiện đại ở trong và ngoài nước. Vai trò của hiệp hội ngân hàng cần phải vươn tới đảm đương vấn đề đặc biệt quan trọng và mang tính chiến lược này.
3.2.6 Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của các NHTMQD
Hệ thống giám sát hoạt động NHTMQD hiện nay quá coi trọng vào công tác thanh tra tại chỗ, xem nhẹ công tác thanh tra giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ. Ý nghĩa của giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ đối với hoạt động ngân hàng, sớm dự đoán các sự cố có thể đến từ nhiều phía đối với ngân hàng, đồng thời giúp cho công tác thanh tra xử lý đúng trọng điểm, kịp thời và có hiệu quả thiết thực, không gây phiền toái cho hoạt động kinh doanh.
Để thực hiện mục tiêu nói trên các NHTM cần tổ chức lại hệ thống phân tích, đánh giá các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu khác về cơ số vốn, trị giá lãi thực, vốn dự trữ, tiền vay và các tài sản khác để điều chỉnh kịp thời các hoạt động quản lý giám sát.
Mặt khác phải chấn chỉnh và nâng cao chất lượng của kiểm toán nội bộ từ quy trình kiểm toán đến tính xác thực và độ tin cậy của các thông tin, các chỉ tiêu tài chính cũng như các đề xuất về cải tiến công tác quản lý tài chính, và đào tạo lại các cán bộ kiểm tra, kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thực hiện nghiêm ngặt chế độ báo cáo tài chính, thống kê và các báo cáo khác theo quy định, hiện đại hoá thông tin quản lý (MIS) nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả của việc xử lý thông tin.[16];[34];[35];[36];[37]
Tóm lại
Xúc tiến việc cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của các NHTMQD là nhu cầu bức xúc, khách quan của môi trường cạnh tranh và quy mô phát triển mới của thị trường tài chính Việt nam trong tiến trình toàn cầu hoá và sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Quy trình cải tiến vừa đảm bảo tính liên tục trong dòng chảy của mạch máu kinh tế, vừa nhanh chóng triển khai xây dựng chiến lược cải cách của từng NHTM theo những nội dung cơ bản như đã trình bày- trong đó những nội dung quan trọng nhất liên quan đén tổ chức và hoạt động chính là việc cải cách môi trường pháp lý, cơ cấu lại tài chính, tách bạch hoạt động tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động thương mại, tổ chức lại hệ thống mạng lưới để quản lý theo cơ cấu nhóm khách hàng và loại dịch vụ, từng bước phát triển mạng thông tin hiện đại và tích cực đào tạo cũng như tái đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt và chuẩn bị đội ngũ kế cận đủ sức tiếp nhận công nghệ quản lý và kinh doanh trong môi trường cạnh tranh mới.
Kết luận
Với những chuyển động hết sức phức tạp trong khu vực ngân hàng và những yêu cầu bức thiết đặt ra cần phải có tổ chức để có thể đáp ứng được những thách thức của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập khu vực. Hệ thống ngân hàng của Việt nam cần phải có những bước chuyển mạnh mẽ hơn nữa, trong đó cần đặc biệt chú trọng vai trò hướng đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước trong toàn hệ thống. Hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế chỉ có thể đạt được thế cân bằng ổn định khi các ngân hàng thương mại nhà nước duy trì và phát huy được vai trò điều tiết của mình. Muốn vậy bản thân các ngân hàng thương mại nhà nước cũng cần phải có những cải tổ cấp tiến toàn diện và sâu sắc hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực tài chính, nhân sự, quản lý, hạch toán, kiểm toán và chiến lược kinh doanh...
Bên cạnh đó để duy trì được một hệ thống tài chính lành mạnh, nhất thiết cũng cần phải có nhiều biện pháp tháo gỡ mạnh mẽ hơn nữa từ phía các cơ quan quản lý hành chính, mà cụ thể là ngân hàng Trung ương nhằm từng bước nâng cao và phát huy được khả năng cạnh tranh bền vững cho hệ thống ngân hàng trước các thách thức to lớn ngày càng đến gần trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V8209.DOC