Đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế với vấn đề an ninh quốc gia

LỜI MỞ ĐẦU Công cuộc đổi mới được Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã mở đường cho sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Song song với sự chuyển hướng chiến lược quan trọng trong cơ cấu kinh tế trong nước là sự chuyển hướng chiến lược trong kinh tế đối ngoại. Đặc biệt từ Đại hội VII với đường lối đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ quốc tế, Việt Nam đã tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế và mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới và khu vực, các tư tưởng và chủ trương chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn. Nghị quyết Đại hội VII chỉ rõ:"Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa". Như vậy ngay từ năm 1991, Đảng đã xác định chủ trương gắn kinh tế thị trường nội địa với thị trường quốc tế và bảo vệ sản xuất trong nước. Đây chính là nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua, với chính sách kinh tế đối ngoại rộng mở, chủ động hội nhập, nền kinh tế nước ta đã từng bước hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Nước ta đã có quan hệ thương mại với trên 150 nước trên thế giới; Thu hút đầu tư trực tiếp của hơn 600 công ty ở trên 70 nước. Đang từng bước thực hiện các cam kết của AFTA để đến năm 2006 hàng hoá của Việt Nam có thể tự do tiêu thụ trên thị trường ASEAN với dân số trên 500 triệu người và GDP trên 700 tỉ/năm. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang chủ động đàm phán để gia nhập APEC và WTO. Thực tế đó chứng minh rằng: đường lối đối ngoại rộng mở, chủ động hội nhập quốc tế của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, việc nước ta tham gia vào toàn cầu hoá và chủ động hội nhập cũng đặt ra những vấn đề mới cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Vì vậy, với mong muốn làm rõ hơn vấn đề nêu trên cả trên bình diện lý luận và thực tiễn, xin chọn vấn đề: "Hội nhập kinh tế quốc tế với vấn đề an ninh quốc gia" làm luận để nghiên cứu của mình. Mục đích: Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng ta làm rõ hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề an ninh quốc gia ở nước ta, từ đó đề ra các giải pháp cơ bản nhằm củng cố an ninh đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ: - Phân tích sự cần thiết khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến an ninh quốc gia. - Chỉ rõ những giải pháp nhằm củng cố an ninh trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Theo đó, bố cục của bài viết gồm phần mở đầu, kết luận và 2 mục lớn. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ I. Những vấn đề chung về hội nhập kinh tế quốc tế II. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan III. Việt Nam với hội nhập kinh tế quốc tế - Những thành tựu và hạn chế Chương II: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI VẤN ĐỀ AN NINH QUỐC GIA I. Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế đến an ninh quốc gia Việt Nam II. Những thách thức về an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 1. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các nước thế lực thù địch thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta. 2. Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng cạnh tranh quyết liệt hơn, an ninh kinh tế bị đe doạ. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự lệ thuộc nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ và định hướng XHCN nền kinh tế sẽ đứng trước thách thức lớn. III. Một số quan điểm và giải pháp cơ bản 1. Những quan điểm cơ bản. 2. Những giải pháp cơ bản. KẾT LUẬN

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1948 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế với vấn đề an ninh quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ". Đồng thời nêu ra 4 phương châm. Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Ba là: Nắm vững hai mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Bốn là: Ưu tiên hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Bốn phương châm trên đã thực sự trở thành tư tưởng chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta và dần được phát triển hoàn thiện phù hợp với diễn biến của tình hình thế giới và trong nước. Theo tinh thần đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (9/1996) đã đề ra chủ trương "Xây dựng một nền kinh tế mở", "Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". Đến nghị quyết TW 4 khoá VIII đã nêu 4 nhiệm vụ cụ thể của kinh tế đối ngoại là:"Tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới"."Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, gia nhập APEC, WTO; có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA"... Thực hiện nhất quán chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) tiếp tục khẳng định chủ trương đúng đắn của các Đại hội Đảng trước và nêu rõ quan điểm "Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế"... tháng 12 năm 2001 Bộ chính trị BCHTWĐ khoá IX đã ra nghị quyết số 07/BCT về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, cụ thể hoá hơn nữa đường lối đối ngoại đã được Đại hội lần thứ IX vạch ra. Với chủ trương đúng đắn và xác định bước đi thích hợp, Việt Nam đã từng bước hội nhập vào khu vực nền kinh tế thế giới. Năm 1993, chúng ta đã khai thông quan hệ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF. Trong quan hệ với các tổ chức này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ không trái với đường lối chính sách của ta, không gây áp lực chính trị, vi phạm an ninh chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Trên thực tế chúng ta đã kiên định với nguyên tắc đó. Khi khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á nổ ra, IMF dự kiến cho ta vay 800 triệu USD, nhưng đặt ra yêu cầu giống như yêu cầu họ đặt ra với Inđônêxia, ta đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận. Vào thời điểm này nền kinh tế tăng trưởng khá, dự trữ ngoại tệ khoảng 2,5tỷ USD. Do đó, ta không chấp nhận áp lực chính trị khi IMF cho vay là hoàn toàn đúng đắn. Những biến động kinh tế, chính trị vừa qua của Inđônêxia càng chứng minh sự sáng suốt của Đảng ta trong quan hệ kinh tế quốc tế. Cùng với việc khai thông mối quan hệ kinh tế với các tổ chức tài chính quốc tế, chúng ta đã ký nhiều Hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực. Ngày 25/7/1995 nước ta đã gia nhập ASEAN và tham gia tổ chức khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và diễn đàn kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC). Theo đó, từ 1/1/1996 chúng ta bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA. Theo CEPT ta có nghĩa vụ giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0 - 5% vào năm 2006. Năm 2001, 6 nước thành viên cũ của AFTA thực hiện toàn bộ các mặt hàng có thuế xuất bằng 0%, riêng Việt Nam là 2010. Ngoài ra Việt Nam còn tham gia chương trình hợp tác công nghiệp (AICO), khu vực đầu tư ASEAN (CAIA) và các chương trình hợp tác khác của ASEAN. Để thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp á - Âu, tháng 3/1996 nước ta đã tham gia diễn đàn hợp tác á - Âu nhưng cam kết về tự do hoá thương mại chưa được nêu ra. Một bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là chúng ta không chỉ phá bỏ được bao vây cấm vận của Mỹ mà còn ký kết được Hiệp định thương mại song phương với Mỹ và chuẩn bị đàm phán gia nhập tổ chức WTO. Các quan hệ thương mại với Nhật bản, EU, Nga, Trung Quốc.v.v.. đang tiếp tục được mở rộng. Như trên đã trình bày, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chưa dài, kinh nghiệm chưa nhiều nhưng với chủ trương đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng tạo, xác định bước đi thích hợp, nên bước đầu đã đem lại những thành tựu đáng kể. Do có sự đổi mới quan hệ đối ngoại, từng bước chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới, nước ta đã phá bỏ được thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, khắc phục được tình trạng hẫng hụt về thị trường trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự tan dã của phe XHCN; Không bị cuốn sâu vào cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ năm 1998 của một số nước Châu á. Mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, kích thẳng nền kinh tế phát triển. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 160 nước năm 1990 xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD, đến năm 2000 đạt gần 15 tỷ USD. Nhờ đó mà sản xuất trong nước phát triển, mở rộng được nhiều ngành nghề mới, tạo thêm được nhiều việc làm cho người lao động. Thông qua hội nhập các tổ chức kinh tế quốc tế và ký kết nhiều Hiệp định, song phương, đa phương và khu vực, chúng ta đã thu hút được nguồn vốn lớn từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến hết năm 2000 đã có 66 nước và vùng lãnh thổ với nhiều tập đoàn, công ty đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Có 3265 dự án được cấp giấy phép, vốn đăng ký 38,6 tỷ USD và đã thực hiện được 15 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm 30% vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp hơn 13,3% GDP, 6 - 7% thu ngân sách, chiếm 35% sản lượng công nghiệp, 23% kim ngạch xuất khẩu, thu hút 30 vạn lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp. Nguồn viện trợ phát triển ngày càng tăng, đến nay tổng mức cam kết tài trợ cho Việt Nam là 13,04 tỷ USD, ta đã ký được 10 tỷ và giải ngân được 6 tỷ. Với việc khai thông quan hệ với IMF và WBđã tạo điều kiện cho Việt Nam đàm phán xoá, giảm nợ nước ngoài, từng bước cân đối thu chi ngân sách. Cùng với việc thu hút vốn đầu tư, Việt Nam tiếp thu được nhiều thành tựu khoa học - công nghệ mới, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Quá trình hội nhập, Đảng, Nhà nước đã từng bước rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích, tạo cơ sở cho sự điều chỉnh lộ trình, nội dung hội nhập thích hợp có hiệu quả kinh tế xã hội cao. Tuy nhiên, đối với nước ta, hội nhập kinh tế toàn cầu còn là vấn đề hết sức mới mẻ, nên không tránh khỏi những hạn chế, thậm chí thua thiệt, có cái mất nhiều hơn được. Cụ thể là: - Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế của ta còn chậm chưa đầy đủ và chưa có sự nhất trí cao, nên có ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai thực hiện. Không ít người cho rằng hội nhập là của Trung Ương, do đó, công tác chuẩn bị cho hội nhập ở các cấp, các ngành, các doanh nghiệp còn rất chậm. - Trong quá trình hội nhập một số người chỉ nhấn mạnh thời cơ mà không thấy hết được những thách thức đặt ra về kinh tế, chính trị, xã hội quốc phòng an ninh. Nên họ chủ trương hội nhập mọi giá, thậm chí vô nguyên tắc. Ngược lại có một số lại run sợ trước những thách thức của hội nhập, muốn đóng cửa để giữ độc lập tự chủ. Những khuynh hướng sai lầm trên đã ảnh hưởng xấu, làm yếu đi sức mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập. - Cán bộ quản lý doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước còn mang nặng thói quen bao cấp, chưa nêu cao tính tự chủ, năng lực quản lý kinh tế và sự hiểu biết về kỹ thuật, công nghệ kém, nên đã gây thiệt hại không nhỏ trong liên doanh, liên kết. Nhiều xí nghiệp liên doanh thua lỗ, nhưng đó lại là "lỗ giả", "lãi thật". Để đối tác đầu tư vào công nghệ lạc hậu nhiều thế hệ, hiệu quả sản xuất thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thương trường quốc tế kém, làm mất đi những thị phần ngoài nước quan trọng. - Trong quá trình hội nhập, chúng ta chưa lựa chọn kỹ các đối tác, hoặc chưa hiểu biết đầy đủ những thông tin của đối tác nước ngoài, nên nhiều dự án tính khả thi thấp, phải huỷ bỏ nửa chừng, gây thất thoát tài sản các doanh nghiệp và Nhà nước. - Hệ thống luật pháp, chính sách quản lý kinh tế, thương mại, tài chính chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở để đối tác lợi dụng. Nhà nước chưa có cơ chế có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại phát triển của mình với khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. - Vấn đề an ninh quốc phòng chưa được quán triệt sâu sắc ở các cấp, các ngành trong quá trình hội nhập. Do đó, không ít doanh nghiệp và một số người trực tiếp làm công tác hợp tác kinh tế quốc tế chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế, không đặt ra những yêu cầu quốc phòng an ninh, dẫn đến mất cảnh giác, để kẻ địch lợi dụng hội nhập tiến hành âm mưu "diễn biến hoà bình" chống phá cách mạng nước ta. Tóm lại: Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế toàn cầu là xu thế khách quan của thời đại, đang tác động sâu sắc đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc gia của mỗi nước. Trong xu thế chung đó, các nước công nghiệp phát triển trước hết là Mỹ, do có ưu thế về sức mạnh kinh tế và quân sự đã ra sức thao túng, chi phối kinh tế, chính trị thế giới, áp đặt điều kiện đối với các nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng những biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận, trừng phạt, can thiệp nội bộ các nước, làm thiệt hại lợi ích kinh tế, gây mất ổn định về chính trị của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Do đó, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, chúng ta không thể không chú ý đến vấn đề an ninh quốc gia, độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Chương II Hội nhập kinh tế vớI vấn đề an ninh quốc gia Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt. Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế khách quan lôi cuốn hàng trăm quốc gia dân tộc khác nhau về chế độ kinh tế xã hội, trình độ phát triển tham gia hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy quá trình tham gia hội nhập kinh tế, mỗi nước đều theo đuổi nhưng mục tiêu khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Các nước tư bản phát triển tham gia hội nhập không chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận thuần tuý mà còn tìm cách chi phối, khống chế thị trường, áp đặt chính trị, chuyển hoá nền kinh tế các nước đi theo quỹ đạo Tư bản chủ nghĩa. Các nước kinh tế đang phát triển tham gia hội nhập để tận dụng cơ hội phát triển, thoát khỏi đói nghèo lạc hậu. Đồng thời tập hợp lực lượng đấu tranh chống lại chính sách cửa quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng công bằng. Các nước xã hội chủ nghĩa chủ động hội nhập để tranh thủ những mặt có lợi trên thị trường thế giới, phát huy lợi thế, phục vụ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế, rút ngắn, trình độ phát triển so với các nước phát triển trên thế giới. Điều đó chứng tỏ xu thế hội nhập kinh tế phản ánh cục diện vừa đẩy mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt. Nó vừa có tác động tích cực và tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị xã hội, an ninh quốc gia của mỗi nước. I Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế đến an ninh quốc gia của Việt Nam. An ninh quốc gia là: "Trạng thái của quốc gia có sự ổn định về mọi mặt, các lợi ích quốc gia được toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc bị đe doạ..." có nước quan niệm an ninh quốc gia bao gồm có quốc phòng. An ninh quốc gia cần phải được hiểu với nghĩa rộng bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.v.v.. Một nước có sự an ninh quốc gia được bảo đảm là nước có trạng thái ổn định trên các mặt đó và các lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội được bảo vệ toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc đe doạ. Theo đó, hội nhập kinh tế có tác động tích cực đến tăng cường an ninh quốc gia trên những vấn đề sau đây. Một là: Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường, thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến phát triển kinh tế tăng cường an ninh quốc gia. Thị trường có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việc mở rộng và khai thông thị trường quốc gia với quốc tế sẽ cho phép bổ sung những mặt yếu, thiếu, phát huy những lợi thế của nền kinh tế trong nước. Dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, các thị trường thế giới (Vốn, tài chính, thương mại.v.v..) từng bước được thống nhất và phát triển. Xu thế này sẽ loại bỏ dần các rào cản thương mại (thuế, chính sách bảo hộ) và điều chỉnh các quy tắc vận hành. Các dòng vốn, kỹ thuật công nghệ, tri thức, hàng hoá, dịch vụ ngày càng mở rộng và đẩy nhanh tốc độ. Theo đó, nước ta là nước đang phát triển, chủ động hội nhập nền kinh tế toàn cầu sẽ từng bước mở rộng thị trường ra bên ngoài và có thêm cơ hội thu hút và sử dụng các dòng vốn khu vực và quốc tế, đồng thời mở ra điều kiện thực hiện các dự án đầu tư ra nước ngoài theo lợi thế của ta. Thực tế cho thấy, với một đất nước có số dân 78 triệu người như nước ta, thu nhập bình quân đầu người thấp, chỉ hơn 400 USD thì dung lượng thị trường trong nước sẽ là nhỏ so với khả năng phát triển. Do đó, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng thị trường có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hiện nay chúng ta đang thực hiện đầy đủ lộ trình cắt giảm thuế quan đã cam kết với AFTA, để đến 2006 hàng hoá Việt Nam có thể tiêu thụ trên cả thị trường ASEAN với dân số 500 triệu người và GDP trên 700 tỷ. Nếu đàm phán gia nhập được WTO, Việt Nam sẽ được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với 132 nước thành viên. Sau 15 năm đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập, thực hiện luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, đã có 3600 dự án được đăng ký với tổng lượng vốn hơn 41 tỷ USD, trong đó đã giải ngân hơn 21 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giữ vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước ta: 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng hơn 40 vạn lao động và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Bên cạnh cơ hội tận dụng và nâng cao khả năng sử dụng vốn, nước ta còn được thụ hưởng những thành quả tiến bộ của khoa học - công nghệ thế giới, thông qua chuyển giao công nghệ để đổi mới kỹ thuật công nghệ, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm đổi mới vừa qua chúng ta đã tận dụng được cơ hội đó, nền kinh tế tăng trưởng cao, hạ tầng công nghệ thông tin được đánh giá là một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất, kinh tế chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được tăng cường. Trạng thái đó phản ánh tính vững chắc của an ninh quốc gia. Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thế đan cài lợi ích kinh tế quốc phòng an ninh giữa các nước trong khu vực và thế giới, cho phép nước ta có thể kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập kinh tế gắn kết nền kinh tế của mỗi nước với hệ thống kinh tế khu vực và thế giới. Mức độ gắn kết phụ thuộc vào chính sách mở cửa của mỗi quốc gia. Sự hưng thịnh, khủng hoảng hay suy thoái kinh tế của nước này đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến trạng thái phát triển kinh tế và an ninh kinh tế của các nước khác trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng và khả năng ứng phó trước những chấn động kinh tế, chính trị, xã hội bên ngoài đến đâu là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, dữ trữ ngoại tệ và sức gắn kết kinh tế của mỗi nước trong khu vực và thế giới. Thực tế những thập kỷ qua cho thấy một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn, sẽ có sức chịu đựng cao hơn các nền kinh tế lạc hậu khác. Chẳng hạn, sức cạnh tranh của các nền kinh tế Hồng Công, Xingapo lớn, lại có dự trữ ngoại tệ lớn nên đã hạn chế được tác động xấu của cuộc khủng hoảng khu vực năm 1997. Một nước có nền kinh tế hội nhập quốc tế cao, lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế, thì sẽ có nhiều khả năng kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất nước tốt hơn. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực 1997, các quốc gia Thái Lan, Hàn Quốc, Inđônêxia vì là thành viên của IMF và lợi ích của các quốc gia này đã liên kết khá chặt chẽ với lợi ích quốc tế, nên quỹ tiền tệ quốc tế đã hỗ trợ tài chính cho các quốc gia này khá lớn, giúp nền kinh tế các nước này nhanh chóng phục hồi thoát ra khỏi khủng hoảng. Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện nay, mọi nền kinh tế đều tuỳ thuộc nhiều hơn vào bền ngoài. Nhưng nếu sự tuỳ thuộc nhiều hơn đó đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì không có lý gì lại không chấp nhận. Theo đó, nền kinh tế nước ta ngày càng tích cực tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực, thế giới và cũng ngày càng tuỳ thuộc hơn vào nền kinh tế bên ngoài. Lợi ích kinh tế của nước ta đang từng bước đan cài và gắn kết với nền kinh tế khu vực và thế giới, nhất là từ sau khi khởi xướng đường lối đổi mới "Mở cửa" hội nhập, Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á, ký hiệp ước song phương, đa phương và nhiều nước trên thế giới. Điều đó được thể hiện rõ trong lượng vốn đầu tư của các nước vào Việt Nam và kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lên đáng kể. Tính đến năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta đã chiếm tới trên 90% GDP, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chiếm 28% tổng đầu tư xã hội. Đầu tư vào nước ta không chỉ có các nước trong khu vực mà còn có nhiều nước tư bản phát triển khác như: Mỹ, Pháp, Đức, Nhật.v.v... làm cho lợi ích các nước và nước ta đan xen vào nhau, tạo lên sự tương đồng nhất định về lợi ích. Do đó, để tồn tại phát triển đòi hỏi các nước phải hợp tác, đấu tranh bảo đảm môi trường an ninh, hoà bình, ổn định, để bảo vệ lợi ích các bên tham gia. Sự đe doạ độc lập chủ quyền an ninh quốc gia của Việt Nam cũng gián tiếp đe dọa lợi ích kinh tế và an ninh của các quốc gia khác trong cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới. Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có nhiều điều kiện hợp tác, giao lưu kinh tế, văn hoá, tri thức, thông tin với các nước trong khu vực và thế giới. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao, quốc phòng an ninh được giữ vững và tăng cường. Toàn cầu hoá kinh tế - Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tự do hoá thương mại, tự do hoá tài chính và đầu tư, kéo theo đó là sự mở rộng giao lưu văn hoá, thông tin tham gia AFTA, thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào các nước thành viên có sức cạnh tranh cao hơn. Mặt khác, hàng hoá Việt Nam nhập từ các nước thành viên (bao gồm cả hàng hoá tiêu dùng và hàng hoá là yếu tố đầu vào của sản xuất) sẽ rẻ hơn. Khi hàng hoá tiêu dùng rẻ thì người tiêu dùng càng có lợi, đời sống sẽ được cải thiện và nâng cao. Khi hàng hoá là yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống, sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta trên thị trường thế giới tăng lên đáng kể, lợi nhuận siêu ngạch qua đó tăng lên tương ứng, an ninh kinh tế được tăng cường. Ngày nay trong môi trường toàn cầu hoá, cùng với việc xuất hiện của mạng Internet, các thông tin, tri thức mới lan truyền nhanh chóng giữa các quốc gia dân tộc, sự ngăn cách về không gian, thời gian không còn ý nghĩa. Các phương tiện hiện đại đã giúp các nước trên các Châu Lục khác nhau, các vùng xa xôi hẻo lánh tiếp cận với tri thức văn hoá tiên tiến, giúp cho sự hoà hợp, hiểu biết lẫn nhau tin tưởng nhau hơn. Trên cơ sở đó xây dựng môi trường hoà bình ổn định và hợp tác. Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các nước cùng nhau hợp tác giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu để giữ gìn hoà bình ổn định quốc gia, khu vực và thế giới. Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng, đồng thời cũng nảy sinh những vấn đề toàn cầu mới, đe doạ nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định và an ninh của mỗi quốc gia như: Chiến tranh công nghệ cao, phòng chống tội phạm, quốc tế, ma tuý, môi trường sinh thái.v.v.. Những vấn đề có tính toàn cầu đó không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được mà phải có sự hợp tác, các quốc gia phải chủ động tham gia vào các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề đó. Mặt khác thông qua các tổ chức này, các nước trao đổi thông tin, kinh nghiệm, phối hợp hành động để phòng chống giữ vững hoà bình ổn định, an ninh để phát triển. II Những thách thức về an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh mang tính giai cấp sâu sắc. Nên nó không chỉ tạo cơ hội để giữ vững hoà bình an ninh ổn định mà còn tạo ra những thách thức đối với an ninh quốc gia của mỗi nước tham gia hội nhập. 1. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các nước thù địch thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế giữa các nước, đồng thời cũng tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ lợi dụng thân thiện hợp tác để thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình". Chống phá các nước có xu hướng phát triển tiến bộ đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, lập lại trật tự kinh tế, chính trị thế giới mới do Mỹ đứng đầu. Đối với nước ta hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng chính sách "mở cửa", hội nhập của Đảng và Nhà nước ta để tiến hành diễn biến hoà bình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị , tư tưởng văn hoá, nhất là về kinh tế. Chúng đánh giá rất cao vai trò của kinh tế tư nhân, cơ chế thị trường. Các chính khách chóp bu trong các nước tư bản phát triển đều cho rằng: "Chìa khoá cải cách chính trị ở Việt Nam là doanh nghiệp tư nhân. Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam đã chống lại một cách oanh liệt và giành thắng lợi vĩ đại trước cuộc tấn công bằng sức mạnh quân sự của Pháp, Mỹ. Nhưng nó không thể tồn tại lâu dài trước những cơ hội tích cực do doanh nghiệp tư nhân mở ra". Vì vậy chúng luôn khuyến khích hỗ trợ đầu tư, viện trợ cho thành phần kinh tế tư nhân phát triển để lấn át các thành phần kinh tế khác, phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế xã hội cho các tổ chức chính trị phản động hoạt động chống phá, làm chuyển hoá tận gốc chế độ xã hội chủ nghĩa, định hướng nền kinh tế nước ta phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tận dụng ưu thế sức mạnh kinh tế trong xu thế "mở cửa" hội nhập, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ tìm mọi cách chi phối đầu tư từ các nước tư bản phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế vào Việt Nam để xâm nhập, lũng đoạn. Chúng chủ định đầu tư không theo vùng lãnh thổ để gây mất cân đối giữa các vùng miền ở nước ta. Hạn chế đầu tư vào các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, khu vực sản xuất làm cho hiệu quả đầu tư vào Việt Nam thấp. Lợi dụng những yếu kém về nghiệp vụ và sự thoái hoá của một số cán bộ tiếp nhận đầu tư và nhận chuyển giao công nghệ, để chuyển giao vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, kìm hãm sự phát triển kinh tế của nước ta. Đồng thời tác động xấu đến tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, dòng vốn lưu chuyển thông qua đầu tư viện trợ giữa các quốc gia tham gia hội nhập ngày càng gia tăng. Đó là quan hệ kinh tế tất yếu trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Song hội nhập quốc tế trong bối cảnh kinh tế chính trị thế giới phức tạp hiện nay, Mỹ và các thế lực thù địch lại sử dụng đầu tư, viện trợ như là một công cụ để thâm nhập phá hoại các nước khác. Đầu tư, viện trợ bao giờ cũng kèm theo điều kiện chính trị hết sức nghiệt ngã, thúc đẩy nền kinh tế thị trường các nước xã hội chủ nghĩa phát triển theo hướng thị trường tự do, thoát ly dần sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước. Chuyển hoá dần nền kinh tế các nước đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Năm 1989 trong " Báo người bảo vệ" của Anh đã công khai tuyên bố "Nguyên tắc cơ bản nhất của chủ nghĩa Bush là: Mục tiêu viện trợ của Phương tây là phải thúc đẩy và khen thưởng quá trình đa nguyên hoá chính trị và kinh tế thị trường tự do trong các nước xã hội chủ nghĩa. Về kinh tế thực hiện đa nguyên hoá, tức là tự do hoá nền kinh tế, chấp nhận kinh tế thị trường tự do hoàn toàn..." theo họ, nếu ai đi theo hướng đó, thì người đó mới nhận được sự ủng hộ đầu tư và cho vay của Mỹ; "Nước nào chấp nhận đầu tiên thì nước đó đầu tiên nhận được viện trợ". Trong bài bình luận đăng trên báo Lơ - pi - ga - rô của Pháp ngày 14 tháng 12 năm 1989 khi đề cập đến vấn đề các nước Phương Tây dùng đô la Mỹ để ủng hộ công cuộc cải cách "mở cửa" của các nước xã hội chủ nghĩa, đã dẫn lời của Brê - dên - Sky lộ rõ thực chất của khoản viện trợ này "là khoản tiền an táng, tiền tuốt hợp với lễ nghi chế độ Cộng sản". Điều đó chứng tỏ Mỹ và các nước Phương Tây luôn dùng viện trợ làm mồi nhử, viện trợ bao giờ cũng gắn với điều kiện chính trị hết sức phản động để can thiệp ngày càng sâu vào các nước xã hội chủ nghĩa để chuyển hoá dần chế độ, tạo thời cơ cho bọn phản động trong nước gây bạo loạn lật đổ chính quyền. ý đồ thâm độc đó thể hiện rõ nét qua sự viện trợ của Mỹ và Phương Tây cho các nước Đông Âu khi cải cách, mở cửa, hội nhập. Gần đây, trước khi ký hiệp ước thương mại song Phương Việt - Mỹ đặt những điều kiện chính trị "luật nhân quyền" hết sức thô bạo. Lợi dụng sức mạnh kinh tế và Liên Hiệp - Quốc, Mỹ khống chế các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế , ngân hàng thế giới, tổ chức thương mại thế giới trong việc đầu tư, viện trợ cho vay và buôn bán với Việt Nam. Mặt khác, lợi dụng "mở cửa" hội nhập, giao lưu kinh tế, các thế lực thù địch truyền bá văn hoá xấu độc, tư tưởng phản động, kích động tôn giáo, chia rẽ dân tộc, gây xung đột sắc tộc tôn giáo.v.v.. Thực trạng trên đây phản ánh quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra thách thức lớn đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và đe doạ đến hoà bình, an ninh, ổn định chính trị - xã hội của nước ta. Do đó, giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, chính trị trong môi trường hội nhập sẽ gặp vô vàn khó khăn. 2. Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng cạnh tranh quyết liệt hơn, an ninh kinh tế bị đe doạ. Hội nhập kinh tế quốc tế với sự tham gia của nhiều chủ thể quốc gia có chế độ chính trị, trình độ phát triển khác nhau vào thị trường khu vực và thế giới thống nhất sẽ làm cho cạnh tranh quyết liệt hơn. Nền kinh tế của các nước kinh tế chậm phát triển sẽ dễ bị tổn thương do áp lực kinh tế từ bên ngoài. Các luồng vốn, công nghệ, hàng hoá dịch vụ sẽ chạy đến nơi nào có môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Những hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, giá cả thấp hơn thoả mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn sẽ chiến thắng trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần ngoài nước. Ngược lại những nước kinh tế kém phát triển chất lượng hàng hoá dịch vụ thấp giá cả cao sẽ thất bại trong cạnh tranh và thu hẹp thị phần. Theo đó, cạnh tranh trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhưng cũng là nguyên nhân đổ vỡ, thua thiệt của các nước kinh tế lạc hậu khi tham gia hội nhập. Nước ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế từ một điểm xuất phát thấp, khoảng cách chênh lệch và trình độ, phát triển giữa nước ta với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới khá lớn. Tuy chúng ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, nhưng thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp (75% lao động trong nông nghiệp). Hệ thống kỹ thuật công nghệ lạc hậu từ 2 - 4 thế hệ so với thế giới, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm một số hàng hoá còn thấp. Do đó, sức cạnh tranh hàng hoá của ta kém, khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị phần trong nước và ngoài nước còn rất hạn chế. Đây thực sự là một nguy cơ, một áp lực lớn khi ta đẩy nhanh nhịp độ mở cửa hội nhập, an ninh kinh tế sẽ bị đe doạ. Mặt khác chúng ta đang trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Các yếu tố của thị trường mới đang được hình thành, chưa hoàn chỉnh. Các luật chơi trong toàn cầu hoá và hội nhập ta chưa thạo, nguy cơ kiến thức về kinh tế thị trường cũng còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chưa thật sự sẵn sàng và chưa đủ đáp ứng yêu cầu cao của hội nhập. Việc thiếu hiểu biết về thị trường khu vực và thế giới, thiếu công cụ, phương tiện trong giao dịch, thanh toán quốc tế.v.v.. là thách thức lớn trong tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, tình trạng tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy quản lý đang trở thành quốc nạn, tạo môi trường cho sự xâm nhập bằng kinh tế để phá hoại gây mất ổn định, chuyển hoá chế độ. Điều đó sẽ gây khó khăn không nhỏ cho chúng ta trong bảo vệ an ninh kinh tế, chính trị quốc gia. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự lệ thuộc nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế sẽ đứng trước thách thức lớn. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Một quốc gia có tỷ lệ ngoại thương cao, thu hút được vốn đầu tư từ ngoài nước sẽ tạo điều kiện tốt cho phát triển, tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng gia tăng sự bất ổn từ bên ngoài đưa lại do phụ thuộc vào vốn và thị trường nước ngoài. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Nhật bản là nước có sự phát triển tăng trưởng cao nhất thế giới do hoạt động ngoại thương đem lại, đến đầu những năm 70 do khủng khoảng của nền kinh tế thế giới đã đẩy Nhật vào tình thế khó khăn suy thoái nghiêm trọng. Năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á bắt đầu nổ ra ở Thái Lan đã nhanh chóng lan rộng sang các nước Inđônêxia, Hàn quốc, Malaixia .v.v.. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế còn làm tăng nợ nước ngoài, nhất là các nước lại thường xuyên xảy ra những chấn động kinh tế do thiên thai, hoặc có những sai lầm về chính sách vĩ mô.Như Braxin năm 1987 nợ nước ngoài lên tới 124 tỷ USD số lãi phải trả (1980 - 1988) là 91 tỷ USD, nợ nần lớn đã gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, an ninh tài chính bị đe doạ nghiêm trọng, đẩy nền kinh tế Braxin đứng trước sự đổ vỡ và lệ thuộc vào nước ngoài ngày càng gia tăng. ở nước ta, mức độ nợ tính đến cuối năm 2001, tổng dư nợ so với GDP khoảng 43%; Tổng dư nợ so với xuất khẩu khoảng 89%; Nghĩa vụ nợ so với xuất khẩu khoảng 11%. Theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, mức độ này còn trong "giới hạn an toàn" nhưng cũng đã gần tới cận "an toàn". Tuy nhiên, từ sự lệ thuộc của những nền kinh tế nêu trên cho thấy toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới phần nào đã làm giảm vai trò điều tiết của các Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là với nhà nước ở các nước đang phát triển, làm tăng sự lệ thuộc vào các nền kinh tế lớn, tăng nguy cơ bất ổn. Một trong những lý do là sự tồn tại, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia, sự vận động của các luồng tài chính, hàng hoá toàn cầu, sự tồn tại của các quy tắc, luật lệ của các tổ chức kinh tế, các thể chế điều tiết kinh tế toàn cầu lại chưa hoàn chỉnh bị chi phối khống chế bởi các nước lớn... Đặc điểm này đang là những thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập. Vì vậy phải tăng cường nội lực và phải giữ được vai trò điều tiết, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, đây là cơ sở để bảo vệ độc lập, chủ quyền và định hướng XHCN của đất nước. iii Một số quan điểm và giải pháp cơ bản Quán triệt chủ trương đường lối "mở cửa" hội nhập theo tinh thần nghị quyết các kỳ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc đã đề ra và kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước, bước đầu tác giả xin đề xuất một số vấn đề có ý nghĩa về mặt phương pháp luận xung quanh quan điểm và giải pháp tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách trong quá trình hội nhập, để giữ vững an ninh quốc gia. 1. Những quan điểm cơ bản Để thực hiện thắng lợi đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng giữ vững an ninh quốc gia, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây: Một là: Giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, kiên định mục tiêu XHCN. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Đây là chủ trương hết sức đúng đắn, cần được quán triệt sâu sắc trong quá trình hội nhập. Có thể nói rằng toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu dẫn đến sự ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc. Tham gia vào bất cứ tổ chức quốc tế nào, hay cam kết thực hiện một hiệp định song phương hoặc đa phương nào thì các nước thành viên đều phải tuân thủ những quy ước, những thông lệ quốc tế theo nguyên tắc đồng thuận, trong đó có cả những điều khoản quy ước hạn chế phần nào tính độc lập tự chủ của mỗi quốc gia thành viên, nhất là các thành viên có nền kinh tế chưa phát triển. Mặt khác, toàn cầu hoá hiện nay đang bị quan hệ sản xuất TBCN và pháp quyền Tư sản chi phối. Do đó trong quá trình hội nhập vừa phải tuân theo những vấn đề có tính nguyên tắc chung đó, nhưng vẫn phải giữ vững được độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng XHCN trong phát triển kinh tế; kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng hội nhập để tiến hành chiến lược "diễn biến hoà bình" chống phá cách mạng nước ta của Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Không chấp nhận đầu tư viện trợ có kèm theo điều kiện chính trị làm phương hại đến an ninh quốc gia. Hai là: Hội nhập kinh tế là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân. Một trong những hạn chế của thực hiện chủ trương mở cửa hội nhập của nước ta trong những năm qua là: Không ít người coi hội nhập là của Nhà nước Trung ương, vì vậy các cấp, các ngành, nhất là các doanh nghiệp chưa sẵn sàng hội nhập, đã làm giảm sức mạnh quốc gia trong hội nhập. Do đó, cần phải quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm hội nhập là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Quá trình hội nhập kinh tế phải phát huy mọi tiềm năng thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo để định hướng các thành phần kinh tế khác. Chỉ có như vậy, chúng ta mới phát huy được hết lợi thế so sánh trong khu vực và thế giới, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong hội nhập, đẩy lùi nguy cơ đe doạ độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia do tác động của hội nhập. Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh, phải khôn khéo tận dụng tối đa những mặt có lợi, hạn chế tối thiểu những mặt có hại, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải có cái nhìn đúng đắn, thấy rõ được tính chất hai mặt của hội nhập, có cái được nhưng cũng có cái thiệt. Được, thiệt như thế nào là tuỳ thuộc vào năng lực và hiệu quả tham gia hội nhập của mỗi nước. Nhưng không có cái gì được cả hay mất cả. Vấn đề quan trọng là phải làm thế nào để tận dụng tối đa cơ hội, đẩy lùi thách thức để đỡ thua thiệt. Muốn vậy, khi tham gia hội nhập phải hết sức tỉnh táo, khôn khéo linh hoạt trong xử lý tính hai mặt của hội nhập. Tính toán được, mất phải trên quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể, đấu tranh với mọi quan điểm phiến diện khi hội nhập chỉ thấy thời cơ không thấy được những thách thức đặt ra, hoặc chỉ nhấn mạnh lợi ích kinh tế không chú ý đến vấn đề an ninh quốc gia, dẫn đến mất cảnh giác để kẻ địch lợi dụng xâm nhập. Bốn là: Chủ động hội nhập với lộ trình hợp lý. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ những đặc điểm kinh tế xã hội nước ta, chủ động đề ra kế hoạch và lộ trình hội nhập hợp lý vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế đất nước, vừa đáp ứng yêu cầu định chế của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; Tranh thủ được các ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. HNKT nhưng không bị động, lôi cuốn chạy theo, nhưng không do dự, bỏ lỡ cơ hội, thậm chí phải biết sử dụng HNKTQT làm động lực thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của nền kinh tế Nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế và công nghệ còn thấp. Vì vậy, phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường. Không nên nóng vội quá mức vượt khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn đến thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên, kết hợp kinh tế - xã hội với Quốc phòng - an ninh không nên kéo dài lộ trình hội nhập sẽ dẫn đến tình trạng duy trì quá lâu chế độ bảo hộ, bao cấp của Nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế càng lớn trước sự phát triển nhanh của các nền kinh tế khác. Chương trình hội nhập phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phải đáp ứng yêu cầu của những định chế kinh tế quốc tế mà nước ta cam kết. Những quan điểm cơ bản trên đây thể hiện sự thấu suốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đảm bảo cho chúng ta giữ vững được độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Những giải pháp cơ bản Để vượt qua được những thử thách của quá trình mở cửa hội nhập giữ vững an ninh quốc gia độc lập chủ quyền tàon vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây: Một là: Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Tuyên truyền sâu rộng trong các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và mọi người dân Việt Nam nhận thức đúng đắn về toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, tác động của nó đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội quốc phòng, an ninh của nước ta. Tránh nhận thức, coi hội nhập là của Trung ương, chỉ thấy thuận lợi, thời cơ của hội nhập mà không thấy hết được những thách thức đặt ra, hoặc lẫn lộn giữa toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế với toàn cầu hoá nói chung, hội nhập tất cả. Phải khẳng định rõ rằng: Toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu nổi bật của thời đại ngày nay. Đảng ta chủ trương mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế nhưng phải trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, an ninh toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi. Hoà nhập nhưng không hoà tan, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Phải thiết lập và vận hành mạng lưới thông tin toàn cầu để mọi người dân, mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp tiếp cận với những kiến thức cập nhật, xác thực về những diễn biến của nền kinh tế toàn cầu, để có đối sách hội nhập hợp lý. Giáo dục nâng cao cảnh giác cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân, nhận thức ngày càng đầy đủ hơn âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế để tiến hành chiến lược "Diễn biến hoà bình" chống phá cách mạng nước ta, lái nền kinh tế nước ta đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đến việc bảo vệ an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập. Hai là: Xây dựng một chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế gắn với giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế là cụ thể hoá đường lối "mở cửa" hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Chiến lược đó phải được xây dựng trên nguyên tắc độc lập tự chủ và thể chế của các tổ chức kinh tế quốc tế, khả năng tham gia hội nhập của nền kinh tế nước ta ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể để xác định bước đi và kế hoạch triển khai thực hiện. Trước mắt đến năm 2006 thực hiện các cam kết với AFTA và đẩy mạnh hội nhập với các nước trong APEC, từng bước gia nhập WTO, tăng cường ký các hiệp định song phương đa phương với các nước trong khu vực và thế giới. Kết hợp chặt chẽ xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng các biện pháp phòng ngừa như: Phòng ngừa chiến tranh, phòng ngừa những cuộc khủng hoảng từ bên ngoài tác động, phòng ngừa các biến động về chính trị kinh tế. Để có được các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, chúng ta phải có chính sách ngoại giao phòng ngừa, quá trình hội nhập kinh tế phải đi đôi với việc tăng cường các cuộc tiếp xúc trao đổi, các hội nghị hiệp thương, hội nghị các cấp, hội nghị các chuyên gia để trao đổi thông tin, thảo luận những vấn đề bất đồng, thảo luận các chính sách, các giải pháp an ninh quốc tế và khu vực để tránh các cuộc xung đột có thể xảy ra, tạo môi trường hoà bình ổn định cho kinh tế phát triển. Xây dựng hệ thống các giải pháp ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tăng cường tư vấn và hỗ trợ về tài chính của các tổ chức IMF, WB, ADB làm tăng thêm nguồn vốn và khả năng sử dụng hiệu quả nguồn vốn vào việc phát triển kinh tế, giữ vững an ninh tài chính, tiền tệ. Có chiến lược dự trữ quốc gia hợp lý, trong đó dự trữ ngoại tệ là quan trọng nhất, đề phòng bao vây cấm vận, vẫn có thể mua được các hàng hoá dịch vụ cần thiết. Dự trữ các sản phẩm thiết yếu như xăng, dầu, gạo... bảo đảm an ninh lương thực. Trong xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế cần phải thực hiện hệ thống chính sách gắn kết lợi ích của nước ta với lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt là các trung tâm kinh tế lớn, các nước láng giềng, các tổ chức kinh tế quốc tế, tạo nên sự tương đồng về lợi ích. Sự gắn kết này sẽ ràng buộc các quốc gia khác, để bảo vệ được lợi ích của mình, họ phải tham gia bảo vệ lợi ích của nước ta. Đây là kế sách bảo vệ an ninh quốc gia, hạn chế sự đe doạ từ bên ngoài. Ba là: Đẩy mạnh đất nước, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Để bảo đảm an ninh hàng hoá dịch vụ và sự tồn tại của các doanh nghiệp trên thương trường trong quá trình hội nhập, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Hiện nay, ở nước ta có một số hàng hoá dịch vụ có chất lượng cao, ngày càng chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, không ít sản phẩm hàng hoá dịch vụ đang đứng trước nguy cơ bị xâm thực thị phần, ngay cả thị phần trong nước cũng không giữ được, mà nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng kém, giá thành cao, sức cạnh tranh thấp. Nhà nước cần phải có một chiến lược công nghệ, lựa chọn và nhận chuyển giao công nghệ mới nhất tạo ra sự đột biến về năng suất, chất lượng những hàng hoá ta có lợi thế cạnh tranh để có thể chiến thắng trên thương trường, giữ vững và mở rộng thị phần trong và ngoài nước. Lộ trình thực hiện AFTA đang diễn ra rất khẩn trương, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã ký kết, khi AFTA và Hiệp định thương mại có hiệu lực hoàn toàn thì hầu hết các doanh nghiệp nước ta sẽ không được bảo hộ bằng thức và các biện pháp phi thức quan. Trong điều kiện tự do hoá thương mại như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế phải khẩn trương đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ theo hướng hiện đại. Đồng thời phải rà soát, kịp thời điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy các nguồn vốn trong nước để giảm sự lệ thuộc vào nợ và viện trợ của nước ngoài. Không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh trên cả ba mặt: Sản phẩm hàng hoá (chất lượng, giá cả); Doanh nghiệp (năng lực công nghệ, trình độ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh); Tổng thể nền kinh tế (kinh tế vĩ mô ổn định, phát triển nhanh và bền vững). Ra sức xây dựng doanh nghiệp, công ty, nhất là doanh nghiệp Nhà nước thành những đơn vị mạnh về công nghệ, giỏi về quản lý, năng động sáng tạo trong làm ăn. Khẩn trương tiến hành cải cách, đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước dựa trên tư duy mới về vai trò, vị trí và trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước, về cơ chế quản lý, chứ không chỉ dừng lại ở sắp xếp đơn giản, thuần tuý về sản lượng. Bốn là: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, chúng ta phải tuân theo những thông lệ và cam kết song phương, đa phương. Mặt khác, hệ thống luật pháp nước ta còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Do đó, cần phải tích cực xây dựng khung thể chế "kinh tế thị trường định hướng XHCN" bao gồm thị trường hàng hoá, vốn, tiền tệ, lao động, công nghệ bất động sản... Đặc biệt phải xây dựng khẩn trương các định chế để hình thành thị trường vốn. Hoàn thiện các chính sách tiền tệ, hướng các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Bổ sung, từng bước hoàn chỉnh hệ thống Luật pháp vừa phù hợp với thông lệ, định chế quốc tế, vừa giữ vững được độc lập tự chủ. Để thích ứng với yêu cầu hội nhập, phải đổi mới cơ chế quản lý đáp ứng các cam kết của nước ta về mở cửa thương mại, đầu tư, dịch vụ, về thuế và phi thức..., trong đó cần đặc biệt chú ý vấn đề "đối xử quốc gia", cạnh tranh lành mạnh theo Pháp luật, không cho phép hình thành các tập đoàn độc quyền tư nhân trong nước hay của nước ngoài. Tăng cường vai trò kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tích cực sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào công tác quản lý. Tổ chức tốt việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ. Biết vận dụng những luật chơi quốc tế để thực hiện mục tiêu của mình là yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp đứng vững trong hội nhập. Năm là: Tăng cường hoạt động an ninh trong quá trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh quốc tế ngày càng phức tạp. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu làm thay đổi so sánh lực lượng về cơ bản bất lợi cho đất nước ta. Trong một thế giới mà trật tự cũ đã biến mất, trật tự mới còn chưa định hình, một thế giới mà những lợi ích của các quốc gia, các khu vực đan xen vào nhau hơn bao giờ hết, vừa có mặt thống nhất, vừa có mặt xung đột. Đó là môi trường thuận lợi cho các hoạt động phá hoại an ninh của các thế lực thù địch đối với nước ta. Do đó, hơn bao giờ hết, nước ta phải luôn gắn xây dựng với bảo vệ. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có thuận lợi, thời cơ mà còn có cả những thách thức to lớn. Thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế, các thế lực thù địch lợi dụng những yếu kém, sơ hở của ta để tiến hành "Diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ". Vì vậy, cần phải tăng cường các hoạt động an ninh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động an ninh trong quá trình hội nhập được thực hiện trong mọi hoạt động kinh tế xã hội, cần đấu tranh khắc phục tư tưởng lợi ích kinh tế thuần tuý, không dự kiến hết những phương hại về an ninh có thể xảy ra trong qúa trình hội nhập. Lực lượng Công an nhân dân và các cơ quan bảo về Pháp luật nhà nước cùng với Quân đội là lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập. Phát hiện kịp thời những âm mưu, thủ đoạn xâm nhập phá hoại của các thế lực thù địch. Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, nhằm nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường quốc tế, đồng thời tạo thế đứng vững chắc, có lợi của nền kinh tế nước ta trên thương trường toàn cầu và khu vực. Kết luận Hội nhập kinh tế quốc là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do dó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Các bộ, các cấp, các ngành cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia. Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc gia, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của q uốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ "diễn biến hoà bình" đối với nước ta. chữ viết tắt - ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á - AFTA Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á - IMF Quỹ tiền tệ quốc tế - WB Ngân hàng thế giới - WTO Tổ chức thương mại thế giới - CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá - HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế - CNXH Chủ nghĩa xã hội tài liệu tham khảo 1- ASEAN hôm nay và ngày mai. Tác giả: Trùng Lâm - NXB: Khoa học, xã hội và nhân văn. 2- Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN NXB: Đại học quốc gia; Hà nội - 2000. 3- Thông tin tài chính. Số 6; Tháng 3-2001. 4- Tạp chí kinh tế xã hội. Số 18; Ngày 11-05-2001. Trung tâm thông tin kinh tế xã hội. 5- Vay nợ nước ngoài với an ninh tài chính. Tác giả: Phạm Ngọc ánh - Đồ Đình Thu; Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 288; Tháng 05-2002. 6- Việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam nằm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tác giả: Võ Đại Lược; Tạp chí: Những vấn đề kinh tế thế giới; Số 8; Tháng 08-2000. 7- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà nội - 1996. 8- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà nội - 2001. 9- V.I.Lê Nin: Toàn tập, tập 44, NXB Tiến bộ Matxcơva - 1978. tr 374. 10- V.I.Lê Nin: Toàn tập, tập 38, NXB Tiến bộ Matxcơva - 1978. tr 684. Hội nhập kinh tế quốc tế với vấn đề an ninh quốc gia (BC; 10) MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ I. Những vấn đề chung về hội nhập kinh tế quốc tế II. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan III. Việt Nam với hội nhập kinh tế quốc tế - Những thành tựu và hạn chế Chương II: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI VẤN ĐỀ AN NINH QUỐC GIA I. Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế đến an ninh quốc gia Việt Nam II. Những thách thức về an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 1. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các nước thế lực thù địch thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta. 2. Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng cạnh tranh quyết liệt hơn, an ninh kinh tế bị đe doạ. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự lệ thuộc nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ và định hướng XHCN nền kinh tế sẽ đứng trước thách thức lớn. III. Một số quan điểm và giải pháp cơ bản 1. Những quan điểm cơ bản. 2. Những giải pháp cơ bản. KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQHT40.doc